Bài giảng Chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước (Bản đẹp)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước (Bản đẹp)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- bai_giang_chinh_sach_tien_te_cua_ngan_hang_nha_nuoc_ban_dep.doc
Nội dung text: Bài giảng Chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước (Bản đẹp)
- Chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước
- CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHNN 1. Định nghĩa: chính sách tiền tệ (money policy) do NHTW hoạch đinh và thực thi nhawmg o0onr định tiền tệ QG. Nếu NHTW phụ thuộc chính thuộc CP chì nếu có vấn đề lớn đến phải trình Quốc hội hoặc CP. Nếu NHTW là độc lập thì không phải trình CP - Chính sách lưu thông tiền tệ hay chính sách tiền tệ là quá trình quản lý hỗ trợ đồng tiền của chính phủ hay ngân hàng trung ương để đạt được những mục đích đặc biệt- như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở; qui định mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối. Chính sách tiền tệ là hệ thống biện pháp của một nhà nước trong lĩnh vực lưu thông tiền tệ, nhằm điều hành khối lượng cung và cầu tiền tệ bằng các biện pháp như phát hành tiền, chống lạm phát, dự trữ pháp định và quản lí dự trữ ngoại tệ, tái chiết khấu các kì phiếu và lãi suất, chính sách lãi suất để đáp ứng kịp thời nhu cầu giao dịch, ổn định sức mua của đồng tiền, phát triển sản xuất, kinh doanh trong một giai đoạn nhất định. Là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách và cơ chế quản lí kinh tế của nhà nước, trên cơ sở vận dụng đúng đắn quy luật của sản xuất hàng hoá và quy luật lưu thông tiền tệ để tổ chức tốt quá trình chu chuyển tiền tệ. Chính sách tiền tệ nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu của sản xuất - kinh doanh, thực hiện sự kiểm tra có hiệu lực của nhà nước ở tầm vĩ mô cũng như ở tầm vi mô. Chính sách tiền tệ là một hệ thống các biện pháp do ngân hàng trung ương thực hiện nhằm tác động lên mức độ hoạt động kinh tế. Mục tiêu hàng đầu của ngân hàng trung ương ở nhiều nước là kiểm soát lạm phát và giám sát hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động của cơ quan này cũng ảnh hưởng đến các khía cạnh khác của nền kinh tế, như mức GDP thực, thất nghiệp và tỉ giá hối đoái. Ở Việt Nam trong thập niên qua, Ngân hàng Nhà nước nhìn chung đã duy trì một chính sách tiền tệ tương đối kiềm chế. Chính sách này đã thành công trong việc giảm lạm phát từ mức ba con số ở cuối thập niên 1980 xuống mức tương đối ổn như hiện nay. Ngân hàng Nhà nước cũng đã thực hiện một số cải cách khu vực tài chính bao gồm việc từng bước tự do hóa lãi suất. Trong khi tiến trình cải cách ngân hàng và tài chính vẫn tiếp tục ở Việt Nam, việc thực hiện chính sách tiền tệ cũng sẽ biến chuyển, dẫn đến một sự phân bổ tốt hơn các nguồn lực tài chính, cũng như sự cải thiện về hiệu quả chung của chính sách tiền tệ. 4.5.2.Nội dung của chính sách tiền tệ Nội dung của chính sách tiền tệ xét về mặt định tính ta có thể thấy đó là chính sách thắt chặt tiền tệ hoặc chính sách mở rộng tiền tệ. Nếu nền kinh tế đang ở trong tình trạng lạm phát cao đòi hỏi phải thực hiện một chính sách thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát. Ngược lại, nếu nền kinh tế đang ở trong tình trạng suy thoái thì chính sách tiền tệ cần phải được mở rộng. Về mặt định lượng chính sách tiền tệ cần phản ánh khối lượng tiền tệ cung ứng tăng lên (hay giảm bớt) trong một khoảng thời gian nhất định bao gồm tiền mặt và chuyển khoản. Để xây dựng các giải pháp tác động và sử dụng các công cụ để vận hành chính sách tiền tệ, nội dụng của chính sách tiền tệ gồm ba bộ phận hợp thành: chính sách cung ứng và điều hòa khối tiền, chính sách tín dụng và chính sách về ngoại hối. 4.5.3.Những công cụ để thực thi chính sách tiền tệ
- Để vận hành chính sách tiền tệ đạt được như hoạch định, ngân hàng trung ương sử dụng các công cụ sau đây và thông qua các công cụ này nhà nước cũng sử dụng các quan hệ tiền tệ để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. *Dự trữ bắt buộc: tất cả các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng đều bắt buộc phải thực hiện dự trữ bắt buộc theo một tỷ lệ phần trăm tính trên tổng nguồn vốn huy động. Về cơ cấu mức dự trữ bắt buộc được phép tồn tại dưới 3 hình thức: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi bắt buộc ở ngân hàng trung ương, dự trũ bằng chứng khóan, đấy là công cụ trực tiếp và có hiệu nghiệm. Nếu dự trữ bắt buộc tăng làm cho nguồn vón cho vay của ngân hàng thương mại giảm kéo theo khối tiền tệ giảm. Nếu dự trữ bắt buộc giảm làm cho nguồn vón cho vay của ngân hàng thương mại tăng kéo theo khối tiền tệ tăng. Các nhà nghiên cứu cho thấy rằng chỉ cần một sự thay đổi nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì tác động của nó đến khối tiền tệ và khối tín dụng rất lớn. *Lãi suất: là một công cụ chủ yếu để điều chỉnh gián tiếp giữa cung và cầu tín dụng. Để phát huy được tác dụng của công cụ lãi suất, cần quán triệt một số điểm có tính ngtắc khi vận dụng công cụ lãi suất: • Lãi suất thực không thể cao hơn tỷ suất lợi nhuận bình quan của nền kinh tế (biểu hiện qua tỷ lệ tăng tổng sản phẩm quốc nội). • Lãi suất cho vay bình quân phải lớn hơn lãi suất huy động bình quân. Phần lớn hơn phải thỏa mãn bù đắp chi phí, thuế, phòng ngừa rủi ro và tiền lãi ngân hàng. • Lãi suất dài hạn phải lớn hơn lãi suất ngắn hạn. Để sử dụng lãi suất tín dụng với tư cách là công cụ của chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương có thể: • Ổn định lãi suất: tối đa cho tiền gửi và tối thiểu cho tiền vay hoặc tối đa cho tiền vay và tối thiểu cho tiền gửi (nếu muốn bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của ngân hàng thương mại. • Thả nổi lãi suất: lãi suất sẽ được thả nổi thông qua thị trường tiền tệ, tuy nhiên với tư cách là cơ quan thực thi chính sách tiền tệ, Ngân hàng trung ương sẽ tác động gián tiếp tới lãi suất tiền gửi và tiền vay của ngân hàng thương mại bằng lãi suất tái chiết khấu đểđiều tiết cung-cầu tín dụng, điều tiết khối lượng tiền tệ của nền kinh tế. Như vậy trong nền kinh tế thị trường với hệ thống ngân hàng hai cấp trong đó cãc ngân hàng thương mại nhạy cảm với cơ chế thị trường, thì lãi suất tái chiết khấu của ngân hàng trung ương trở thành công cụ linh hoạt để thực hiện chính sách tiền tệ. *Tái chiết khấu: tái chiết khấu nói riêng và tái cấp vốn nói chung là việc ngân hàng trung ương tiếp vốn cho các ngân hàng thương mại nhằm khai thông năng lực thanh toán cho các ngân hàng thương mại hoặc khuyến khích họ mở rộng tín dụng cho nền kinh tế trên cơ sở các hệ số tín dụng hoặc chứng từ được ngân hàng thương mại chiết khấu trước đây. Tái chiết khấu là nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng trung ương tất yếu sẽ làm tăng lượng tiền cung ứng, vì vậy phải đòi hỏi tiến hành một cách thận trọng dựa trên tiêu chuẩn định lượng và định tính. • Về mặt định lượng: cần xem lại hạn mức tín dụng mà ngân hàng trung ương dành cho ngân hàng thương mại có còn hay không. • Về mặt định tính: cần xem xét các hệ số tín dụng và các chứng từ xin tái chiết khấu có lành mạnh hay không và có xứng đáng để được tiếp vốn hay không, chắc chắn rằng trong nghiệp vụ tái chiết khấu ngân hàng trung ương sẽ đóng vai trò là người cho vay cuối cùng, đầu mối cuối cùng để xử lý tín dụng của nền kinh tế.
- Thông qua lãi suất tái chiêt khấu, ngân hàng trung ương có thể khuyến khích giảm hay tăng mức cung ứng tín dụng của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế, đồng thời giảm hay tăng mức cung tiền. Khi thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, ngân hàng trung ương sẽ nâng lãi suất cho vay hoặc hạn chế cơ hội cho vay. Ngược lại, nếu ngân hàng trung ương hạ thấp lãi suất chiết khấu ngân hàng thương mại trong trường hợp này sẽ đi vay rẻ hơn nên có khuynh hướng giảm lãi suất cho vay dẫn đến nhu cầu vay tăng. Ngoài ra chính sách chiết khấu, tái chiết khấu còn là công cụ đăc lực trong ảnh hưởng phát triển kinh tế xã hội. Đối với chính sách kích thích xuất khẩu ngân hàng tủng ương sẽ ưu tiên tái chiết khấu các thương phiếu xuất khẩu hoặc nâng hạn mức tái chiết khấu đối với các thương phiếu đó. Tuy nhiên, khi chấp nhận tái chiết khấu là ngân hàng trung ương đã tăng khối lượng tiền cung ứng. Vì vậy, ngân hàng trung ương chỉ có thể chấp nhận tái chiết khấu theo ba điều kện: • Ngân hàng thương mại đó phải còn hạn mức tín dụng chưa sử dụng hết. • Khối lượng tiền cung ứng bằng con đường tín dụng, tức là chi tiêu tín dụng cho nền kinh tế còn được phép cung ứng thêm. • Bản thân các ngân hàng thương mại đem hối phiếu để tái chiết khấu phải là những hối phiếu tốt. Mỗi công cụ đều có ưu nhược điểm riêng, tái chiết khấu có ưu và nhược điểm sau: Ưu điểm: Các khản cho vay của ngân hàng trung ương đều được đảm bảo bằng các giáy tờ có giá do nó có khả năng tự thanh toán. Công cụ này có tính chất tích cực hơn các biện pháp hạn mức tín dụng do chịu sự tac động của qu luật cung cầu. Nhược điểm:Ngân hàng trung ương bị thụ động do yếu tố chủ động vay hay không nằm ở ngân hàng trung ương. *Thị trường mở: là công cụ điều hành chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương sẽ phát hành tiền hoặc thu hẹp khối tiền của nền kinh tế thông qua việc mua hoặc bán các trái phiếu ngắn hạn. tức là thông qua nghiệp vụ củathị trường mở mà ngân hàng trung ương có thể làm cho “dự trữ” của các ngân hàng thương mại tăng lên hoặc giảm xuống và vì vậy tác động đến khả năng cấp tín dụng của ngân hàng thương mại làm ảnh hưởng đến khối tiền tệ của nền kinh tế. Khi cần, ngân hàng trung ương bán trái phiếu để thu hẹp khối tiền tệ trong trường hợp lạm phát có xu hướng gia tăn. Ngược lại, ngân hàng trung ương mua trái phiếu sẽ khuyến khích mở rộng tín dụng, khối tiền cung ứng tăng, trong trường hợp muốn mở rộng phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm Thị trường mở xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào những năm 20. Nó là công cụ tác động nhanh, linh hoạt và chủ động. nó có thể hạn chế được những khuyến điểm của công cụ chiết khấu. Tuy nhiên hạn chế của nó là chỉ có thể áp dụng trong điều kiện mà hầu hết tiền trong lưu thông nằm ở tài khoản của ngân hàng. Thị trường mở được xem là một trong những nơi mà ngân hàng trung ương phát hành tiền vào guồng máy kinh tế hoặc rút bớt khối lượng tiền tệ lưu thông. Nếu như chính sách tái chiết khấu có tác động tổng hợp và có những hạn chế tạm thời thì nghiệp vụ thị trường mở là công cụ tác động nhanh linh hoạt. *Ấn định hạn mức tín dụng: cho các ngân hàng thương mại là phương pháp kiểm soát khối tín dụng về mặt định lượng. Theo đó, ngân hàng trung ương sẽ phân bố “hạn mức tín dụng” cho mỗi ngân hàng thương mại trên cơ sở số dư tín dụng và vốn tự có của mỗi ngân hàng. Đây là chỉ tiêu số lượng vì vậy nó trực tiếp làm tăng hoặc giảm khối lượng tín dụng của nền kinh tế một khi ngân hàng trung ương tăng hay giảm hạn mức nói trên. *Điều chỉnh tỷ giá hối đoái: việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái chỉ thực sự cần thiết khi tỷ giá thực tế trên thị trường biến động với biên độ lớn gây phương hại đến lĩnh vực ngoại thương, tín dụng và thanh toán
- quốc tế. Có nhiều phương pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái như sau: thay đổi lãi suất, can thiệp ngoại hối, nâng cao hoặc phá giá tiền trong nước *Can thiệp thị trường vàng và ngoại tệ: khi giá vàng và ngoại tệ trên thị trường biến động lớn thì ngân hàng trng ương sẽ can thiệp trược tiếp bằng cách bán hoặc mua để giữ cho tỷ giá hối đoái ở mức độ thích hợp, nhờ đó các hoạt động kinh tế tài chính không bị ảnh hưởng xấu Các công cụ của chính sách tiền tệ Gồm có 6 công cụ sau: Công cụ tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các Ngân hàng thương mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ. Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần vô hiệu hóa trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toan (cho vay) của các Ngân hàng thương mại. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các Ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ. Công cụ lãi suất tín dụng: đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất. Nó là 1 công cụ rất lợi hại. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định. Công cụ hạn mức tín dụng: là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của Ngân hàng Trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Tỷ giá hối đoái:Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiên quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn dầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ. Cơ quan hữu trách về tiền tệ sử dụng chính sách tiền tệ nhằm hai mục đích: ổn định kinh tế và can thiệp tỷ giá hối đoái. Về ổn định kinh tế vĩ mô, nguyên lý hoạt động chung của chính sách tiền tệ là cơ quan hữu trách về tiền tệ (ngân hàng trung ương hay cục tiền tệ) sẽ thay đổi lượng cung tiền tệ. Các công cụ để đạt được mục tiêu này gồm: thay đổi lãi suất chiết khẩu, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, và các nghiệp vụ thị trường mở.
