Bài giảng Bảo hiểm đại cương - Huỳnh Đinh Phát

pdf 97 trang huongle 160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Bảo hiểm đại cương - Huỳnh Đinh Phát", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_bao_hiem_dai_cuong_huynh_dinh_phat.pdf

Nội dung text: Bài giảng Bảo hiểm đại cương - Huỳnh Đinh Phát

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHẠM VĂN ĐỒNG KHOA KINH TẾ BÀI GIẢNG BẢO HIỂM ĐẠI CƯƠNG (Dùng cho đào tạo tín chỉ) Người biên soạn: Th.S Huỳnh Đinh Phát Lưu hành nội bộ - Năm 2016
  2. CHƯƠNG 1: ĐẠI CƯƠNG VỀ BẢO HIỂM 1.1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm Ở bất kỳ nơi đâu và thời đại nào, con người luôn phải đồng hành cùng rủi ro. Nhu cầu an toàn đối với con người là vĩnh cửu. Lúc nào con người cũng tìm cách để bảo vệ bản thân và tài sản của mình trước những tổn thất do rủi ro. Ý tưởng tìm cách chống đỡ thiên tai, tai hoạ đã xuất hiện ngay từ thời kỳ cổ xưa của nền văn minh nhân loại. Việc dự trữ thức ăn có được từ săn bắn và hái lượm thời nguyên thuỷ có thể coi là những hành động có ý thức đầu tiên của con người nhằm bảo vệ mình trước những rủi ro, bất trắc. Bắt nguồn từ thực tế chống chọi với nhiều loại rủi ro trong cuộc đấu tranh sinh tồn, ý tưởng bù đắp những thiệt hại lớn mà một số thành viên của cộng đồng phải gánh chịu nhờ vào sự đóng góp từ số đông các thành viên trong cộng đồng đã gieo mầm cho sự ra đời của bảo hiểm. Trong số các biện pháp con người đã thực hiện để xử lý rủi ro thì bảo hiểm được coi là biện pháp tối ưu nhất. Rủi ro chính là nguồn gốc phát sinh nhu cầu về bảo hiểm. Ngay từ thời tiền sử đã có xuất hiện những hoạt động gần giống với bảo hiểm. Từ thời Trung Cổ, các quy tắc về bảo hiểm hàng hải đã dần hình thành, song phải đến thế kỷ 19 bảo hiểm hiện đại mới có bước phát triển kéo theo sự ra đời và phát triển đa dạng như ngày nay. Bảo hiểm là những quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tập trung - quỹ bảo hiểm - nhằm xử lý các rủi ro, các biến cố. Bảo hiểm bảo đảm cho quá trình tái sản xuất và đời sống của xã hội được diễn ra bình thường, là biện pháp chia sẻ rủi ro của một người hay của số một ít người cho cả cộng đồng những người có khả năng gặp rủi ro cùng loại; bằng cách mỗi người trong cộng đồng góp một số tiền nhất định vào một quỹ chung và từ quỹ chung đó bù đắp thiệt hại cho thành viên trong cộng đồng không may bị thiệt hại do rủi ro đó gây ra. Bảo hiểm là một cách thức trong quản trị rủi ro, thuộc nhóm biện pháp tài trợ rủi ro, được sử dụng để đối phó với những rủi ro có tổn thất, thường là tổn thất về tài chính, nhân mạng, đồng thời được xem như là một cách thức chuyển giao rủi ro tiềm năng một cách công bằng từ một cá thể sang cộng đồng thông qua phí bảo hiểm. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về bảo hiểm được xây dựng dựa trên từng góc độ nghiên cứu (xã hội, pháp lý, kinh tế, kĩ thuật, nghiệp vụ ). Nếu chỉ xét về phương diện kinh tế, “ Bảo hiểm là biện pháp chuyển giao rủi ro được thực hiện thông qua hợp đồng bảo hiểm, trong đó bên mua bảo hiểm chấp nhận trả -1-
  3. phí bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm cam kết bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Người bảo hiểm thường căn cứ vào yếu tố rủi ro để giới hạn phạm vi trách nhiệm của mình trong các hợp đồng bảo hiểm. Trong hợp đồng bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm nộp phí, người bảo hiểm giải quyết bồi thường trong trường hợp xảy ra tổn thất. Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít. Bảo hiểm là việc trả tiền để đổi cái không chắc chắn lấy cái chắc chắn. Do nhu cầu của con người và của sản xuất kinh doanh mà hoạt động bảo hiểm ra đời và ngày càng phát triển theo mức sống ngày càng cao của con người, theo đà phát triển của sản xuất kinh doanh và sự mở rộng của giao lưu kinh tế giữa các nước, các khu vực. Những khái niệm kể trên trong một chừng mực nhất định đã phản ánh thực chất hoạt động bảo hiểm thương mại dưới những góc độ tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, ở một tầm nhìn khái quát nhất, có thể hiểu: "Bảo hiểm là phương thức xử lý rủi ro, nhờ đó việc chuyển giao phân tán rủi ro trong từng nhóm người được thực hiện qua hoạt động kinh doanh bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm". 1.2. Những khái niệm, thuật ngữ cơ bản trong bảo hiểm 1.2.1. Rủi ro - Những quan niệm về rủi ro được trình bày trong các ấn phẩm của khoa học kinh tế, bảo hiểm khá đa dạng. Có nhiều khía cạnh đáng chú ý trong các định nghĩa rủi ro mà những quan điểm khác nhau đã đưa ra, như là: + Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được + Rủi ro là một biến cố bất ngờ gây ra những thiệt hại + Rủi ro là sự bất trắc cụ thể liên quan đến việc xuất hiện một biến cố không mong đợi. + Rủi ro là một sự kiện không chắc chắn, có khả năng gây ra hậu quả xấu + Rủi ro là sự kiện không chắc chắn về cơ may và bất hạnh Dù cách biểu đạt khác nhau nhưng có thể nhận thấy các định nghĩa trên đều có những điểm tương đồng khi định nghĩa về rủi ro, đó là: tính bất thường trong khả năng xảy ra và hậu quả xấu (thiệt hại hoặc kết quả không mong đợi). Như vậy, có thể kết luận: rủi ro là khả năng xảy ra biến cố bất thường có hậu quả thiệt hại hoặc mang lại kết quả không mong đợi. -2-
  4. - Các loại rủi ro: Tuỳ theo mục đích của việc đánh giá và quản lý rủi ro, rủi ro được phân loại cụ thể theo nhiều tiêu thức khác nhau. Liên quan đến bảo hiểm, rủi ro thường được xếp thành những cặp sau: + Rủi ro đầu cơ và rủi ro thuần tuý Rủi ro đầu cơ: là những rủi ro vừa có thể mang lại hậu quả xấu vừa có thể dẫn đến khả năng tăng lợi ích. Ví dụ: sự biến động của giá cổ phiếu Rủi ro thuần tuý: Là những rủi ro chỉ có thể dẫn đến hậu quả tổn thất, thiệt hại. Ví dụ: ốm đau, bệnh tật + Rủi ro cơ bản và rủi ro riêng biệt Rủi ro cơ bản: Là những rủi ro xảy ra ngoài tầm kiểm soát của con ngời và có khả năng gây hậu quả hàng loạt. Ví dụ: động đất, sóng thần Rủi ro riêng: Là những rủi ro gây hậu quả cá biệt cho cá nhân, tổ chức. Ví dụ: một căn hộ bị hoả hoạn + Rủi ro tài chính và rủi ro phi tài chính Rủi ro tài chính: là những rủi ro mà hậu quả của nó có thể xác định được bằng tiền. Ví dụ: hậu quả của căn nhà bị hoả hoạn hoàn toàn có thể xác định được bằng tiền Rủi ro phi tài chính: là những rủi ro mà hậu quả của nó không thể xác định được bằng tiền. Ví dụ: quyết định lựa chọn bạn đời - Các biện pháp xử lý rủi ro Rủi ro còn tồn tại là thực tế khách quan đối với cuộc sống của con người và hậu quả của nó thường làm ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của con người. Để bảo toàn cuộc sống của con người, con người phải tìm đến các biện pháp xử lý rủi ro. Các biện pháp để xử lý rủi ro gồm 2 nhóm.: + Nhóm 1: Các biện pháp đề phòng rủi ro. Đây là các biện pháp được sử dụng khi chưa có rủi ro xảy ra. Trên thực tế các biện pháp này đối với một số rủi ro chỉ có tính chất phòng ngừa (chứ không làm mất đi rủi ro), con người không tham gia vào những hoạt động có chứa đựng những rủi ro tiềm tàng. Trong chừng mực nhất định, con người sử dụng các biện pháp để ngăn chặn rủi ro có thể xảy ra hoặc để giảm thiểu tổn thất khi phải -3-
  5. tham gia vào những hoạt động có chứa đựng những rủi ro tiềm tàng, các biện pháp tránh né đó có tác dụng tích cực đảm bảo an toàn cho con người. Các biện pháp ngăn ngừa rủi ro đã phát huy tác dụng lớn trong việc xử lý rủi ro và đã chủ động, tích cực hơn so các biện pháp nêu ở nhóm 1 nói trên. Bằng việc nhận thức ngày càng đầy đủ hơn các quy luật tự nhiên, khả năng kinh tế và sự trợ giúp tích cực của khoa học kỹ thuật, các biện pháp ngăn ngừa rủi ro cũng ngày càng phong phú hơn, hiệu quả hơn. Tuy nhiên, các biện pháp đó cũng không thể ngăn chặn hoàn toàn được sự xảy ra của rủi ro, hơn nữa không phải đơn vị hay cá nhân nào cũng có thể thực hiện được do chi phí để thực hiện các biện pháp này nhiều khi rất tốn kém. + Nhóm 2: Các biện pháp hạn chế, khắc phục hậu quả của rủi ro. Đây là các biện pháp được sử dụng sau khi có rủi ro xảy ra. Hạn chế, khắc phục hậu quả rủi ro là việc con người sử dụng biện pháp kinh tế bù đắp thiệt hại, tổn thất xảy ra nhằm ổn định sản xuất kinh doanh và đời sống con người. Để khắc phục hạn chế hậu quả của rủi ro, con người có thể dùng nhiều biện pháp khác nhau như: Chấp nhận rủi ro - tự gánh chịu, là việc một tổ chức, cá nhân do nhận thức được các rủi ro có thể gặp phải đã lập ra quỹ riêng để tự mình hạn chế, khắc phục hậu quả rủi ro như: tiết kiệm, lập quỹ chung dự phòng, cứu trợ. Các hình thức này còn được gọi là tự bảo hiểm. Tự bảo hiểm tương tự hình thức dự trữ thuần tuý. Song, một đơn vị không thể mang hết vốn để lập quỹ dự phòng, một cá nhân không thể mang hết thu nhập của mình để tiết kiệm. Chuyển giao rủi ro - các loại hình bảo hiểm, là một cơ chế mà nhờ nó một tổ chức, một cá nhân có thể thực hiện việc chuyển những rủi ro tiềm tàng của mình cho một tổ chức hoặc một cá nhân khác. Có 2 hình thức chuyển giao rủi ro: a) Chuyển giao rủi ro không bằng bảo hiểm: là hình thức mà một tổ chức hoặc một cá nhân có thể chuyển giao rủi ro của mình cho một tổ chức hoặc cá nhân khác không phải là một tổ chức bảo hiểm. b) Chuyển giao rủi ro bằng bảo hiểm: là hình thức mà một tổ chức hoặc một cá nhân bằng việc đóng góp một khoản tiền nhất định để chuyển giao rủi ro tiềm tàng của mình cho tổ chức khác - Tổ chức bảo hiểm. Nhận trách nhiệm trước những rủi ro được -4-
  6. chuyển giao, tổ chức bảo hiểm thực hiện việc bù đắp thiệt hại hoặc trả một khoản tiền nhất định nếu xảy ra rủi ro như đã thoả thuận. Theo cơ chế này, hậu quả rủi ro có thể rất nặng nề, trầm trọng đối với mỗi tổ chức, cá nhân đều có thể được khắc phục một cách dễ dàng hơn bởi nó được chia nhỏ cho nhiều tổ chức, cá nhân khác có cùng khả năng gặp phải rủi ro đó. Nói cách khác, quỹ tiền tệ được tạo lập từ sự đóng góp của số đông những người có cùng khả năng gặp phải rủi ro, dùng để khắc phục hậu quả, bù đắp thiệt hại cho số ít người thực sự gặp phải rủi ro đó. Tổ chức đứng ra tạo lập, quản lý và sử dụng quỹ tiền tệ đó là tổ chức Bảo hiểm. Có 2 loại hình tổ chức bảo hiểm cơ bản: 1) Bảo hiểm không mang tính chất kinh doanh (Bảo hiểm xã hội) 2) Bảo hiểm mang tính chất kinh doanh (Bảo hiểm Thương mại) Thực tế đã chứng minh cách khắc phục hậu quả của rủi ro thông qua sự đảm bảo về tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm cho khách hàng là một trong những biện pháp khắc phục hậu quả rủi ro có hiệu quả. Bảo hiểm là một quỹ tiền tệ được huy động từ số đông người tham gia bảo hiểm nên khả năng tài chính lớn, việc xử lý rủi ro linh hoạt, không bị phụ thuộc vào thời gian. Việc đảm bảo bằng bảo hiểm được tiến hành trên cơ sở những văn bản pháp lý cụ thể. Quỹ bảo hiểm được tạo lập và sử dụng thông qua các tổ chức bảo hiểm nên có thể xử lý rủi ro trên cả hai phương diện đề phòng và khắc phục hậu quả rủi ro, mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. 1.2.2. Đối tượng bảo hiểm Đối tượng bảo hiểm nói chung là tài sản, những lợi ích có liên quan tới tài sản hoặc trách nhiệm dân sự hoặc tính mạng, sức khoẻ, khả năng lao động và tuổi thọ con người - những đối tượng có thể gặp rủi ro và vì thế tổn hại đến lợi ích có thể được bảo hiểm. Đối tượng bảo hiểm được xác định cho từng loại nghiệp vụ bảo hiểm và cụ thể hơn trong từng hợp đồng bảo hiểm bằng điều khoản đối tượng bảo hiểm. Việc xác định rõ đối tượng bảo hiểm sẽ quyết định đến việc vận dụng các nguyên tắc, biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ thích hợp trong soạn thảo, thoả thuận và quản lý hợp đồng bảo hiểm. -5-
  7. 1.2.3. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm Giá trị bảo hiểm là trị giá của tài sản và các chi phí hợp lý khác có liên quan như phí bảo hiểm, cước phí vận tải, lãi dự tính. Khái niệm giá trị bảo hiểm thường chỉ được dùng với bảo hiểm tài sản. Số tiền bảo hiểm là số tiền mà người được bảo hiểm kê khai và được người bảo hiểm chấp nhận. Số tiền bảo hiểm có thể nhỏ hơn, bằng hoặc lớn hơn giá trị bảo hiểm. Nếu số tiền bảo hiểm nhỏ hơn giá trị bảo hiểm thì gọi là bảo hiểm dưới giá trị, bằng giá trị bảo hiểm thì gọi là bảo hiểm tới giá trị, nếu lớn hơn thì gọi là bảo hiểm trên giá trị. Khi bảo hiểm lớn hơn giá trị thì phần lớn hơn đó vẫn có thể phải nộp phí bảo hiểm nhưng không được bồi thường khi tổn thất xảy ra. 1.2.4. Phí bảo hiểm Phí bảo hiểm - khoản tiền mà bên mua bảo hiểm phải trả theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm để nhận được cam kết bồi thường, trả tiền bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm và được coi là giá cả của sản phẩm bảo hiểm. Về cơ bản, phí bảo hiểm được hợp thành từ các cấu phần chủ yếu, đó là: - Phí thuần: khoản tiền thu tương ứng với dự tính về trách nhiệm bồi thường, trả tiền bảo hiểm. - Chi phí ký kết hợp đồng bảo hiểm và chi phí quản lý khác. - Thuế giá trị gia tăng (nếu có). Phí bảo hiểm có thể được định giá bằng một khoản tiền nhất định/1 đơn vị đối tượng được bảo hiểm (ví dụ: 1 GT (gross tonnage) trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu biển; 1 đầu xe 5 tấn trọng tải trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với người thứ ba) hoặc bằng tỷ lệ phí bảo hiểm. Bên cạnh điều khoản quy định về mức phí bảo hiểm hoặc tỷ lệ phí bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm còn có các quy định về kỳ hạn nộp phí; thời gian gia hạn nộp phí; phương thức nộp phí và các quy định trong những trường hợp đặc biệt, như là quy định tăng mức phí khi đối tượng bảo hiểm có mức độ rủi ro lớn hoặc quy định điều chỉnh phí bảo hiểm đối với những loại đối tượng bảo hiểm có sự thay đổi trong thời hạn bảo hiểm (ví dụ: hàng hoá trong kho, tiền gửi tại các tổ chức tín dụng ) -6-
