Bài giảng Các giai đoạn phát triển của chữ quốc ngữ Việt Nam và những vấn đề của tiếng việt hiện đại-Lê Vinh Quốc
Bạn đang xem tài liệu "Bài giảng Các giai đoạn phát triển của chữ quốc ngữ Việt Nam và những vấn đề của tiếng việt hiện đại-Lê Vinh Quốc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- bai_giang_cac_giai_doan_phat_trien_cua_chu_quoc_ngu_viet_nam.pdf
Nội dung text: Bài giảng Các giai đoạn phát triển của chữ quốc ngữ Việt Nam và những vấn đề của tiếng việt hiện đại-Lê Vinh Quốc
- Ý kiến trao đổi Số 8(86) năm 2016 ___ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA CHỮ QUỐC NGỮ VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA TIẾNG VIỆT HIỆN ĐẠI LÊ VINH QUỐC* TÓM TẮT Bài viết trình bày 3 giai đoạn phát triển của chữ Quốc ngữ Việt Nam từ thế kỉ XVII đến nay: Từ đầu thế kỉ XVII đến 1860, từ 1861 đến 1945 và từ 1945 đến nay. Bên cạnh đó, bài viết trình bày một số vấn đề tồn tại trong bảng chữ cái Quốc ngữ hiện đại cũng như trong tiếng Việt hiện hành; từ đó, đề xuất những ý tưởng nhằm hoàn thiện tiếng Việt trong tương lai. Từ khóa: chữ Quốc ngữ, sứ mệnh truyền giáo, văn hóa Việt Nam, ngôn ngữ Việt Nam. ABSTRACT Development stages of Vietnamese National Language and problems of modern Vietnamese The article presents three development stages of Vietnamese national language from the 17th century to present: From the first half of the 17th century to 1860, from 1861 to 1945 and from 1945 to present. Besides, the article presents some existing problems of the modern national language alphabets as well as of current Vietnamese; in light of which, some ideas to perfect Vietnamese for the future are suggested. Keywords: Vietnamese national language, missionary work of Christian, Vietnamese culture, Vietnamese language. 1. Đặt vấn đề thế kỉ XX và trở thành chữ viết chính Do chữ viết sơ khai của người Việt thức của tiếng Việt hiện đại. cổ sớm bị thất truyền, dân tộc ta không Vậy, quá trình hình thành và phát có chữ viết riêng nên trong suốt 2000 triển của chữ Quốc ngữ đã trải qua những năm lịch sử người Việt đã phải mượn văn giai đoạn nào? Quá trình đó còn để lại tự Hán làm chữ viết của mình (tức chữ cho tiếng Việt hiện đại những vấn đề gì Hán-Việt, còn gọi là chữ Nho), rồi dựa cần giải quyết? theo đó sáng tạo ra chữ Nôm (từ thế kỉ 2. Các giai đoạn phát triển của chữ XIII), và coi cả Hán lẫn Nôm đều là chữ Quốc ngữ Việt Nam Việt (tức “chữ ta”) cho đến đầu thế kỉ Căn cứ vào giá trị sử dụng trong xã XX. hội cùng với sự biến đổi về bảng chữ cái, Từ thế kỉ XVII, nước ta có thêm cách ghép vần, ghi âm và cú pháp theo một loại văn tự mới: tiếng Việt được ghi thời gian, có thể nhận thấy quá trình phát âm bằng chữ cái Latin đã tồn tại gần 400 triển của chữ Quốc ngữ trải qua 3 giai năm, được thừa nhận là chữ Quốc ngữ đoạn chủ yếu. của Việt Nam, thay thế chữ Nho vào đầu 2.1. Từ đầu thế kỉ XVII đến 1860: Bộ * TS, Nguyên giảng viên chính Trường Đại học Sư phạm TPHCM; Email: quoclevinh@gmail.com 162
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Vinh Quốc ___ chữ Việt Latin hóa là một công cụ giáo sĩ Alexandre de Rhodes là cuốn Tự truyền giáo của đạo Thiên Chúa tại Việt điển Vietnamese-Latin-Portugues (Tự Nam điển Việt-Bồ-La) được xuất bản tại Rome Nhờ những nỗ lực bền bỉ của các năm 1651, thì bộ chữ Việt Latin hóa giáo sĩ Thiên Chúa giáo, bộ chữ Việt ghi được coi là chính thức hình thành với âm bằng chữ cái Latin dần dần hình bảng Alphabet, cách phiên âm và ghép thành trong suốt nửa đầu thế kỉ XVII, vần sát đúng với tiếng Việt đương thời nhằm mục đích giúp người phương Tây (tiếp cận với tiếng Việt hiện đại). Theo học tiếng Việt và giúp người Việt học các đó, một đoạn bản dịch tiếng Việt của ngôn ngữ phương Tây được dễ dàng, cuốn “Kinh Lạy Cha” viết: “Cha chúng phục vụ cho sứ mệnh truyền bá tôn giáo tôi ở tlên [trên] blời [trời], chúng tôi tại Việt Nam. nguiẹn [nguyện] danh Cha cả sáng ” Theo nghiên cứu của Linh mục Đỗ [dẫn theo 3]; và đây là tựa đề của một Quang Chính, vào những năm sơ khởi (từ cuốn giáo lí xuất bản đương thời: “Phép 1620 đến 1626), với những đóng góp nổi giảng tám ngày cho kẻ muấn [muốn] chịu bật của linh mục Francisco de Pina, bộ phép rứa [rửa] tọi [tội], ma [mà] beào chữ Việt Latin hóa có bảng Alphabet [vào] đạo thánh đức Chúa blời [trời]” (bao gồm các chữ cái Latin và mấy con [dẫn theo 3]. chữ Hi Lạp) chưa hoàn chỉnh như bảng Cuốn Dictionarium Anamitico chữ cái Quốc ngữ hiện nay, cách ghép Latinum (Tự điển Việt-Latin) của giám vần và phiên âm lại càng khác lạ, tạo mục Pierre Pigneaux de Behaine (Bá Đa thành nhiều từ đa âm tiết và không có Lộc) xuất bản năm 1838 đã hoàn chỉnh dấu giọng: Annam (tức là An Nam), bộ chữ Việt Latin hóa hơn nữa trong việc Quinhin (Quy Nhơn), Hoaipho (Hải Phố chú giải tiếng Latin có đối chiếu với chữ tức Hội An), Faifo (cũng là Hội An), Nho. Oundelinh (Ông Đề lĩnh), Ondedoc (Ông Từ thế kỉ XVII cho đến khi thực Đề đốc), unsai (ông sãi), ungue (ông dân Pháp bắt đầu xâm lược nước ta trong nghè), bafu (bà phủ), doij (đói), scin thế kỉ XIX, chữ Việt Latin hóa chỉ được mocaij (xin một cái), sayc chiu (sách sử dụng để dịch Kinh Thánh, truyền chữ), tuijciam biet (tôi chẳng biết) [theo giảng giáo lí và thực hành các thánh lễ 3] Những năm tiếp theo (1631-1648) Thiên Chúa giáo một cách bí mật trong với những đóng góp chủ yếu của linh những cộng đồng giáo dân rất hạn hẹp. mục Gasparo d’Amiral, cách phiên âm và Khi ấy, các triều đại phong kiến Việt ghép vần đã được chỉnh sửa thành những Nam thi hành chính sách cấm đạo chữ đơn âm tiết có dấu giọng: Nghệ An, nghiêm ngặt và giết hại các giáo sĩ Thiên Bố Chính (đúng cách viết ngày nay), oũ Chúa một cách dã man nên chữ Việt bà phủ (ông bà phủ), hụyen (huyện), sãy Latin hóa không thể phát triển ra ngoài (sãi) Cho đến công trình khảo cứu và phạm vi hạn hẹp ấy. Bởi thế, loại chữ viết biên soạn trong 3 năm (1649-1651) của mới này chỉ là một công cụ truyền giáo 163