- [sửa] Thay đổi lãi suất chiết khấu Xem bài chính về lãi suất chiết khấu Cơ quan hữu trách về tiền tệ có thể thay đổi lãi suất mà mình cho các ngân hàng vay, thông qua đó điều chỉnh lượng tiền cơ sở. Khi lượng tiền cơ sở thay đổi, thì lượng cung tiền cũng thay đổi theo. [sửa] Thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc Xem bài chính về dự trữ bắt buộc Các cơ quan hữu trách về tiền tệ thường quy định các ngân hàng phải gửi một phần tài sản tại chỗ mình. Khi cần triển khai chính sách tiền tệ, cơ quan hữu trách về tiền tệ có thể thay đổi quy định về mức gửi tài sản đó. Nếu mức gửi tăng lên như khi thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, thì lượng tiền mà các ngân hàng còn nắm giữ sẽ giảm đi. Do đó, tiền cơ sở giảm đi,và lượng cung tiền trên thị trường cũng giảm đi. Công cụ mang tính chất hành chính này ngày nay ít được sử dụng ở các nền kinh tế thị trường phát triển. [sửa] Tiến hành các nghiệp vụ thị trường mở Xem bài chính về nghiệp vụ thị trường mở Cơ quan hữu trách tiền tệ khi mua vào các loại công trái và giấy tờ có giá khác của nhà nước đã làm tăng lượng tiền cơ sở. Hoặc khi bán ra các giấy tờ có giá đó sẽ làm giảm lượng tiền cơ sở. Qua đó, cơ quan hữu trách tiền tệ có thể điều chỉnh được lượng cung tiền. [sửa] Mục tiêu của chính sách tiền tệ Chính sách tiền tệ nhắm vào hai mục tiêu là lãi suất và lượng cung tiền. Thông thường, không thể thực hiện đồng thời hai mục tiêu này. Chỉ để điều tiết chu kỳ kinh tế ở tình trạng bình thường, thì mục tiêu lãi suất được lựa chọn. Còn khi kinh tế quá nóng hay kinh tế quá lạnh, chính sách tiền tệ sẽ nhằm vào mục tiêu trực tiếp hơn, đó là lượng cung tiền. Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động mua và bán trái phiếu chính phủ của FED. Khi FED mua trái phiếu của công chúng, số đô-la mà nó trả cho trái phiếu làm tăng tiền cơ sở và qua đó làm tăng cung tiền. Khi FED bán trái phiếu cho công chúng, số đô-la mà nó nhận làm giảm tiền cơ sở và bởi vậy làm giảm cung tiền. Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chính sách được Fed sử dụng thường xuyên nhất . Trên thực tế, FED thực hiện nghiệp vụ này trên thị trường chứng khoán New York hàng ngày Chính sách tiền tệ của NHNN: 1.Nghiệp vụ thị trường mở: Là việc NHNN mua bán các loại giấy tờ có giá ngoài thị trường,chủ yếu đó là tín phiếu kho bạc nhằm làm thay đổi cơ số tiền từ đó dẫn đến thay đổi lượng tiền cung ứng.Sở dĩ ngân hàng tiến hành đại bộ phận nghiệp vụ thị trường tự do của mình đối với tín phiếu kho bạc vì loại chứng khoán này có số lượng lớn,lại an toàn,thời hạn thanh toán ngắn. Việc mua bán chứng khoán của NHNN là yếu tố chủ yếu gây nên những biến động về lượng tiền cung ứng. Nếu NHNN mua vào các loại chứng khoán sẽ làm tăng cơ số tiền do đó làm tăng lượng tiền cung ứng. Nếu NHNN bán ra các loại chứng khoán sẽ làm giảm cơ số tiền do đó làm giảm lượng tiền cung ứng. Đây là công cụ có thể nói là quan trọng nhất của NHNN trong chính sách tiền tệ của NHNN vì những ưu thế vốn có của nó: -Với công cụ này NHNN có thể kiểm soát toàn bộ nghiệp vụ tự do trên thị trường. -Nhanh chóng và chính xác,có thể điều chỉnh một lượng tiền bất kì bằng việc mua bán chứng khoán. -Với công cụ này,NHNN có thể dễ dàng đảo ngược tình thế của mình.
- -Tiết kiệm được nhiều loại chi phí. 2.Chính sách chiết khấu: Là việc NHNN cho các ngân hàng kinh doanh vay dưới hình thức tái cấp vốn từ đó ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng.NHNN cho các ngân hàng kinh doanh vay sẽ làm tăng thêm lượng tiền cung ứng.NHNN kiểm soát việc vay vốn của các tổ chức tín dụng này thông qua lãi suất tái chiết khấu.Nếu NHNN tăng lãi suất tái chiết khấu sẽ dẫn đến việc mở rộng cơ số tiền và từ đó tăng cung ứng tiền còn ngược lại sẽ thu hẹp cơ số tiền và làm giảm lượng tiền cung ứng. Các khoản vay của NHNN cho các ngân hàng thương mại vay gọi là cửa sổ chiết khấu.Các ngân hàng thương mại khi đến vay thường phải chịu 3 khoản phí:thứ nhất là lãi suất chiết khấu,thứ hai là phí về việc phải tuân thủ theo các điều tra của NHNN về khả năng thanh toán của các ngân hàng thương mại,phí về việc có thể bị NHNN từ chối cho vay vì NHNN đang theo đuổi mục tiêu thắt chặt tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát. Ngoài ra chính sách chiết khấu có tác dụng đối phó với những cơn hoảng loạn tài chính hay các cuộc sụp đổ của các ngân hàng.Khi đó NHNN sẽ đóng vai trò là người cho vay cuối cùng đối với các ngần hàng vì ngay lập tức có thể dùng tiền dự trữ bắt buộc cho các ngân hàng vay. Vậy chính sách chiết khấu là một công cụ vô cùng quan trọng,nó không chỉ tác động tới lượng tiền cung ứng mà còn có tác dụng giúp đối phó với các cơn hoảng loạn tài chính.Nhưng với việc sử dụng chính sách này,NHTW thường trở nên bị động vì có thể tăng lãi suất chứ không thể bắt các ngân hàng phải vay tại NHTW. 3.Dự trữ bắt buộc: Là những khoản tiền mà các ngân hàng thương mại phải mở tài khoản và gửi vào NHTW.Khoản tiền do NHTW qui định và được xác định bằng một tỷ lệ nhất định của lượng tiền gửi tại các ngân hàng,gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc.Tỷ lệ dự trữ bắt buộc khác nhau ở các nước và ở mỗi thời kì.Những khoản tiền dự trữ bắt buộc này thì không có lãi. Việc NHTW tăng hoặc giảm dự trữ bắt buộc sẽ tác động tới lượng tiền cung ứng.Với một lượng tiền dự trữ ban đầu,các ngân hàng thương mại có thể tạo ra được một lượng tiền gửi mới lớn gấp nhiều lần thông qua công thức sau: Tiền gửi mới được tạo thành=tiền dự trữ ban đầu*1/tỷ lệ dự trữ bắt buộc với điều kiện: -Các ngân hàng ko có tiền dự trữ dư thừa so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc đươc qui định. -Tiền gửi mới được tạo ra đều nằm trong hệ thống ngân hàng. Một sự thay đổi trong tỷ lệ dự trữ bắt buộc kéo theo sự thay đổi về lượng tiền gửi mới được tạo ra và từ đó tác động tới lượng tiền cung ứng.Ví dụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% thì lượng tiền gửi mới được tạo ra bằng 10 lần so với lượng tiền dự trữ ban đầu.Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 5% thì từ một lượng tiền dự trữ ban đầu,lượng tiền gửi mới được tạo ra sẽ tăng thêm 20 lần. Ngoài ra dự trữ bắt buộc tác động tới lãi suất cho vay của các ngân hàng.Khi dự trữ bắt buộc tăng lên,các ngân hàng thương mại sẽ tăng lãi suất cho vay của mình lên,làm cho khả năng cho vay của các ngân hàng giảm và làm giảm lượng tiền cung ứng.Ngược lại khi dự trữ bắt buộc giảm thì lượng tiền cung ứng sẽ tăng lên. Trong quá trình thực hiện chính sách tiền tệ của NHTW,công cụ dự trữ bắt buộc thường tỏ ra kém phần quan trọng.Việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ hạn chế đầu tư của các DN,làm giảm cạnh tranh của các ngân hàng và giảm lợi nhuận của chúng. Ba công cụ này được các nước phát triển sử dụng một cách có hiệu quả.Tuy vậy ở các nước kém hoặc
- đang phát triển,các công cụ trên còn chưa thật sự phát huy hết hiệu quả mà trái lại còn nhiều hạn chế.Khi đó các nước có thể sử dụng thêm một vài công cụ khác là kiểm soát hạn mức tín dụng,quản lý lãi suất các ngân hàng 4.Kiểm soát hạn mức tín dụng: Kiểm soát hạn mức tín dụng căn cứ theo tỷ lệ tăng trưởng hay tỷ lệ lạm phát của quốc gia.Ngoài ra còn một số các tín hiệu khác như là tỷ lệ thất nghiệp,tốc độ lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế Từ đó sẽ có qui định hạn mức tín dụng cụ thể đối với các ngân hàng cho phù hợp với mục đích chính sách tiền tệ và tình hình kinh tế. Để hạn chế việc tạo tiền quá mức,NHNN đưa ra hạn mức tín dụng đối với từng ngân hàng.Trong phần lớn các trường hợp,các hạn mức riêng này sẽ được căn cứ vào tỷ lệ cho vay của nó trong quá khứ trên tổng lượng tiền cho vay của hệ thống ngân hàng.Các ngân hàng thương mại không được cho vay quá hạn mức tín dụng đã qui định. Hạn mức tín dụng là công cụ quan trọng được NHNN sử dụng khi các công cụ trên tỏ ra kém hiệu quả.Tuy vậy việc qui định hạn mức tín dụng sẽ làm lãi suất thị trường tăng,giảm cạnh tranh của các ngân hàng,ảnh hưởng đến đầu tư của doanh nghiệp,hơn nữa còn tạo ra những thị trường tài chính ngầm ngoài kiểm soát của NHTW 5.Quản lý lãi suất của các ngân hàng: Các công cụ trên của chính sách tiền tệ đều tác động đến lãi suất cho vay của các ngân hàng,đặc biệt đó là chính sách chiết khấu.Khi các công cụ trên còn chưa phát huy hiệu quả,NHTW sử dụng một công cụ khác đó là quản lý lãi suất của các ngân hàng,từ đó điều tiết lượng tiền cung ứng.Để bảo vệ lợi ích các ngân hàng,NHNN sẽ qui định mức lãi suất huy động tối đa và lãi suất cho vay tối thiểu.Ngược lại để bảo vệ lợi ích của người dân,NHNN sẽ qui định lãi suất cho vay tối đa và lãi suất huy động tối thiểu.NHNN muốn kiểm soát lãi suất,bởi nó là công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng,ảnh hưởng tới lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Tuy vậy việc sử dụng công cụ này làm giảm đi tính cạnh tranh của các ngân hàng.Ở các nước phát triển,họ dần hướng đến một cơ chế tự do hoá lãi suất của các ngân hàng. Theo mình trong nền kinh tế hậu khủng hoảng tức là đang hướng đến việc tăng trưởng kinh tế,chính sách tiền tệ đóng vai trò vô cùng quan trọng.NHNN sẽ áp dụng biện pháp nới lỏng tiền tệ,giải ngân vốn,kích thích tăng trưởng kinh tế.Ngoài ra đi kèm theo là các gói kích thích kinh tế,ví dụ ở việt nam tổng cộng là 143000 tỷ đồng,Mỹ là 787 tỷ đô la,châu á là 1000 tỷ đôla,trung quốc gần 600 tỷ đôla những khoản tiền này sẽ được huy động từ nhiều nguồn: ngân sách,dự trữ,trái phiếu. CHÍNH SÁCH TIÊN TỆ VN: Trước hết là vấn đề tăng lãi suất cơ bản 8%.Kích thích tăng trưởng tức là kích về cầu và kích về lượng.Mình cho rằng đây là một quyết định rất sáng suốt và kịp thời của NHTW. Thứ nhất tăng lãi suất cơ bản khiến mặt bằng lãi suất tăng cao,giảm tăng trưởng tín dụng,góp phần giảm nguy cơ lạm phát.Thứ 2 tăng lãi suất cơ bản giúp việc huy động vốn bù thâm hụt ngân sách chính phủ sẽ trở nên dễ dàng hơn,cũng giúp chặn lạm phát do thâm hụt ngân sách,hiện giờ theo báo cáo thâm hụt khoảng 6,5%GDP.Thứ 3,hiện giờ khoản tiền kích cầu lần 1 của chính phủ đã vực dậy được nền kinh tế,tuy chưa hoàn toàn,vả lại nguy cơ lạm phát tăng cao trở lại do rất nhiều nguyên nhân.Trong đó phải kể đến 1 nguyên nhân đó là khoản tiền kích thích kinh tế cả 2 đợt ước tính 143000 tỷ đồng sẽ có nguy cơ gây lạm phát nghiêm trọng nếu ko có biện pháp phòng ngừa.Vì thế NHTW đã tăng lãi suất cơ bản như 1 biện pháp đối phó trước tiên.