  8. 1.2.5. Bồi thường, trả tiền bảo hiểm Thuật ngữ bồi thường được sử dụng để chỉ việc bên bảo hiểm thực hiện cam kết đền bù cho người được bảo hiểm những thiệt hại vật chất xảy ra trong sự kiện bảo hiểm - một phần hoặc toàn bộ. Bồi thường được sử dụng chủ yếu trong bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự còn trong bảo hiểm con người thường sử dụng thuật ngữ trả tiền bảo hiểm. Trả tiền bảo hiểm mang ý nghĩa của việc chi trả một khoản tiền nhất định theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm từ phía doanh nghiệp bảo hiểm. Bên cạnh điểm tương đồng: đều là việc thực hiện cam kết của doanh nghiệp bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, bồi thường và trả tiền bảo hiểm hàm chứa những ý nghĩa riêng biệt. Bồi thường có mục tiêu là khôi phục tình hình tài chính của người được bảo hiểm, tối đa là bằng trạng thái ngay trước lúc xảy ra sự kiện bảo hiểm. Bồi thường có thể thực hiện theo phương pháp trả bằng tiền hoặc doanh nghiệp bảo hiểm trực tiếp thay thế, sửa chữa đối tượng bảo hiểm. Bồi thường không tạo ra cơ hội kiếm lời cho bên được bảo hiểm. Trong khi đó, khoản tiền trả bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ hàm chứa cả yếu tố sinh lợi số phí bảo hiểm nộp trước của bên mua bảo hiểm và được chi trả cả trong nhiều sự kiện bảo hiểm không hề phát sinh thiệt hại (ví dụ: sự kiện người được bảo hiểm sống đến một thời điểm nhất định trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ sinh kỳ). Một số sự kiện bảo hiểm trong bảo hiểm con người có phát sinh thiệt hại thì khoản tiền trả bảo hiểm có thể vẫn không mang tính bồi thường. 1.2.6. Một số quy tắc cơ bản trong bồi thường, trả tiền bảo hiểm - Thứ nhất: biến cố ngẫu nhiên. Việc xảy ra rủi ro và hậu quả không phụ thuộc vào sự mong muốn của người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm cũng như người được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Tính ngẫu nhiên liên quan tới sự không chắc chắn về khả năng xảy ra và thời điểm xảy ra. Riêng bảo hiểm nhân thọ lại có thể bảo hiểm được cho biến cố chắc chắn xảy ra trong thời hạn hợp đồng bảo hiểm nhưng vẫn bấp bênh về mặt thời điểm xảy ra (chẳng hạn hợp đồng bảo hiểm nhân thọ trọn đời bảo hiểm cho sự cố chết của người được bảo hiểm) hoặc sự cố tự tử đã không còn là ngẫu nhiên đối với người được bảo hiểm vẫn có thể được bảo hiểm khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực được một khoảng thời gian nhất định (thường là từ hai năm trở lên). Điều này xuất phát từ đặc tính của bảo hiểm nhân thọ: không chỉ chuyển giao rủi ro đơn thuần mà còn nhằm đáp ứng các nhu cầu khác như là tích luỹ tài chính, đầu tư của khách hàng bảo hiểm nhân thọ. -7-
  9. Căn cứ vào tiêu thức ngẫu nhiên, những rủi ro khách quan từ tự nhiên, từ hoạt động của xã hội loài người nói chung, những rủi ro có nguyên nhân từ hoạt động của cá nhân, tổ chức khác gây nên cho người được bảo hiểm nhìn chung là có thể được bảo hiểm. Đối với rủi ro do chính hoạt động, hành động của bên được bảo hiểm gây nên cần phân biệt dạng cố ý và không cố ý - trường hợp cố ý đã không còn là ngẫu nhiên đối với bên được bảo hiểm nên không bao giờ được bảo hiểm; trường hợp không cố ý, dù là bên được bảo hiểm không mong muốn nhưng nếu kèm theo yếu tố mắc lỗi nặng và đủ khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm trong hành động gây nên cũng không thể bảo hiểm được. Cũng cần phải nói thêm, vẫn là biến cố ngẫu nhiên nhưng nếu xuất hiện hiếm hoi thất thường sẽ rất khó bảo hiểm vì xác suất rủi ro không đủ độ tin cậy cho việc định phí bảo hiểm. Những biến cố có hậu quả hàng loạt trên phạm vi rộng (chiến tranh, khủng hoảng chính trị ) việc bảo hiểm cũng rất hạn chế. Những rủi ro dễ bị chi phối bởi nguy cơ tinh thần từ phía bên được bảo hiểm rất hiếm được bảo hiểm bằng các sản phẩm bảo hiểm truyền thống. Giả định nếu chấp nhận bảo hiểm cho rủi ro thua lỗ trong kinh doanh - một loại rủi ro phụ thuộc rất lớn vào cố gắng chủ quan của người được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ khó kiểm soát được các trạng thái ỷ lại, trông chờ vào sự bảo đảm của bảo hiểm từ phía bên được bảo hiểm. Tuy nhiên, một số loại rủi ro như là biến động giá cả, biến động tỷ giá hối đoái, mất lợi nhuận gần đây cũng đã được các nhà bảo hiểm hướng tới trong các sản phẩm ART (Alternative Risk Transfer - phương pháp chuyển giao rủi ro lựa chọn) mới xuất hiện trên thị trường bảo hiểm của các nước phát triển. - Thứ hai: lượng hoá được về mặt tài chính. Cam kết của bảo hiểm cốt yếu là về mặt tài chính - một khoản bồi thường hoặc một khoản tiền trả bảo hiểm khi xảy ra rủi ro. Vì vậy, các nhà bảo hiểm cũng chỉ bảo hiểm được cho những trường hợp, những loại hậu quả lượng hoá được về mặt tài chính. Việc lượng hoá về mặt tài chính có thể thực hiện được một cách trực tiếp hoặc rất tương đối thông qua những quy định chủ quan của con người. Chẳng hạn: đối với rủi ro phát sinh trách nhiệm về ô nhiễm hoặc thiệt hại về tinh thần của con người trong tai nạn giao thông thì quy định về việc xác định thiệt hại không hẳn là giống nhau các quốc gia. Sự tương đối này khiến cho các loại rủi ro có thể được bảo hiểm cũng có thể thay đổi theo quy định của con người. Những cái ngày hôm nay không bảo hiểm được, rất có thể sẽ được bảo hiểm trong tương lai. -8-
  10. - Thứ ba: việc bảo hiểm không trái pháp luật và lợi ích công cộng. Quan hệ bảo hiểm được điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật. Luật pháp về bảo hiểm của các quốc gia thường đưa ra các quy định không cho phép bảo hiểm đối với một số trường hợp. Sự cấm đoán ở các nước không hẳn là giống nhau, nhưng nhìn chung đều dựa trên nguyên tắc cơ bản là hợp đồng bảo hiểm không được đi ngược lại luật pháp của nhà nước, lợi ích chung của xã hội; không thể trái với những chuẩn mực về đạo đức và lẽ phải đã được xã hội công nhận. Không một quốc gia nào lại cho phép một người tránh được trách nhiệm hình sự bằng cách mua bảo hiểm hoặc cho phép bảo hiểm sự cố tử vong của người đang mắc bệnh tâm thần. Tuy nhiên, trong khi bảo hiểm cho số tiền chuộc trong trường hợp bị bắt cóc bị cấm ở nước Pháp thì người Pháp lại có thể mua loại bảo hiểm này ở Anh Quốc. Như vậy, quan niệm về rủi ro có thể được bảo hiểm hoặc không thể được bảo hiểm không cố định. Nhưng dù sao các tiêu chí nói trên vẫn là những cơ sở kỹ thuật, pháp lý nền móng cho việc soạn thảo điều khoản phạm vi bảo hiểm và điều khoản loại trừ trong hợp đồng bảo hiểm. Hai loại điều khoản này xác định những trường hợp mà bên bảo hiểm phải chịu trách nhiệm (phạm vi bảo hiểm) hoặc không chịu trách nhiệm (loại trừ) trước những hậu quả bất lợi xảy ra cho đối tượng bảo hiểm. Các trường hợp đó được mô tả dưới dạng các loại rủi ro, sự kiện, sự cố, chẳng hạn: phương tiện vận chuyển đâm va, mất tích, cướp biển, trộm cắp, lây bẩn, lây hại trong bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển. Hơn nữa, phạm vi bảo hiểm và loại trừ bảo hiểm còn xác định cụ thể về loại nguyên nhân của sự kiện, loại hậu quả của sự kiện (loại tổn thất, thiệt hại, chi phí phát sinh) và sự giới hạn về không gian, địa bàn lãnh thổ cần thiết trong một số loại nghiệp vụ bảo hiểm như là bảo hiểm hàng không, bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm Loại trừ có thể là loại trừ tuyệt đối (không bao giờ được chấp nhận bảo hiểm) hoặc loại trừ tương đối (có thể được bảo hiểm với điều kiện đặc biệt), đó là một sự linh hoạt cần thiết của sản phẩm bảo hiểm nhằm đáp ứng các nhu cầu bảo hiểm đa dạng của xã hội. Rõ ràng không phải tất cả các rủi ro có thể được bảo hiểm đều phải được xếp vào phạm vi bảo hiểm. Phạm vi bảo hiểm rộng hay hẹp; loại trừ ít hay nhiều còn phụ thuộc vào nhiều vấn đề khác mà người bảo hiểm cần phải xem xét khi thiết kế sản phẩm bảo hiểm, như là: sự đánh giá nhu cầu bảo hiểm và khả năng trả phí của số khách hàng tiềm năng; yêu cầu quản lý rủi ro; yếu tố cạnh tranh của sản phẩm bảo hiểm Hơn nữa, hai -9-
  11. loại điều khoản này còn phải được thiết kế trong sự tương quan hợp lý với các điều khoản khác của hợp đồng bảo hiểm. 1.2.7. Giám định bảo hiểm Giám định bảo hiểm là quá trình xem xét, đánh giá, phân tích sự kiện xảy ra để xác định nguyên nhân và mức độ thiệt hại do rủi ro gây ra. Khi giám định phải có biên bản giám định và chỉ cung cấp cho người yêu cầu giám định. Trong trường hợp đặc biệt, nếu doanh nghiệp bảo hiểm không thể thực hiện được việc lập biên bản giám định, thì có thể căn cứ vào các biên bản, kết luận của các cơ quan chức năng có thẩm quyền và các hiện vật thu được (ảnh chụp, lời khai của các bên có liên quan) để xác định nguyên nhân và mức độ thiệt hại. 1.3. Hợp đồng bảo hiểm 1.3.1. Khái quát về hợp đồng bảo hiểm 1.3.1.1. Khái niệm Trên góc độ pháp lý, hợp đồng bảo hiểm được hiểu là một cam kết pháp lý được thể hiện bằng văn bản giữa hai bên: Bên bảo hiểm và bên mua bảo hiểm; trong đó bên bảo hiểm cam kết sẽ bồi thường cho bên mua bảo hiểm trong trường hợp họ phải gánh chịu những tổn thất tài chính do các rủi ro hoặc sự kiện được bên bảo hiểm chấp nhận gây ra trong thời gian hiệu lực của hợp đồng, trên cơ sở bên mua bảo hiểm trả cho bên bảo hiểm một số tiền nhất định (gọi là phí bảo hiểm). 1.3.1.2. Hình thức của hợp đồng bảo hiểm Hình thức văn bản thể hiện việc chuyển giao rủi ro trong bảo hiểm chính là hợp đồng bảo hiểm. Lịch sử của bảo hiểm cũng được đánh dấu sự khởi đầu bằng việc xuất hiện các đơn bảo hiểm (insurance policy) - những văn bản hợp đồng bảo hiểm đầu tiên trong buổi sơ khai. Cùng với sự phát triển của kỹ nghệ bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm ngày càng đa dạng, phức tạp và bị ràng buộc bởi khuôn khổ pháp lý của các quốc gia. Luật pháp các quốc gia đòi hỏi mọi hợp đồng bảo hiểm phải thể hiện dưới dạng văn bản. Ngay cả khi các giao dịch được thực hiện bằng “thương mại điện tử”, doanh nghiệp bảo hiểm vẫn buộc phải soạn thảo, theo dõi và lưu trữ một khối lượng lớn các tài liệu liên quan đến hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm được cấu thành từ nhiều bộ phận, tuỳ thuộc vào từng nghiệp vụ bảo hiểm (thậm chí là từng dịch vụ bảo hiểm), các tài -10-
  12. liệu của hợp đồng bảo hiểm có nhiều loại dưới các tên gọi khác nhau, như là: giấy yêu cầu bảo hiểm, quy tắc bảo hiểm, đơn bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều khoản bổ sung, phụ lục hợp đồng, giấy chứng nhận bảo hiểm. 1.3.1.3. Kết cấu của hợp đồng bảo hiểm Thông thường hợp đồng bảo hiểm bao gồm: Giấy yêu cầu bảo hiểm và đơn bảo hiểm. - Giấy yêu cầu bảo hiểm: Phần lớn giấy yêu cầu bảo hiểm được thiết kế dưới dạng một hệ thống câu hỏi do doanh nghiệp bảo hiểm soạn thảo. Giấy yêu cầu bảo hiểm thông thường là tài liệu giúp người bảo hiểm thu lượm thông tin để đánh giá rủi ro sơ bộ, những thông tin cơ bản nhất về người tham gia bảo hiểm, mặt khác thể hiện yêu cầu bảo hiểm của bên mua bảo hiểm. Giấy yêu cầu bảo hiểm cũng có thể được lập dưới dạng đặc biệt (đối với một số nghiệp vụ), bao gồm hầu hết các yếu tố cơ bản của một hợp đồng bảo hiểm trong tương lai. Trường hợp này, hợp đồng bảo hiểm phải được ký ngay sau khi doanh nghiệp bảo hiểm chấp thuận đề nghị bảo hiểm của người yêu cầu bảo hiểm. - Đơn bảo hiểm (giấy chứng nhận bảo hiểm): Khi chấp nhận bảo hiểm, công ty bảo hiểm sẽ cấp cho người được bảo hiểm Đơn bảo hiểm, thể hiện các điều kiện, điều khoản mà hai bên cam kết thực hiện. Đơn bảo hiểm thông thường bao gồm những mục cơ bản sau: Điều khoản thi hành, phạm vi bảo hiểm, những điểm loại trừ, những điều kiện chung, những điều kiện riêng, những điều khiếu nại bồi thường và điều khoản bổ sung. Khi đơn bảo hiểm được cấp có nghĩa là việc mua bán bảo hiểm đã có hiệu lực. Trong thực tế, công ty bảo hiểm có thể cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm thay cho đơn bảo hiểm. Về bản chất, giấy chứng nhận bảo hiểm và đơn bảo hiểm có giá trị pháp lý như nhau. Điểm khác là giấy chứng nhận bảo hiểm đơn giản hơn, không có các điều kiện, điều khoản được ghi cụ thể như trong đơn bảo hiểm, mà chỉ quy định là tuân theo các điều kiện, điều khoản này được pháp luật cho phép quy định chung trong Quy tắc bảo hiểm. + Phần điều kiện chung của hợp đồng bảo hiểm: Ngoại trừ những dịch vụ bảo hiểm đơn lẻ đặc biệt, đối với hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm, phần lớn các điều khoản của hợp đồng bảo hiểm như là phạm vi bảo hiểm, loại trừ bảo hiểm, nghĩa vụ của các -11-