- Ý kiến trao đổi Số 8(86) năm 2016 ___ và không có ảnh hưởng gì đến cuộc sống tên “Gia Định Báo” được xuất bản nhằm xã hội Việt Nam đương thời. phổ biến rộng rãi loại chữ mới này trong 2.2. Từ 1861 đến 1945: Chữ Quốc ngữ cộng đồng người Việt. Tiếp đó, Thống đã khai sáng một Thời đại văn hóa Việt đốc Nam Kì ra nghị định bắt buộc các cơ Nam mới chịu ảnh hưởng tinh thần văn sở hành chính phải dùng chữ Việt Latin hóa Pháp hóa (năm 1869), nghị định buộc công Cuộc xâm lược của chủ nghĩa thực chức phải biết chữ Việt Latin hóa mới dân để biến Việt Nam thành một xứ được tuyển dụng và thăng thưởng (năm thuộc địa trong Liên bang Đông Dương 1878); và đến năm 1879, Thống đốc Le thuộc Pháp đã đưa bộ chữ Việt Latin hóa Myre de Vilers ra lệnh thiết lập nền học trở thành chữ Quốc ngữ mới, tạo nên nền chính mới ở Nam Kì. [4] văn hóa mới ở Việt Nam. Một nền giáo dục mới kết hợp hai 2.2.1. Chữ Quốc ngữ và nền giáo dục yếu tố Pháp - Việt đã từng bước hình mới ở Nam Kì thành, bao gồm các trường tiểu học và Tháng 9 năm 1861, chỉ nửa năm trung học sử dụng song song 3 ngôn ngữ sau khi quân Pháp đánh bại quân nhà là chữ Pháp (ghi tiếng Pháp), chữ Việt Nguyễn và chiếm được Sài Gòn, Đô đốc Latin hóa (dưới đây sẽ gọi là chữ Quốc Charner đã kí nghị định mở Trường Bá ngữ - dùng ghi tiếng Việt) và chữ Hán Đa Lộc (Collège d’Adran) dạy chữ Việt (dùng ghi tiếng Việt) [4]. Trong sự phát Latin hóa cùng tiếng Pháp cho học sinh triển của chữ Quốc ngữ ở Nam Kì, nhà người Việt để đào tạo thông ngôn và thư bác học danh tiếng Pétrus Trương Vĩnh kí làm việc trong các cơ quan hành chính Ký có vai trò rất quan trọng. Là nhân vật [4]. Với việc mở trường học này, chữ chủ chốt của tờ “Gia Định Báo” và là tác Việt Latin hóa lần đầu tiên đã vượt khỏi giả của tác phẩm văn học đầu tiên viết phạm vi giáo hội để thâm nhập vào đời bằng chữ Quốc ngữ với tựa đề “Chuyện sống xã hội người Việt, trước hết là ở Sài đời xưa” (năm 1866), ông đã viết trên Gòn. một trăm tác phẩm văn chương và công Sau các Hòa ước Nhâm Tuất (1862) trình khảo cứu. Tiếp đó, học giả Paulus và Giáp Tuất (1874), Nam Kì lục tỉnh Hùinh Tịnh Của đã đóng góp 17 tác chính thức bị cắt nhường cho Pháp để trở phẩm văn chương và khảo cứu bằng chữ thành thuộc địa của nước này. Chính Quốc ngữ, trong đó nổi bật là cuốn quyền thực dân hiểu rõ bộ chữ Việt Latin “Chuyện giải buồn” (1880), bộ“Đại hóa là một công cụ hữu hiệu để cai trị Nam quấc âm tự vị”- bộ sách Tự vị đầu dân bản xứ, nên đã nhanh chóng đưa loại tiên giải nghĩa tiếng Việt theo trình tự 24 chữ này lên thay chữ Nho. Kì thi Hương chữ cái Latin (1895-1896) và cuốn “Tục cuối cùng ở Nam Kì năm 1864 đã kết ngữ, cổ ngữ, gia ngôn” (1897). thúc sự tồn tại của hệ thống Nho học Từ năm 1874 việc dạy chữ Hán dùng chữ Hán ở đây. Năm 1865, tờ báo trong nhà trường bị hạn chế ở mức tối đầu tiên dùng chữ Việt Latin hóa mang thiểu; và từ 1882, mọi công văn giấy tờ 164
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Vinh Quốc ___ hành chính ở Nam Kì phải viết bằng chữ văn minh mới để dân tộc trở nên cường Latin (Pháp văn hoặc Quốc ngữ). thịnh theo khẩu hiệu “Khai dân trí - 2.2.2. Nền giáo dục mới trên toàn quốc Chấn dân khí - Hậu dân sinh” của Phan Thất bại của nhà Nguyễn trong Châu Trinh. Theo đó, chữ Việt Latin hóa cuộc kháng chiến chống Pháp nửa cuối trước kia bị bài xích như là sản phẩm của thế kỉ XIX đã dẫn đến kết quả bi thảm: bọn xâm lăng dị giáo, thì nay được tôn Hòa ước Giáp Thân (1884) chấp nhận vinh là chữ Quốc ngữ và trở thành một nước Pháp cai trị trên toàn cõi Việt Nam. công cụ cứu nước để thay cho chữ Hán Từ đây, nền giáo dục và văn hóa và Nho học đã lỗi thời. Các trường học mang yếu tố Pháp - Việt từ Nam Kì bắt mới được mở để dạy chữ Quốc ngữ và đầu phát triển ở cả Trung Kì và Bắc Kì [4]. các môn khoa học thực nghiệp ở Quảng Năm 1886, hệ thống nhà trường Pháp - Nam (1905), Bình Thuận (Trường Dục Việt bắt đầu hình thành ở Bắc Kì với 3 cấp Thanh năm 1907) và nổi bật là Đông kinh học là ấu học, tiểu học và trung học đều Nghĩa thục tại Hà Nội (1907) của Lương giảng dạy chữ Việt Latin hóa, tiếng Pháp Văn Can, Nguyễn Quyền, Dương Bá và chữ Nho. Năm 1896, Trường Quốc học Trạc Bài thơ sau đây (tương truyền là Pháp - Việt đầu tiên ở Huế được thành lập. của Trần Quý Cáp) trở thành tuyên ngôn Năm 1904, chương trình giáo dục Pháp - của giới sĩ phu tiến bộ đương thời: Việt ở Bắc Kì được công bố. Chữ Quốc ngữ là hồn trong nước Trong khi đó, giới sĩ phu yêu nước Phải đem ra tính trước dân ta Việt Nam có sự chuyển biến quan trọng Sách các nước, sách Chi Na về nhận thức. Thất bại của phong trào Chữ nào nghĩa ấy dịch ra tỏ Cần Vương theo hệ tư tưởng Nho giáo tường cuối thế kỉ XIX, những biến chuyển to Phong trào Duy Tân và Đông Kinh lớn về kinh tế - xã hội do chương trình Nghĩa thục đã “cảnh tỉnh nhân dân và khai thác thuộc địa của nước Pháp đem thúc đẩy nhà cầm quyền phải sửa đổi lại, cùng với các “tân thư” thuộc hệ tư chính sách theo Tân học mà bỏ khoa cử” tưởng Khai sáng của Lư Thoa [10, tr.156]. (Rousseau), Mạnh Đức Tư Cưu Năm 1915, kì thi Hương cuối cùng (Montesquieu), Phúc Trạch Dụ Cát ở Bắc Kì kết thúc và đã chấm dứt luôn (Fukuzawa Yukichi), Khang Hữu Vi và nền giáo dục Nho giáo từng tồn tại hàng Lương Khải Siêu đã giúp các sĩ phu nghìn năm làm khuôn vàng thước ngọc Nho học nước ta nhận rõ tính ưu việt của của dân tộc ta. Với việc thành lập Viện nền văn minh mới xuất phát từ các nước Đại học Đông Dương ở Hà Nội (khai Âu-Mĩ được chính nước Pháp du nhập giảng năm 1907 nhưng chính thức hoạt vào. Do vậy, mọi phong trào yêu nước động từ 1917), hệ thống giáo dục Pháp - của các sĩ phu đều diễn ra theo con Việt được hoàn chỉnh trên toàn quốc đã đường mới: Duy tân xóa bỏ di sản phong đưa văn hóa Việt tiến theo nền văn minh kiến Nho giáo hủ lậu, phát huy các giá trị Khai sáng. 165