- Bạn thấy đấy,chính phủ vẫn quyết định kích thích kinh tế,nhưng là trung dài hạn còn ngắn hạn đã ngưng cũng là muốn hướng đến mục tiêu tăng trưởng trong lâu dài,đây cũng là cách đối phó lạm phát.Đúng như nhiều chuyên gia nhân định ko nên hỗ trợ ngắn hạn.Kích thích kinh tế hiện giờ là kích vào những nơi chưa được kích trong lần 1.Đó là nông nghiệp,đầu tư mua vật tư máy móc,tạo việc làm,mở rộng sản xuất,tăng sản lượng. Tuy vậy hiện giờ là thời điểm cực kì nhạy cảm,cuối năm nhu cầu sẽ tăng cao,giá nguyên liệu thế giới đang tăng do nhiều nước đã bắt đầu hồi phục,lượng kiều hối đổ về cuối năm cũng tăng,giá vàng,giá dầu hàng trăm nguyên nhân có thể khiến lạm phát tăng cao trở lại.Vì vậy gói kích thích kinh tế nên thật sự thận trọng. Mình xin nói thêm việc tăng lãi suất cơ bản của NHTW đi kèm việc giảm biên độ tỷ giá từ 5%- >3%,thêm nữa lại bơm 2 tỷ usd để bình ổn tỷ giá,nhằm làm cho giá nguyên liệu nhập khẩu đỡ sốt,như 1 cách đối phó lạm phát.Tỷ giả chính thức giờ đã hơn 18600 và gần sát giá chợ đen,tỷ giá bình quân liên ngân hàng cũng giảm còn trên 17500.Ngoài ra cách làm này khiến doanh nghiệp và người dân bớt găm ngoại tệ vì lo sợ mất giá,càng làm tăng cung ngoại tệ,tỷ giá càng ổn định.Hơn nữa NHTW lại yêu cầu các DN nhà nước còn ngoại tệ phải bán lại cho NHTW. Đó là những gì mà chính phủ đang thực hiện đối phó với lạm phát đó! Còn vấn đề Nhật bản,họ giảm phát bởi nhu cầu đã giảm mạnh,CPI giảm xuống mức thấp nhất trong ít nhất 38 năm qua.Bởi vì người dân đang thắt lưng buộc bụng do tình trạng thất nghiệp gia tăng,sản lượng giảm nên các công ty buộc cắt giảm nhân công.Nhiều hãng điện tử nổi tiếng như Sony đang phải khuyến mãi để kích thích nhu cầu mà dường như chưa có mấy tín hiệu tốt.Thêm vào đó đồng Yên tăng giá càng làm giảm xuất khẩu của nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới này. S: " đồng yên tăng giá càng làm giảm nhập khẩu của nền kt lớn thứ 2 thế giới" nhưng theo mình thì nếu đồng yên tăng giá thì tỷ giả của đồng của tiền ngoại tệ khác so với yên sẽ giảm có nghĩa là với một lượng tiền nhưng có thể mua được nhiều hàng hơn trước vậy thì phải tăng nhập khấu chứ giảm xuất khẩu của Nhật còn tạo điều kiện cho nhập khẩu tại sao Các Ngân hàng vẫn phải tiếp tục nâng lãi suất lên đến mức 10.49% (10.5% là max)/năm để huy động vốn? Tức là Ngân hàng thưong mại đang khát vốn, vậy sao ngân hàng nhà nước không tiếp tục nâng lãi suất cơ bản lên, hoăc thay đổi tỉ lệ dự trữ bắt buộc và tăng lượng cung tiền cho nền kinh tế? Đó là NHTW đang thắt chặt tiền tệ,muốn giảm lượng tiền cung ứng.Lãi suất cơ bản tăng sẽ tác động tới các lãi suất khác như chiết khấu,tái chiết khấu,lãi suất trái phiếu,tín phiếu,huy động,cho vay Tức là NHTW muốn VND đỡ mất giá,giảm áp lực lạm phát,hoặc có thể đề phòng trước về lạm phát.Theo mình nghĩ,việc tăng hay giảm lãi suất cơ bản cần phải căn cứ vào lượng tiền cần lưu thông,bám sát tín hiệu thị trường chứ ko phải cứ muốn tăng lên bao nhiêu cũng đc.Nền kinh tế sẽ khủng hoảng nhanh chóng.Chỉ đơn cử 1 ví dụ.DN vay vốn NH thời điểm trước khi tăng lãi suất cơ bản là 12% nhé.Khi lãi suất cơ bản được tăng lên 8%/năm,DN chịu lãi suất tín dụng NH là 14%,hiển nhiên là DN sẽ giảm đầu tư,GDP giảm >nhân công sẽ bị sa thải bớt,làm tổng cầu bị giảm.NH huy động nhiều vốn nhưng nó bị ứ đọng thì sẽ rất là nguy hiểm,ko đẩy đc tín dụng ra,nền kinh tế sẽ tăng trưởng chậm đi,số tiền nhàn rỗi có thể lại bị dùng vào đầu tư tài chính Ngoài ra DN vay vốn hỗ trợ lãi suất cũng sẽ trở nên khó khăn vì bỗng nhiên phải vay với lãi suất cao gấp nhiều lần khi ngừng hỗ trợ lãi suất! Còn về việc thay đổi dự trữ bắt buộc,ý bạn là giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm tăng cung ứng tiền
- á?Như vậy thì thắt chặt tiền tệ làm gì nữa!1 sự giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể khiến lãi suất của NH giảm,cả lãi suất huy động và cho vay và ngược lại! Chính sách tiền tệ 2010: Mục tiêu tăng trưởng sẽ chiếm ưu thế? Lao Động số 45 Ngày 01/03/2010 Cập nhật: 8:51 AM, 01/03/2010 Nếu nền kinh tế càng ngày càng ổn định hơn thì NHNN cần sử dụng nhiều hơn những công cụ của chính sách tiền tệ thay vì những biện pháp hành chính. (LĐ) - Trước những thành quả, cũng như những thách thức mà NHNN đang phải đối phó, TS Nguyễn Trí Hiếu có nhiều suy nghĩ về vị thế và vai trò của NHTƯ Việt Nam. Lao Động có cuộc trò chuyện với ông về vấn đề này. TS Nguyễn Trí Hiếu là chuyên gia có hơn 30 năm làm việc trong lĩnh vực ngân hàng tại Đức và Hoa Kỳ. Ông đã từng làm luận án tiến sĩ tại University of Munich (Đức) về sự vận hành và tiến trình quyết định của các ngân hàng trung ương (NHTƯ) tại Nam và Đông Nam Châu Á. - NHNN tuyên bố sẽ điều hành CSTT trong năm 2010 đáp ứng hai mục tiêu tăng trưởng, kiềm chế lạm phát. Với hai mục tiêu có phần trái ngược nhau như vậy NHNN có thể đạt được không? - Mục tiêu tăng trưởng và kiềm chế lạm phát là hai mục tiêu phải được thực hiện song hành về lâu dài. Tuy nhiên, trong ngắn hạn và đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế còn bị đe doạ bởi những hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính, hai mục tiêu này có khả năng xung đột nhau vì kích thích tăng trưởng là phải tăng cung tiền và dễ đưa đến tỉ lệ lạm phát cao. Và ngược lại, để kiềm chế lạm phát, cung tiền phải được kiểm soát chặt chẽ đưa đến sự suy giảm mức tăng trưởng kinh tế. Trong năm 2009, NHNN đã thành công trong việc kích thích tăng trưởng ở mức 5,3%, trong khi kiềm chế lạm phát ở mức 6,5%. Sang năm 2010, NHNN có khả năng đáp ứng cả hai mục tiêu, nhưng mục tiêu tăng trưởng có thể sẽ chiếm ưu thế vì tình hình kinh tế thế giới sẽ biến chuyển thuận lợi hơn, tạo điều kiện cho VN tăng trưởng nhanh hơn so với năm ngoái. Để đạt mức tăng trưởng 6,5% cho 2010, có lẽ chúng ta phải chấp nhận một mức độ lạm phát cao hơn 7%. Một mức lạm phát 7-9% có thể chấp nhận được. - Có một số ý kiến cho rằng thời gian qua, đặc biệt từ cuối năm 2008 đến nay, NHNN đã sử dụng nhiều biện pháp hành chính trong điều hành. Ý kiến của ông về vấn đề này? - Nền kinh tế nào cũng phải có vai trò điều tiết của nhà nước, nhất là trong bối cảnh của VN - một đất nước đang trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường. Đặc biệt trong bối cảnh năm 2009, khi kinh tế VN nói chung, hệ thống NH nói riêng phải đương đầu nhiều khó khăn, thách thức gay gắt do tác động khủng hoảng tài chính và suy thoái của kinh tế thế giới. Trong một số tình huống có nguy cơ dẫn đến tính khủng hoảng, NHNN cần mạnh tay can thiệp bằng những biện pháp hành chính. Tuy nhiên, sau cơn khủng hoảng, NHNN nên nới lỏng và sử dụng cơ chế thị trường để điều tiết thị trường. Biện pháp hành chính tăng LSCB từ 7% lên 8% vào tháng 11 năm ngoái và giữ đến nay bị coi như là
- một trong những nguyên nhân làm suy giảm khả năng huy động vốn của các NHTM và do đó suy giảm tính thanh khoản trên toàn thị trường tài chính. Thay vì sử dụng LSCB, NHNN có thể điều tiết lãi suất qua nghiệp vụ thị trường mở qua việc bán ra hay mua vào những chứng từ có giá và do đó rút vào hay bơm ra một lượng tiền cần thiết để điều chỉnh cung tiền và cùng với đó đạt được mức lãi suất chỉ đạo. Trong năm 2010 nếu nền kinh tế càng ngày càng ổn định hơn thì NHNN cần sử dụng nhiều hơn những công cụ của CSTT thay vì những biện pháp hành chính, như nghiệp vụ thị trường mở, chiết khấu, tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc để điều tiết cung tiền. - Các quyết định của NHNN sẽ tác động đến giá cả. Vì vậy, quá trình ra quyết định thường được giữ bí mật. Thị trường trông đợi gì ở NHNN? - NHNN VN đang tiến dần đến một mô hình một NHTƯ của một nền kinh tế trưởng thành. Ngày trước một số chỉ tiêu tài chính được xem là bí mật quốc gia, thì ngày nay đã được công khai hóa. Tuy nhiên, thị trường tài chính chờ đợi ở NHNN một sự trong suốt hơn trong CSTT qua việc công bố những chỉ tiêu như: Chỉ tiêu về cung tiền, mức lãi suất, tỉ giá hối đoái, dự trữ ngoại hối. Việc công khai hoá những chỉ tiêu này không những tạo sự an tâm của thị trường về CSTT của NHNN mà còn giúp thị trường dự đoán chính xác hơn những biện pháp của NHNN. - Những khó khăn, thách thức nào mà NHNN sẽ phải đương đầu năm 2010. Theo ông, vấn đề gì cần phải được xử lý ngay để hỗ trợ NHNN thực hiện tốt được vai trò của mình với nền kinh tế? - Sang năm 2010, chúng ta đã vượt qua khỏi đáy của cuộc khủng hoảng toàn cầu. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng vẫn chưa chấm dứt, nhiều quốc gia vẫn có độ tăng trưởng âm hoặc rất thấp và nhiều quốc gia đã trở lại chế độ bảo hộ mậu dịch, tiếp tục gây khó khăn cho hàng xuất khẩu VN. Nhiều DN trong nước tiếp tục gặp khó khăn, doanh thu suy giảm, hàng tồn kho ứ đọng, hạn chế hay mất khả năng trả nợ NH. Chính vì những rủi ro tiếm ẩn đó, NHNN nên tăng cường giám sát chất lượng tài sản cho vay của các tổ chức tín dụng, để giúp các ngân hàng kịp thời phát hiện rủi ro tín dụng và có những biện pháp thích hợp để kiểm soát và hạn chế nợ xấu phát sinh. Chính sách tiền tệ đa mục tiêu Những ý kiến của ông Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) nêu bối cảnh việc thực hiện nhiệm vụ "đa mục tiêu" của chính sách tiền tệ thời gian tới. Ngày 20/4, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo: chính sách tiền tệ cần linh hoạt nhằm đảm bảo tăng trưởng 6,5%, không để lạm phát cao, đẩy mạnh xuất khẩu và phải giảm nhập siêu TS Võ Trí Thành: Có thể nói vào cuối 2009 đến đầu 2010, kinh tế thế giới phục hồi và còn bất định với hàm nghĩa rủi ro. Đầu năm 2010, IMF nói rằng tăng trưởng thế giới khoảng 4,1%, hồi phục có vẻ chưa chắc chắn: Một loạt sự đổ vỡ ở Dubai vào cuối năm ngoái; 200 ngân hàng sụp đổ; hệ thống tài chính vẫn được nhận định còn tiềm ẩn rủi ro.