  13. bên được doanh nghiệp bảo hiểm soạn thảo và in sẵn trong các tài liệu dưới những tên gọi như là: quy tắc bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, đơn bảo hiểm Đối với một số nghiệp vụ bảo hiểm và ở một số thị trường bảo hiểm, điều khoản chung chịu sự quy định thống nhất của Nhà nước hoặc Hiệp hội bảo hiểm về nội dung và hình mẫu. + Điều khoản bổ sung: Bên cạnh điều kiện chung bao gồm những điều khoản áp dụng chung cho mọi hợp đồng bảo hiểm cùng loại nghiệp vụ được giao kết theo kiểu đồng loạt, một số loại nghiệp vụ bảo hiểm còn đưa ra các điều khoản bổ sung (cũng được in trước) nhằm đáp ứng các nhu cầu bảo hiểm tăng thêm của những trường hợp đặc biệt. + Điều kiện riêng: Nếu như những tài liệu về điều kiện chung và điều khoản bổ sung được in trước toàn bộ thì tài liệu về phần điều kiện riêng của hợp đồng bảo hiểm chỉ được in sẵn một phần. Những thông tin đặc thù của mỗi một hợp đồng bảo hiểm được đề cập đến trong tài liệu này và chỉ được hoàn tất khi các bên đã thoả thuận xong về hợp đồng bảo hiểm. Đó là những thông tin về đối tượng bảo hiểm, người được bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm Tài liệu này được các bên liên quan trong hợp đồng bảo hiểm lưu giữ như một bằng chứng hiện hữu về hợp đồng đã giao kết. Ngoài những tài liệu cơ bản thông thường nói trên, hợp đồng bảo hiểm còn có thể kèm theo những giấy tờ khác như là: văn bản sửa đổi hợp đồng bảo hiểm, giấy chứng nhận bảo hiểm tạm thời Tất cả những tài liệu đó đều nhằm mục đích xác định rõ ràng, cụ thể quan hệ giữa các bên trong hợp đồng bảo hiểm bên cạnh sự điều chỉnh bằng các quy định chung của hệ thống luật pháp về bảo hiểm. 1.3.1.4. Chủ thể của hợp đồng bảo hiểm Chủ thể của hợp đồng bảo hiểm trước hết là các bên trong hợp đồng bảo hiểm: Bên bảo hiểm (doanh nghiệp bảo hiểm) và bên được bảo hiểm (người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm và người được hưởng quyền lợi bảo hiểm) Liên quan đến việc giao kết hợp đồng bảo hiểm còn có thể có trung gian bảo hiểm: đại lý bảo hiểm hoặc môi giới bảo hiểm – đại diện hợp pháp của chủ thể hợp đồng bảo hiểm. - Người bảo hiểm: Là tổ chức hoặc cá nhân có đầy đủ tư cách pháp nhân được Nhà nước cho phép tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm, được thu phí bảo hiểm để lập ra quỹ bảo hiểm và chịu trách nhiệm bồi thường hay chi trả cho bên được bảo hiểm theo thảo thuận của hợp đồng bảo hiểm. -12-
  14. - Người tham gia bảo hiểm: Là tổ chức hoặc cá nhân ký kết hợp đồng bảo hiểm với công ty bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm. - Người được bảo hiểm: Là tổ chức, cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự, tính mạng hoặc tình trạng sức khoẻ được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm. - Người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm: Là tổ chức, cá nhân được người tham gia bảo hiểm chỉ định trong hợp đồng bảo hiểm sẽ nhận bồi thường hoặc tiền trả bảo hiểm. 1.3.1.5. Phí bảo hiểm - Là giá bán của sản phẩm bảo hiểm, được xác định trước trên cơ sở những dự báo về tổn thất sẽ xảy ra trong tương lai. - Giá thành sản phẩm bảo hiểm là tổng số tiền chi trả cho những tổn thất xảy ra thuộc trách nhiệm bảo hiểm, được xác định sau. Đây chính là “Chu trình sản xuất ngược” trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Hình thức của phí bảo hiểm là một số tiền tuyệt đối : P = F+d Trong đó: P: Phí bảo hiểm toàn bộ F: Phí thuần d: Phụ phí Hoặc là một tỷ lệ phần trăm tính trên số tiền bảo hiểm hoặc giá trị bảo hiểm. Phí bảo hiểm = Tỷ lệ phí x Số tiền bảo hiểm Nhìn chung, phí bảo hiểm thường được nộp ngay khi hợp đồng bảo hiểm được ký kết. Trong trường hợp phí bảo hiểm là một khoản tiền lớn thì người tham gia bảo hiểm có thể thảo thuận với công ty bảo hiểm để đóng làn nhiều lần. Phí bảo hiểm có thể thay đổi tăng, giảm trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm nếu có sự thay đổi tăng, giảm mức độ rủi ro được bảo hiểm. 1.3.1.6. Thời hạn bảo hiểm Thời hạn bảo hiểm là thời gian hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực, kể từ khi ký kết hợp đồng bảo hiểm và có bằng chứng công ty bảo hiểm đã chấp nhận bảo hiểm và người -13-
  15. tham gia bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm (trừ trường hợp có thoả thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm) cho đến khi kết thúc trách nhiệm bảo hiểm. 1.3.2. Thiết lập, thực hiện, chấm dứt hợp đồng 1.3.2.1. Thiết lập hợp đồng bảo hiểm Thiết lập hợp đồng bảo hiểm là quá trình thể hiện, thống nhất và thực hiện ý muốn giao kết hợp đồng bảo hiểm bằng các hành vi pháp luật của bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm. Việc xác lập hợp đồng bảo hiểm phải tuân theo những nguyên tắc chỉ đạo và chuẩn mực hoá các hành vi lập hợp đồng bảo hiểm của bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm. Với đặc thù của lĩnh vực bảo hiểm, thiết lập hợp đồng bảo hiểm phải đảm bảo những nguyên tắc cơ bản sau: - Nguyên tắc tuân thủ luật pháp; không trái đạo đức xã hội: Hệ thống luật pháp của xã hội nhằm bảo vệ trật tự xã hội, đạo đức xã hội và những chuẩn mực, lẽ phải của con người đã được xã hội thừa nhận. Xác lập hợp đồng bảo hiểm - hành vi pháp luật của bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm buộc phải nằm trong khuôn khổ có lợi cho lợi ích chung của cộng đồng, lợi ích căn bản của các thành viên xã hội. Giao kết hợp đồng bảo hiểm để bảo hiểm cho một lô hàng lậu; một công trình xây dựng trái phép; một hành vi vô nhân đạo đều là những điều cấm kỵ ở mọi quốc gia. - Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng: Tự nguyện, bình đẳng thể hiện ý nguyện và vị thế của bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm trong giao kết hợp đồng. Hợp đồng bảo hiểm phải được giao kết trên cơ sở thể hiện rõ và thống nhất ý muốn của hai bên bằng sự đàm phán minh bạch và công bằng giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm. Bất kỳ bên nào cũng không được dựa vào các ưu thế và ý muốn riêng của mình để bắt ép bên kia giao kết hợp đồng bảo hiểm. Sự can thiệp của tổ chức, cá nhân; việc lợi dụng các mối quan hệ ràng buộc liên quan để áp đặt giao kết hợp đồng đều không thể chấp nhận và rất có hại cho môi trường kinh doanh lành mạnh rất cần thiết cho sự phát triển bền vững của ngành bảo hiểm. - Nguyên tắc thiện chí, hợp tác và trung thực: Xác lập hợp đồng nhằm đạt được các lợi ích hợp pháp và hợp lý cho cả hai bên. Thực tế, tình trạng đối nghịch lợi ích kinh tế có thể xảy ra và trong trường hợp đó, hợp đồng bảo hiểm chỉ được giao kết trên cơ sở sự hợp tác thiện chí của các bên. Bất cứ một mưu toan, ý đồ, hành vi gian lận của các bên -14-
  16. trước sau sẽ dẫn đến sự xung đột lợi ích và các hậu quả vô hiệu hợp đồng, chấm dứt hợp đồng Trên cơ sở quán triệt những nguyên tắc cơ bản trên, việc thiết lập hợp đồng được khởi đầu bằng đề nghị giao kết hợp đồng bảo hiểm của bên mua bảo hiểm. Đề nghị giao kết hợp đồng bảo hiểm thông thường được thể hiện bằng việc người tham gia bảo hiểm sau khi nghiên cứu các điều khoản, quy tắc bảo hiểm, loại sản phẩm bảo hiểm thích hợp với nhu cầu bảo hiểm của mình sẽ điền các thông tin cần thiết vào giấy yêu cầu bảo hiểm (theo mẫu in sẵn mà doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp khi chào bán bảo hiểm) và gửi cho doanh nghiệp bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm sẽ xem xét để đi đến quyết định chấp nhận bảo hiểm hay không. Nếu chấp nhận bảo hiểm, các bên thoả thuận nội dung hợp đồng và doanh nghiệp bảo hiểm sẽ cấp cho bên mua bảo hiểm hợp đồng bảo hiểm hoặc bằng chứng của hợp đồng bảo hiểm. Giấy yêu cầu bảo hiểm cũng trở thành một bộ phận không tách rời của hợp đồng bảo hiểm bên cạnh các văn bản tài liệu khác. Khi hợp đồng bảo hiểm được giao kết cho một thời hạn nhất định và trường hợp bên mua bảo hiểm mong muốn được tiếp tục tham gia bảo hiểm cho giai đoạn tiếp theo, các bên sẽ làm thủ tục tái tục hợp đồng bảo hiểm. Thông thường trước thời điểm kết thúc thời hạn bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm chủ động gửi thông báo đề nghị tái tục hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm nộp phí bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm sẽ cấp bằng chứng hợp đồng bảo hiểm. Thủ tục đơn giản này được áp dụng với những nghiệp vụ bảo hiểm có sự tồn tại của đối tượng bảo hiểm và mức độ rủi ro tương đối ổn định trong một thời gian dài, điển hình là các nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới. 1.3.2.2. Thực hiện hợp đồng bảo hiểm Thực hiện hợp đồng bảo hiểm là quá trình các bên thực hiện các nghĩa vụ và quyền theo thoả thuận của hợp đồng bảo hiểm. Thực tế, chỉ có một số quyền và nghĩa vụ được nêu cụ thể trong hợp đồng bảo hiểm, còn phần lớn các quyền và nghĩa vụ cơ bản được chiếu theo quy định chung của luật kinh doanh bảo hiểm, đó là: a) Nghĩa vụ của bên được bảo hiểm (bao gồm người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm và người thụ hưởng): - Nghĩa vụ cung cấp thông tin cho việc giao kết hợp đồng bảo hiểm: Để có thể giao kết hợp đồng bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm phải cung cấp cho doanh nghiệp bảo hiểm những thông tin trung thực, chính xác về đối tượng bảo hiểm, người được bảo -15-
  17. hiểm đầy đủ theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm. Việc người tham gia bảo hiểm thực hiện đúng nghĩa vụ này là cơ sở cho doanh nghiệp bảo hiểm đánh giá rủi ro, xem xét chấp nhận bảo hiểm hay không và thoả thuận cụ thể về một số điều khoản của hợp đồng bảo hiểm. Pháp luật cũng xác định các hậu quả pháp lý đối với những trường hợp người tham gia bảo hiểm không thực hiện đúng nghĩa vụ này, đó là vô hiệu hợp đồng bảo hiểm; doanh nghiệp bảo hiểm đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng; giảm số tiền bồi thường, trả tiền bảo hiểm theo tỷ lệ, thậm chí là không bồi thường, không trả tiền bảo hiểm. - Nghĩa vụ thông báo những thay đổi liên quan đến việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm: Trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm rất có thể xảy ra những sự thay đổi, đặc biệt là những yếu tố liên quan đến các thông tin trọng yếu đã cung cấp khi giao kết hợp đồng, đến mức độ rủi ro nhất là tình trạng rủi ro gia tăng. Trong những trường hợp đó, người tham gia bảo hiểm phải thông báo ngay cho doanh nghiệp bảo hiểm để thực hiện việc điều chỉnh các điều khoản liên quan trong hợp đồng bảo hiểm. Đây là việc làm cần thiết đảm bảo lợi ích hợp lý cho cả hai bên. Một số hợp đồng bảo hiểm cũng đã chú ý đưa ra các quy định liên quan. Ví dụ: đơn tiêu chuẩn về bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt có quy định chấm dứt hiệu lực đối với tài sản bị tổn thất trong trường hợp ngôi nhà chứa tài sản được bảo hiểm bị bỏ trống, không có người cư trú hơn 30 ngày. Pháp luật kinh doanh bảo hiểm của nhiều quốc gia rất coi trọng nghĩa vụ này. Những hậu quả pháp lý cho các trường hợp vi phạm như là: doanh nghiệp bảo hiểm đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm; giảm số tiền bồi thường, giảm tiền trả bảo hiểm; không bồi thường, không trả tiền bảo hiểm cũng được xác định rõ cho những tình huống khác nhau trong thực tế. - Nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm: Việc bên mua bảo hiểm nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng kỳ hạn và theo phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm là một điều kiện cơ bản quyết định hiệu lực của bảo hiểm. Thông thường, khoản phí bảo hiểm đầu tiên được nộp vào thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm và thể hiện việc doanh nghiệp bảo hiểm bắt đầu nhận trách nhiệm bảo hiểm. Trường hợp hợp đồng bảo hiểm đã được xác lập với thoả thuận về một thời hạn nộp phí và người tham gia bảo hiểm không nộp phí khi đã kết thúc thời hạn đó, sẽ không thể phát sinh trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm. Quyền khởi kiện người tham gia bảo hiểm đòi phí bảo hiểm sẽ được doanh nghiệp bảo hiểm sử dụng trong một số trường -16-
  18. hợp (ngoại trừ lĩnh vực bảo hiểm con người, theo luật kinh doanh bảo hiểm CHXHCN Việt Nam, doanh nghiệp bảo hiểm không được khởi kiện đòi bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm trong trường hợp bên mua bảo hiểm không đóng hoặc đóng không đủ phí bảo hiểm) - Nghĩa vụ thông báo sự kiện bảo hiểm xảy ra: Việc bên được bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ này đúng theo thoả thuận của hợp đồng bảo hiểm - kịp thời về thời gian; chính xác, trung thực về nguyên nhân và mức độ tổn thất sẽ liên quan trực tiếp tới quyền lợi về bồi thường, trả tiền bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm có thể từ chối bồi thường, từ chối trả tiền bảo hiểm (một phần hoặc toàn bộ) nếu bên mua bảo hiểm vi phạm quy định liên quan. - Nghĩa vụ thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro, hạn chế tổn thất: Khi đánh giá rủi ro để giao kết hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có thể thông báo cho bên được bảo hiểm những việc làm cần thiết để bảo vệ đối tượng bảo hiểm. Trong một số trường hợp, những ý kiến đó thuộc dạng điều kiện cho việc xác lập hợp đồng bảo hiểm mà bên được bảo hiểm luôn phải thực hiện nếu muốn tham gia bảo hiểm. Những trường hợp khác, đề xuất của doanh nghiệp bảo hiểm sẽ liên quan tới việc điều chỉnh phạm vi bảo hiểm, phí bảo hiểm Bên cạnh các dạng thoả thuận trên, pháp luật kinh doanh bảo hiểm CHXHCN Việt Nam còn xác định nghĩa vụ này rất rộng- bao hàm việc thực hiện các quy định của luật kinh doanh bảo hiểm và pháp luật liên quan. Các biện pháp doanh nghiệp bảo hiểm có thể áp dụng cho những trường hợp vi phạm cũng rất nghiêm khắc như là: tăng phí bảo hiểm; đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm; thậm chí là theo luật dân sự CHXHCH Việt Nam, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền “không trả tiền bảo hiểm khi thiệt hại xảy ra do các biện pháp phòng ngừa đã không thực hiện”. b) Nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm: - Nghĩa vụ thông tin: Doanh nghiệp bảo hiểm phải cung cấp và giải thích cho bên được bảo hiểm đầy đủ các thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, các điều khoản, điều kiện bảo hiểm Việc làm này không chỉ phải thực hiện khi giao kết hợp đồng bảo hiểm mà còn được duy trì suốt trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm phải chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của các thông tin -17-