- Ý kiến trao đổi Số 8(86) năm 2016 ___ Những người đặt nền móng cho nền Tại Nam Kì, tiếp theo tờ “Gia Định giáo dục mới dùng chữ Quốc ngữ có kế Báo” lần lượt ra đời tờ “Phan Yên Báo” thừa tinh hoa cổ học Nho giáo là Trần (1868) của Diệp Văn Cương, “Nhựt Trọng Kim với hàng chục tác phẩm lớn Trình Nam Kì” (1883), nguyệt san mà nổi bật là “Luân lí giáo khoa thư” “Thông loại Khóa trình” (1888) của (1916), “Việt Nam sử lược” (1919), Trương Vĩnh Ký, tuần san “Nam Kì” “Quốc văn giáo khoa thư” (1940), “Việt (1897), tuần báo “Nông Cổ Mín Đàm” Nam văn phạm” (1941); Phan Kế Bính (1901), “Lục Tỉnh Tân Văn” (1907) của với các công trình biên khảo “Việt Nam Trần Chánh Chiếu, “Công Luận Báo” phong tục” (1915), “Hán-Việt văn khảo” (1916) do Lê Sum chủ bút, “Nam Trung (1918); Bùi Kỉ với “Quốc văn cụ thể” Nhựt Báo” (1917) của Nguyễn Văn Của, (1932) và đồng tác giả “Việt Nam văn “Nam Kì Địa Phận” (1908), “An Hà phạm bậc Trung học” (1940), “Tiểu học Báo” (1917), “Nữ Giới Chung” (1918) Việt Nam văn phạm” (1945); Đào Duy do bà Sương Nguyệt Anh chủ trì, “Đại Anh với “Hán-Việt từ điển” (1932), Việt Tạp Chí” (1918). Từ thập kỉ 20-30 “Pháp-Việt từ điển” (1936), “Việt Nam nổi lên các tờ “Đông Pháp Thời Báo” văn hóa sử cương” (1938), “Trung Hoa (1923) do Trần Huy Liệu chủ bút, “Tân sử cương” (1942) Thế Kỉ” (1926) của Cao Văn Chánh, 2.2.3. Một thời đại Khai sáng văn hóa “Đuốc Nhà Nam” (1928) của Dương Việt Nam Văn Giáo, “Phụ Nữ Tân Văn” (1929) của Khai thác và khai hóa là mục tiêu Nguyễn Đức Nhuận, “Thần Chung” hai mặt của chế độ thuộc địa Pháp tại (1929) của Diệp Văn Kì, “Sống” (1935) Việt Nam: khai hóa văn minh để khai của Trí Đức Văn Đoàn do Đông Hồ làm thác kinh tế. Thủ tướng Pháp Jules Ferry giám đốc Xuất hiện cả những tờ báo tuyên bố: “Nhiệm vụ của các dân tộc ưu tiếng Pháp do người Việt chủ trì: “La việt là giúp đỡ các dân tộc nhược tiểu Cloche Fêlée” (Quả chuông rè) của thoát khỏi tình trạng lạc hậu” [dẫn theo Nguyễn An Ninh, “La tribune Indigène” 12]. (Diễn đàn Bản xứ) và “La Tribune Dù cho nhiệm vụ khai hóa đó được Indochinoise” (Diễn đàn Đông Dương) nhìn nhận như thế nào, hệ thống giáo dục của Bùi Quang Chiêu, “L’Écho Pháp - Việt cũng đã dẫn tới sự khai sáng Annamite” của Nguyễn Phan Long, “Le một nền văn hóa Việt Nam mới theo hệ Progrès Annamite” của Lê Quang Trình, tư tưởng Nhân quyền (Human right) dựa “L’Ère Nouvelle” do Cao Triều Phát bảo trên chữ Quốc ngữ. trợ Hoạt động báo chí đã phát triển rất Tại Bắc Kì, tờ báo đầu tiên xuất mạnh từ Nam ra Bắc, tiếp cận được với hiện là “Đại Nam Đồng Văn Nhật Báo” “quyền lực thứ tư” trong nhà nước dân (1892) vẫn dùng chữ Nho; nhưng từ tờ chủ theo nguyên tắc “Tam quyền phân “Đại Việt Tân Báo” (1905) của Alfred lập” ở các nước văn minh. Ernest Babut trở đi, báo chí đều dùng chữ 166
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Vinh Quốc ___ Quốc ngữ (có hoặc không có phụ thêm văn xã hội tiên phong của nền văn học phần chữ Nho): “Đăng Cổ Tùng Báo” mới; Hoàng Ngọc Phách mở đầu cho loại (1907) và “Trung Bắc Tân Văn” (1919) hình tiểu thuyết mới và Phan Khôi khởi của Nguyễn Văn Vĩnh, “Nam Phong Tạp đầu thơ mới. Tự Lực Văn Đoàn (1932- Chí” (1917) của Phạm Quỳnh, “Khai 1942) đưa văn thơ Quốc ngữ lên một tầm hóa Nhật Báo” (1921) của Bạch Thái cao mới với 7 thành viên là các nhà văn: Bưởi, “An Nam Tạp Chí” (1926) của Tản Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Đà, “Hà Thành Ngọ Báo” (1927) và Thạch Lam, Thế Lữ cùng hai thi sĩ là Tú “Đông Tây” (1929) do Hoàng Tích Chu Mỡ và Xuân Diệu. Song song đó là các chủ trì. Từ thập kỉ 30 nổi lên hàng loạt nhà văn nổi tiếng: Lê Văn Trương, Ngô báo chí mới: “Thời Báo” của Phùng Văn Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Long, “Phong Hóa” và “Ngày Nay” của Phụng, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Vũ nhóm Tự lực Văn đoàn và hàng loạt báo Bằng, Nam Cao, Tô Hoài, Hồ Dzếnh, chí khác. Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Bính, Vũ Tại Trung Kì, nơi Nho học vẫn tồn Hoàng Chương và Đinh Hùng là những tại cho đến kì thi Hương và thi Hội cuối thi sĩ danh tiếng; Vũ Ngọc Phan có một cùng (năm 1918-1919), báo chí Quốc số bút kí hay nhưng sở trường là về phê ngữ phát triển chậm hơn, trong đó “Tiếng bình văn nghệ Dân” của Huỳnh Thúc Kháng là tờ báo Tại Trung Kì, Lưu Trọng Lư nổi độc lập đầu tiên xuất bản vào năm 1927 bật về thơ mới; Hoài Thanh trở thành và có ảnh hưởng sâu rộng mãi đến năm chuyên gia phê bình văn học; Hải Triều - 1943, tiếp đó là các tờ “Sông Hương” nhà lý luận phê bình theo chủ nghĩa Marx (1935), “Tràng An” (1936) xuất hiện cùng với nhiều tiểu luận đặc Cùng với báo chí, một nền văn học sắc; nhóm “Bàn thành Tứ hữu” danh mới dùng chữ Quốc ngữ và chịu ảnh tiếng gồm 4 thi nhân là Chế Lan Viên, hưởng của chủ nghĩa nhân văn Pháp đã Yến Lan, Quách Tấn và Hàn Mặc Tử. phát triển vô cùng mạnh mẽ với những Còn nhiều tác giả với những tác thể loại văn chương mới hết sức phong phẩm khác mà ở đây chưa thể thống kê phú. hết. Tại Nam Kì, tiếp theo Trương Vĩnh Nền văn học Việt Nam mới đã đạt Ký và Hùinh Tịnh Paulus Của là Hồ Biểu được những giá trị rất cao, có thể sánh Chánh với hàng trăm tác phẩm thuộc với những danh tác quốc tế cận đại. Peter nhiều thể loại; nhóm “Hà Tiên Tứ Tuyệt” Zinoman - một nhà nghiên cứu Hoa Kì đã nổi tiếng về thơ, phóng sự và khảo cứu so sánh các đại văn hào thế giới với một với các thi sĩ Đông Hồ, Mộng Tuyết, Lư nhà văn Việt Nam thời ấy như sau: “Tôi Khê và Trúc Hà có cảm tưởng rằng Vũ Trọng Phụng là Tại Bắc Kì, Tản Đà là văn nhân nối nhà văn lớn, rất lớn, không kém nhà văn liền từ cổ văn Nho học sang văn chương lớn nào của các nền văn học khác” [11, Quốc ngữ mới; Phạm Duy Tốn là nhà tr.14]. “Ông viết giỏi và mất sớm quá, ở 167