- Một vấn đề đặt ra trên cả toàn thế giới là tỷ lệ thất nghiệp cao và tỷ lệ này ngày càng tăng lên và rất khó có thể giảm. Về Việt Nam, các nhìn nhận về kinh tế vĩ mô từ ba bốn tháng trở lại đây có nhiều thay đổi. Nếu nhìn vào tăng trưởng thì đều dự báo là 6,5 và đa số thận trọng là 5,5 - 6%. Để hài hòa giữa tăng trưởng và lạm phát, cần minh bạch trong nguồn vốn và chính sách; phối hợp chặt chẽ giữa lãi suất - tỷ giá và tín dụng; can thiệp vĩ mô khi cần thiết. Nếu giải quyết được những mối quan hệ trên thì sẽ có khả năng kiềm chế được lạm phát. Áp lực lạm phát trước hết sẽ gây khó khăn trong điều hành chính sách tiền tệ. Đó là việc cân bằng lãi suất giữa đồng nội tệ và ngoại tệ, giữa lãi suất và tỷ giá, giữa chính sách tài khóa và tiền tệ, trong đó đặc biệt lưu ý tốc độ tăng trưởng tín dụng phù hợp. Trong điều hành chính sách tiền tệ thì có một vấn đề khó khăn, đó là cân bằng lãi suất giữa nội tệ và ngoại tệ để làm sao người dân tin vào đồng nội tệ. Chúng ta phải rất thận trọng về câu chuyện sai lệch cơ cấu đồng tiền trong thời gian tới, nếu không giám sát tốt giữa đồng đô la và tiền mặt thì trong quí 3, 4, thị trường ngoại hối sẽ rất căng thẳng. Nhìn trên kênh tỷ giá, tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế khá cao với khoảng hơn 20 tỷ USD và 500 tấn vàng đang được găm giữ trong dân. Con số được ghi vào sai số trong cân đối cán cân thanh toán (BOP) năm 2009 là 9,7 tỷ USD. Một trong những yếu tố tác động lớn tới tỷ giá là vấn đề trung chuyển dòng ngoại tệ. Tại Việt Nam (VN), quá trình này rất phức tạp, không chỉ trong quan hệ giữa trong nước và quốc tế mà còn ở ngay trong nội tại nền kinh tế. Việt Nam là một nền kinh tế đô-la hóa rất cao nên người dân dễ dàng dịch chuyển từ tài sản đánh giá bằng đồng nội tệ sang tài sản đánh giá bằng ngoại tệ, bao gồm cả vàng. Quá trình này có diễn ra mạnh mẽ hay không phụ thuộc nhiều vào niềm tin của người dân đối với thị trường tài chính, vào đồng tiền. Như vậy, việc giữ được lạm phát ở mức thấp hay không sẽ tác động lớn đến tỷ giá. Trong trường hợp lạm phát tăng cao, lượng đôla bị găm giữ trong nền kinh tế nhiều khả năng cũng sẽ gia tăng. Điều này sẽ hạn chế rất nhiều tính hiệu lực của chính sách tiền tệ khi Chính phủ không thể kiểm soát được cung tiền cho nền kinh tế. Hiện tượng đôla hóa nền kinh tế, khi đó, sẽ trực tiếp ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đầu năm đến nay, các luồng vốn vào VN tốt hơn, như vậy, thâm hụt vãng lai giảm so với dự báo, không đến nỗi trắc trở so với cách đây 3 - 4 tháng. Thị trường nội địa là "bà đỡ" rất tốt trong những lúc kinh tế khó khăn. Đứng ở góc độ doanh nghiệp, thị trường trong nước còn rất nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, sản xuất hàng hóa lại nhập khẩu khá nhiều nguyên liệu. Nếu không giải quyết được nguồn nguyên liệu tại chỗ thì việc thực hiện chủ trương "ưu tiên dùng hàng Việt" sẽ thiếu thực tế vì các nhà sản xuất phải vay ngoại tệ để nhập đầu vào mà khi bán sản phẩm lại thu nội tệ. Trong tình hình tỷ giá không ổn định, hàng hóa sẽ rất khó cạnh tranh mà doanh nghiệp cũng khó chủ động hạch toán kinh doanh dài hạn. Hiện nay có nhiều quan điểm cho rằng vấn đề lãi suất trần, huy động là phải theo thị trường. Nhưng để vận hành tốt cơ chế bỏ "trần" trong tín dụng, phải có 3 điều kiện: (1) Chống lại được rủi ro hành vi đạo đức của một số ngân hàng. (2) Chống lại được sự đổ vỡ của thành quả. (3) Tăng vốn cho ngân hàng và tập trung giám sát. Nếu nhìn lại từ năm 2007 đến nay thì bản chất chính của chính sách điều hành kinh tế vẫn là lãi suất. Trong khi đó, áp lực về phía doanh nghiệp so với thời kỳ năm 2008 đã đỡ hơn rất nhiều nhờ những
- tháo gỡ về chính sách nguồn vốn cho doanh nghiệp và thậm chí cả cách cung cấp thông tin cũng như có nhiều trấn an với các doanh nghiệp. Đặc biệt là Đảng, Chính phủ đã có những chính sách linh hoạt trong cách điều hành. Chính sách tiền tệ 2010: Cân bằng lạm phát và tăng trưởng Mục tiêu vừa thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, vừa kiềm chế lạm phát có thể khiến Việt Nam chấp nhận những thay đổi về chính sách tiền tệ, tài khóa năm 2010, Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia Hà Huy Tuấn nhận định. > 3 bài toán cho kinh tế VN thời hậu khủng hoảng - Giới đầu tư và doanh nghiệp hiện rất quan tâm đến một báo cáo mới đây của HSBC, trong đó nhận định CPI của Việt Nam năm nay sẽ lên trên 10%, lãi suất cơ bản tăng lên 12%. Ông đánh giá như thế nào về dự báo của HSBC? - Tôi cho rằng họ có lý do để đưa ra nhận định như vậy và đây cũng không phải là cơ quan duy nhất đưa ra dự báo khác với chỉ tiêu của Việt Nam. Có thể dự báo của họ căn cứ vào độ trễ của chính sách tiền tệ, tài khóa trong năm 2009, khiến lạm phát năm nay có thể tăng lên. Mặt khác, họ cũng dựa vào kỳ vọng tăng trưởng của Việt Nam, bởi khi đặt mục tiêu tăng trưởng 6,5% trong năm 2010, thì chính sách tài khóa, tiền tệ không thể thắt chặt quá mức. Đây chính là mặt trái của chính sách. Nhưng dù sao dự báo vẫn là dự báo. Vấn đề ở đây là cách xử lý của Chính phủ trước tình hình. Khi đưa ra mục tiêu tăng trưởng này, Chính phủ cũng đã cân nhắc về chính sách tài khóa, cung tiền trong năm 2010 và nói chung các chính sách sẽ được sử dụng rất linh hoạt. - Khái niệm "linh hoạt" nên được hiểu như thế nào trong tình hình năm nay? - Linh hoạt có nghĩa là có thể thay đổi, nhưng việc thay đổi phải dựa vào các yếu tố khách quan, do yêu cầu của tình hình kinh tế, đồng thời đáp ứng mục tiêu của Chính phủ. Chính sách về dài hạn có thể không thay đổi, nhưng trong từng giai đoạn thì có thể thay đổi, ví dụ chính sách tiền tệ phải đáp ứng 2 yêu cầu trong năm nay là tăng trưởng kinh tế và kìm chế lạm phát. - Theo ông, mức độ điều chỉnh liều lượng các chính sách trong năm nay như thế nào là hợp lý? - Trong bối cảnh hiện nay, để kiềm chế lạm phát thì cả chính sách tiền tệ và tài khóa đều cần thắt chặt ở mức độ nhất định. Tuy nhiên, để phát triển được kinh tế thì mức độ thắt chặt với doanh nghiệp chỉ ở mức vừa phải. Trong khi đó, để đảm bảo an sinh xã hội và thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế, thì cần sử dụng các chính sách tài khóa. Đó cũng là cách Chính phủ đang điều hành để giữ cân bằng. Một chính sách khác không thể không nhắc đến là thương mại. Nếu chính sách thương mại và tiền tệ, tài khóa kết hợp tốt, thì sẽ hạn chế được sự mất cân đối trong cán cân thương mại. - Thông thường, doanh nghiệp và giới đầu tư rất sợ những rủi ro chính sách. Theo ông, làm thế nào để họ không bị xáo trộn khi chính sách trong năm nay có thể liên tục được điều chỉnh? - Tôi cho rằng cần tăng cường đối thoại giữa doanh nghiệp và cơ quan hoạch định chính sách. Mặt khác, khi các cơ quan này nghiên cứu và hoạch định, cần tính toán mức độ ảnh hưởng của nó đó đến các chính sách khác. Thứ ba, là khi chuẩn bị ban hành chính sách mới, cần có thông tin trước, mang tính cảnh báo, như là dự lệnh để khi ban hành sẽ không đột ngột. - Thực tế trên thị trường tài chính, có những tin đồn chỉ là tin đồn, trong khi những tin đồn khác trở thành tin chính thức. Làm thế nào để nhà đầu tư và doanh nghiệp nhận biết dự lệnh từ cơ quan điều hành chính sách? - Tin đồn là một thực thể của nền kinh tế thị trường, vì thế đầu tiên nhà đầu tư cần tỉnh táo để phân tích tính hợp lý của tin đồn. Thứ hai là cần có sự trao đổi giữa doanh nghiệp và cơ quan nhà nước, trong đó các cơ quan cần có thông tin kịp thời. Thứ ba là nếu cơ quan nhà nước điều hành chính sách theo đúng
- tín hiệu thị trường có sự điều tiết của nhà nước, thì cơ bản doanh nghiệp và nhà đầu tư có thể phần nào tiên liệu các bước tiếp theo. - Mới đây lãi suất liên ngân hàng qua đêm gia tăng, khiến Ngân hàng Nhà nước phải có biện pháp can thiệp. Ông đánh giá như thế nào về hiện tượng này, ngay sau khi hỗ trợ lãi suất ngắn hạn kết thúc? - Tôi cho rằng cần xem xét hiện tượng này có mang tính bản chất hay không, như có phải do tính thanh khoản hay vốn của ngân hàng có vấn đề, để tiên liệu diễn biến của thị trường. Nếu đó là hiện tượng đột biến trong một thời gian nào đó, thì có thể yên tâm là tình hình sẽ ổn định trở lại. Tôi cho rằng, Ngân hàng Nhà nước sẽ có cách xử lý, và thời gian qua họ cũng có biện pháp, bởi hơn ai hết, họ là cơ quan có trách nhiệm về vấn đề này. Chính sách tiền tệ năm 2010: Siết chặt sau nới lỏng! Thứ hai, 28/12/2009, 15:22 GMT+7 Giảm mức tăng tổng phương tiện thanh toán, điều hành cung ứng tiền chặt chẽ hơn và tăng hệ số an toàn vốn gấp nhiều lần năm 2009 cho thấy một tín hiệu NHNN quyết tâm thực hiện mục tiêu siết chặt tăng trưởng tín dụng trong năm mới. Những con số Không hẳn phải chờ đến những ngày cuối cùng trong năm mới dò đoán được phương hướng chủ đạo trong các biện pháp điều hành chính sách tiền tệ của NHNN cho năm 2010. Ngay từ những tháng cuối năm 2009, những biện pháp điều hành chính sách tiền tệ của NHNN bắt đầu cho thấy dấu hiệu chuyển dần từ nới lỏng sang chính sách thắt chặt. Trong lúc thực hiện mở rộng tín dụng đối với nền kinh tế, phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế và định hướng tăng trưởng tín dụng của hệ thống, NHNN cũng yêu cầu hệ thống TCTD không được hạ thấp các điều kiện cho vay và kiểm soát chặt chẽ vốn cho vay lĩnh vực phi sản xuất. Việc đáp ứng các nhu cầu vốn phục vụ kinh doanh bất động sản, đầu tư chứng khoán hay cho vay tiêu dùng, kinh doanh theo đó sẽ bị kiểm soát chặt chẽ hơn trong thời gian tới. Điều chỉnh giảm các chỉ tiêu tăng trưởng, từ mức 28,7% tăng tổng phương tiện thanh toán và 37,73% tăng trưởng tín dụng đối với nền kinh tế đến cuối năm 2009 xuống chỉ còn 25% trong năm 2010 cho thấy quyết tâm rõ rệt và cụ thể nhất của NHNN. Thống đốc NHNN – ông Nguyễn Văn Giàu - hôm 23.12 chỉ đạo rất rõ, tăng trưởng tín dụng trong năm 2010 phải phù hợp với tăng trưởng kinh tế vĩ mô. Với định hướng này, tất cả các TCTD không được làm nóng lên các thị trường khác hay tạo thị trường ảo cho các thị trường khác mà cụ thể là bất động sản và chứng khoán. “Các TCTD không phải rút kinh nghiệm nữa mà là không nên tham gia vào việc làm nóng hai thị trường này” – ông Nguyễn Văn Giàu nhấn mạnh. Những quy định về tín dụng đối với hai thị trường này theo đó cũng sẽ được NHNN rà soát lại một cách có hệ thống. Nhức nhối và cởi trói Điều hành theo hướng nào với những biến động và bất cập trên thị trường lãi suất ngân hàng là mối quan tâm lớn của hệ thống NHTM hiện nay. Với hướng kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng tín dụng, Phó Thống đốc NHNN Trần Minh Tuấn cho biết, NHNN sẽ chỉ đạo các TCTD cơ cấu lại tài sản và nguồn vốn theo hướng an toàn và bền vững. Cơ cấu tín dụng sẽ tiếp tục được chuyển dịch mạnh theo ngành, lĩnh vực, địa bàn, kỳ hạn và khách hàng vay. Các nhu cầu vốn thuộc lĩnh vực phi sản xuất sẽ vẫn nằm trong nhóm đối tượng bị hạn chế cho vay. Song dẫu có bị siết chặt, điều mà nhiều “đại gia” trong hệ thống các NHTM hiện nay bức xúc lại quanh quẩn quanh vấn đề lãi suất hay trần lãi suất theo quy định. Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng VN – bà
- Dương Thu Hương - một lần nữa lên tiếng cho rằng, cơ chế trần lãi suất theo lãi suất cơ bản hiện nay đang khiến biểu lãi suất trên thị trường bị thô cứng, không mang yếu tố thị trường và không linh hoạt. Gay gắt hơn, TGĐ BIDV – ông Trần Anh Tuấn - đề nghị cần thanh tra ngay các NHTM có lãi suất huy động vượt trần 10,5%/năm vì nguy cơ tạo nên bất ổn cho thị trường và nền kinh tế. “Đây là biểu hiện không bình thường và không thể để một vài NH không bình thường kéo cả hệ thống vào hoạt động không bình thường” – ông Trần Anh Tuấn nói. Khó khăn với kênh huy động vốn từ dân cư buộc nhiều NHTM phải tìm kiếm nguồn vốn từ NH bạn qua kênh thị trường liên NH. Chính làn sóng này đẩy lãi suất trên thị trường liên NH lên cao và NH càng sẵn “lương khô” càng được hưởng lợi nhiều. “Nên sửa ngay quy định trần lãi suất không vượt quá 150% lãi suất cơ bản và áp dụng việc điều hành lãi suất bằng cơ chế khác. Như thế sẽ trả lại tính thị trường cho hoạt động ngân hàng” – bà Dương Thu Hương đưa ý kiến. Liên quan đến hiện tượng ngân hàng xé rào huy động và cho vay, Thống đốc NHNN – ông Nguyễn Văn Giàu cho biết, không loại trừ NHNN sẽ nâng hệ số an toàn (bao gồm các tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, tỉ lệ vốn thanh toán và các tỉ lệ trích lập dự phòng rủi ro ) lên tiệm cận dần với thông lệ quốc tế là 14-15% thay vì 8% như hiện nay.(Nguồn: LĐ, 28/12) Chính sách tiền tệ 2010: Nhiều thách thức và biến động Những tin đồn xung quanh việc tăng lãi suất cơ bản đầu năm 2010 cùng với việc tăng tỷ giá USD liên ngân hàng và giảm lãi suất tiết kiệm đồng USD ngay trước thềm Tết Âm lịch báo hiệu một năm đầy thách thức với chính sách tiền tệ của Việt Nam. Vậy, đâu là những áp lực chính lên chính sách tiền tệ của Việt Nam năm nay? Lạm phát và tăng trưởng Năm 2009, trong khi chính phủ các nước trong khu vực sử dụng các gói kích cầu khổng lồ song vẫn duy trì được mức độ lạm phát âm hoặc xấp xỉ bằng không thì Việt Nam (và Ấn Độ) lại xuất hiện lạm phát khá sớm và cao hơn nhiều so với mặt bằng chung. Vì thế, cũng không khó hiểu khi Chính phủ quyết định thu hẹp gói kích cầu sớm hơn so với nhiều quốc gia khác, mặc dù nếu có khả năng tiếp tục duy trì, chắc chắn sẽ đảm bảo tăng trưởng kinh tế vững chắc hơn. Bản chất của quyết định cắt giảm gói kích cầu cũng như tăng lãi suất cơ bản là thắt chặt chính sách tiền tệ để nhằm kiềm chế lạm phát, hy sinh tăng trưởng ngắn hạn vì mục tiêu phát triển bền vững và đảm bảo chất lượng cuộc sống. Sử dụng chính sách tiền tệ để điều tiết nền kinh tế là đúng đắn, nhưng thắt chặt chính sách tiền tệ khi nền kinh tế chưa thực sự hồi phục và còn nhiều khó khăn phía trước lại là một quyết định không dễ dàng. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã và đang đứng trước một quyết định hết sức khó khăn trong định hướng nền kinh tế. Câu chuyện vẫn chưa dừng ở đó. Bước sang năm 2010, CPI tháng 1 đã dội một gáo nước lạnh vào nền kinh tế, cùng với những tiên đoán về mức lạm phát của Việt Nam cả năm sẽ ở mức hai con số càng đè nặng lên vai những người làm chính sách. CPI tháng 2 của cả hai thành phố lớn là Hà Nội và TP. HCM tăng rất mạnh (2,16% và 1,68%) cùng với quyết định tăng lương cơ bản vào tháng 5 tới, không khó tưởng tượng ra áp lực lên chỉ số giá tiêu dùng cả nước. Nếu lạm phát cao hơn nhiều so với dự tính, khó có thể trì hoãn việc tăng lãi suất cơ bản hoặc thực hiện các biện pháp hành chính gián tiếp can thiệp vào thị trường, nhằm giảm nguồn cung tiền tệ. Cái khó là tăng bao nhiêu và tăng như thế nào để cân bằng giữa kiềm chế lạm phát và giữ mức tăng trưởng mục tiêu đã đề ra.