  19. đã cung cấp. Mọi thiếu sót, sai sót, không trung thực sẽ dẫn tới những hậu quả như là vô hiệu hợp đồng bảo hiểm; đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại liên quan. - Nghĩa vụ cấp hợp đồng bảo hiểm hoặc bằng chứng về hợp đồng bảo hiểm: Hợp đồng bảo hiểm hoặc bằng chứng hợp đồng bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm cấp cho bên được bảo hiểm phải đảm bảo hình thức pháp lý quy định dưới dạng văn bản với đầy đủ những thông tin cần thiết thích ứng với từng loại nghiệp vụ bảo hiểm. - Nghĩa vụ bồi thường, trả tiền bảo hiểm: Khi sự kiện bảo hiểm xảy ra đã có đủ hồ sơ yêu cầu bồi thường, trả tiền bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải giải quyết bồi thường, trả tiền bảo hiểm đầy đủ theo thoả thuận của hợp đồng bảo hiểm. Luật dân sự CHXHCN Việt nam đã quy định: nếu doanh nghiệp bảo hiểm chậm trễ trong bồi thường, trả tiền bảo hiểm sẽ phải trả cả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng nhà nước quy định tại thời điểm trả tiền, tương ứng với thời gian chậm trả. Trường hợp từ chối bồi thường, từ chối trả tiền bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ giải thích lý do từ chối bằng văn bản. - Nghĩa vụ phối hợp với bên được bảo hiểm để giải quyết yêu cầu đòi bồi thường của người thứ ba: Trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự, khi sự kiện thuộc phạm vi bảo hiểm xảy ra, người được bảo hiểm có nghĩa vụ bồi thường cho người thứ ba theo các quy định pháp lý liên quan và doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ bồi thường cho người được bảo hiểm theo thoả thuận của hợp đồng bảo hiểm. Hai loại trách nhiệm bồi thường này có sự ràng buộc gắn kết nhưng vẫn có tính độc lập nhất định. Vì thế, pháp luật về kinh doanh bảo hiểm đòi hỏi doanh nghiệp bảo hiểm phải thực hiện nghĩa vụ này nhằm đảm bảo quyền lợi của người thứ ba. c) Quyền của các bên trong hợp đồng bảo hiểm - Đối ứng với các nghĩa vụ của bên được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có các quyền cơ bản sau: + Thu phí bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm + Yêu cầu bên được bảo hiểm cung cấp đầy đủ, trung thực các thông tin liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm. -18-
  20. + Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm trong một số trường hợp, như là: khi bên được bảo hiểm không thực hiện, thực hiện không đúng các nghĩa vụ đã cam kết; trường hợp rủi ro gia tăng và bên được bảo hiểm không chấp nhận sự tăng phí bảo hiểm + Từ chối bồi thường, từ chối trả tiền bảo hiểm khi sự kiện xảy ra bị loại trừ, không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm. + Yêu cầu bên được bảo hiểm thực hiện các biện pháp đề phòng rủi ro, hạn chế tổn thất. + Áp dụng nguyên tắc thế quyền khi xác định được trách nhiệm của người thứ ba trong sự kiện bảo hiểm (đối với bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự). - Đối ứng với các nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm, bên được bảo hiểm có các quyền sau: + Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giải thích các điều kiện, điều khoản, tài liệu liên quan đến hợp đồng bảo hiểm; cung cấp thông tin về hợp đồng bảo hiểm đã giao kết; giữ bí mật các thông tin mà bên được bảo hiểm đã cung cấp. + Được cấp hợp đồng bảo hiểm hoặc bằng chứng của hợp đồng bảo hiểm đã giao kết. + Được bồi thường, trả tiền bảo hiểm theo thoả thuận của hợp đồng bảo hiểm. + Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm trong một số trường hợp, như là: khi doanh nghiệp bảo hiểm không thực hiện đúng các nghĩa vụ đã cam kết; trường hợp có sự thay đổi làm giảm mức độ rủi ro của đối tượng bảo hiểm (yếu tố cơ sở định phí bảo hiểm) nhưng doanh nghiệp bảo hiểm không chấp nhận giảm phí bảo hiểm + Chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm theo thoả thuận của hợp đồng bảo hiểm hoặc theo quy định của pháp luật. Việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm phải được thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm trừ trường hợp sự chuyển nhượng đó được thực hiện theo tập quán quốc tế. d) Sửa đổi hợp đồng bảo hiểm Hợp đồng bảo hiểm được giao kết cho một thời hạn có thể là rất dài, chẳng hạn 5 năm, 10 năm và lâu hơn nữa trong bảo hiểm nhân thọ. Thực tế, rất có thể phát sinh những sự thay đổi ảnh hưởng đến khả năng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp -19-
  21. bảo hiểm cũng như bên được bảo hiểm.Vì thế, pháp luật cho phép các bên được thoả thuận sửa đổi hợp đồng bảo hiểm trong trường hợp cần thiết. Việc sửa đổi hợp đồng bảo hiểm bao gồm các dạng cơ bản sau: - Sửa đổi về chủ thể hợp đồng bảo hiểm: Chủ yếu là thay đổi về người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm và người thụ hưởng. Đối với các trường hợp như là tài sản được bảo hiểm bị chuyển quyền sở hữu khi thời hạn bảo hiểm chưa kết thúc; người tham gia bảo hiểm; người thụ hưởng bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ bị chết khi sự kiện bảo hiểm chưa xảy ra thì việc sửa đổi hợp đồng bảo hiểm là hoàn toàn cần thiết nếu các bên không muốn chấm dứt hợp đồng bảo hiểm còn dang dở. - Sửa đổi các điều khoản của hợp đồng bảo hiểm: Một số điều khoản của hợp đồng bảo hiểm có thể được sửa đổi như là: giá trị bảo hiểm; số tiền bảo hiểm; mức phí bảo hiểm; tỷ lệ phí bảo hiểm; phương thức đóng phí bảo hiểm; thời hạn bảo hiểm Chẳng hạn một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp thời hạn 10 năm có thể chuyển sang dạng hợp đồng có thời hạn 5 năm và kéo theo là sự điều chỉnh cần thiết về phí bảo hiểm hoặc số tiền bảo hiểm. - Khôi phục hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm: Nếu một hợp đồng bảo hiểm bị đình chỉ giữa chừng và mất hiệu lực vì một lý do nào đó (ví dụ: người tham gia bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ không đóng phí khi đã kết thúc thời gian gia hạn đóng phí), trong một thời hạn cho phép, hợp đồng bảo hiểm có thể được khôi phục hiệu lực với sự đề nghị và chấp thuận của các bên. Trong ví dụ trên, nếu người tham gia bảo hiểm đề nghị được đóng phí bảo hiểm trở lại thì hợp đồng bảo hiểm sẽ được khôi phục hiệu lực. Sửa đổi hợp đồng bảo hiểm ở bất kỳ dạng nào đều trên cơ sở thoả thuận và thống nhất ý kiến của doanh nghiệp bảo hiểm và bên được bảo hiểm. Về mặt hình thức pháp lý, mọi sự sửa đổi, bổ sung đều phải được thể hiện bằng văn bản và văn bản thoả thuận về hợp đồng bảo hiểm đã được sửa đổi hoặc bản sửa đổi bổ sung phải đính kèm vào văn bản hợp đồng đã có. e) Hợp đồng bảo hiểm vô hiệu Hợp đồng bảo hiểm phải được xác lập dựa trên những nguyên tắc, trình tự, thủ tục và hình thức quy định của luật pháp. Tuy nhiên trên thực tế, vì những lý do phần nhiều là chủ quan từ phía các chủ thể mà hợp đồng bảo hiểm không đảm bảo các quy định trên và bị quy là vô hiệu. Bên cạnh những trường hợp vô hiệu theo quy định của Luật dân sự -20-
  22. CHXHCN Việt Nam đối với các hợp đồng dân sự nói chung như: các bên giao kết không đảm bảo quy định về năng lực hành vi dân sự, năng lực pháp luật dân sự; người xác lập không nhận thức được hành vi của mình tại thời điểm giao kết; hợp đồng được giao kết do nhầm lẫn, đối với hợp đồng bảo hiểm, Luật kinh doanh bảo hiểm CHXHCN Việt Nam còn xác định các dạng vô hiệu đặc thù của hợp đồng bảo hiểm, đó là: - Bên mua bảo hiểm không có quyền lợi có thể được bảo hiểm đối với đối tượng bảo hiểm. - Giao kết hợp đồng bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm không tồn tại tại thời điểm giao kết (tuy nhiên, trường hợp này chỉ đúng đối với một số loại đối tượng bảo hiểm). - Tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm biết sự kiện bảo hiểm đã xảy ra. - Doanh nghiệp bảo hiểm hoặc bên mua bảo hiểm có hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng bảo hiểm. Việc xử lý hợp đồng vô hiệu từng phần hoặc toàn bộ tuân theo quy định chung của luật dân sự. Các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm và bên được bảo hiểm được coi là không phát sinh ngay từ thời điểm xác lập. Như vậy, các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu như trước lúc giao kết hợp đồng bảo hiểm. Cụ thể: doanh nghiệp bảo hiểm trả lại phí bảo hiểm; bên được bảo hiểm trả lại số bồi thường, tiền trả bảo hiểm (nếu có) - toàn bộ hoặc tương ứng với phần bị vô hiệu; bên có lỗi đối với tình trạng vô hiệu của hợp đồng bảo hiểm phải bồi thường cho bên kia thiệt hại liên quan. 1.3.2.3. Chấm dứt hợp đồng bảo hiểm Hợp đồng bảo hiểm tất yếu sẽ chấm dứt khi đã kết thúc thời hạn bảo hiểm, song những trường hợp đáng lưu ý là khi hợp đồng bảo hiểm bị chấm dứt trước thời điểm kết thúc thời hạn bảo hiểm. Bên cạnh những trường hợp chấm dứt theo quy định của luật dân sự như: khi các bên sử dụng quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng theo pháp luật; các bên giao kết không còn đảm bảo quy định về năng lực hành vi dân sự, năng lực pháp luật dân sự cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã cam kết. Luật kinh doanh bảo hiểm cũng xác định những tình huống đặc thù đối với hợp đồng bảo hiểm, đó là: - Đối tượng bảo hiểm không còn tồn tại do sự kiện loại trừ. -21-
  23. - Sự kiện bảo hiểm đã xảy ra và doanh nghiệp bảo hiểm đã hoàn thành toàn bộ cam kết bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm. - Không còn tồn tại khả năng đối tượng bảo hiểm chịu ảnh hưởng của rủi ro được bảo hiểm. - Bên mua bảo hiểm không còn đảm bảo quy định về quyền lợi có thể được bảo hiểm. - Bên mua bảo hiểm không đóng đủ phí bảo hiểm hoặc không đóng phí bảo hiểm theo thời hạn thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. - Bên mua bảo hiểm không đóng đủ phí trong thời gian gia hạn đóng phí bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm cũng có thể được chấm dứt theo thoả thuận riêng giữa 2 bên cho những tình huống cụ thể thích ứng với mỗi loại nghiệp vụ bảo hiểm. Chẳng hạn: khi người được bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm con người thay đổi nơi cư trú - ra ngoài giới hạn lãnh thổ được bảo hiểm; tàu biển được bảo hiểm bị bán, thay đổi quốc tịch Tuy nhiên, những thoả thuận riêng này phải trên cơ sở tôn trọng luật pháp. Các quy định liên quan tới việc cho phép các bên thoả thuận chấm dứt hợp đồng bảo hiểm trước thời điểm kết thúc thời hạn bảo hiểm có thể có những điểm riêng ở các quốc gia khác nhau. Ví dụ: ở Pháp, trong bảo hiểm xe cơ giới, công ty bảo hiểm chỉ có quyền chấm dứt hợp đồng bảo hiểm sau tổn thất khi người được bảo hiểm đã vi phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc là người bị buộc tội đã lái xe trong tình trạng say rượu. Luật bảo hiểm Trung Quốc quy định: đối với hợp đồng bảo hiểm vận chuyển hàng hoá và hợp đồng bảo hiểm phương tiện vận chuyển, sau khi đã bắt đầu trách nhiệm bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm không được huỷ bỏ hợp đồng Những quy định đặc thù như vậy khá đa dạng, tuy nhiên, một vấn đề có thể được coi như một nguyên tắc xử sự đối với việc chấm dứt hợp đồng bảo hiểm trước thời điểm kết thúc hợp đồng bảo hiểm là có sự khác biệt giữa bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ. Trong bảo hiểm phi nhân thọ, các bên buộc phải thực hiện các cam kết đã thoả thuận, ngoại trừ những trường hợp phát sinh những sự thay đổi được xác định theo pháp luật. Trong bảo hiểm nhân thọ, sự ràng buộc nói trên chỉ áp dụng đối với phía doanh nghiệp bảo hiểm còn người tham gia bảo hiểm có quyền chấm dứt hợp đồng bảo hiểm vào bất cứ thời điểm nào mà không cần viện dẫn lý do. Riêng đối với các trường hợp giải -22-