- Ý kiến trao đổi Số 8(86) năm 2016 ___ tuổi 27 nhiều thanh niên vẫn chưa làm Nam các nhà khoa học hàng đầu tầm cỡ được gì, mà [ông đã] để lại một sự quốc tế như Lê Văn Thiêm, Hồ Đắc Di, nghiệp khổng lồ. Ngay cả các nhà văn Hoàng Xuân Hãn, Tôn Thất Tùng, lớn như V. Hugo hay Zola, bằng tuổi Vũ Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Trọng Phụng cũng chưa viết nhiều và Nguyễn Văn Huyên, Tạ Quang Bửu, hay được như ông” [1]. “Vũ Trọng Trần Đại Nghĩa, Đặng Thai Mai, Phạm Phụng chỉ sống đến 27 tuổi; ở tuổi ấy, Huy Thông nhà văn Pháp Balzac ( ) còn hầu như Hơn thế nữa, ngoài ý muốn của chưa viết được gì đáng kể” [11, tr.17]. chính quyền thực dân, chính nền giáo dục “Ở thế kỉ XX, trong số các nhà văn lớn Pháp - Việt và nền văn hóa mới theo hệ của thế giới, Vũ Trọng Phụng là người tư tưởng Khai sáng do người Pháp mang đáng kể” [1]. đến cũng làm nảy sinh và phát triển Từ văn học mới, một nền nghệ những trào lưu cách mạng mới, kể cả thuật mới cũng phát triển mạnh và đạt khuynh hướng Marxist chống chủ nghĩa được những giá trị rất cao. Kịch nói - loại thực dân Pháp để giành độc lập - tự do hình nghệ thuật đặc trưng của phương cho dân tộc Việt Nam. Khẩu hiệu, truyền Tây đã phát triển mạnh ở Việt Nam với đơn và báo chí cách mạng bằng chữ nhiều kịch bản hay bằng chữ Quốc ngữ. Quốc ngữ (khởi đầu với tờ “Thanh Niên” Tân nhạc với hàng loạt nhạc phẩm trữ của Nguyễn Ái Quốc xuất bản năm 1925) tình và hùng tráng theo nhạc lí phương trở thành phương tiện tuyên truyền hữu Tây nhưng thấm đẫm hồn dân tộc, gắn hiệu của đảng cách mạng. với tên tuổi các nhạc sĩ Nguyễn Xuân 2.3. Từ 1945 đến nay: Chữ Quốc ngữ Khoát, Lê Thương, Dương Thiệu Tước, được nâng cấp hơn nữa với tư cách là Đặng Thế Phong, Hoàng Quý, Tô Vũ, chữ viết tiếng Việt hiện đại Văn Cao, Phạm Duy, Hoàng Giác, 2.3.1. Từ 1945 đến 1954 Nguyễn Thiện Tơ, Hoàng Trọng, Nguyễn Được khởi nguồn từ nền văn hóa Văn Thương, Lưu Hữu Phước đó, cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 đã Trường Mĩ Thuật thuộc Đại học chấm dứt 80 năm Pháp thuộc, lập nên Đông Dương đã nâng nền hội họa Việt nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Nam lên ngang tầm mĩ thuật hiện đại thế (DCCH) theo hệ tư tưởng Nhân quyền giới với các họa sĩ tài danh, như: Nguyễn được toàn dân ủng hộ. Trong buổi bình Phan Chánh, Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc minh của nước cộng hòa non trẻ, công Vân, Nguyễn Tường Lân, Trần Văn Cẩn, cuộc “diệt dốt” qua phong trào “Bình Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên, dân học vụ” dạy chữ Quốc ngữ cho toàn Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Phan Kế dân đã đạt thành quả phi thường: xóa nạn An mù chữ cho 90% dân số. Một nền giáo Hệ thống giáo dục Pháp - Việt với dục Việt Nam mới được xây dựng theo Viện Đại học Đông Dương và các Đại “chương trình Hoàng Xuân Hãn” với học Pháp đã đào tạo cho dân tộc Việt định hướng văn hóa - khoa học tiên tiến, 168
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Vinh Quốc ___ nhưng loại bỏ vai trò tiếng Pháp và chữ 2.3.2. Từ 1954 đến 1975 Nho để đảm bảo địa vị độc tôn của chữ Hơn 20 năm đất nước bị chia cắt đã Quốc ngữ. tạo ra 2 nền giáo dục khác nhau ở 2 miền Trong thời kì đầu của cuộc kháng Nam - Bắc cùng dựa trên chữ Quốc ngữ chiến chống Pháp (từ 1945 đến 1949), Việt Nam. giới trí thức văn nghệ sĩ tiếp tục sáng tác Ở miền Bắc, kể từ cuộc cải cách những tác phẩm đậm tính nhân văn trữ giáo dục lần thứ hai (từ 1957), nước Việt tình, lãng mạn và hào hùng. Nam DCCH đã xây dựng một nền giáo Từ 1950 trở về sau, khi nước Việt dục mới theo khuôn mẫu Xô-viết bằng hệ Nam DCCH trở thành thành viên của phe thống trường phổ thông 10 năm, chỉ học Xã hội Chủ nghĩa (XHCN) do Liên Xô 1 trong 2 ngoại ngữ là Nga văn hoặc và Trung Quốc lãnh đạo, Đảng Lao động Trung văn, cùng hệ thống đại học bao Việt Nam đã đưa dân tộc tiến theo chủ gồm một số trường đơn lĩnh vực. Do vậy, nghĩa Marx-Lenin. Cuộc cải cách giáo tiếng Việt tiếp nhận nhiều ảnh hưởng của dục lần thứ nhất đã thay thế chương trình văn hóa Nga và Trung Quốc. Mặc dù có giáo dục Hoàng Xuân Hãn bằng một hệ những tư tưởng khác biệt của nhóm thống giáo dục phổ thông 9 năm, loại bỏ “Nhân văn - Giai phẩm”, chủ nghĩa hiện hoàn toàn tiếng Pháp và chữ Nho. Từ thực XHCN trong văn hóa vẫn thống trị đây, giới trí thức văn nghệ sĩ phải từ bỏ vững vàng. Thời kì này có các nhà nhà hệ tư tưởng cũ với chủ nghĩa nhân văn tư nghiên cứu hàng đầu là Đào Duy Anh, sản, tiếp thu hệ tư tưởng mới về đấu tranh Trần Huy Liệu, Trần Văn Giàu, Hoàng giai cấp trên lập trường vô sản, để trở Tụy cùng nhóm tác giả Phan Huy Lê, Hà thành những chiến sĩ cách mạng của Văn Tấn, Trần Quốc Vượng Đảng trên mặt trận văn hóa - văn nghệ, Miền Nam dưới chính thể Việt sáng tác theo “chủ nghĩa hiện thực Nam Cộng hòa chưa thoát li những cơ XHCN”. Lá cờ đầu về văn học theo hệ tư cấu tổ chức giáo dục và chương trình học tưởng mới thuộc về nhà thơ Tố Hữu với từ thời Pháp thuộc để lại, nhưng vẫn cố hàng loạt tác phẩm được phổ biến sâu gắng xây dựng một nền văn hóa - giáo rộng. Tiến theo ngọn cờ đầu là những tên dục mang tính chất “khoa học và tiến bộ, tuổi lớn như Chế Lan Viên, Nguyễn Đình dân tộc và đạo đức, đại chúng và nhân Thi, Xuân Diệu, Huy Cận, Phạm Tuyên bản” [13]. Theo đó, hệ thống trường phổ và hầu hết các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, thông 12 năm với 3 cấp dạy học bằng chữ họa sĩ ở miền Bắc trước và sau khi kết Quốc ngữ, có thêm chữ Hán trong thúc cuộc kháng chiến chống Pháp. chương trình cổ văn với Anh văn và Pháp Một nền “văn hóa XHCN” khác văn là 2 ngoại ngữ chính; hệ thống đại biệt với văn hóa Khai sáng thời Pháp học được tổ chức thành các Viện Đại học thuộc đã hình thành, trong đó báo chí, đa lĩnh vực bao gồm các trường đơn lĩnh xuất bản và trình diễn nghệ thuật đều vực. Từ đó, nền văn hóa nhân bản vẫn thuộc quyền quản lí của Nhà nước. tiếp tục phát triển nối tiếp những di sản 169