- Điều chỉnh tỷ giá và rủi ro tiềm ẩn Mặc dù có những ý kiến trái chiều, nhưng đa số các NĐT đều nhận định, điều chỉnh tỷ giá đồng Việt Nam là quyết định đúng đắn và kịp thời của NHNN để giải quyết những bất cập trên thị trường, nhằm kích thích nguồn cung ngoại tệ phục vụ cho xuất khẩu và cải thiện nguồn dự trự ngoại hối. Tuy nhiên, quyết định này đang tạo áp lực kép lên tình hình lạm phát nếu không có những biện pháp xử lý kịp thời. Việt Nam trong những năm gần đây luôn ở trong tình trạng nhập siêu, vì thế việc giảm giá của đồng Việt Nam mặc dù tốt cho xuất khẩu nhưng lại ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu. Nếu quyết định tăng tỷ giá đồng USD liên ngân hàng không giải quyết được tận gốc nhu cầu về ngoại tệ của DN và thị trường ngoại tệ không chính thức vẫn hoạt động như trước đây thì DN vẫn phải mua ngoại tệ bên ngoài với tỷ giá cao. Do chúng ta nhập khối lượng rất lớn nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất, tăng tỷ giá ngoại tệ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, mà người chịu thiệt cuối cùng vẫn là người tiêu dùng. Như vậy, NHNN giải quyết được vấn đề này lại phát sinh áp lực lên vấn đề khác, mà vấn đề ở đây lại là nguy cơ lạm phát. Do đó, NHNN cần sớm có những biện pháp để bình ổn thị trường ngoại tệ và hỗ trợ tốt hơn DN nhập khẩu để giảm thiểu tối đa những tác động tiêu cực tới nền kinh tế và hạn chế những ảnh hưởng phụ của chính sách tiền tệ. Điều chỉnh quy định trần lãi suất theo hướng nào? Không thể phủ nhận những lợi ích của quy định về trần lãi suất trong điều tiết thị trường tiền tệ trong những hoàn cảnh kinh tế nhất định. Còn những hạn chế về quy định trần lãi suất, không phải là NHNN không nhận ra, nhưng không dễ gì đưa ra được những biện pháp tốt hơn, vừa cân bằng cung - cầu tiền tệ trên thị trường mà không xáo trộn hệ thống tiền tệ, gây ảnh hưởng tiêu cực tới NĐT. Nếu lạm phát tiếp tục diễn ra theo chiều hướng xấu, NHNN sẽ phải sử dụng công cụ lãi suất để điều tiết nền kinh tế. Rút kinh nghiệm năm 2008, yếu tố tâm lý có khả năng được chú trọng hơn, do đó, quyết định bỏ ngay trần lãi suất khó có thể xảy ra. Tuy nhiên, NHNN hoàn toàn có thể giữ nguyên trần lãi suất nhưng nới lỏng biên độ, tăng thêm tính linh hoạt cho các ngân hàng. Một giải pháp khác là kết hợp sử dụng các biện pháp hành chính để giảm thiểu tối đa tác động tâm lý NĐT. Có thể nói, 2009 là một năm vô cùng khó khăn cho nền kinh tế nhưng lại không khó để đoán biết trước các chính sách tiền tệ của NHNN. Nhưng năm 2010, tình hình có nhiều đổi khác. Trong báo cáo phân tích của Russell Investments về tình hình khu vực châu Á Thái Bình Dương năm 2010 có nhận định: sự thành công của mỗi quốc gia năm nay không phải phụ thuộc vào các nước đoàn kết với nhau như thế nào, mà là Chính phủ mỗi quốc gia xử lý như thế nào để hạn chế những khó khăn của thời kỳ hậu khủng hoảng, và sẽ không có một lời giải chung. Có vẻ như lời tiên đoán đó đang trở thành hiện thực và năm 2010 sẽ là năm đầy thách thức và biến động của chính sách tiền tệ nước ta.
- Chính sách tiền tệ của Việt Nam đang đi đúng hướng Đó là nhận định của ông Hisatsugu Furukawa, Chuyên gia Chính sách tiền tệ, Văn phòng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) trong cuộc trao đổi với chúng tôi về xung quanh chính sách tiền tệ của Việt Nam thời gian qua. Theo ông, chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong năm 2008 có những điểm hạn chế gì? Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang đi đúng hướng. Lãi suất đã được thay đổi linh hoạt và kịp thời. Lãi suất của dự trữ bắt buộc cũng được thay đổi linh hoạt. Tính thanh khoản của thị trường cũng được tăng lên thông qua việc Ngân hàng Nhà nước mua lại trái phiếu đã phát hành cho các định chế tài chính hồi tháng ba. Chính sách tiền tệ thắt chặt của Ngân hàng Nhà nước đã kiểm soát lạm phát một cách thành công. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh chính sách trong tháng 10 và bắt đầu chú ý nhiều hơn đến việc ổn định hoạt động kinh tế trong nước. Điểm hạn chế của chính sách tiền tệ trong năm 2008 là ở thị trường ngoại hối. Theo hệ thống tỷ giá hối đoái ít biến động hiện nay, nhiều lúc, khoảng cách giữ tỷ giá hối đoái chính thức và tỷ giá hối đoái trên thị trường phi chính thức đã dao động và bị nới rộng ra. Sự “chênh” giữa cung và cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối đã cản trở rất nhiều đến sự vận hành thông suốt và việc mở rộng lĩnh vực ngoại thương một cách ổn định. Ngân hàng Nhà nước cần phải xem lại việc quản lý hệ thống tiền tệ hiện nay để duy trì tính thông suốt trong các giao dịch hàng ngày. Bên cạnh những vấn đề liên quan trực tiếp đến thị trường tài chính, một điểm yếu khác của Việt Nam là hiệu quả đầu tư, kết quả là giá thành tăng cao. Một trong những lý do dẫn đến tình trạng lạm phát ở Việt Nam cao hơn những nước láng giềng có lẽ là năng lực sản xuất thấp trong so sánh với nhu cầu trong nước và hiệu quả đầu tư thấp. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã gặp những khó khăn gì khi ra quyết định đối với các chính sách tiền tệ, thưa ông? Để điều hành chính sách tiền tệ một cách hiệu quả, Ngân hàng Nhà nước cần phải có một thị trường tiền tệ hoạt động đầy đủ. Nhưng thị trường tiền tệ Việt Nam chưa phát triển tốt và Ngân hàng Nhà nước đã gặp khó khăn trong việc điều chỉnh chính sách tiền tệ một cách linh hoạt trên thị trường. Giới hạn về chủng loại và khối lượng các giấy tờ có giá được giao dịch trên thị trường tiền tệ, thiếu hệ thống môi giới minh bạch, thiếu luật điều chỉnh, trong khi sự thống trị của đồng tiền quốc gia bị giới hạn vì đồng USD chiếm phần lớn trong lưu lượng tiền tệ trên thị trường là những căng thẳng mà Ngân hàng Nhà nước đang gặp phải trong việc điều hành chính sách tiền tệ một cách hiệu quả.
- Điều chỉnh thông tin một cách có hệ thống và tin cậy, một hệ thống số liệu thống kê cũng chưa được trang bị tốt cho Ngân hàng Nhà nước. Nhiệm vụ trước mắt của Ngân hàng Nhà nước là phải cân bằng giữa áp lực lạm phát của nền kinh tế trong nước và yêu cầu về các biện pháp cần thiết để làm dịu bớt tác động tiêu cực của sự suy giảm sâu hoạt động kinh tế thế giới. Xuất khẩu của Việt Nam đang giảm nhanh và FDI đang chuyển hướng. Số lượng khách du lịch đến Việt Nam đang giảm. Lượng kiều hối cũng có thể sụt giảm. Để hỗ trợ hoạt động kinh tế, Chính phủ đã công bố gói giải pháp kích thích kinh tế. Gói giải pháp này sẽ giúp nền kinh tế Việt Nam năng động trở lại. Nhưng năng lực sản xuất trong nước của Việt Nam chưa đáp ứng kịp với nhu cầu trong nước, vì vậy, chúng ta cần thận trọng, tránh để xảy ra tình trạng tái phát và nhập khẩu lớn. Ông có bình luận gì về chính sách nới lỏng tiền tệ gần đây của Ngân hàng Nhà nước? Chính sách nới lỏng tiền tệ cho thấy Ngân hàng Nhà nước có khả năng có thể điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt. Chuyển từ mục tiêu kiềm chế lạm phát, tốc độ thay đổi chính sách tiền tệ hơi quá nhanh, vì lạm phát vẫn ở mức cao trên 20%. Nhưng nhìn chung, có thể nói rằng sự điều chỉnh của Ngân hàng Nhà nước là kịp thời. Những thay đổi chính sách nhanh chóng gần đây cho thấy rằng Ngân hàng Nhà nước đang thiết lập hệ thống thu thập thông tin tốt và nhiều cơ hội để đối thoại với các thành viên chính của thị trường, đó là một yếu tố rất quan trọng để chính sách tiền tệ được điều hành thật sự hiệu quả. Theo ông, triển vọng của thị trường tiền tệ Việt Nam trong năm tới là gì? 2009 sẽ là một năm khó khăn cho kinh tế thế giới và Việt Nam. Tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính Mỹ sẽ lan rộng trên khắp thế giới, không chỉ một vài quốc gia, cả những quốc gia đã phát triển và đang phát triển đều có thể phải đối mặt với khủng hoảng tài chính, sự sụt giảm kinh tế lớn và những khó khăn trong việc quản lý các món nợ và nợ xấu (NPL). Kinh tế thế giới đang đối mặt với áp lực giảm phát lớn và có thể trải qua tình trạng lạm phát trì trệ (stagflation). Nhưng tôi cho rằng, tác động tiêu cực đến kinh tế Việt Nam có thể giới hạn vì liên tục có nhu cầu đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng tại Việt Nam. Việt Nam cũng là nước có nguồn nhân lực và tài nguyên khá tốt. Hệ thống chính trị của các bạn ổn định. Câu hỏi cần đặt ra là làm thế nào quản lý và dành ưu tiên cho các khoản đầu tư đó, xét dưới góc độ
- hiệu quả đầu tư. Tôi nghĩ rằng, đã đến lúc lĩnh vực tài chính của Việt Nam phải nỗ lực hơn nữa để hiện thực hóa mục tiêu của Nghị định 112 và chuẩn bị cơ sở hạ tầng tài chính hiệu quả cho Việt Nam. 2009 sẽ là một năm có vai trò quyết định đối với lĩnh vực tài chính của Việt Nam. Chính sách tài chính - tiền tệ năm 2009 đã tạo kết quả tích cực cho tăng trưởng kinh tế và thực hiện dự toán thu chi ngân sách 09:21 | 03/10/2009 (ĐCSVN) - Ngày 2.10, dưới sự điều khiển của Phó chủ tịch QH Nguyễn Đức Kiên, UBTVQH đã nghe Chính phủ báo cáo về tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2009; dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán phân bổ ngân sách Nhà nước và phương án phân bổ ngân sách Trung ương năm 2010. Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế -xã hội năm 2009, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010, do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc, thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ trình bày, nêu rõ: năm 2009 nền kinh tế nước ta chịu tác động trực tiếp của khủng hoảng kinh tế thế giới, nhưng chỉ bị suy giảm, không rơi vào tình trạng suy thoái. Các chính sách ứng phó của Chính phủ đã ngăn chặn được suy giảm kinh tế, duy trì được tốc độ tăng trưởng hợp lý, và bền vững. Tuy nhiên, các chỉ tiêu về tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp, tạo việc làm, đào tạo nguồn nhân lực, xuất khẩu và tỷ lệ khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung đều không đạt kế hoạch QH đề ra. Báo cáo chỉ rõ, trong năm 2010, sẽ tập trung hoàn thiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời, chuẩn bị các điều kiện cần thiết làm tiền đề cho sự phát triển trong giai đoạn sắp tới, trong đó tập trung hướng tới thực hiện các đột phá lớn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ năm 2011 – 2020; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực cao; tập trung vào việc tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính Báo cáo thẩm tra của UB Kinh tế do Ủy viên UBTVQH, Chủ nhiệm UB Hà Văn Hiền trình bày cho rằng, bên cạnh những kết quả khả quan thì một số cân đối vĩ mô chưa thật sự vững chắc, còn nhiều yếu tố tiềm ẩn bất ổn; tăng trưởng kinh tế vẫn theo quy mô chiều rộng, chất lượng tăng trưởng chưa cao; việc giải ngân nguồn vốn đầu tư vẫn chậm. Việc triển khai thực hiện một số chính sách cụ thể trong gói giải pháp kích thích kinh tế còn có những hạn chế, vướng mắc như: trùng lắp về đối tượng được hỗ trợ lãi suất; triển khai vay hỗ trợ lãi suất chưa đồng bộ giữa các địa phương trên cả nước; số doanh nghiệp được vay vốn hỗ trợ lãi suất thấp, gây ra sự thiếu bình đẳng trong quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp và giảm đi ý nghĩa của chủ trương kích cầu. Do vậy, Thường trực UB Kinh tế đề nghị nên dừng chính sách hỗ trợ lãi suất vay vốn ngắn hạn đúng thời hạn đã được công bố (31.12.2009). Năm 2010 cần đặt trọng tâm vào mục tiêu giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; ngăn ngừa lạm phát cao; duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý gắn với mục tiêu nâng cao chất lượng tăng trưởng, tạo tiền đề thúc đẩy tăng trưởng cao hơn trong các năm tiếp theo. Báo cáo về tình hình thực hiện ngân sách Nhà nước năm 2009; dự toán ngân sách Nhà nước và phương án phân bổ ngân sách Trung ương năm 2010 do Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh trình bày, cho rằng: chính sách tài chính - tiền tệ năm 2009 đã tạo kết quả tích cực cho tăng trưởng kinh tế và thực hiện dự toán thu chi ngân sách, trong đó, số thu ngân sách Nhà nước vượt dự toán. Việc thực hiện chính sách miễn, giảm, giãn thuế tuy có làm giảm số thu ngân sách của nhiều địa phương, nhưng Chính phủ đã tích cực chỉ đạo nhiều biện pháp khắc phục, góp phần giảm số hụt thu của ngân sách Nhà nước so với Báo cáo đã trình QH; đáp ứng các nhiệm vụ chi phát sinh về đầu tư phát triển, an sinh xã