  24. thể, thu hẹp phạm vi giấy phép kinh doanh, mất khả năng thanh toán, chia tách, sáp nhập doanh nghiệp bảo hiểm, chấm dứt hợp đồng sẽ được áp dụng nếu bên mua bảo hiểm không chấp nhận chuyển giao hợp đồng bảo hiểm. Đi đôi với việc xác định các trường hợp cho phép chấm dứt hợp đồng bảo hiểm trước thời điểm kết thúc thời hạn bảo hiểm, pháp luật phải quy định về các hậu quả pháp lý của từng trường hợp. Đáng kể nhất là vấn đề hoàn phí bảo hiểm. Nhìn chung, nếu việc chấm dứt hợp đồng bảo hiểm không phải là do dụng ý xấu của bên được bảo hiểm, phần phí bảo hiểm tương ứng với thời gian còn lại của thời hạn bảo hiểm sẽ được hoàn lại sau khi đã khấu trừ các chi phí hợp lý liên quan mà doanh nghiệp bảo hiểm đã chi ra. Trả giá trị giải ước cũng là một hậu quả thông thường trong việc chấm dứt các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (đặc thù này gắn với mục đích tiết kiệm, tích luỹ tài chính của bên mua bảo hiểm khi họ tham gia bảo hiểm nhân thọ). Một vấn đề liên quan đến việc chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nữa là quy định về thời hạn thông báo chấm dứt cũng như hình thức thông báo bằng văn bản. Đây là những quy định cần thiết nhằm đảm bảo lợi ích cho các bên và hạn chế những tác động bất lợi của việc chấm dứt giữa chừng hợp đồng bảo hiểm. 1.4. Phân loại bảo hiểm 1.4.1. Phân loại căn cứ vào đối tượng bảo hiểm Nếu căn cứ theo đối tượng bảo hiểm, các loại sản phẩm bảo hiểm được xếp vào 3 nhóm: bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm con người. - Bảo hiểm tài sản: bao gồm những nghiệp vụ bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là các tài sản và những lợi ích liên quan. Có nhiều loại bảo hiểm tài sản thông dụng như là: bảo hiểm hàng hoá vận chuyển trong nước; bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới; bảo hiểm công trình xây dựng, lắp đặt; bảo hiểm máy móc thiết bị điện tử; bảo hiểm tàu thuyền - Bảo hiểm trách nhiệm dân sự: bao gồm những nghiệp vụ bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm bồi thường của người được bảo hiểm phát sinh theo quy định về trách nhiệm dân sự của pháp luật. Có nhiều loại bảo hiểm trách nhiệm dân sự như: bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu; bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; bảo hiểm trách nhiệm của chủ sử dụng lao động; bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm; bảo hiểm trách nhiệm đối với người thứ ba trong xây dựng, lắp đặt -23-
  25. - Bảo hiểm con người: bao gồm những nghiệp vụ bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là tính mạng, sức khoẻ, khả năng lao động và tuổi thọ con người. Bảo hiểm con người được chia thành bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm con người phi nhân thọ. Bảo hiểm nhân thọ bảo hiểm cho trường hợp tử vong của người được bảo hiểm hoặc bảo hiểm cho trường hợp còn sống của người được bảo hiểm hoặc bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp. Bảo hiểm con người phi nhân thọ có các dạng chính là bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm cho rủi ro bệnh tật, ốm đau. 1.4.2. Phân loại theo phương thức triển khai Căn cứ vào phương thức triển khai là bắt buộc hoặc tự nguyện, bảo hiểm gồm có: - Bảo hiểm tự nguyện: bao gồm những nghiệp vụ bảo hiểm mà hợp đồng bảo hiểm được ký kết theo ý nguyện của bên mua bảo hiểm và hoàn toàn trên nguyên tắc thoả thuận. Đại bộ phận các nghiệp vụ bảo hiểm thuộc loại bảo hiểm tự nguyện. - Bảo hiểm bắt buộc: bao gồm những nghiệp vụ bảo hiểm mà pháp luật có quy định về nghĩa vụ tham gia bảo hiểm của các tổ chức, cá nhân có mối quan hệ nhất định với loại đối tượng bắt buộc phải được bảo hiểm. Đối với bảo hiểm bắt buộc, thông thường pháp luật còn có quy định thống nhất về các điều khoản cơ bản của hợp đồng bảo hiểm, giới hạn trách nhiệm bảo hiểm và mức phí bảo hiểm tối thiểu mà doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ tuân thủ khi giao kết hợp đồng bảo hiểm. Điểm cần lưu ý là bắt buộc không làm mất đi nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng trong quan hệ hợp đồng khi các bên được tự nguyện lựa chọn đối tác và thoả thuận những vấn đề không phải tuân theo quy định thống nhất của pháp luật. 1.4.3. Phân loại căn cứ vào kỹ thuật bảo hiểm Căn cứ vào kỹ thuật hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ bảo hiểm cho việc bồi thường – chi trả, bảo hiểm được phân thành hai loại: - Bảo hiểm theo kỹ thuật phân chia: Bảo hiểm theo kỹ thuật phân chia bao gồm các loại hình bảo hiểm có thời hạn ngắn (thường là một năm), bảo đảm cho các rủi ro có tính chất tương đối ổn định và độc lập với tuổi thọ con người. Khi rủi ro được bảo hiểm phát sinh trong thời hạn hợp đồng thì quỹ bảo hiểm được sử dụng để chi trả luôn. Bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm các bảo hiểm về tài sản, về trách nhiệm dân sự và các bảo hiểm con người phi nhân thọ khác chính là loại bảo hiểm theo kỹ thuật phân chia. Kết quả thu chi của các bảo hiểm này được phân bổ hết hàng năm. -24-
  26. - Bảo hiểm theo kỹ thuật tồn tích: Bảo hiểm theo kỹ thuật tồn tích có đặc trưng là thời hạn dài, quỹ được tích tụ qua nhiều năm mới được sử dụng để chi trả. Bảo hiểm theo kỹ thuật tồn tích thường bảo đảm cho các rủi ro có tính chất thay đổi rõ rệt theo thời gian và đối tượng và gắn liền với tuổi thọ con người. Bảo hiểm nhân thọ thuộc loại bảo hiểm có kỹ thuật tồn tích. 1.5. Cơ sở kỹ thuật của bảo hiểm 1.5.1. Quy luật số lớn và thống kê rủi ro - Khái quát về luật số lớn và phép tính xác suất Những nghiên cứu về lịch sử bảo hiểm thương mại đã chỉ ra rằng hoạt động bảo hiểm thương mại có từ trước thế kỷ 17. Tuy nhiên, chỉ khi lý thuyết xác suất được vận dụng, kỹ thuật bảo hiểm mới có được sự hoàn thiện cơ bản và người có công đầu là nhà toán học người Pháp: Blaise Pascal (1623 - 1662). Tác phẩm toán học của ông đánh dấu sự sáng lập ra Lý thuyết toán về xác suất, ông là người đầu tiên công bố công trình này vào năm 1654. Sau nhiều thực nghiệm nghiên cứu về các đại lượng ngẫu nhiên, ông đã chứng minh rằng chúng bị chi phối bởi quy luật. Sau Pascal, Iacop Bernoulli (1654 - 1705) - một nhà toán học khác người Thuỵ sỹ đã tiếp tục nghiên cứu và phát triển luật số lớn. Luật số lớn được đúc rút từ thực nghiệm: tung một con xúc sắc 6 mặt đồng chất, quan sát và ghi lại kết quả sau mỗi lần thực nghiệm (phép thử). Nếu số phép thử là ít, kết quả thu được về số lần xuất hiện của các mặt (từ mặt 1 chấm đến mặt 6 chấm) có sự chênh lệch rất lớn. Chẳng hạn, kết quả thu được về sự xuất hiện của mặt 3 chấm và 6 chấm như sau: Mặt 3 chấm Mặt 6 chấm Số lần tung xúc sắc Số lần xuất hiện Tần suất Số lần xuất hiện Tần suất 20 2 0,100 5 0,050 100 12 0,120 8 0,080 1000 175 0,175 200 0,200 -25-
  27. Nếu số phép thử đủ lớn sẽ cho một kết quả đáng ngạc nhiên là số lần xuất hiện mặt 3 chấm cũng tương đương với số lần xuất hiện của tất cả các mặt còn lại. Chẳng hạn, nếu tung con xúc sắc đến 60.000 lần thì số lần xuất hiện của các mặt đều xấp xỉ bằng nhau và = 10.000 lần. Như vậy, nếu thực hiện được 60.000 lần thử thì tần suất của biến cố xuất hiện bất cứ mặt nào cũng xấp xỉ bằng 1/6. Trong trò chơi con xúc sắc, nếu người chơi xem xét sự xuất hiện một mặt nào đó, mặt 6 chấm chẳng hạn thì sự xuất hiện mặt 6 chấm được coi là biến cố thuận lợi; sự xuất hiện của các mặt còn lại (từ mặt 1 chấm đến mặt 5 chấm) là những biến cố xung khắc. Mỗi lần chơi đều có thể xuất hiện bất kỳ một mặt nào, do đó, trong mỗi lần chơi số trường hợp có thể xảy ra là 6 trong khi số trường hợp thuận lợi chỉ là 1. Như vậy, khả năng xuất hiện mặt 6 chấm (biến cố thuận lợi) trong một lần chơi bằng 1/6. Người ta gọi khả năng xuất hiện biến cố thuận lợi là xác suất của biến cố đó. Khi nghiên cứu xác suất của một biến cố nào đó, nếu khả năng xuất hiện trường hợp thuận lợi là chắc chắn thì xác xuất của biến cố đó = 1, nếu không thể xảy ra trường hợp thuận lợi thì xác suất của biến cố đó = 0. Xác suất của mọi biến cố đều nằm trong khoảng từ 0 đến 1. Trở lại thử nghiệm với con xúc sắc, kết quả đã cho thấy: nếu số phép thử đủ lớn, tần suất biến cố sẽ xích gần lại với xác suất lý thuyết của biến cố đang xem xét. Như vậy, để tính xác suất của một biến cố, nếu thống kê được một số lượng đủ lớn các trường hợp đã xuất hiện biến cố đó trong thực tế, có thể xấp xỉ xác suất của biến cố bằng tần suất biến cố - kết quả tính được từ số liệu thống kê. Là cơ sở kỹ thuật then chốt của bảo hiểm, luật số lớn trong bảo hiểm được phát biểu như sau: "Khi số lớn các đơn vị rủi ro tương tự nhau và độc lập với nhau tăng lên thì tính chính xác tương đối của các dự đoán về những kết quả tương lai dựa vào các đơn vị rủi ro đó cũng tăng lên". Người bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm cho các sự kiện ngẫu nhiên, nếu xét riêng từng hợp đồng bảo hiểm đơn lẻ có thể giống như "trò chơi may rủi", song xét trên tổng thể nhiều hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm hoàn toàn có thể dự đoán được về khả năng xảy ra sự kiện bảo hiểm ở mức độ chính xác có thể chấp nhận được. Ví dụ : trong bảo hiểm xe cơ giới, không thể dự đoán chính xác về tai nạn gây ra đối với một cá thể ô tô, song người bảo hiểm có thể dự đoán được số vụ tai nạn và thiệt hại xảy ra hàng năm cho toàn bộ số ô tô được bảo hiểm trong phạm vi sai sót rất nhỏ. Cố nhiên, số ô tô được bảo hiểm nói trên phải là một số lớn. Thực tiễn kinh doanh đã chỉ ra rằng: trên cơ sở số lớn, khả năng cân bằng kỹ thuật của nhà bảo hiểm sẽ chắc chắn hơn. Cân bằng kết quả -26-
  28. thu chi nghiệp vụ của một tổng lượng với vài chục hợp đồng bảo hiểm phụ thuộc nhiều vào may mắn, còn đối với một tổng lượng hàng trăm ngàn hợp đồng bảo hiểm hoặc hàng triệu hợp đồng bảo hiểm sẽ chắc chắn hơn. Nói cách khác, khi số người được bảo hiểm càng lớn thì tình hình phát sinh tổn thất, thiệt hại trong thực tế càng gần với tần suất tổn thất và chi phí trung bình/ 1 tổn thất mà người bảo hiểm có được từ thống kê rủi ro và đã sử dụng để tính phí. 1.5.2. Nguyên tắc sàng lọc Trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp bảo hiểm luôn đứng trước những nhu cầu bảo hiểm rất đa dạng của nhiều loại khách hàng. Có yêu cầu bảo hiểm cho rủi ro ở mức trung bình, có yêu cầu bảo hiểm với mức độ rủi ro cao hơn thậm chí là rất xấu. Liệu doanh nghiệp bảo hiểm có thể chấp nhận mọi yêu cầu bảo hiểm của người mua bảo hiểm hay không? Câu trả lời sẽ là "có" nếu người mua bảo hiểm sẵn sàng trả theo giá mà người bảo hiểm yêu cầu. Sàng lọc đòi hỏi người bảo hiểm phải từ chối những trường hợp mức độ rủi ro quá lớn. Một vấn đề nữa đặt ra cho doanh nghiệp bảo hiểm là mỗi loại đối tượng bảo hiểm, thậm chí mỗi đối tượng bảo hiểm có mức độ rủi ro khác nhau sẽ được "đối xử" như thế nào? Liệu một chủ xe tư nhân sử dụng xe cho mục đích đi lại của mình có phải đóng một mức phí bảo hiểm ngang bằng với một xe tắc xi cùng loại hay không? Bất cứ một người bảo hiểm nào cũng biết mức độ rủi ro đối với xe tắc xi cao hơn so với xe cùng loại vì vậy họ không thể xếp chung chúng với nhau để áp dụng cùng một mức phí bảo hiểm. Hơn thế nữa, như đã đề cập ở trên, thực tế kinh doanh cho thấy doanh nghiệp bảo hiểm luôn phải đối mặt với những "lựa chọn bất lợi", điều đó thường trực nhắc nhở người bảo hiểm phải đánh giá cân nhắc trước và trong khi thực hiện bất kỳ một hành động, một quyết định kinh doanh nào. Trong quyết định chấp nhận bảo hiểm hay không, nhận bảo hiểm với điều kiện bảo hiểm nào và giá phí phải thu là bao nhiêu, doanh nghiệp bảo hiểm cần phải thực hiện nguyên tắc sàng lọc rủi ro. Quá trình đánh giá rủi ro trước khi nhận bảo hiểm cho phép doanh nghiệp bảo hiểm sàng lọc được rủi ro, hạn chế sự lựa chọn bất lợi và có được quyết định đúng đắn. Sàng lọc rủi ro yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm phải phân nhóm các đối tượng bảo hiểm, rủi ro được bảo hiểm theo những tiêu thức phù hợp để có thể sắp xếp được các rủi -27-
  29. ro có tính đồng nhất trong cùng một nhóm và định phí bảo hiểm theo từng nhóm đó. Các tiêu thức có thể sử dụng để phân nhóm có thể là phạm vi hoạt động, mục đích sử dụng, độ tuổi Việc phân nhóm rủi ro trong thực tế chỉ đạt tới một độ đồng nhất tương đối, vì vậy trong các nghiệp vụ bảo hiểm vẫn phải có quy định tăng phí, giảm phí trong trường hợp cần thiết. Vấn đề phân hoá phí bảo hiểm, tăng, giảm phí bảo hiểm một cách hợp lý còn đảm bảo được khía cạnh thương mại của sản phẩm bảo hiểm - sự linh hoạt cần thiết để có thể thỏa mãn tốt nhất các nhu cầu bảo hiểm đa dạng và đảm bảo hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm. 1.5.3. Nguyên tắc phân tán phân chia rủi ro Để tránh tình trạng bị rơi vào thế mạo hiểm hoặc tình trạng luẩn quẩn trong sự hạn chế về năng lực bảo hiểm của bản thân, doanh nghiệp bảo hiểm buộc phải thực hiện nguyên tắc phân chia, phân tán rủi ro. - Phân tán rủi ro: là phương pháp mà người bảo hiểm sử dụng để đối phó với hiện tượng tích tụ, tập trung rủi ro trong một khu vực địa lý. - Phân chia rủi ro: là kỹ thuật mà người bảo hiểm sử dụng trong những trường hợp cần thiết nhằm tránh khả năng phải tự mình gánh chịu một tổn thất quá lớn, tránh trường hợp không đủ khả năng thanh toán trong một năm kinh doanh xấu, nhiều tổn thất lớn, liên tiếp xảy ra hoặc tránh trường hợp tích tụ rủi ro trong cùng một sự cố. Hai kỹ thuật phân chia rủi ro có thể được sử dụng là đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm. + Đồng bảo hiểm (Co-insurance) Trường hợp đồng bảo hiểm sẽ có nhiều doanh nghiệp bảo hiểm cùng đảm bảo cho một rủi ro, mỗi doanh nghiệp bảo hiểm chịu một phần trách nhiệm theo một tỷ lệ đã thoả thuận. Khác với trường hợp bảo hiểm trùng hoặc bảo hiểm giá trị gia tăng, các doanh nghiệp đồng bảo hiểm có thoả thuận với nhau ngay từ khi giao kết hợp đồng bảo hiểm với người được bảo hiểm. Đồng bảo hiểm được sử dụng khi số tiền bảo hiểm trong một yêu cầu bảo hiểm vượt quá khả năng tự đảm đương của một doanh nghiệp bảo hiểm. Tham gia quan hệ đồng bảo hiểm, mỗi doanh nghiệp đồng bảo hiểm nhận một phần trách nhiệm theo tỷ lệ trên số tiền bảo hiểm, họ được hưởng theo tỷ lệ đó về phí bảo hiểm và cũng phải chịu trách nhiệm theo tỷ lệ đó trong mỗi lần bồi thường tổn thất. -28-