- Ý kiến trao đổi Số 8(86) năm 2016 ___ của thời Pháp thuộc. Nổi bật trong số các hưởng tiêu cực đối với nền văn hóa dân nhà khảo cứu và sáng tác là Nguyễn Hiến tộc. Lê, Vương Hồng Sển, Sơn Nam, Trịnh Tuy nhiên, việc Đảng ta tuyên bố Công Sơn “cởi trói” cho các văn nghệ sĩ đã tạo ra 2.3.3. Từ 1975 đến nay một định hướng mới cho sự phát triển Sứ mệnh thống nhất đất nước hoàn văn hóa dân tộc. Sau những sự trăn trở thành vào năm 1975 đòi hỏi sự thống của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, nhất về giáo dục và văn hóa trên cả nước Trần Dần và một số nhà văn khác để Cộng hòa XHCN Việt Nam. Cuộc cải thoát khỏi giai đoạn “văn nghệ minh cách giáo dục lần thứ 3 (khởi đầu từ họa”, một giai đoạn văn học mới dường 1979) đã xây dựng một nền giáo dục như đã được mở ra với Nguyễn Huy thống nhất với hệ thống nhà trường phổ Thiệp, Trần Văn Thủy, Bảo Ninh, Phạm thông 12 năm, theo tôn chỉ đào tạo con Thị Hoài, Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Quang người mới - “người lao động làm chủ tập Thân, Dạ Ngân, Nguyễn Mạnh Tuấn, thể và phát triển toàn diện, kế tục sự Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Thị Ngọc Hải nghiệp cách mạng của nhân dân ta, hết và nhiều nhà văn khác. lòng lao động xây dựng chủ nghĩa xã hội, 3. Các vấn đề tồn tại trong tiếng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc” [2]. Việt hiện đại Nhưng những biến chuyển của tình Mặc dù chữ Quốc ngữ đã trở thành hình thế giới (Trung Quốc trở mặt gây văn tự chính thức độc tôn của tiếng Việt chiến chống Việt Nam, sự sụp đổ của hệ trong một thế kỉ qua, nhưng việc dùng thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu) bảng chữ cái nước ngoài để ghi âm tiếng cùng với công cuộc đổi mới đất nước do mẹ đẻ và việc dùng chữ Việt Latin hóa Đảng ta tiến hành (từ 1986) theo đường thay thế hoàn toàn cho chữ Nho trong lối xóa bỏ cơ chế quan liêu - bao cấp, quá khứ vẫn làm nảy sinh nhiều vấn đề thiết lập cơ chế thị trường định hướng phức tạp trong tiếng Việt hiện hành. XHCN để làm bạn với tất cả các nước, đã 3.1. Những tổn thất lớn về văn hóa dân cho thấy cuộc cải cách giáo dục này tộc khi chữ Nho bị loại bỏ hoàn toàn không đáp ứng được sự phát triển của Tổ tiên ta đã để lại cho hậu thế một dân tộc trong hoàn cảnh mới. Do không khối lượng thư tịch đồ sộ trong các kho xác định được một triết lí giáo dục đúng lưu trữ của nhà nước, nhưng chỉ có một đắn cùng các nguyên lí khoa học giáo dục số ít ỏi các chuyên gia Hán - Nôm của ta hiện đại, các cuộc đổi mới giáo dục cuối và người Trung Quốc đọc được. Ở các thế kỉ XX và đầu thế kỉ XXI liên tục thất đình chùa, đền miếu, lăng tẩm là di tích bại, và cuộc đổi mới hiện hành cũng lịch sử của tổ tiên có rất nhiều những lời không hứa hẹn một triển vọng tốt đẹp. giáo huấn quý báu được ghi tạc trong các Một nền giáo dục bất cập không chỉ kìm hoành phi, câu đối hay bia đá, nhưng hầu hãm sự phát triển kinh tế, mà còn làm suy hết người Việt ngày nay không biết ở đó giảm giá trị tiếng Việt, dẫn tới những ảnh viết gì. 170
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Vinh Quốc ___ Cùng với việc loại bỏ hoàn toàn báu để kế thừa và phát triển bản sắc văn chữ Hán, các giá trị quý báu của Nho học hóa, dẫn tới sự đứt gãy về văn hóa của vốn là phẩm chất tốt đẹp của dân tộc như dân tộc với nhiều hệ lụy tai hại cho tiếng “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”, “trung, hiếu, Việt nói riêng và văn hóa nói chung. tiết, nghĩa”, “công, dung, ngôn, hạnh”, Vấn đề này cần được giải quyết từ “cần, kiệm, liêm, chính”, “chí công, vô chương trình giáo dục phổ thông. tư”, “quang minh chính đại” chỉ còn là Chương trình Việt văn của các những hình bóng mờ nhạt. trường trung học cơ sở và trung học phổ Việc dạy học cổ văn không dựa trên thông cần xây dựng lại, để dành thời gian bản gốc Hán - Việt, mà chỉ dùng bản dịch thích đáng cho việc học Cổ văn với chữ sang chữ Quốc ngữ khiến cho người học Hán làm gốc. Chương trình cần giúp học không thể cảm thụ đầy đủ giá trị các áng sinh tiếp cận được các văn bản gốc Hán - văn chương xuất chúng, như: “Nam Nôm với những cú pháp căn bản và một Quốc Sơn Hà” ở thời nhà Lý, “Dụ chư Tì số lượng từ nhất định, tạo điều kiện cho tướng Hịch văn” của Trần Quốc Tuấn, học sinh nâng cao trình độ và tiếp tục học “Bạch Đằng Giang phú” của Trương lên đại học theo chuyên ngành Hán - Hán Siêu, “Bình Ngô Đại cáo” của Nôm. [5]. Nguyễn Trãi cho đến cả “Ngục trung 3.2. Những vấn đề của bảng chữ cái nhật kí” của Hồ Chí Minh. tiếng Việt hiện hành Trong tiếng Việt hiện đại, hơn 70% Bảng chữ cái tiếng Việt theo mẫu tự số từ ngữ là từ ngữ gốc Hán - Việt. Khi Latin do giám mục Alexandre de Rhodes không biết từ nguyên gốc Hán là gì, xác lập đã đạt đến hiệu quả gần như tối người ta đã viết sai rất nhiều trong mọi ưu. Tuy nhiên, tình hình thực tiễn hiện thứ văn bản: dùng “yếu điểm” để viết nay đã cho thấy có một số vấn đề cần giải “điểm yếu”, “triệu hồi” (xe ô tô ) thay quyết để bảng này được hoàn thiện hơn. vì “thu hồi”, “cứu cánh” (mục đích cuối 3.2.1. Tên gọi các chữ cái phải được cùng) được dùng theo