- hội và thực hiện các nhiệm vụ phòng chống thiên tai. Tuy nhiên, Báo cáo thẩm tra của UB Tài chính – Ngân sách của Ủy viên UBTVQH, Chủ nhiệm UB Phùng Quốc Hiển trình bày nêu rõ: chính sách tài chính - tiền tệ chưa tạo đòn bẩy để bước đầu chuyển đổi và tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng tích cực; gói kích thích kinh tế của Chính phủ còn mang tính bình quân và dàn đều, chưa có trật tự ưu tiên; triển khai quá nhiều mục tiêu nhưng giải ngân chậm. Các đối tượng khu vực nông nghiệp, nông thôn và nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa khó tiếp cận với chính sách cho vay hỗ trợ lãi suất làm giảm hiệu quả của chính sách tài khóa năm 2009. Lượng tiền bơm vào nền kinh tế lớn nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao, làm cho hệ số sử dụng vốn ICOR của toàn bộ nền kinh tế tăng lên rõ rệt, cùng với chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ được nới lỏng sẽ làm tăng nguy cơ lạm phát trong giai đoạn tới. Thường trực UB Tài chính – Ngân sách đề nghị, trong năm 2010, cơ cấu lại các khoản chi ngân sách Nhà nước; ưu tiên đầu tư cho con người và thực hiện chính sách an sinh xã hội; giảm dần tỷ trọng đầu tư phát triển từ nguồn vốn ngân sách và giảm dần bội chi ngân sách Nhà nước. Trong điều kiện nguồn thu ngân sách hạn hẹp, nhu cầu chi bảo đảm an sinh xã hội và chi đầu tư phát triển rất lớn, thì việc phân bổ ngân sách Trung ương năm 2010 cần ưu tiên để thực hiện chính sách cải cách tiền lương; bố trí tăng vốn đầu tư cho các vùng kinh tế động lực; bố trí đủ nguồn vốn đầu tư cho các công trình quan trọng, cấp bách. Một số Ủy viên UBTVQH đề nghị mức bội chi ngân sách trong năm 2010 không vượt qua mức 6%, và đưa kế hoạch cụ thể để giảm bội chi ngân sách Nhà nước dưới 5% trong các năm sau. Bởi do mức bội chi ngân sách Nhà nước năm 2010 là 125,5 nghìn tỷ đồng, tăng 10 nghìn tỷ đồng so với năm 2009 là mức tăng khá lớn. Trong khi đó, nếu bội chi ngân sách tiếp tục tăng cao thì sẽ ảnh hưởng đến các cân đối vĩ mô khác. Bên cạnh đó, Chính phủ cần phân tích rõ vì sao thu ngân sách trong năm 2009 tăng, mà mức bội chi vẫn tiếp tục tăng cao. Nhìn nhận rõ những yếu tố khiến mức bội chi ngân sách tăng cao trong năm 2009 sẽ rút kinh nghiệm trong cân đối thu, chi trong năm 2010./ NHÌN LẠI CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ THỜI GIAN QUA VÀ MỘT VÀI ĐỀ XUẤT Posted on 30/09/2009 by Civillawinfor NGUYỄN HÒA BÌNH – Chủ tịch HĐQT VCB 1. Điều hành chính sách tiền tệ 2008-2009 – những thành công lớn Theo nhận định của nhiều chuyên gia tài chính trong và ngoài nước, của giới ngân hàng cũng như công luận nói chung, việc điều hành chính sách tiền tệ trong hai năm qua đã thực sự thành công. NHNN đã có những quyết định hết sức nhanh nhậy, kịp thời trong điều hành lãi suất, tỷ giá, và những liệu pháp đó đã nhanh chóng có tác động điều tiết rõ rệt đối với thị trường. Có thể điểm lại một số ví dụ. - Về lãi suất Sau hơn hai năm giữ ổn định ở mức 8,25%/năm, lãi suất cơ bản (LSCB) đã được NHNN điều chỉnh tăng lên mức 8,75% từ 01/02/2008 và nhảy vọt lên mức 12% từ 19/05/08. Chưa đầy 1 tháng sau đó, từ ngày 11/06/09, LSCB đã được đẩy lên mức đỉnh – 14%. Cùng với LSCB, lãi suất tái chiết khấu (LSTCK), lãi suất tái cấp vốn (LSTCV) cũng liên tiếp được điều chỉnh tăng với đỉnh tương ứng là 13% và 15% áp dụng trong khoảng thời gian từ 11/06/08-20/10/08. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD cũng được điều chỉnh tăng trong khi lãi suất DTBB bị điều chỉnh giảm. NHNN còn phát hành trên 20.000 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc đối với các NHTM. Hình 1: Diễn biến LSCB của Việt Nam thời gian qua
- Nguồn: NHNN Việt Nam Chính sách tiền tệ thắt chặt với hàng loạt các động thái quyết liệt trên đã tạo ra một lực hút mạnh thu hút tiền từ lưu thông đồng thời làm giảm mạnh cấp tín dụng từ các NHTM ra thị trường. Và kết quả là lạm phát đã bị chặn đứng và đẩy lùi từ đỉnh điểm 3,91%/tháng (tương đương 25,2%/năm) trong tháng 5 xuống các mức thấp hơn trong quý 3 và thậm chí âm trong các tháng cuối năm. Tỷ lệ lạm phát cả năm 2008 chỉ còn là 19,89%. Sau khi đã thực hiện thành công vai trò kiềm chế lạm phát, NHNN đã từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ và lãi suất vẫn là một công cụ hết sức quan trọng. LSCB đã hạ dần từ đỉnh 14% xuống 13% (từ 21/10/08), 12% (từ 05/11/08) và liên tiếp được điều chỉnh tới 3 lần trong vòng 1 tháng cuối năm 2008 (11% từ 21/11/08, 10% từ 05/12/08, 8,5% từ 22/12/08) trước khi giữ ổn định ở mức 7% (từ 01/02/09) như hiện nay. Cùng với LSCB, LSTCK, LSTCV cũng được điều chỉnh giảm; các NHTM được bán tín phiếu bắt buộc trước hạn; Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được nới lỏng dần đi kèm với việc điều chỉnh lãi suất DTBB. Các công cụ trên đã tác động mạnh tới thị trường, làm tăng dần mức cung tiền cho nền kinh tế. Tăng trưởng tín dụng 2008 đạt ~ 23% (bằng gần ½ mức tăng của năm 2007), riêng 6 tháng đầu năm 2009 đạt ~ 17,1%, tăng ~ 17,8% so với cùng kỳ 2008. Tăng trưởng tín dụng đã góp phần chặn đà suy giảm, ổn định kinh tế vĩ mô. - Về tỷ giá Diễn biến tỷ giá ngoại tệ của Việt Nam từ đầu năm 2008 đến nay là hết sức phức tạp. Trong quý 1/2008, có những lúc tỷ giá USD liên ngân hàng xuống dưới 16.000 và tỷ giá thị trường tự do thậm chí còn thấp hơn trong ngân hàng. Nhưng chỉ qua đầu quý 2, tỷ giá lại tăng đến chóng mặt, có lúc đã lên tới 19.500. NHNN đã quyết định nới biên độ dao động từ +1% lên +2% (từ ngày 26/06/08) đồng thời triển khai hàng loạt các biện pháp khác: kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ, tăng cường truyền thông, công bố dự trữ ngoại hối của Việt Nam (điều chưa hề có tiền lệ tại Việt Nam), Nhờ đó, tỷ giá đã dần dịu lại và duy trì ở mức ~ 16.500 cho đến hết quý 3/08. Từ cuối năm 2008 đến nay, suy thoái kinh tế đã tác động mạnh đến nguồn cung ngoại tệ của Việt Nam; cộng thêm tâm lý găm giữ ngoại tệ của dân cư và các thành phần kinh tế đã dẫn đến tình trạng khan hiếm ngoại tệ, làm cho tỷ giá ngoại tệ luôn nóng, phố biến ở mức ~ 18.000. NHNN đã thêm hai lần điều chỉnh biên độ dao động tỷ giá (+3% từ 06/11/08 và +5% từ 23/03/09) và triển khai một số công cụ can thiệp khác. Vì vậy, tỷ giá ngoại tệ đang dần ổn định, nhu cầu ngoại tệ trong thanh toán những mặt hàng thiết yếu được đáp ứng cơ bản đầy đủ. - Hỗ trợ lãi suất
- Đầu năm 2009, Chính Phủ đã đưa ra gói kích cầu bao gồm các nhóm giải pháp cơ bản: (i)Với doanh nghiệp: giảm, giãn thuế TNDN, hỗ trợ lãi suất ở mức 4%; Với dân cư: trợ cấp người nghèo, giãn/miễn thuế TNCN, giảm VAT, đào tạo lao động; (3) Về phía Chính Phủ: tăng đầu tư cơ sở hạ tầng, tăng chi tiêu công, đẩy mạnh xúc tiến thương mại để tăng xuất khẩu. Nổi bật và có tác động rõ rệt nhất là chính sách hỗ trợ lãi suất mà ở đó vai trò của hệ thống ngân hàng và các công cụ chính sách tiền tệ một lần nữa lại được phát huy mạnh mẽ. Đến hết tháng 7/2009, tổng dư nợ cho vay HTLS của toàn hệ thống ngân hàng đã đạt 389.107 tỷ đồng, trong đó dư nợ đối với các doanh nghiệp nhà nước là 61.048 tỷ đồng, doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 259.454 tỷ đồng và với hộ kinh doanh là 68.605 tỷ đồng. Để đối phó với suy thoái, Chính Phủ của hầu hết các nước đều đưa ra các gói hỗ trợ lên tới hàng ngàn tỷ USD với cách thức chủ yếu là hỗ trợ trực tiếp: mua tài sản xấu, sở hữu vốn của các tập đoàn tài chính và tập đoàn công nghiệp lớn; chi tiền cho người nộp thuế, người tiêu dùng; thưởng tiền cho người hủy xe cũ, mua xe mới, Gói hỗ trợ của Chính Phủ Việt Nam được định lượng là 1 tỷ USD (trên 17.000 tỷ đồng) với cách làm rất sáng tạo, rất linh hoạt, rất “made in Việt Nam”. Phần lớn tiền hỗ trợ không được chi trực tiếp mà được hỗ trợ gián tiếp thông qua hỗ trợ lãi suất. Bằng cách này chúng ta đã kích thích tăng trưởng mạnh tín dụng, giúp các doanh nghiệp có được nguồn vốn giá rẻ nên giảm được giá thành sản phảm, duy trì ổn định sản xuất, kích thích được nhu cầu trong nước, Cũng đã có nhiều ý kiến trái chiều về chính sách hỗ trợ lãi suất của Chính Phủ rằng can thiệp như vậy sẽ làm méo mó hoạt động của các NHTM, làm như vậy thực chất là kích cung chứ không phải kích cầu, nên hạ lãi suất thay vì “trợ giá” qua lãi suất, nên hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp và người dân, . Và công bằng mà nói, chính sách này cũng đã gây ra một số tác động không mong muốn như: làm thay đổi cung cầu vốn ngoại tệ và VND (nhu cầu vay vốn VND tăng mạnh, một số khách hàng trả nợ trước hạn, trả nợ vay ngoại tệ chuyển sang vay bằng VND, ); tạo sức ép cho tỷ giá, Tuy nhiên, sau hơn nửa năm thực hiện hỗ trợ lãi suất, thực tệ ngày càng minh chứng cho tính đúng đắn của công cụ này. Thứ nhất, số tiền hỗ trợ của Chính Phủ có quy mô không lớn, sẽ không có tác dụng đáng kể nếu chi hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp và dân cư; chưa kể quá trình thực hiện có thể phát sinh nhiều tiêu cực. Thứ hai, nếu hạ lãi suất chúng ta có thể bị rơi vào “bẫy thanh khoản”[1], các NHTM không huy động được và cũng không cho vay được. Và rõ ràng là nếu không tăng được tín dụng cho nền kinh tế thì việc kích cầu chẳng có ý nghĩa gì. Thứ ba, hỗ trợ lãi suất qua tín dụng sẽ khuyến khích thúc đẩy sản xuất, kích thích tiêu dùng và vẫn đảm bảo các NHTM vẫn huy động được. Thứ 4, số tiền hỗ trợ qua tín dụng được khuyếch đại lên nhiều lần (~ 32 lần) tạo ra một nguồn vốn lớn cho đầu tư và tiêu dùng xã hội. 2. Nền kinh tế thế giới đã chạm đáy và kinh tế Việt Nam đã đến thời kỳ “hậu suy giảm”? Dù còn nhiều ý kiến trái chiều nhưng phần lớn các nhà kinh tế đều thống nhất nhận định, khủng hoảng kinh tế thế giới đã đang đi qua giai đoạn tồi tệ nhất và có nhiều dấu hiệu phục hồi vào cuối năm 2009, đầu năm 2010. Tất nhiên, mô hình phục hồi dạng chữ U, chữ L hay chữ W còn chưa ngã ngũ và còn tùy thuộc vào từng nền kinh tế. Thông tin từ các Bộ Tài Chính, Bộ Công thương, Tổng cục Thống kê cho biết giá trị sản xuất công nghiệp tháng 7 tăng 2,3% so với tháng 6 và 7,6% so với cùng kỳ 2008. Như vậy ngoại trừ tháng 1 tăng trưởng âm, 6 tháng còn lại đều có tốc độ tăng trưởng dương và tính chung 7 tháng, giá trị sản xuất công nghiệp đã tăng 5,1%. GDP 7 tháng đầu năm tăng 4,4% và dự báo cả năm sẽ đạt mức trên 5%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 7 tháng tăng 18,1% so với cùng kỳ 2008. CPI tháng 7 tăng 0,52% so với tháng 6, thấp hơn mức tăng của tháng trước (0,55%) đưa CPI 7 tháng