  30. Về lý thuyết, có bao nhiêu doanh nghiệp đồng bảo hiểm thì có bấy nhiêu hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, trong thực tế thường chỉ có một hợp đồng bảo hiểm duy nhất được thiết lập mang tên của tất cả các doanh nghiệp đồng bảo hiểm và các tỷ lệ rủi ro mà họ đã chấp nhận. Doanh nghiệp bảo hiểm đại diện cho những doanh nghiệp khác trong mối quan hệ với khách hàng (người được bảo hiểm) được gọi là người bảo hiểm chủ trì (leader). Người bảo hiểm chủ trì chịu trách nhiệm chính trong việc đàm phán, ký kết, quản lý hợp đồng bảo hiểm và phân bổ số tiền bồi thường. Trên phương diện pháp lý, cho dù chỉ tồn tại một văn bản hợp đồng bảo hiểm do người bảo hiểm chủ trì quản lý, người được bảo hiểm vẫn có quan hệ hợp đồng trực tiếp với từng doanh nghiệp đồng bảo hiểm. Như vậy, khi có tổn thất, người được bảo hiểm có quyền và cũng chỉ được khiếu nại đòi bồi thường từng doanh nghiệp bảo hiểm với số tiền tương ứng với tỷ lệ nhận bảo hiểm của họ. Mỗi người đồng bảo hiểm (kể cả người bảo hiểm chủ trì) chỉ chịu trách nhiệm về phần của mình mà không phải chịu trách nhiệm thay cho nhau cả khi một trong số họ gặp khó khăn về tài chính. + Tái bảo hiểm (Reinsurance) Tái bảo hiểm là nghiệp vụ mà người bảo hiểm sử dụng để chuyển một phần trách nhiệm đã chấp nhận với người được bảo hiểm cho người bảo hiểm khác, trên cơ sở nhượng lại cho người đó một phần phí bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm giữa người được bảo hiểm với người bảo hiểm trực tiếp được gọi là hợp đồng bảo hiểm gốc. Hợp đồng bảo hiểm giữa người bảo hiểm chuyển nhượng dịch vụ bảo hiểm với những người bảo hiểm khác gọi là hợp đồng tái bảo hiểm. Người bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm gốc trở thành người nhượng tái bảo hiểm, người bảo hiểm nhận lại một phần rủi ro của người nhượng tái bảo hiểm gọi là người nhận tái bảo hiểm. Người nhận tái bảo hiểm có thể là một doanh nghiệp bảo hiểm được phép kinh doanh cả bảo hiểm gốc lẫn tái bảo hiểm hoặc là doanh nghiệp chuyên kinh doanh tái bảo hiểm. Sau khi nhận tái bảo hiểm, người nhận tái có thể nhượng tái bảo hiểm cho những người nhận tái bảo hiểm khác, hoạt động nhượng tái có thể tiếp tục nhiều lần (Retrocession) với sự liên kết của các doanh nghiệp bảo hiểm trên phạm vi quốc tế. Mặc dù quan hệ tái bảo hiểm chỉ được hình thành trên cơ sở bảo hiểm gốc nhưng các thoả thuận của hợp đồng tái bảo hiểm có thể có những khía cạnh độc lập với các thoả -29-
  31. thuận của hợp đồng bảo hiểm gốc (về phạm vi bảo hiểm; loại trừ bảo hiểm ). Vì thế, trên phương diện pháp lý và nguyên tắc chung, người được bảo hiểm chỉ có mối quan hệ hợp đồng với người bảo hiểm gốc và chỉ có quyền khiếu nại người bảo hiểm này nếu có tổn thất được bảo hiểm. Người được bảo hiểm nhiều khi không biết đến người nhận tái bảo hiểm, tuy nhiên ngay cả khi biết đích xác người nhận tái bảo hiểm là ai (trong trường hợp tái bắt buộc hoặc tái chỉ định theo yêu cầu của người được bảo hiểm), người được bảo hiểm cũng không có quyền khiếu nại trực tiếp người nhận tái bảo hiểm khi có tổn thất. Người nhận tái bảo hiểm cũng không được quyền đòi phí bảo hiểm trực tiếp từ người được bảo hiểm. Khi sự kiện bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm gốc xảy ra, người nhượng tái bảo hiểm có nghĩa vụ bồi thường theo cam kết của hợp đồng bảo hiểm gốc và đòi bồi thường từ những người nhận tái bảo hiểm nếu tổn thất đó thuộc trách nhiệm của hợp đồng tái bảo hiểm. Tuy nhiên, những vấn đề thuộc về nguyên tắc chung nói trên có thể được các người bảo hiểm vận dụng một cách mềm dẻo hơn bằng cách đưa vào hợp đồng tái bảo hiểm những điều khoản đặc biệt, ví dụ: điều khoản “ cut - through” quy định trường hợp người nhượng tái bảo hiểm mất khả năng thanh toán, người nhận tái bảo hiểm có nghĩa vụ đối với phần tổn thất thuộc trách nhiệm của mình trước người được bảo hiểm. Việc sử dụng đồng bảo hiểm hay tái bảo hiểm là tuỳ thuộc phần lớn vào các đặc tính của rủi ro, đối tượng bảo hiểm và không ít các trường hợp kết hợp cả đồng bảo hiểm, tái bảo hiểm, đồng tái bảo hiểm sẽ là phương án tối ưu cho việc chuyển giao rủi ro. Có một nghịch lý là: nghề bảo hiểm bán sự an toàn và vì thế lại tiềm ẩn không ít rủi ro nguy hiểm. Các phương pháp phân chia, phân tán rủi ro là sự cụ thể hoá phương châm "không để tất cả trứng vào trong một giỏ" mà người bảo hiểm cần phải sử dụng để giảm thiểu hậu quả bất lợi của những trường hợp đột biến của rủi ro; của hiện tượng tích tụ, tích luỹ, tập trung tổn thất cực kỳ nguy hiểm trong kinh doanh bảo hiểm. -30-
  32. CHƯƠNG 2: BẢO HIỂM TÀI SẢN 2.1. Khái quát về bảo hiểm tài sản 2.1.1. Khái niệm Bảo hiểm tài sản là thể loại bảo hiểm bao gồm những đối tượng bảo hiểm là tài sản các loại. Tài sản - đối tượng bảo hiểm của thể loại bảo hiểm tài sản - bao gồm nhiều chủng loại khác nhau, mỗi chủng loại có tính năng, mục đích sử dụng, môi trường hoạt động, bảo quản khác nhau, vì vậy những rủi ro tiềm ẩn, tác động đến chúng cũng thường không giống nhau. Chẳng hạn, các loại rủi ro có thể tác động đến một chiếc ô tô khác với một ngôi nhà đang xây. Vì thế, để bảo hiểm cho mỗi loại tài sản, người bảo hiểm phải nghiên cứu những rủi ro đặc thù của chúng để thiết kế những quy tắc bảo hiểm, đơn bảo hiểm thích hợp. Tài sản các loại có thể là tài sản hữu hình tồn tại dưới hình thể vật chất: nhà cửa, phương tiện vận tải, cây trồng, vật nuôi ; có thể là tài sản vô hình không có hình thể vật chất: phát minh sáng chế, bản quyền, lợi thế thương mại trong kinh doanh Cho đến nay không phải tất cả các tài sản đều đã được trở thành đối tượng bảo hiểm, tuy nhiên, cũng đã hình thành nhiều loại bảo hiểm tài sản khác nhau. Các loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản thường được hình thành trên cơ sở phân nhóm, phân loại rủi ro theo đặc tính nhất định. Bảo hiểm tài sản bao gồm các loại như là: - Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển - Bảo hiểm thân tàu - Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt. - Bảo hiểm xây dựng, bảo hiểm lắp đặt - Bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới - Bảo hiểm máy móc, nồi hơi - Bảo hiểm máy móc thiết bị điện tử - Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh - Bảo hiểm tín dụng - Bảo hiểm kính - Bảo hiểm trộm cắp -31-
  33. - Bảo hiểm hộ gia đình; bảo hiểm nhà - Bảo hiểm tiền - Bảo hiểm nông nghiệp Các loại bảo hiểm tài sản nêu trên đều có những đặc thù riêng trong kỹ thuật bảo hiểm, tuy nhiên chúng cũng có những điểm chung và nhất là trên góc độ so sánh với bảo hiểm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm con người. 2.1.2. Đặc trưng của bảo hiểm tài sản 2.1.2.1. Tài sản là đối tượng bảo hiểm - Xác định quyền sở hữu của chủ tài sản: người chủ sở hữu tài sản hoặc người được giao quyền sở hữu, sử dụng tài sản sẽ là người ký kết hợp đồng bảo hiểm. Tài sản được bảo hiểm phải thuộc quyền sở hữu hợp pháp hoặc quyền chiếm hữu, sử dụng hợp pháp của bên mua bảo hiểm. Nói cách khác, bên mua bảo hiểm chỉ có quyền giao kết hợp đồng bảo hiểm cho những tài sản mà mình có quyền sở hữu hoặc được người sở hữu giao quyền chiếm hữu, sử dụng. Trường hợp tài sản đang được bảo hiểm bị chuyển quyền sở hữu do bên mua bảo hiểm bán, trao đổi, cho, tặng, để lại thừa kế thì doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm có thể thoả thuận chấm dứt hợp đồng bảo hiểm hoặc chuyển nhượng hợp đồng cho người chủ sở hữu mới. Nếu hợp đồng được chuyển nhượng, người chủ sở hữu mới có trách nhiệm thực hiện mọi nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng. - Tài sản chỉ có thể được bảo hiểm khi xác định được giá trị của chúng, vì nó là cơ sở của việc thoả thuận về số tiền bảo hiểm của người bảo hiểm trong hợp đồng. Về nguyên tắc, người bảo hiểm có thể chấp nhận bảo hiểm một phần hoặc toàn bộ giá trị tài sản, nhưng không được vượt quá giá trị bảo hiểm. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn xảy ra ba trường hợp: + Số tiền bảo hiểm nhỏ hơn giá trị bảo hiểm: đây là hình thức bảo hiểm dưới giá trị. Trường hợp này rất phổ biến. Khi gặp sự cố bảo hiểm này xảy ra, người bảo hiểm sẽ vận dụng qui tắc tỷ lệ khi xác định số tiền bồi thường. -32-
  34. + Số tiền bảo hiểm bằng giá trị bảo hiểm: trường hợp này là lý tưởng, nhưng phải xác định chính xác giá trị bảo hiểm. + Số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm: còn gọi là bảo hiểm trên giá trị. Có trường hợp này là do những nguyên nhân chủ quan và khách quan: vì xác định giá trị tài sản làm căn cứ tính giá trị bảo hiểm lúc ký kết hợp đồng không chính xác. Hoặc, do giá cả tài sản trên thị trường thường biến động. 2.1.2.2. Nguyên tắc bồi thường: Là nguyên tắc cơ bản chi phối việc bồi thường trong mọi nghiệp vụ bảo hiểm tài sản. Nội dung cơ bản của nguyên tắc này là số tiền bồi thường mà người được bảo hiểm nhận được trong mọi trường hợp không được vượt quá thiệt hại của họ trong sự cố bảo hiểm. Nguyên tắc này không cho phép việc kiếm lời không hợp lý từ quan hệ bảo hiểm. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm căn cứ vào thiệt hại thực tế của bên được bảo hiểm để xác định số tiền bồi thường. Việc bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm chỉ có mục đích đền bù những thiệt hại của bên được bảo hiểm trong sự kiện bảo hiểm. Thông thường, doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường cho bên được bảo hiểm những chi phí thực tế, hợp lý để sửa chữa, thay thế, tái tạo lại tài sản như trước khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Trường hợp phải thay mới bộ phận tài sản trong quá trình sửa chữa, nếu hợp đồng không có thoả thuận gì khác, doanh nghiệp bảo hiểm được quyền khấu trừ phần giá trị khấu hao của bộ phận tài sản bị thay thế (nếu có). Thực hiện nguyên tắc này, trong một số trường hợp khá phức tạp: bảo hiểm trên giá trị, bảo hiểm trùng, trường hợp người thứ ba phải chịu trách nhiệm về thiệt hại của tài sản được bảo hiểm đòi hỏi cách xử lý phải thích hợp: - Nguyên tắc thế quyền: được sử dụng trong trường hợp xác định được rõ người thứ ba phải chịu trách nhiệm trong thiệt hại tài sản được bảo hiểm, người bảo hiểm sau khi bồi thường theo hợp đồng bảo hiểm được phép thế quyền người được bảo hiểm để đòi lại người thứ ba phần thiệt hại thuộc trách nhiệm của người đó (theo Luật Dân sự). (1) Ví dụ: Một chủ hàng thuê một chủ xe vận chuyển một lô hàng trị giá 100 triệu đồng từ Hà Nội đến Thành phố Hồ Chí Minh. Lô hàng này đã được bảo hiểm tại Công ty bảo hiểm A theo quy tắc bảo hiểm hàng hoá vận chuyển nội địa. Số tiền bảo hiểm bằng với giá trị lô hàng, và mất cắp là một trong những rủi ro được bảo hiểm. Giả sử trong quá trình vận chuyển do sơ suất của chủ xe, một phần hàng trị giá 20 triệu đồng đã bị kẻ gian lấy cắp. -33-
  35. Như vậy, trong trường hợp này Công ty bảo hiểm A sẽ bồi thường cho chủ hàng 20 triệu đồng sau đó được thay thế chủ hàng khiếu nại đòi chủ xe bồi thường. Có những trường hợp đặc biệt mà việc thế quyền trở nên phức tạp, như: + Tài sản được bảo hiểm dưới giá trị. Việc bồi thường của bảo hiểm sẽ thấp hơn thiệt hại của người được bảo hiểm trong sự cố bảo hiểm. Như vậy, người được bảo hiểm sẽ giữ một phần khiếu nại người thứ ba có lỗi. (2) Ví dụ: Cũng dữ kiện như ví dụ trên nhưng số tiền bảo hiểm là 80 triệu đồng. Trường hợp này Công ty bảo hiểm A chỉ bồi thường số tiền là 16 triệu đồng (bồi thường theo tỷ lệ 80/100). Do đó chủ hàng vẫn được quyền đòi chủ xe bồi thường 4 triệu đồng. + Nếu người thứ ba có lỗi lại là người được bảo hiểm của một hợp đồng trách nhiệm dân sự tương ứng với cùng người bảo hiểm tài sản đó thì cần có sự phối hợp giữa hai loại hợp đồng đó khi giải quyết bồi thường. + Nếu người thứ ba có lỗi lại là người được bảo hiểm của hợp đồng trách nhiệm dân sự tương ứng với một người bảo hiểm khác thì có thể áp dụng quyền khiếu nại trực tiếp giữa người bảo hiểm tài sản và người bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Việc thế quyền đó được qui định bởi luật pháp. Tuy nhiên, luật pháp cũng qui định: không được áp dụng thế quyền trong một số trường hợp khi người thứ ba có lỗi có những mối quan hệ nhất định với người được bảo hiểm (vợ, chồng, con ). Hợp đồng bảo hiểm cũng đòi hỏi người được bảo hiểm phải thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc đảm bảo thực hiện việc khiếu nại người thứ ba có lỗi đối với người bảo hiểm. Vậy thì người bảo hiểm có thể áp dụng các hình thức phạt nếu người được bảo hiểm không thực hiện nghĩa vụ đó đầy đủ (không cung cấp thông tin cần thiết, chuyển giao giấy tờ, bằng chứng kịp thời ) Thực hiện thế quyền đúng đắn sẽ đảm bảo được đồng thời nguyên tắc bồi thường của bảo hiểm và bồi thường theo Luật Dân sự của người thứ ba có nghĩa vụ. Phương pháp giải quyết bồi thường trong bảo hiểm tài sản có thể trả bằng tiền tương ứng với thiệt hại thực tế và với giới hạn trách nhiệm của người bảo hiểm, hoặc tài sản tương đương, hoặc sửa chữa nhằm khôi phục lại tài sản trở về trạng thái như trước khi xảy ra tổn thất. -34-