nghĩa “cách cứu”, thống nhất “phi vụ” (chuyến bay) biến thành “vụ Trong bảng chữ cái của mỗi nước, việc mờ ám”, “tự” (chữ, tên chữ) biến từng chữ cái đều có một tên gọi duy nhất, thành “tức là”, “bàng quang” (bọng đái) được xếp theo thứ tự của một hệ thống được dùng thay cho “bàng quan” (không nhất định, để áp dụng thống nhất mọi lúc, quan tâm), “xán lạn” viết thành “sáng mọi nơi trong mọi trường hợp. lạn”, “đảm nhiệm” viết thành “đảm Dưới thời Pháp thuộc, bảng chữ cái nhận”, “vị thành niên” được hiểu lộn Quốc ngữ Việt Nam được đọc tên chữ cái ngược là “đã thành niên”, “cẩn tắc vô ưu” tương tự như Alphabet Pháp (a-bê-xê ), đã biến thành “cẩn tắc vô áy náy”, “Dân cách đánh vần cũng giống như trong Báo” dịch thành “Minh Báo” tiếng Pháp: tên chữ cái ghép với nhau Thật rõ ràng, việc loại bỏ hoàn toàn thành từ (xê-hát-a-cha, em(ờ)-e-me-nặng- chữ Hán chính là sự từ bỏ một di sản quý mẹ ), nên tên chữ cái cũng luôn thống 171
- Ý kiến trao đổi Số 8(86) năm 2016 ___ nhất trong mọi trường hợp. Thật rõ ràng, việc các chữ trong Nhưng trong phong trào “Bình dân cùng một bảng chữ cái luôn được đọc học vụ” sau Cách mạng tháng Tám, hệ bằng những tên gọi khác nhau ở từng nơi thống tên chữ cái Quốc ngữ được đổi để từng lúc đã làm cho tiếng Việt trở nên gọi theo âm (a-bờ-cờ ), cách đánh vần thiếu chặt chẽ và kém chính xác. cũng đổi theo cách ghép âm (a-i-ai-trờ-ai- Vậy, làm cách nào để bảng chữ cái trai, a-i-ai-gờ-ai-gai-sắc-gái ). Tuy tiếng Việt chỉ còn một hệ thống tên chữ nhiên, cách đọc chữ mới này chỉ được áp cái duy nhất áp dụng ở mọi lúc mọi nơi? dụng cho học sinh tập ghép vần ở lớp đầu Giải pháp của Bộ Giáo dục và Đào tạo tiểu học; còn tất cả các cấp học khác (công bố năm 2003) là: hệ thống “a-bê- trong nhà trường, hệ thống tên các chữ xê” được khẳng định là hệ thống tên chữ cái cũ (a-bê-xê ) vẫn được sử dụng để sử dụng khi đọc từng chữ cái riêng trong tất cả các môn học. Như vậy là đã biệt; còn hệ thống “a-bờ-cờ” là hệ thống có sự lẫn lộn giữa hai hệ thống tên chữ âm của các chữ dùng để ghép vần. cái ngay trong nhà trường. Tuy nhiên, sự khác nhau giữa “âm” Trên các phương tiện truyền thông, và “tên” chữ là rất trừu tượng, khó có thể sự lẫn lộn đó còn nghiêm trọng hơn. Tên phân biệt rạch ròi. Do vậy, cả nhà trường gọi tắt của các nhóm nước như G7, G8, và giới truyền thông vẫn mặc nhiên sử G20 được các xướng ngôn viên Đài dụng lẫn lộn cả hai hệ thống tên chữ như Truyền hình Trung ương (VTV) đọc là chưa hề có giải pháp này. Vì vậy, có lẽ “gờ bảy”, “gờ tám”, “gờ hai mươi”; trong sử dụng trở lại hệ thống a-bê-xê để ghép khi bạn đồng nghiệp của họ ở Đài Truyền vần bằng chữ sẽ là giải pháp thỏa đáng hình Thành phố Hồ Chí Minh (HTV) đọc hơn. [6, tr.223-231]. là “giê bảy”, “giê tám”, “giê hai mươi” 3.2.2. Cần điều chỉnh và bổ sung bảng Đáng ngạc nhiên là, khi gặp chữ GM (tên chữ cái Quốc ngữ Việt viết tắt của công ti Mĩ nổi tiếng General Bảng chữ cái tiếng Việt hiện hành Motors), chính những người của VTV lại bao gồm 29 chữ cái, trong đó có 7 chữ đọc là “giê em”chứ không phải “gờ mờ”! được chế tạo riêng cho tiếng Việt, bằng Tương tự, chữ GDP (viết tắt của “tổng cách “đội mũ thêm râu” cho các chữ cái sản phẩm quốc nội”), họ cũng đọc là “giê Latin gốc, là Ă, Â, Đ, Ê, Ô, Ơ, Ư. đê pê” (hoặc “gi đi pi”) chứ không phải Nếu chỉ sử dụng để ghép vần, đọc, “gờ dờ pờ”! viết hay biên soạn Từ điển, thì sự tồn tại Giữa lúc hai hệ thống tên chữ tiếng của những chữ đó trong bảng chữ cái Việt song song tồn tại, thì sự xâm nhập không có vấn đề gì. Nhưng trong những mạnh mẽ của tiếng Anh vào tiếng Việt đã công dụng khác của nó, thì bảng chữ cái làm cho vấn đề trở nên phức tạp thêm. lại có vấn đề phát sinh từ 7 chữ này. Đối với một số chữ viết tắt từ tiếng Anh, Khi cần sắp xếp một hệ thống nào nhiều người đã dùng luôn tên chữ tiếng đó theo vần chữ cái, người ta hoàn toàn Anh để đọc cho người Việt nghe! loại bỏ 7 chữ đó. Chẳng hạn, trong việc 172
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Vinh Quốc ___ ghi kí hiệu các hạng ghế của hội trường, FPT, TOEFL, VFF, FIFA, UEFC, AFC, nhà hát, rạp chiếu bóng, sân vận động FIBA, FIDE, TFS, FAFIM, FAHASA, hay một số phương tiện giao thông. UNICEF, FAO, IMF, FBI, FM, WTO, Khi cần trình bày các luận điểm WHU, WC, Z751, Z755,Z25 ; trong theo thứ tự vần chữ cái, người ta cũng các từ ngoại nhập như máy fax, đèn flash, thản nhiên bỏ qua những chữ đó. Trong các cửa hàng cafe hay bánh flan, võ judo, các môn học ở nhà trường, khi cần dùng quần jeans, nhạc jazz Trong các thuật bảng chữ cái để trình bày các kí hiệu hay ngữ chuyên môn khoa học - kĩ thuật và công thức, những chữ này cũng không công nghệ thông tin, 4 chữ cái này còn bao giờ được áp dụng. Nếu xét trên góc được dùng nhiều hơn nữa. độ ngôn ngữ học, việc 7/29 tức gần ¼ số Được dùng rất nhiều trong mọi lĩnh chữ cái không được sử dụng trong các vực của đời sống xã hội, F, J, W và Z đã trường hợp nêu trên đã cho thấy sự không trở thành các chữ cái thông dụng trong bình thường của bảng chữ cái chính thức: tiếng Việt, nhưng chúng không hiện diện 7 chữ nêu trên không được coi là bình trong bảng chữ cái tiếng Việt. đẳng với những chữ khác. Sự bất cập khi sử dụng 7 chữ “đội Thêm nữa, bảng chữ cái tiếng Việt mũ thêm râu” và việc thiếu sót 4 chữ F, J, có thêm 7 chữ “biến thể” nêu trên, nhưng W và Z đòi hỏi phải cải tiến bảng chữ cái lại không có 4 chữ khác là F, J, W và Z. Quốc ngữ Việt Nam. Chính Chủ tịch Hồ Việc giám mục Alexandre de Rhodes loại Chí Minh đã cải tiến bảng chữ cái và bỏ F để thay bằng vần PH, loại bỏ J để cách ghép vần theo một quan điểm xác thay bằng GI và loại bỏ Z để thay bằng đáng [7, tr.57-61]. Phát triển quan điểm D, rồi lại phải tạo ra chữ Đ để thay