- đầu năm về mức 1 con số (9,25%). Kim ngạch xuất khẩu tháng 7 tăng 0,3% so với tháng 6. Tổng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu 7 tháng đạt tương ứng 32,4 tỷ USD và 35,4 tỷ USD giảm 13,4% và 34% so với cùng kỳ 2008. Mức nhập siêu 7 tháng ~ 3 tỷ USD (~ 10% tổng kim ngạch XNK, thấp hơn mức 40,8% cùng kỳ 2008). FDI cam kết đạt trên 9 tỷ USD với mức giải ngân ~ 4,5 tỷ USD. Theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế, kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi nhanh trong cuối năm 2009 và đầu 2010. 3. Những nguy cơ và một vài đề xuất cho cho thời gian tới Nền kinh tế Việt Nam đang có dấu hiệu dần ổn định và tăng trưởng trở lại. Tuy nhiên, vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Tốc độ tăng trưởng GDP còn thấp; tình trạng nhập siêu và thâm hụt cán cân thanh toán chậm được cải thiện; mức thâm hụt ngân sách cao; lạm phát có nguy cơ tăng do giá cả một số mặt hàng nhất là nguyên nhiên liệu đầu vào đang tăng và sẽ tiếp tục tăng khi kinh tế hồi phục. Về lĩnh vực tài chính tiền tệ, cuộc đua lãi suất của các NHTM đang có xu hướng nóng dần lên, một số NHTM bắt đầu gặp khó khăn về thanh khoản; Tăng trưởng tín dụng có dấu hiệu “nóng”; Tình trang khan hiếm ngoại tệ chưa được giải quyết triệt để, tỷ giá ngoại tệ còn diễn biến phức tạp. Như vậy, có thể thấy nền kinh tế Việt Nam đã tạm qua giai đoạn suy giảm và đang bắt đầu hồi phục với không ít khó khăn và nhiều nguy cơ đòi hỏi phải những nhà hoạch định chính sách tiền tệ phải đối mặt để ngăn chặn. Điều tiết mức cung tiền là nội dung cơ bản và cũng là quan trọng nhất của chính sách tiền tệ. Thông qua các công cự khác nhau như lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở, NHNN tác động điều tiết mức cung tiền nhằm ổn định tiền tệ, tác động vào nên kinh tế hướng đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Vai trò to lớn và ngày càng rõ rệt của các công cụ thực thi chính sách tiền tệ là thực tế hoàn toàn không thể phủ nhận. Từ giác độ NHTM, xin nêu ra một số đề xuất. Thứ nhất, ngoại trừ điều kiện bất khả kháng, nên tiếp tục duy trì lãi suất cơ bản như thời gian qua. Trong thời gian qua, lãi suất cơ bản đã thực sự trở thành công cụ quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ, chỉ báo nhạy bén của thị trường tiền tệ. Mỗi thay đổi của công cụ này đã gần như ngay lập tức có tác động điều tiết rõ rệt đối với thị trường. Tính đến thời điểm hiện nay đã là hơn 6 tháng NHNN giữ lãi suất cơ bản ở mức 7%. Điều này một mặt cho thấy sự ổn định của thị trường tiện tệ. Mặt khác, mức lãi suất thấp có tác dụng tích cực trong kích thích đầu tư, giảm khó khăn cho các doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vĩ mô – yếu tố rất cần thiết trong giai đoạn “hậu suy thoái”. Vì vậy, lãi suất cơ bản nên tiếp tục giữ ổn định ở mức như hiện nay. Thứ hai, nên xem xét thu hẹp phạm vi hỗ trợ lãi suất, tiến tời dừng thực hiện hỗ trợ lãi suất. Gần đây NHNN đang có hướng hạn chế dần mức cung tiền với các biện pháp: khống chế tăng trưởng dư nợ tín dụng của các NHTM Nhà nước, giảm lãi suất DTBB (xuống còn 1,2% từ 17/07/09), giảm tỷ lệ cho vay trung dài hạn trên tổng nguồn vốn ngắn hạn từ 40% xuống còn 30% (Thông tư 15/2009/TT- NHNN ngày 10/08/2009). Trước hết phải nói rằng, hạn chế mức cung tiền trong thời điểm hiện nay là một động thái đúng đắn khi tín dụng có xu hướng tăng nóng và cần thiết để ngăn chặn nguy cơ lạm phát. Áp lực tăng giá trong năm 2009 có thể còn thấp nhưng chắc chắn sang năm 2010 sẽ lớn hơn do các nền kinh tế bắt đầu phục hồi, nhu cầu đầu vào lớn đẩy giá cả của nguyên nhiên liệu tăng cao. NHNN nên xem xét đề xuất với Chính Phủ giảm dần, tiến tới ngừng hỗ trợ lãi suất. Tiếp tục duy trì hỗ trợ lãi suất một mặt sẽ tạo sức ép gia tăng lạm phát, mặt khác có thể dẫn đến việc sử dụng vốn thiếu
- hiệu quả gây tác động không tốt cho nền kinh tế và hệ lụy xấu cho các NHTM. Dừng hỗ trợ lãi suất cũng sẽ trực tiếp giảm áp lực bội chi ngân sách, giảm áp lực lạm phát. Tính đến hết tháng 7 năm 2009, tổng dư nợ tín dụng của toàn hệ thống đã tăng 22,76% so với cuối năm 2008. Thời gian qua, dư nợ tín dụng tăng mạnh không thể nói là không có lý do từ hiệu ứng của chính sách “hỗ trợ lãi suất”. Từ nay đến hết năm, nếu dừng hỗ trợ lãi suất, dư nợ tín dụng vẫn có thể tăng 28- 30%. Trong cơn bão khủng hoảng tài chính thời gian qua, các NHTM Việt Nam vẫn trụ vững nhờ đảm bảo tính an toàn trong hoạt động. An toàn hoạt động của các NHTM là nhân tố hết sức quan trọng đảm bảo tính an toàn của hệ thống, đảm bảo an toàn tiền tệ và ổn định kinh tế vĩ mô. Vì vậy, thời gian tới các NHTM cần đặc biệt chú trọng để duy trì an toàn hoạt động mà một trong các biện pháp là phải đảm bảo sự cân đối cần thiết theo kỳ hạn còn lại của các khoản mục tài sản và công nợ, đảm bảo tỷ lệ sử dụng vốn huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn theo quy định của NHNN. Thứ ba, các NHTM cần phối hợp chặt chẽ và tăng cường đồng thuận. Mỗi NHTM có một mục tiêu, chiến lược hoạt động riêng. Các NHTM là đối thủ cạnh tranh của nhau nhưng cũng đồng thời là đồng minh của nhau trong những “trận tuyến chung”: chống lạm phát, chống suy giảm kinh tế, Và sự tương hỗ, phối hợp hành động giữa các NHTM với nhau trong những giai đoạn khó khăn chung là hết sức cần thiết và quan trọng. Vai trò của Hiệp Hội Ngân hàng trong việc tăng cường sự phối hợp và đồng thuận của các NHTM cần được đẩy mạnh hơn nữa. Việc đồng thuận trong huy động vốn đặc biệt là ngoại tệ sẽ tạo thuận lợi cho cả nền kinh tế và phù hợp với mặt bằng thế giới. Đồng thuận trong áp dụng tỷ giá mua bán ngoại tệ sẽ làm giảm áp lực căng thẳng về ngoại tệ. Thứ tư, nên tăng cường cơ chế thông tin đại chúng về các vấn đề liên quan đến chính sách tiền tệ. Thực tế cho thấy, những biến động của thị trường tiền tệ, đặc biệt là diễn biến tỷ giá ngoại tệ chịu sự tác động khá lớn của yếu tố tâm lý. Vì vậy, thời gian tới NHNN cần tăng cường hơn nữa công tác thông tin đại chúng, định hướng dư luận, Nên xem xét chủ động và định kỳ công bố thông tin về dự trữ ngoại hối như các quốc gia khác vẫn làm. Thứ năm, cần tăng cường kiểm tra giám sát và xử lý nghiêm các sai phạm trong việc thực hiện các quy định liên quan đến chính sách tiền tệ: vi phạm về biên độ tỷ giá, về trần lãi suất, trong cho vay hỗ trợ lãi suất, vi phạm của các đại lý thu đổi ngoại tệ, Thời gian qua công tác này đã được NHNN hết sức chú trọng. Tuy nhiên để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các NHTM và đặc biệt là để các công cụ của chính sách tiền tệ thực sự phát huy tác dụng tích cực, cần phải xiết chặt hơn các chế tài đi đôi với tăng cường công tác kiểm tra của các cơ quan chức năng cũng như phát huy cơ chế giám sát chéo, cơ chế giám sát của cộng đồng, công luận, Nền kinh tế thế giới đang vượt qua suy thoái và dần hồi phục. Kinh tế Việt Nam cũng đang bước vào thời kỳ “hậu suy giảm”. Với những công cụ hữu hiệu và sự điều hành linh hoạt của NHNN, chắc chắn chính sách tiền tệ sẽ là động lực tạo đà thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam nhanh chóng phục hồi và tiếp tục phát triển bền vững. Nhìn lại năm 2009: Hai vấn đề nóng trong điều hành chính sách tiền tệ Theo ven.vn - 03/02/2010 (VEN) - Do tác động kéo dài của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, năm 2009 nền kinh tế nước ta liên tục phải đối đầu với nhiều khó khăn thách thức.
- Các chính sách cấp bách nhằm thực hiện mục tiêu chặn đà suy giảm kinh tế, ổn định thị trường tài chính - tiền tệ, trong đó có hai chính sách (nhóm giải pháp) nóng được đặt lên hàng đầu là chính sách hỗ trợ lãi suất và điều tiết, ổn định thị trường ngoại hối. Đó là hai nhóm giải pháp có mối quan hệ trực tiếp, rộng lớn đến cộng đồng DN và dân cư mà ngành ngân hàng đảm nhận trách nhiệm chính. Theo báo cáo ngày 23/12/2009 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Trung ương, ngay từ ngày đầu bước vào thực hiện các nhiệm vụ năm 2009, toàn ngành coi việc triển khai các chính sách hỗ trợ lãi suất theo các Nghị quyết 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 và Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 9/1/2009, số 443/QD-TTG ngày 4/4/2009, số 497/QĐ-TTG ngày 17/4/2009 và số 597/QĐ-TTG ngày 19/5/2009 của Thủ Tướng Chính phủ là “nhiệm vụ lớn trọng tâm hàng đầu năm 2009 của toàn ngành ngân hàng. Cùng với sự nỗ lực của chính mình, NHNN đã có sự phối kết hợp chặt chẽ, thường xuyên với các Bộ, ngành ở trung ương và cấp uỷ, chính quyền và các cấp địa phương, triển khai đồng bộ, theo dõi tiến độ thực hiện, cập nhật đánh giá kết quả cũng như những vướng mắc, hạn chế cần khắc phục để hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằn sớm đáp ứng thêm vốn ưu đãi về lãi suất để khách hàng làm ăn vượt qua khó khăn, giảm giá thành sản phẩm, tiếp tục ổn định, duy trì và mở rộng sản xuất, kinh doanh. Các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế đánh giá cao về chính sách vay mang tính đặc thù, là giải pháp kích thích kinh tế tối ưu, chi phí thấp phù hợp với điều kiện Việt Nam được sự nhất trí, đồng thuận cao của cả hệ thống chính trị, người dân và cộng đồng DN. Nhờ vậy, tính đến giữa tháng 12/2009, nghĩa là sắp trọn một năm triển khai, cả nước đã có tổng dư nợ hỗ trợ lãi suất hơn 445 nghìn tỷ đồng, trong đó DNNN được thụ hưởng gần 60 nghìn tỷ đồng, DN ngoài Nhà nước 290 nghìn tỷ đồng và hộ sản xuất gần 65,1 nghìn tỷ đồng. Xuất phát từ tình hình thực tiễn đã qua, đối chiếu với thực tế hiện hành và các dự báo về diễn biến tình hình sản xuất kinh doanh, thanh toán trong thời gian tới, ngày 11/11/2009 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 54/NQ-CP, theo đó là chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, NHNN tiếp tục ban hành cơ chế hỗ trợ lãi suất trong năm 2010 nhằm hỗ trợ phục hồi tăng trưởng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô. Cụ thể, tiếp tục hỗ trợ lãi suất 2%/năm cho các khoản vay trung và dài hạn bằng Việt Nam đồng của các tổ chức, cá nhân thuộc một số ngành, lĩnh vực kinh tế theo cơ chế quy định tại Quyết định số 443/QĐ-TTG ngày 4/4/2009, với thời hạn hỗ trợ lãi suất tối đa 24 tháng, kể từ khi nhận khoản vay năm 2010. Chính sách kích thích phát triển này, về cơ bản đã phản ánh đầy đủ bức tranh kinh tế xã hội nước ta qua gần một năm triển khai các quyết định hỗ trợ lãi suất của Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời khẳng định bước đi tiếp theo phù hợp với thực tế cuộc sống, với xu thế hội nhập sâu và tổ chức thương mại thế giới là chấm dứt việc hỗ trợ kéo dài, mang tính bao cấp trong cơ chế thị trường hội nhập. Trong quá trình thực hiện chính sách kích thích kinh tế, một nội dung quan trọng, nhạy cảm mà NHNN triển khai khá tốt là việc điều hành cơ chế tỷ giá phù hợp với diễn biến của thị trường theo hướng nới lỏng thận trọng, tạo điều kiện cho các tín dụng mở rộng tín dụng hiệu quả. Từ tháng 2/2009 NHNN đã duy trì ổn định mức lãi suất hợp lý, từ đó giảm mặt hàng lãi suất cho vay. Theo đó, lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam được điều chỉnh giảm từ 8,5%/năm xuống 7%/năm; lãi suất tái cấp vốn giảm từ 9,5%/năm xuống 7%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 7,5%/năm xuống còn 5%/năm. Thực hiện hoán đổi ngoại tệ để giảm bớt căng thẳng mất cân đối giữa nguồn và sử dụng nguồn vốn Việt Nam đồng và ngoại tệ; đồng thời mở rộng biên độ tỷ giá mua bán USD/VND của các NHNN từ +/-3% lên +/-5% kể từ ngày 24/3/2009. Song, từ cuối tháng 11/2009 để phù hợp với diễn biến mới của nền kinh tế, NHNN đã điều chỉnh biên độ ấn định tỷ giá xuống +/-3%, theo đó bắt đầu từ tháng 12/2009 lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng được điều chỉnh tăng lên 1%. Việc điều chỉnh tăng giảm