  36. 2.1.2.3. Bảo hiểm trùng Bảo hiểm trùng là thuật ngữ dùng để chỉ trường hợp một đối tượng bảo hiểm được đồng thời bảo hiểm bằng nhiều hợp đồng (với nhiều doanh nghiệp bảo hiểm, với cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm), phạm vi bảo hiểm của các hợp đồng đó có một hay nhiều rủi ro được bảo hiểm giống nhau và tổng số tiền bảo hiểm từ các hợp đồng lớn hơn giá trị bảo hiểm của đối tượng. Như vậy, rất có thể xảy ra sự cố làm phát sinh trách nhiệm của nhiều hợp đồng. Vì bảo hiểm trùng thường liên quan đến sự gian lận của người tham gia bảo hiểm nhằm trục lợi bảo hiểm. Do đó, về nguyên tắc doanh nghiệp bảo hiểm có thể huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm nếu phát hiện thấy có dấu hiệu gian lận. Nếu doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận bồi thường thì lúc này, trách nhiệm của mỗi doanh nghiệp đối với tổn thất sẽ được phân chia theo tỷ lệ trách nhiệm mà họ đảm nhận. Ở Việt Nam hiện nay, thông thường các công ty bảo hiểm xác định số tiền bồi thường trong trường hợp có bảo hiểm trùng, theo công thức sau: Số tiền bồi thường Trị giá Số tiền bảo hiểm của từng hợp đồng = x của từng hợp đồng thiệt hại Tổng số tiền bảo hiểm của các hợp đồng Với cách thức giải quyết nói trên, người được bảo hiểm sẽ không thể nhận được số tiền bồi thường lớn hơn thiệt hại của họ trong sự cố bảo hiểm. Như vậy, nguyên tắc bồi thường được thực hiện đầy đủ. Ví dụ: Một xe ôtô trị giá 200 triệu đồng, đồng thời được bảo hiểm bởi 2 hợp đồng: - Hợp đồng bảo hiểm thứ nhất: với Công ty bảo hiểm A; số tiền bảo hiểm là 120 triệu đồng - Hợp đồng bảo hiểm thứ hai: với Công ty bảo hiểm B; số tiền bảo hiểm là 180 triệu đồng Giả sử xảy ra một tai nạn phải sửa chữa hết 30 triệu đồng thuộc phạm vi bảo hiểm của cả 2 hợp đồng. Như vậy: - Công ty bảo hiểm A bồi thường: (120/300)x30 = 12 triệu đồng - Công ty bảo hiểm B bồi thường: (180/300)x30 = 18 triệu đồng -35-
  37. Cách tính toán khác cũng có thể được sử dụng. Song, đều xuất phát từ yêu cầu thực hiện nguyên tắc bồi thường: số tiền bồi thường cao nhất từ tất cả các hợp đồng là bằng thiệt hại của người được bảo hiểm trong sự cố bảo hiểm. Những đặc trưng cơ bản của bảo hiểm tài sản nói trên sẽ được cụ thể hoá trong kỹ thuật của từng nghiệp vụ bảo hiểm tài sản ở phần tiếp theo. 2.2. Một số nghiệp vụ bảo hiểm tài sản 2.2.1. Bảo hiểm hàng hải Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển là một trong những nghiệp vụ bảo hiểm ra đời sớm nhất. Vì nhiều lý do khác nhau mà vận chuyển hàng hoá bằng tàu biển là phương thức vận tải chủ yếu trong giao lưu thương mại giữa các quốc gia. Sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm này gắn liền với sự ra đời và phát triển của thương mại quốc tế và đối tượng bảo hiểm của nghiệp vụ bảo hiểm này chủ yếu là hàng hoá xuất nhập khẩu. Ban đầu, đối tượng bảo hiểm trong các hợp đồng bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển chỉ là hàng hoá được vận chuyển bằng tàu biển. Ngày nay, hợp đồng bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển được mở rộng để bảo hiểm cho cả những hàng hoá vận chuyển đa phương thức mà vận chuyển bằng đường biển là một trong những phương thức ấy. Người đứng ra mua bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu có thể là người bán hoặc người mua, tuỳ thuộc vào điều kiện thương mại áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hoá. Theo Incoterms 2010, hợp đồng mua bán hàng hoá xuất nhập khẩu có thể áp dụng 1 trong số 11 điều kiện thương mại được xếp thành 2 nhóm (Nhóm các điều kiện áp dụng cho mọi phương thức vận tải và nhóm các điều kiện áp dụng cho vận tải đường biển và đường thủy nội địa). Đối với đại đa số các loại điều kiện thương mại trong 2 nhóm, việc người mua bảo hiểm là người bán hay người mua sẽ tuỳ thuộc vào nhu cầu và cần căn cứ vào thời điểm chuyển rủi ro, tổn thất của hàng giữa người bán và người mua quy định trong điều kiện thương mại của hợp đồng mua bán. Ví dụ: theo điều kiện thương mại EXW (Ex Works) thì nhìn chung, thời điểm chuyển rủi ro là thời điểm giao hàng, đó là khi hàng hoá đã được đặt dưới quyền định đoạt của người mua tại cơ sở của người bán hoặc tại một địa điểm quy định (xưởng, kho hàng), hàng hoá chưa được bốc lên phương tiện chuyên chở tiếp nhận. Vì thế, người mua hàng nên mua bảo hiểm cho hàng trong quá trình vận chuyển. -36-
  38. Giá trị bảo hiểm của hàng hoá xuất nhập khẩu là giá trị thực tế của lô hàng, được tính theo giá CIF bao gồm: giá hàng hoá, cước phí vận chuyển, phí bảo hiểm và các chi phí liên quan khác. Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu có điểm rất đặc thù về giới hạn số tiền bảo hiểm. Thực tế, khi ký kết hợp đồng bảo hiểm hàng xuất nhập khẩu các chủ hàng thường thoả thuận với người bảo hiểm với mức số tiền bảo hiểm = CIF cộng thêm một tỷ lệ phần trăm lãi ước tính. Vì nhiều lý do mà đa số các nước trên thế giới đều giới hạn tỷ lệ phần trăm lãi ước tính có thể được chấp nhận bảo hiểm tối đa chỉ bằng = 10% CIF. C + F CIF = 1- R C (cost): Giá hàng được tính bằng giá FOB ở cảng đi F (freight): Cước phí vận chuyển R (rate): Tỷ lệ phí bảo hiểm Khi giá trị bảo hiểm của hàng hoá được tính bằng giá CIF, giá trị bảo hiểm được tính theo công thức: V = CIF Nếu bảo hiểm cả phần lãi dự tính, công thức tính giá trị bảo hiểm như sau: (C+F)x(1+a) V = 1-R a: Số % lãi dự tính Hàng hoá xuất nhập khẩu có thể được bảo hiểm theo những điều kiện bảo hiểm với phạm vi bảo hiểm rộng hẹp khác nhau. Các chủ hàng căn cứ vào đặc tính rủi ro của hàng, phương tiện vận chuyển, nhu cầu an toàn của mình để lựa chọn loại điều kiện thích hợp. Hiện nay, các điều kiện bảo hiểm mà các nhà bảo hiểm đưa ra khá đa dạng, trong đó, được áp dụng rộng rãi nhất trên thế giới là các điều kiện bảo hiểm do Hiệp hội bảo hiểm London soạn thảo là: ICC A( Institute Cargo Clauses A); ICC B; ICC C 1. 1. 1982 (trong vận tải biển kể cả vận tải nối tiếp bằng đường bộ, đường sông ); ICC by air 1.1.1982; điều kiện bảo hiểm chiến tranh; Trong ba điều kiện bảo hiểm thông dụng (A; B; C) thì điều kiện bảo hiểm A có phạm vi bảo hiểm rộng nhất và điều kiện bảo hiểm C có phạm vi bảo hiểm hẹp nhất. Theo điều kiện bảo hiểm A người bảo hiểm chịu trách -37-
  39. nhiệm đối với mọi rủi ro gây ra mất mát hư hỏng cho hàng hoá được bảo hiểm trừ khi do rủi ro chiến tranh, đình công và các rủi ro thuộc nhóm rủi ro loại trừ gây ra. Các điều kiện bảo hiểm B; C chỉ nhận bảo hiểm cho một số rủi ro lựa chọn nhất định. Giá - phí bảo hiểm hàng hoá vận chuyển được xác định dựa trên cơ sở điều kiện bảo hiểm, loại hàng, cách thức đóng gói và vận chuyển (hàng rời, hàng container ), phương tiện vận chuyển, luồng tuyến Để thuận lợi cho việc tính phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm thường xây dựng nên Biểu phí bảo hiểm với tỷ lệ phí cơ bản, tỷ lệ phụ phí cho từng loại hàng. Trên cơ sở biểu phí đó, mức phí mà người tham gia bảo hiểm phải nộp được tính bằng công thức: Mức phí bảo hiểm = Tỷ lệ phí bảo hiểm x Số tiền bảo hiểm Các luật và quy tắc bảo hiểm hàng hải đều lưu ý: Hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực ngay sau khi phí bảo hiểm được trả, người bảo hiểm có quyền huỷ hợp đồng bảo hiểm nếu người được bảo hiểm không thực hiện đúng nghĩa vụ trả phí bảo hiểm hoặc có quyền từ chối bồi thường khi rủi ro xảy ra. 2.2.2. Bảo hiểm nông nghiệp Bảo hiểm nông nghiệp là một nghiệp vụ bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là các rủi ro phát sinh trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và đời sống nông thôn, bao gồm những rủi ro gắn liền với: cây trồng, vật nuôi, vật tư, hàng hoá, nguyên vật liệu nhà xưởng. Đồng thời nó cũng là nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ có đối tượng bảo hiểm giới hạn trong các rủi ro gắn liền với cây trồng và vật nuôi. Bảo hiểm nông nghiệp là một biện pháp kinh tế hình thành nên quỹ bảo hiểm nhằm mục đích giảm thiểu những thiệt hại do thiên tai, thiệt hại trong sản xuất nông nghiệp và bù đắp thiệt hại cho nông dân khi có rủi ro xảy ra trong sản xuất nông nghiệp, góp phần ổn định nông thôn. Tuy nhiên, không phải mọi rủi ro trong sản xuất nông nghiệp đều có thể được bảo hiểm, đặc biệt là những rủi ro mang tính thảm hoạ (bao gồm thiên tai, dịch bệnh ). Khi thực hiện bảo hiểm nông nghiệp sẽ đem lại 5 lợi ích to lớn, đó là: - Bù đắp thiệt hại cho nông dân khi có rủi ro xảy ra một cách nhanh chóng và chính xác. -38-
  40. - Góp phần tăng cường các biện pháp giảm nhẹ thiệt hại cũng như phòng chống thiên tai thông qua các biện pháp mang tính nghiệp vụ. - Nhanh chóng chuyển giao khoa học kỹ thuật hiện đại vào nông nghiệp (thông qua bảo hiểm giống, cây con ). - Kiện toàn tổ chức hợp tác xã, Hội Nông dân (thông qua các quy định về đối tượng được bảo hiểm). - Tiết kiệm, tạo công ăn việc làm cho xã hội. Từ những ý nghĩa cơ bản của Bảo hiểm nông nghiệp mà các nước trên thế giới đã tiến hành Bảo hiểm nông nghiệp hàng trăm năm nay với các chương trình, hình thức khác nhau (một số nước bắt buộc bảo hiểm cây trồng, vật nuôi toàn bộ, một số nước Nhà nước hỗ trợ 100% phí bảo hiểm; một số nước hỗ trợ một phần phí bảo hiểm ). Ở Việt Nam, những năm vừa qua đã tiến hành bảo hiểm một cách tự nguyện mà triển khai đầu tiên là Bảo Việt, song kết quả mang lại gần như bằng không, bởi nhiều lý do. Lý do cơ bản là Nhà nước chưa hỗ trợ trực tiếp từ chương trình bảo hiểm nông nghiệp, bởi nếu để doanh nghiệp tự tiến hành thì về cơ bản không doanh nghiệp nào muốn làm, vì không thể cân đối được quỹ do rủi ro trong nông nghiệp khó kiểm soát, tập trung vào một số vùng trong khi Nhà nước chưa đưa ra chính sách bắt buộc các vùng đều tham gia và hỗ trợ phí bảo hiểm. 2.2.3. Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt Bảo hiểm xây dựng áp dụng cho các công trình xây dựng dân dụng và công nghiệp trong suốt quá trình thi công xây dựng cho đến khi công trình được hoàn thành, bàn giao đưa vào sử dụng. Bảo hiểm xây dựng có thể mở rộng để bảo hiểm cho cả thời gian bảo hành (không quá 12 tháng). Đối tượng bảo hiểm của bảo hiểm xây dựng là bản thân các công trình xây dựng tính theo từng hạng mục; máy móc trang thiết bị thi công và phục vụ thi công trên công trường; tài sản có sẵn ở trên hoặc xung quanh công trình Người được bảo hiểm trong bảo hiểm xây dựng có thể bao gồm: chủ đầu tư; chủ thầu. Đối tượng bảo hiểm trong bảo hiểm lắp đặt là các máy móc, thiết bị; dây chuyền sản xuất trong quá trình lắp đặt, chạy thử cho đến khi bàn giao đưa vào sử dụng; phần công việc xây dựng phục vụ hoặc cấu thành trong việc lắp đặt; máy móc, trang thiết bị phục vụ cho công việc lắp đặt; Giống như bảo hiểm xây dựng, bảo hiểm lắp đặt có thể mở rộng để bảo hiểm cho cả thời gian bảo hành (tối đa là12 tháng). -39-
  41. Xây dựng và lắp đặt là hai công việc thường đi kèm với nhau, do đó đơn bảo hiểm có thể được cấp chung cho cả việc xây dựng và việc lắp đặt (bảo hiểm xây lắp). Trên thực tế loại bảo hiểm tài sản này thường được bảo hiểm cùng với loại bảo hiểm trách nhiệm đối với người thứ ba trong một hợp đồng bảo hiểm mọi rủi ro xây dựng, đó chính là phần 1: tổn thất vật chất trong đơn bảo hiểm mọi rủi ro trong xây dựng (CAR- conractor’s all risks, section 1: material damage)) hoặc lắp đặt (EAR - erecrion all risks, section1: material damage) Phạm vi bảo hiểm trong bảo hiểm xây lắp bao gồm các rủi ro như thiên tai, tai nạn bất ngờ như là bão, lũ lụt, động đất . Người bảo hiểm không chịu trách nhiệm về những tổn thất xảy ra cho đối tượng bảo hiểm do các nguyên nhân như nguyên vật liệu, vật tư không đảm bảo chất lượng, chậm trễ, vi phạm tiến độ thi công, mất mát tài liệu, bản vẽ thiết kế, hành động xấu cố ý của người được bảo hiểm hoặc người làm công của họ, Số tiền bảo hiểm trong bảo hiểm xây lắp thường được xác định theo giá trị dự toán công trình xây lắp không tính đến giá trị đất và tiền đền bù giải phóng mặt bằng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm, hai bên có thể thoả thuận điều chỉnh số tiền bảo hiểm cho phù hợp với thực tiễn chẳng hạn nếu giá cả vật liệu xây dựng tăng lên, số tiền bảo hiểm cho công trình xây dựng có thể được điều chỉnh tăng tương ứng. Phí bảo hiểm xây lắp thường được tính bằng tỷ lệ phần nghìn trên số tiền bảo hiểm. Trường hợp hợp đồng bảo hiểm không mở rộng bảo hiểm cho tài sản có sẵn xung quanh công trình, chi phí dọn dẹp, bảo hiểm bảo hành, thì tỷ lệ phí bảo hiểm bao gồm tỷ lệ phí cơ bản tính theo từng loại công trình và tỷ lệ phụ phí tiêu chuẩn cho rủi ro động đất, rủi ro bão và lũ lụt. Phụ phí tiêu chuẩn cao hay thấp phụ thuộc vào vị trí thi công xây lắp có tính đến mức độ nhạy cảm đối với rủi ro động đất, bão và lũ lụt. Ví dụ: Công trình xây dựng nhà máy cán thép với thời gian xây dựng tiêu chuẩn 12 tháng, tham gia bảo hiểm xây lắp cho cả phần công trình xây dựng và máy móc thiết bị lắp đặt. Số tiền bảo hiểm được tính theo giá trị dự toán xây dựng nhà máy bằng 50 triệu $. Tỷ lệ phí bảo hiểm cơ bản áp dụng cho công trình là 0,09%, vị trí xây dựng công trình tương ứng với tỷ lệ phụ phí tiêu chuẩn đối với rủi ro động đất là 0,025%; đối với rủi ro bão và lũ lụt là 0,03%. - Phí bảo hiểm xây lắp tính cho công trình nhà máy cán thép trên (chưa tính thuế GTGT) là: -40-