cho D đó, giải pháp cải tiến có thể là bổ sung 4 là điều khó hiểu. Căn cứ vào tiếng Việt chữ còn thiếu, bỏ chữ Đ để dùng D thay hiện hành, có thể nhận thấy dùng F thay cho Đ, rồi dùng Z thay cho D hiện hành; cho PH, dùng J thay cho GI và dùng Z 6 chữ “đội mũ thêm râu” còn lại sẽ đặt thay cho D sẽ thuận tiện và hợp lí hơn. vào một vị trí phụ trong bảng. Theo đó, Mặt khác, trong nhà trường và ngoài xã bảng chữ cái cải tiến có thể trình bày như hội, người Việt Nam đang sử dụng rất sau (với 26 chữ cơ bản và 6 phụ chú nhiều cả 4 chữ cái mà giám mục trong dấu ngoặc): Alexandre de Rhodes đã loại bỏ. Đã từ A (Ă, Â), B, C, D, E (Ê), F, G, H, I, lâu, nhà trường quen với “lực F”, thang J, K, L, M, N, O (Ô, Ơ), P, Q, R, S, T, nhiệt độ F, với nguyên tố hóa học Flo hay U(Ư), V, W, X, Y, Z. kí hiệu của sắt là Fe, với “Kỉ Jura”, các kí Bảng chữ cái này sẽ được áp dụng hiệu công suất điện W và KW, nguyên tố nhất quán, chính xác và hợp pháp mọi Wolfram, nguyên tố Zn, các đơn vị KHz lúc, mọi nơi trong mọi trường hợp. [8] và MHz, ẩn số x-y-z Trong xã hội, 4 3.3. Vấn đề viết tên riêng nước ngoài chữ cái này còn được dùng nhiều hơn trong tiếng Việt nữa trong các chữ viết tắt như HUFLIT, Trong lịch sử phát triển chữ Quốc 173
- Ý kiến trao đổi Số 8(86) năm 2016 ___ ngữ Việt Nam, việc viết các danh từ riêng thời về viết hoa tên riêng trong sách giáo (tên người, tên đất) của nước ngoài được khoa (2003), trong đó nhấn mạnh: thực hiện bằng rất nhiều cách thức khác “Trường hợp phiên âm không qua âm nhau: viết theo từ Hán - Việt (Ví dụ: Gia Hán - Việt (phiên âm trực tiếp, viết sát Nã Đại, Tân Gia Ba, Mạnh Đức Tư Cưu, theo cách đọc): Đối với mỗi bộ phận tạo Hoa Thịnh Đốn, Mã Khắc Tư ); biến thành tên riêng, viết chữ hoa chữ cái đầu tên đa âm nước ngoài thành tên đơn âm và có gạch nối giữa các âm tiết” [dẫn tiếng Việt (đạo Cơ Đốc, thánh Phao Lồ, theo 9, tr.78-84]. Như vậy là Bộ chỉ đạo Các Mác, Lê Nin, Xít Ta Lin, Phăng Tin, quay về với cách “phiên âm gạch nối” Cô Dét, Đát Ta Nhan, Xì Trum ); phiên trước đây để thay cho việc dùng “nguyên âm sang tiếng Việt có gạch nối (Oa-sinh- ngữ”. Trong khi đó, Thông tư hướng dẫn tơn, Mát-xcơ-va, Vích-to Huy-gô, Sếch- thể thức và kĩ thuật trình bày văn bản xpia ); phiên âm viết liền không dấu hành chính do Bộ Nội vụ ban hành năm (Matxcơva, Oasinhtơn, Xinhgapo, 2003 lại quy định cách viết tên nước Anphôngxơ Đôđê ); viết theo từ ngoài là “phiên âm trực tiếp sát cách đọc nguyên gốc nước ngoài (Washington, của nguyên ngữ” [dẫn theo 9, tr.78-84], Paris, Madrid, Singapore, Shakespeare, nghĩa là “phiên âm không gạch nối” vốn Karl Marx ). đã bị cách viết theo “nguyên hình từ Cho đến nay, tất cả các cách thức gốc” phủ định! hay quy tắc viết tên nước ngoài đó đã và Sự bất cập của các giải pháp nêu đang được áp dụng ở nước ta với những trên đã chỉ ra rằng: trong thực trạng của mức độ khác nhau tùy theo từng nơi từng tiếng Việt hiện hành không thể có giải lúc, khiến cho nguồn từ vựng về tên đất pháp tối ưu duy nhất để áp dụng cho tất tên người nước ngoài trong tiếng Việt trở cả các trường hợp. Bởi thế, cần phải tìm nên hỗn loạn. ra một quy tắc nhất quán nhưng mềm dẻo Để khắc phục tình trạng đó, Bộ để áp dụng cho những trường hợp khác Giáo dục và Đào tạo đã ban hành bản nhau. Chính quy định về 6 ngôn ngữ “Quy định về chính tả tiếng Việt và về chính thức của Liên hiệp quốc dùng cho thuật ngữ tiếng Việt” (1984), nêu rõ 193 nước thành viên có thể gợi ý cho một nguyên tắc viết tên nước ngoài là: “Cần quy tắc như vậy. Ngoại trừ tiếng Ả Rập tôn trọng nguyên hình theo chữ viết Latin quá xa lạ với tiếng Việt cả về ngữ âm, hay chuyển tự Latin trong nguyên ngữ” ngữ pháp và văn tự, 5 ngôn ngữ chính [dẫn theo 9, tr.78-84]. Nhưng thực tế lại thức còn lại của Liên Hiệp Quốc trở nảy sinh vấn đề: viết theo “nguyên hình” thành cơ sở của quy tắc chung nhất quán của nguyên ngữ nào? Bởi vì người Việt cho việc viết tên nước ngoài trong tiếng không thể biết hết hàng trăm ngoại ngữ Việt: Danh từ riêng (tên đất, tên người) trên thế giới để mà viết theo tất cả các của nước ngoài được viết theo nguyên nguyên ngữ đó. Vì vậy, Bộ Giáo dục và dạng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây Đào tạo lại phải ban hành Quy định tạm Ban Nha; theo nguyên dạng tiếng Nga 174
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Vinh Quốc ___ Latin hóa và theo nguyên gốc từ Hán - chương trình “Thế giới X-men” và đài Việt Latin hóa. [9, tr.78-84]. thứ ba phát chương trình ca nhạc “Yeah1 3.4. Sự xâm nhập của ngoại ngữ vào TV” cùng nhiều chương trình khác mang tiếng Việt với những hệ lụy tiêu cực tên tiếng Anh. Một nhà đài phát chương Trong thời đại toàn cầu hóa mở trình “Billboard thể thao” thì nhà đài rộng giao lưu quốc tế, sự xâm nhập của khác có “Thể thao Number One”! Trong ngoại ngữ (chủ yếu là tiếng Anh) vào công nghệ giải trí, nhiều nghệ sĩ nước ta tiếng Việt là hiện tượng hiển nhiên cần có vẻ đã tin rằng họ sẽ đạt được “tầm cỡ chấp nhận để làm cho tiếng Việt thêm quốc tế” khi tự đặt cho mình, cho hãng, phong phú. Nhưng việc du nhập ngôn từ nhóm, hoặc sản phẩm của mình những nước ngoài vào văn viết và văn nói tên gọi bằng tiếng Anh: Mister Đàm, không dừng lại ở sự cần thiết và hợp lí, hãng Senafilm, nhóm Microwaves, album mà đã bị lạm dụng khiến cho tiếng Việt “Music of the night” vẩn đục và xuống cấp. Thường chứng kiến những buổi họp Bảng hiệu các cửa hàng đầy rẫy mặt bao gồm các nam thanh nữ tú chào tiếng Anh lấn át cả tiếng Việt. Trong Việt nhau “Hello!”, trò chuyện bằng tiếng văn thông dụng, những từ tiếng Anh luôn Việt nhưng luôn đệm các từ “yes!”, “no!” chen vào dòng chữ Việt: “top”, “hot”, , “OK”, “wow!” , cùng nhau hát “teen”, “shop”, “shopping”, VIP, MC “Happy birthday” hoặc “Happy new (em xi) Một số cây bút Việt Nam bắt year” rồi tạm biệt nhau bằng nhân vật của mình (cũng là người Việt) “Goodbye!”, người ta sẽ phải chạnh lòng phải mặc (hoặc cởi) cái “underwear” nghĩ đến những “Ông Tây An Nam” mà (thay vì đồ lót); còn chiếc bật lửa thông các nhà văn yêu nước đã châm biếm sâu dụng thì phải gọi là “zippo” mới được! cay ngay từ thời Pháp thuộc. Người Việt còn thích cảm thán bằng Trước tình hình đó, Nhà nước cần tiếng Anh “Yeah!” hoặc “Wow!”. Người có những biện pháp ngăn chặn việc lạm ta còn cố ý dùng tiếng Anh để thay cho dụng này để bảo vệ sự trong sáng của những từ Việt rất đỗi thông thường: tiếng Việt. Xin lưu ý rằng chính phủ “comment” thay cho “bình luận”, Pháp không cho phép dùng các từ tiếng “slogan” thay cho “khẩu hiệu” Anh trong văn bản Pháp ngữ; còn chính Tiếng Anh hiện diện ngay trong tên phủ Trung Quốc thậm chí đã cấm dùng gọi chính thức của các chương trình văn cả những thuật ngữ quốc tế thông dụng hóa hoặc thể thao. V-league là tên nước được viết tắt bằng tiếng Anh như GNP, ngoài để gọi giải bóng đá của Việt Nam, GDP nay đã trở thành tên gọi giải “trên hạng 4. Kết luận nhất” của nước ta - “hạng V-league”. Ngôn ngữ là vỏ vật chất của tư duy, Nhiều giải đấu mang tên “Việt Nam nên đặc tính tư duy của người Việt thể open”! Một đài truyền hình tổ chức thi để hiện thành đặc điểm ngôn ngữ của mình. trao “giải Awards”, một đài khác có Tư duy Việt thiên về cảm tính, nên nguồn 175
- Ý kiến trao đổi Số 8(86) năm 2016 ___ từ vựng tiếng Việt gốc hầu hết là những Nam độc lập dưới chế độ Dân chủ Cộng từ chỉ sự vật, hiện tượng, hành động cụ hòa. thể; đồng thời rất phong phú về những từ Tuy nhiên, chính việc lấy các chữ biểu hiện thái độ - tình cảm. Nhưng tư viết nước ngoài làm chữ viết của mình đã duy Việt thiếu chiều sâu lí tính, nên để lại cho tiếng Việt hiện đại nhiều vấn nguồn từ vựng đó thiếu hẳn những thuật đề phức tạp cần được giải quyết để nâng ngữ khái quát - trừu tượng, thậm chí cao giá trị của nó. Khi đã có giải pháp thiếu cả những đại từ nhân xưng trung đúng đắn, các vấn đề đó đều có thể giải tính để giao tiếp vượt khỏi sự chi phối quyết được. của những thái độ - tình cảm giữa các bên Văn hóa là gốc để định hướng cho đối thoại. Vì vậy, việc du nhập chữ Hán chính trị, mà nguồn gốc của văn hóa lại là với hơn 70% từ Hán - Việt trong kho từ ngôn ngữ, nên việc nâng cao giá trị tiếng vựng tiếng Việt đã nâng tầm văn hóa Việt Việt có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Qua lên ngang hàng với văn minh Hoa Hạ, đó có thể hiểu vì sao Phạm Quỳnh nói: dẫn tới thời kì độc lập của nhà nước Đại “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta Việt. Tiếp đó, khi chữ Việt Latin hóa trở còn, nước ta còn”; và Trần Quốc Vượng thành Quốc ngữ thay cho chữ Nho, nền bảo: “Chính trị ra đi, văn hóa ở lại”. giáo dục Pháp -Việt lại mở ra thời đại Tương lai của nước nhà tùy thuộc vào sự Khai sáng văn hóa Việt ngay dưới chế độ phát triển văn hóa dựa trên tiếng Việt thực dân - phong kiến, dẫn tới nước Việt hiện đại. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cẩm Anh, “Tôi chỉ chuyển được 60% không khí Số Đỏ”, Báo Giáo dục và Thời đại Chủ nhật, 16-6-2002. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1979), Nghị quyết 14 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương (Khóa IV) về cải cách giáo dục, Hà Nội. 3. Đỗ Quang Chính (1972), Lịch sử chữ Quốc ngữ, Nhà sách Ra Khơi xuất bản, Sài Gòn. 4. Hồ Thanh Tâm (2013), Yếu tố Pháp-Việt trong lĩnh vực cải cách giáo dục ở Việt Nam thời kì 1862-1945, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. 5. Lê Vinh Quốc (2013), “Một di sản văn hóa phải được bảo tồn”, Tạp chí Hồn Việt, số 72 (tháng 8-2013). 6. Lê Vinh Quốc (2010), Mấy vấn đề về bảng chữ cái tiếng Việt và một quan điểm cải tiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Kỉ yếu Hội thảo khoa học toàn quốc về Phát triển và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay, Trường Đại học HUFLIT và Đại học Sài Gòn, 18-6-2010. 7. Lê Vinh Quốc, Tưởng Phi Ngọ (2010), “Bác Hồ cải tiến vần quốc ngữ”, Kỉ yếu Hội thảo khoa học: Chủ tịch Hồ Chí Minh - một tầm nhìn chiến lược về giáo dục và sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tháng 12-2010. 176
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Vinh Quốc ___ 8. Lê Vinh Quốc (2013), “Một số biện pháp để chuẩn hóa bảng chữ cái tiếng Việt”, , Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, số 46 (80), tháng 5-2013. 9. Lê Vinh Quốc (2012), “Đề xuất một quy tắc viết tên nước ngoài trong tiếng Việt”, Kỉ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia về Xây dựng chuẩn mực chính tả thống nhất trong nhà trường và trên các phương tiện truyền thông đại chúng, Trường Đại học KHXH&NV TPHCM, Trường Đại học Sài Gòn và báo Thanh Niên, TPHCM 21-12- 2012. 10. Nguyễn Q. Thắng (2005), Khoa cử và Giáo dục Việt Nam, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 11. Vũ Trọng Phụng, Vẽ nhọ bôi hề - Những tác phẩm mới tìm thấy năm 2000, Peter Zinoman sưu tầm, Lại Nguyên Ân giới thiệu, chú thích (In lần thứ hai có bổ sung), Nxb Hội Nhà văn, 2004. 12. Lâm Văn Bé, “Nhân bàn về văn hóa hậu Tây thuộc, thử nhận định về: Chính sách khai hóa và khai thác của thực dân Pháp tại Nam Kì”, Truyền Thông-Communication số 34835, http;//www.org/so 34/7.html 13. Nguyễn Lưu Viên (1966), “Chính sách văn hóa-giáo dục”, Digitized by namkyluctinh.org 14. Nguyễn Vy Khanh (2012), “Về một số báo chí Nam-kỳ thời đầu văn học chữ quốc- ngữ”, Montreal, Canada: LichSuBaoChiThoidau.pdf. (Ngày Tòa soạn nhận được bài: 02-11-2015; ngày phản biện đánh giá: 03-12-2015; ngày chấp nhận đăng: 27-8-2016) 177