  42. (0,09% + 0,025% + 0,03%) x 10.000.000 $ = 72.500 $ Trường hợp đối tượng bảo hiểm bị tổn thất do các rủi ro được bảo hiểm gây ra, số tiền bồi thường của bảo hiểm được tính bằng chênh lệch giữa giá trị thiệt hại với mức khấu trừ và giá trị thu hồi (nếu có). Ví dụ: Trong quá trình xây dựng nhà máy cán thép nói trên, một hạng mục công trình đang thi công bị tổn thất do bão. Giá trị thiệt hại được xác định = 100.000 $. Nếu mức khấu trừ áp dụng là: 5.000 $/ 1 sự cố thì số tiền bồi thường của bảo hiểm là: 100.000 $ - 5.000 $ = 95.000 $. 2.2.4. Bảo hiểm hoả hoạn Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt có nhiều loại đối tượng bảo hiểm là các loại động sản, bất động sản. Cụ thể là các nhà máy, kho tàng, trung tâm thương mại, chợ, nhà ở, khách sạn, sản phẩm, vật tư, hàng để trong kho (trừ những loại được bảo hiểm trong các loại hình bảo hiểm tài sản khác như là phương tiện giao thông, công trình xây dựng đang trong quá trình thi công ) Phạm vi bảo hiểm bao gồm một số rủi ro như hoả hoạn, nổ, sét đánh và một số rủi ro khác tuỳ thuộc vào nhu cầu của bên mua bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm là khoản tiền thoả thuận ghi trong hợp đồng bảo hiểm được thoả thuận căn cứ trên giá trị thực tế của tài sản được bảo hiểm vào thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm. Đối với vật tư, hàng hoá trong kho hoặc trong cửa hàng có thể xác định số tiền bảo hiểm căn cứ vào giá trị bình quân vật tư hàng hoá trong kho hoặc tính theo giá trị tối đa của vật tư, hàng hoá có mặt trong thời gian bảo hiểm. Việc xác định phí bảo hiểm trong bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt tương đối phức tạp. Tỷ lệ phí bảo hiểm xác định căn cứ vào từng loại tài sản có tính đến các yếu tố như ngành nghề kinh doanh chính của người được bảo hiểm khi sử dụng tài sản được bảo hiểm vào kinh doanh; vị trí địa lý của tài sản; độ bền vững và kết cấu nhà xưởng, vật kiến trúc; yếu tố sử dụng điện; trang thiết bị phòng cháy, chữa cháy; và được điều chỉnh theo yếu tố tăng, giảm rủi ro; mức miễn thường và tỷ lệ tổn thất trong quá khứ. Ví dụ: nhà máy công nghiệp được bảo hiểm với số tiền bảo hiểm = 50.000.000 $. Tỷ lệ phí bảo hiểm cơ bản áp dụng cho công trình này là 0,6%; điều chỉnh phí theo yếu tố tăng phí do nhà máy có sử dụng lò sấy trong một công đoạn sản xuất là 10%; giảm phí theo các phương tiện phòng cháy chữa cháy là 5%. Để xác định tỷ lệ phí bảo hiểm áp dụng cho công trình trên người ta tiến hành điều chỉnh tỷ lệ phí theo các bước sau: -41-
  43. - Điều chỉnh theo yếu tố tăng phí = 0,6% x (1 + 10%) = 0,66% - Điều chỉnh giảm phí theo phương tiện PCCC = 0,66% x (1 - 5%) = 0,627% -> Phí bảo hiểm = 0,627% x 50.000.000 $= 313.500 $ 2.2.5. Bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới Bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới có đối tượng bảo hiểm là thân vỏ xe và máy móc trang thiết bị của xe. Xe cơ giới bao gồm xe mô tô và ô tô. Các doanh nghiệp bảo hiểm có thể thiết kế quy tắc bảo hiểm cho mọi rủi ro hoặc cũng có thể chia thành nhiều điều kiện bảo hiểm khác nhau để người mua bảo hiểm có thể lựa chọn. Các doanh nghiệp bảo hiểm còn đưa ra nhiều dạng sản phẩm loại này như: bảo hiểm toàn bộ xe; bảo hiểm thân vỏ, bảo hiểm vỡ kính Nhìn chung, trong bảo hiểm thân xe, người bảo hiểm chỉ nhận bảo hiểm cho những thiệt hại và chi phí phát sinh do thiên tai, tai nạn bất ngờ và do trộm cắp gây ra; không chịu trách nhiệm về những tổn thất và chi phí phát sinh do hành vi cố ý của người được bảo hiểm; hư hỏng do hao mòn tự nhiên; mất cắp bộ phận; chiến tranh; hư hỏng do sửa chữa và tai nạn xảy ra do chủ xe, lái xe vi phạm nghiêm trọng luật lệ giao thông. Số tiền bảo hiểm được xác định dựa trên giá trị thực tế của xe hoặc bộ phận được bảo hiểm vào thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm. Giá trị bảo hiểm của xe cơ giới là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại thời điểm người tham gia bảo hiểm mua bảo hiểm. Trong thực tế, các công ty bảo hiểm thường dựa vào một số nhân tố để xác định giá trị xe như: Loại xe, năm sản xuất, mức độ mới-cũ của xe, thể tích làm việc của xilanh Một phương pháp xác định giá trị bảo hiểm mà các công ty bảo hiểm hay áp dụng đó là căn cứ vào giá trị ban đầu của xe và mức khấu hao: Giá trị BH = Giá trị ban đầu – Khấu hao luỹ kế Trên cơ sở giá trị bảo hiểm, chủ xe có thể tham gia bảo hiểm đúng giá trị xe hoặc bảo hiểm dưới giá trị. Nếu chủ xe chỉ tham gia bảo hiểm một bộ phận tổng thành, chẳng hạn tổng thành thân vỏ thì số tiền bảo hiểm được tính bằng tỷ lệ giá trị tổng thành này nhân với giá trị xe vào thời điểm tham gia. Phí bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới xác định trên cơ sở tỷ lệ phí bảo hiểm và số tiền bảo hiểm thoả thuận. Tỷ lệ phí bảo hiểm cao hay thấp phụ thuộc vào chủng loại xe, mục đích sử dụng xe, khu vực giữ xe và để xe, mục đích sử dụng xe, tuổi tác kinh -42-
  44. nghiệm lái xe của người yêu cầu bảo hiểm và người thường xuyên sử dụng xe được bảo hiểm và một số yếu tố khác. Giảm phí bảo hiểm: Để khuyến khích các cơ quan, doanh nghiệp có nhiều xe tham gia bảo hiểm tại công ty mình, các công ty bảo hiểm thường áp dụng mức giảm phí so với mức phí chung theo số lượng xe tham gia bảo hiểm. Ngoài ra, hầu hết các công ty bảo hiểm còn áp dụng cơ chế giảm giá cho những người tham gia bảo hiểm không có khiếu nại và gia tăng tỷ lệ giảm giá này cho một số năm không có khiếu nại gia tăng. Đối với những xe hoạt động mang tính chất mùa vụ, tức là chỉ hoạt động một số ngày trong năm, thì chủ xe chỉ phải đóng phí cho những ngày hoạt động đó theo công thức sau: Số tháng xe hoạt động trong năm Phí bảo hiểm = Mức phí cả năm x 12 Biểu phí đặc biệt: Trong những trường hợp đặc biệt, khi khách hàng có số lượng xe tham gia bảo hiểm nhiều, để tranh thủ sự ủng hộ, các công ty bảo hiểm có thể áp dụng biểu phí riêng cho khách hàng đó. Việc tính toán biểu phí riêng này cũng tương tự như cách tính phí được đề cập ở trên, chỉ khác là nó dựa trên các số liệu về bản thân khách hàng này, cụ thể: - Số lượng xe của công ty tham gia bảo hiểm; - Tình hình bồi thường tổn thất của công ty cho khách hàng ở những năm trước đó; - Tỷ lệ phụ phí theo quy định của công ty. Trường hợp mức phí đặc biệt thấp hơn mức phí quy định chung, công ty bảo hiểm sẽ áp dụng mức phí đặc biệt. Còn nếu mức phí đặc biệt được tính cao hơn (hoặc bằng) mức phí chung, tức là tình hình tổn thất của khách hàng cao hơn (hoặc bằng) mức tổn thất bình quân chung, thì công ty bảo hiểm sẽ áp dụng mức phí chung. Hoàn phí bảo hiểm: Có những trường hợp chủ xe đã đóng phí bảo hiểm cả năm, nhưng trong năm xe không hoạt động một thời gian vì lý do nào đó, ví dụ như ngừng hoạt động để tu sửa, trong trường hợp này thông thường công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí bảo -43-
  45. hiểm cho những tháng ngừng hoạt động đó cho chủ xe. Số phí hoàn lại được tính như sau: Số tháng không hoạt động Phí hoàn lại = Phí cả năm x Tỷ lệ hoàn lại phí 12 Tuỳ theo từng công ty bảo hiểm khác nhau mà quy định tỷ lệ hoàn phí là khác nhau. Nhưng thông thường tỷ lệ này là 80%. Trong trường hợp chủ xe muốn huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm khi chưa hết thời hạn hợp đồng thì thông thường công ty bảo hiểm cũng hoàn lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại đó theo công thức trên, nhưng với điều kiện là chủ xe chưa có lần nào được công ty bảo hiểm trả tiền bảo hiểm. Trường hợp đối tượng bảo hiểm bị hư hỏng, mất mát do tai nạn trong sự cố thuộc trách nhiệm bảo hiểm, ngoài việc bồi thường các chi phí sửa chữa, thay thế hợp lý, bảo hiểm còn bồi thường các chi phí liên quan đến việc hạn chế tổn thất; chi phí trục vớt, cẩu xe đổ; chi phí kéo xe đến nơi sửa chữa, và chi phí giám định tổn thất. Ví dụ: Chủ xe TOYOTA tham gia bảo hiểm thân vỏ. Giá trị xe vào thời điểm tham gia bảo hiểm là 20.000 $, tỷ lệ giá trị bộ phận thân vỏ của xe là 50%. Tỷ lệ phí bảo hiểm áp dụng cho hợp đồng này là 1,5%/năm. Trong thời hạn hợp đồng, phát sinh sự cố bảo hiểm dẫn đến các chi phí hợp lý sau: chi phí sửa chữa phần thân vỏ là 2.000$, phần động cơ là 1.200 $; chi phí trục vớt và kéo xe về nơi sửa chữa là 500 $; chi phí giám định là 400 $. Như vậy: - Số tiền bảo hiểm = 50% x 20.000 $ = 10.000 $ - Phí bảo hiểm = 1,5% x 10.000 $ = 150 $ - Số tiền bồi thường = 2.000 $ + 50% x (500 $ + 400 $) = 2450 $ -44-
  46. CHƯƠNG 3: BẢO HIỂM CON NGƯỜI 3.1. Đại cương về bảo hiểm con người 3.1.1. Khái niệm và đặc trưng của bảo hiểm con người 3.1.1.1. Khái niệm Đời sống của nhân dân nói chung, của người lao động nói riêng không ngừng được cải thiện. Song, những rủi ro như ốm đau, tai nạn bất ngờ trong lao động sản xuất cũng như trong sinh hoạt hàng ngày: thiếu việc làm, giết người, cướp của vẫn đe doạ đến tính mạng và thân thể con người. Do đó, cần thiết phải có bảo hiểm con người. Bảo hiểm con người là bảo hiểm toàn bộ thân thể của người được bảo hiểm, là hoạt động nghiệp vụ bảo hiểm thương mại, là một hình thức bảo hiểm bổ sung cho bảo hiểm xã hội, nhằm đảm bảo ổn định đời sống của thành viên trong xã hội trước rủi ro bất ngờ đối với thân thể, tính mạng, sức khoẻ làm giảm sút thu nhập của họ. Thể loại bảo hiểm con người bao gồm những hợp đồng bảo hiểm cho tính mạng, sức khoẻ, khả năng lao động, tuổi thọ con người trước các rủi ro như là tai nạn, bệnh tật, ốm đau, tuổi già mất khả năng lao động. Bảo hiểm con người phản ánh các mối quan hệ kinh tế giữa người tham gia bảo hiểm với người bảo hiểm thông qua hợp đồng bảo hiểm. Cần lưu ý rằng, các hợp đồng bảo hiểm con người không phải là những hợp đồng bồi thường (như các loại hợp đồng khác) vì sinh mạng con người, không thể định giá bằng tiền. Số tiền bảo hiểm sinh mạng mà một người có thể ký phụ thuộc vào khả năng tài chính của họ. Số tiền bảo hiểm cũng là giới hạn trách nhiệm để người bảo hiểm xem xét “hoàn lại” một phần hay toàn bộ cho người tham gia bảo hiểm khi họ gặp rủi ro. Trong bảo hiểm thương mại về con người, cần phân biệt: người bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm và người được chỉ định hưởng quyền lợi bảo hiểm (hay là người được chỉ định hưởng “bồi thường” của bảo hiểm). 3.1.1.2. Đặc trưng của bảo hiểm con người - Đối tượng của bảo hiểm con người là tính mạng - sức khoẻ - khả năng lao động và tuổi thọ của con người. Đối tượng của bảo hiểm con người mang tính chất phi vật hoá nên trong bảo hiểm con người không tồn tại thuật ngữ giá trị bảo hiểm. Từ đặc điểm này -45-
  47. dẫn đến số tiền bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm con người thường được xác định dựa trên sự thoả thuận giữa hai bên (bên bảo hiểm và bên được bảo hiểm). - Sự phức tạp trong quan hệ giữa người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm và người thụ hưởng: Hợp đồng bảo hiểm con người có thể được ký kết cho từng cá nhân hoặc một nhóm người được bảo hiểm (ví dụ: một chủ doanh nghiệp kinh doanh khai thác than có thể đứng ra ký một hợp đồng bảo hiểm tai nạn lao động cho 500 người được bảo hiểm là công nhân làm việc tại mỏ). Thậm chí có những trường hợp không xác định cụ thể trước về người được bảo hiểm (ví dụ: hợp đồng bảo hiểm tai nạn con người theo số chỗ ngồi trên xe cơ giới – một chủ xe Toyota có thể mua bảo hiểm tai nạn người trên xe cho 12 chỗ ngồi theo thiết kế của xe. Trong thời hạn bảo hiểm, những người khác nhau được chở trên những chỗ ngồi đó sẽ trở thành những người được bảo hiểm). Trong bảo hiểm nhân thọ có bảo hiểm cho sự cố chết của người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm cần chỉ định người thụ hưởng bảo hiểm. Khi bảo hiểm cho người vị thành niên, tất yếu người tham gia bảo hiểm sẽ phải là người khác. Như vậy, rất nhiều trường hợp, tư cách người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm và người được hưởng quyền lợi bảo hiểm thuộc về những người khác nhau. Mặt khác, vì đặc tính của sự kiện bảo hiểm liên quan tới sự sống, sinh mạng của con người nên pháp luật và các nhà bảo hiểm rất thận trọng trong giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm nhằm ngăn ngừa trục lợi, rủi ro đạo đức. Việc giao kết hợp đồng bảo hiểm phải tuân theo quy định về lợi ích có thể được bảo hiểm của pháp luật. Bảo hiểm cho những người được bảo hiểm là trẻ em, người không có khả năng có thu nhập tự kiếm sống; việc chỉ định, thay đổi người thụ hưởng - những vấn đề hết sức nhạy cảm với rủi ro đạo đức, đòi hỏi phải có quy định nghiêm ngặt của pháp luật và sự tuân thủ khi giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Các quy định như là không cho phép bảo hiểm cho sự cố chết của người bị bệnh tâm thần, giới hạn số tiền bảo hiểm trong bảo hiểm cho người được bảo hiểm là trẻ em có trong luật pháp một số quốc gia là những quy định rất cần thiết. - Về nguyên tắc trả tiền, trong bảo hiểm con người thường được áp dụng theo nguyên tắc khoán. Nội dung của nguyên tắc khoán: khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra, số tiền bảo hiểm hoặc các khoản trợ cấp mà người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng bảo hiểm nhận được, được xác định dựa vào số tiền bảo hiểm mà hợp đồng đã ký kết và các quy -46-