- lãi suất và biên độ tăng giảm tỷ giá đã thực sự khuyến khích sản xuất và xuất khẩu, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội. Về biện pháp điều tiết quan hệ cung cầu ngoại tệ, ổn định thị trường ngoại hối (vàng, ngoại tệ), NHNN đã trình Chính phủ cho phép triển khai nhiều giải pháp như được phép bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân; chỉ đạo một số tập đoàn, tổng công ty có nguồn thu ngoại tệ lớn bán ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại; bắt buộc một số DN nhập khẩu lớn chuyển từ mua sang vay bằng ngoại tệ, theo đó là kiểm soát chặt chẽ nhập siêu, đặc biệt là việc nhập khẩu các mặt hàng không thiết yếu, không liên quan gì đến quá trình sản xuất, kinh doanh của các DN và của nền kinh tế. Với thị trường vàng, nhìn chung, suốt cả chiều dài năm, thị trường vàng nước ta luôn phụ thuộc và chịu sự tác động cảu diễn biến thị trường vàng quốc tế, và càng phức tạp hơn khi bị yếu tố đầu cơ tung thổi tin đồn phục vụ cho hành động đầu cơ, phá giá. Điều này được chứng minh trong nửa đầu tháng 11/2009, giá vàng trong nước liên tục tăng, có thời điểm lên tới 29,3 triệu đồng/lượng, cao hơn từ 2,5-3 triệu đồng/lượng so với giá vàng quốc tế. Khi cơn sốt về giá vàng tăng cao, tạo sức ép đến chóng mặt, NHNN thực thi ngay giải pháp cho các DN nhập khẩu vàng để cân đối cung cầu, kéo ngay giá vàng trên thị trường xuống. Theo đó là trình Chính phủ cơ chế về quản lý hoạt động các sàn giao dịch vàng. Kẻ cơ hội đầu cơ cạn đường vùng vẫy. Tuy nhiên, bên cạnh cái được là cơ bản, xuyên suốt thì hai nhóm giải pháp được thực thi nêu trên hiện vẫn còn một số tồn tại, khó khăn, thách thức mà ngành ngân hàng sẽ tìm cách khắc phục trong năm tới. Đó là, tâm lý găm giữ ngoại tệ của DN và người dân vẫn chưa được giải toả triệt để. Giá vàng trên thị trường thế giới luôn diễn biến phức tạp, khó lường và thực sự đang có xu hướng tăng Còn với chính sách hỗ trợ lãi suất, sự phối hợp giữa ngân hàng với các Bộ, ngành thực hiện Quyết định 497/QĐ-TTg chưa thật tốt, nhiều vướng mắc chậm được giải quyết cho nên nguồn vốn hỗ trợ chảy về lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn chưa nhiều, mức lãi suất vay USD thấp hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn đã phát sinh hiện tượng khách hàng vay để trục lợi bằng cách vay ngân hàng này gửi vào ngân hàng khác. Cũng qua chính sách hỗ trợ này được áp dụng khá rộng rãi trên nhiều lĩnh vực, ngành hàng và đối tượng thụ hưởng cho nên xuất hiện tâm lý ỷ lại hoặc sử dụng vốn không đúng mục đích, không kiểm soát được. Đồng vốn hỗ trợ lãi suất thực sự đã giúp doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào sản phẩm, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động./. Kinh tế Việt nam vừa trải qua năm 2009 với nhiều khó khăn được khắc phục, nhưng để đổi lại sự tăng trưởng GDP trên 5% là áp lực lạm phát và dấu hiệu này đã xuất hiện ngay từ những ngày đầu năm 2010. Tình hình kinh tế Việt Nam bước qua 2010 được thấy là chừng như áp lực lạm phát đã xuất hiện ngay từ những ngày đầu năm. Tuy nhiên trong cuộc trao đổi do Thanh Trúc thực hiện, thay vì cái nhìn bi quan , chuyên gia kinh tế tài chính Bùi Kiến Thành, đang là cố vấn cao cấp các tập đoàn kinh doanh ở Hà Nội, cho rằng phải nhìn lại chặng đường và chính sách của chính phủ trong một hai năm trước thì mới có thể nghĩ một cách tương đối chính xác về viễn ảnh kinh tế toàn năm 2010. Hồi phục Thanh Trúc: Thưa ông Bùi Kiến Thành, tình hình kinh tế Việt Nam cuối năm 2009 có khác với cuối năm 2008 không?
- Ông Bùi Kiến Thành: Năm 2008 là Việt Nam chịu tác động của sự khủng hoảng kinh tế tài chính quốc tế cũng rất là nặng và đồng thời chịu tác động của một chính sách tiền tệ rất là khắc nghiệt của Chính Phủ Việt Nam, vì vậy cho nên tình hình kinh tế cuối 2008 rất là bi đát, rất nhiều doanh nghiệp đứng trước tình trạng có thể bị phá sản. Năm 2009 thì tình hình tốt hơn rất là nhiều, một số những doanh nghiệp khó khăn đấy thì cũng đã hồi sinh và bắt đầu phát triển tốt, nền kinh tế tương đối phát triển ổn dịnh, bền vững, tăng trưởng GDP trên 5%, thì ta có thể nói rằng là tình hình sáng sủa rất là nhiều so với 2008. Thanh Trúc: Thưa ông, những sự kiện kinh tế-tài chánh gì đáng được chú ý trong năm 2009? Ông Bùi Kiến Thành: Đầu năm 2009 Nhà Nước Việt Nam đã bắt đầu nới lỏng chính sách tiền tệ, không còn có đặt nặng vấn đề lạm phát mà đặt nặng hơn vấn đề phát triển, thì tiền tệ được nới rộng ra và lãi suất đối với ngân hàng thấp xuống rất là nhiều, và lãi suất cơ bản của Ngân Hàng Nhà Nước cũng hạ thấp xuống. Nói chung là chính sách tiền tệ mới giúp cho các doanh nghiệp có thể tiếp cận được với nguồn vốn vay tốt hơn, với một lãi xuất ngân hàng hợp lý hơn là 2008. Thanh Trúc: Thưa, thế còn về phương diện đầu tư nước ngoài? Ông Bùi Kiến Thành: Đầu tư nước ngoài thì cũng rất là đặc biệt vì là 2008 cái số giấy phép đầu tư còn lên quá cao đến 71 tỷ đôla thì Việt Nam không có hấp thụ nổi, trong đó phần lớn là đầu tư về bất động sản, thì qua 2009 tổng số giấy phép đầu tư nước ngoài trực tiếp dưới 30 tỷ đôla thế thì nó hợp lý hơn. Nhưng mà tự nhiên trong 2009, cũng như 2008, số giải ngân thật sự của đầu tư nước ngoài thì nó bị hạn chế lại vì các nhà đầu tư nước ngoài cũng khó tìm được nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam. Thanh Trúc: Thưa ông, về những mặt khác, thí dụ như thị trường xuất khẩu, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thì ông nghĩ như thế nào? Ông Bùi Kiến Thành: Thị trường xuất khẩu có thể nói rằng sụt lại một tí nhưng cũng không đến nỗi gì lắm, mất những thị trường lớn thì Việt Nam cũng cố gắng tạo được những thị trường nhỏ mới, và như vậy tuy rằng xuất khẩu có tụt xuống vì thị trường thế giới eo hẹp lại, nhưng mà tương đối thì cũng vẫn còn tốt. Về thị trường chứng khoán thì là chiều hướng đi xuống cũng khá sâu trong năm 2008, bước qua quý 2 của 2009 thì nó bắt đầu lên trở lại, thì từ quý 2 nó lên trở lại cho hết quý 3 thì tương đối nó lên cũng là tốt, nó lên khoảng chừng sáu bảy chục phần trăm so với đầu năm. Nhưng mà những tuần vừa rồi đây thì nó bắt đầu lại chúc đầu đi xuống trở lại, thì cũng bình thường thôi, tại vì có những tác động của những số tiền vay của ngân hàng cần phải thanh toán, cần phải trả nên những người đầu tư chứng khoán mới bán cổ phần để mà trả thì nó đi xuống một tí, không có gì đặc biệt.
- Thị trường bất động sản thì đây là mối lo âu cho Việt Nam tại vì có thể nói rằng thị trường bất động sản ở Việt Nam có phần nào thể hiện cái dấu hiệu bong bóng, tức là giá bất động sản lên quá cao so với lại tình hình kinh tế chung, và những bất động sản mất giá là vì một số nhiều người bán mà ít người mua, mà bất động sản của Việt Nam hiện bây giờ là bán những bất động sản chất lượng cao, giá cao, cho nên nó bị chững lại rất là nhiều. Mong rằng sẽ có những giải pháp làm thế nào cho nó ổn định, nhưng mà chắc rằng giá bất động sản phải tiếp tục đi xuống thì mới có được một thị trường ổn định. Thanh Trúc: Thưa ông Bùi Kiến Thành, ông nghĩ sao về kết quả của các gói kích thích kinh tế của Chính Phủ Việt Nam? Ông Bùi Kiến Thành: Thật sự ra tổng số (các gói kích thích kinh tế) nói ra là gần 8 tỷ đôla, nhưng mà trong năm 2009 thì cũng không giải ngân hết số tiền đó, cho nên thâm hụt tài chính nặng thì cũng không có bị thâm hụt nặng. Mặt khác, những chính sách đó cũng giúp cho nền kinh tế ổn định lại và giúp cho những xí nghiệp có thể tìm được những nguồn tài chính cần thiết để phát triển và cũng giúp cho doanh nghiệp tránh được một số những gánh nặng về thuế, được giảm thuế, giãn thuế, v.v. Nói chung, chính sách kích thích kinh tế của Nhà Nước Việt Nam đơn giản là nó có đem lại những kết quả tương đối rất là tốt đối với nền kinh tế có thể phát triển lại được. Tái cấu trúc Thanh Trúc: Về tình hình phát triển kinh tế Việt Nam năm 2010, ông dự đoán có những khó khăn gì, có những lợi thế gì không, nhất là về mặt phát triển thị trường nội địa? Ông Bùi Kiến Thành: Trước mắt thì các doanh nghiệp cần phải đối mặt với lại một chính sách tiền tệ mới vừa được ban hành. Ngân Hàng Nhà Nước một mặt thì tăng lãi suất cơ bản cho vay lên, từ 7 lên 8%, thì ngân hàng như vậy sẽ cho vay thay vì 10,5% thì lên tới 12% là lãi suất tối đa, thì như vậy là chi phí đầu vào của doanh nghiệp sẽ tăng lên. Rất là nguy hiểm ở chỗ rất là nhiều doanh nghiệp vừa rồi đương hoạt động với lãi suất rất là thấp, sau khi được bù lãi suất 4% thì lãi suất chỉ còn 6,5% thế mà bây giờ nhảy lên tới 12% thì đấy là một gánh nặng, một sự khó khăn rất là lớn cho doanh nghiệp. Những lợi thế gì thì có thể nói rằng Việt Nam qua kỳ khủng hoảng vừa rồi thì cũng đã có cơ hội để cấu trúc lại phần nào nền kinh tế, cấu trúc lại phần nào xuất khẩu, phần nào lo về thị trường nội địa, phần nào xem lại cái cách tổ chức để mà có thể hiện đại hoá sản xuất kinh doanh, thì đấy là một lợi thế có thể giúp cho Việt Nam bước vào thời kỳ phát triển lại có được nền tảng mạnh hơn lúc trước. Trong năm 2010 này các doanh nghiệp cũng nên tập trung vào trong vấn đề phát triển thị trường nội địa như thế nào, sản xuất ra những sản phẩm nào phù hợp, và phải tổ chức hệ thống phân phối thế nào cho nó có hiệu quả. Đây là cái cần phải làm trong năm 2010 để cho nền kinh tế có thể phát triển ổn
- định được chớ không thể nào mà cứ dựa mãi vào trong vấn đề xuất khẩu. Thanh Trúc: Thưa ông Bùi kiến Thành, bước qua năm 2010 các chuyên gia kinh tế đã đưa ra cảnh báo đáng ngại cho nền kinh tế Việt Nam là trong năm 2010 áp lực lạm phát đã xuất hiện ngay từ đầu năm. Ông nghĩ như thế nào ạ? Ông Bùi Kiến Thành: Áp lực lạm phát thì cũng có đấy nhưng mà trong tình hình của Việt Nam không hẳn đã là một mối lo âu hàng đầu. Người ta thấy trên các khuyến cáo của những lãnh đạo của G-20 thì cả nền kinh tế thế giới hồi phục lại nhưng còn rất là mong manh vì vậy cho nên lãnh đạo của G-20 đều khuyến cáo tất cả mọi người đừng có nên quá sớm chấm dứt những chính sách kích thích kinh tế và cũng đừng nên đưa lãi suất ngân hàng lên cao, nhưng mà Việt Nam thì làm ngược lại là chấm dứt một phần nào chính sách kích thích và đồng thời lại đưa lãi suất ngân hàng lên cao, thì cái này là một nguy cơ cần phải xem xét lại cho kỹ. Muốn hội nhập trong thị trường quốc tế thì Việt nam còn rất nhiều việc phải làm, cấu trúc lại doanh nghiệp như thế nào để phát triển những công nghệ chất lượng cao chớ không phải dựa vào trong cái lao động rẻ nữa, xây dựng môi trường kinh doanh Việt Nam tốt hơn, giảm những chi phí quan hệ, cải cách hành chính thế nào cho tốt hơn để giảm chi phí hành chính, vì cái chi phí quan hệ ở Việt Nam hiện nay nó rất cao và nó là cái phanh cho sự phát triển. Nếu mà giảm được những vấn đề tiêu cực, những vấn đề tham nhũng, những vấn đề chi phí hành chính thì sẽ là một kết quả rất là tốt. Năm 2009 có thể coi là một năm có nhiều biến động và thách thức đối với Việt Nam. Nhân dịp đầu năm dương lịch, Blog Góc nhìn Kinh tế muốn cùng quý vị và các bạn điểm lại các sự kiện chính, các thành công cũng như thất bại của Việt Nam trong năm vừa qua. Kỳ 1- Kinh tế VN trong năm 2009 Việt Nam bước vào năm 2009 trong khi khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang trên đà tăng tốc. Là một nước tăng trưởng dựa nhiều vào xuất khẩu và đầu tư nước ngoài, VN chịu ảnh hưởng lớn từ doanh số xuất khẩu giảm sút và đầu tư nước ngoài thu hẹp. Trong 11 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu của VN giảm 11.4% so với cùng kỳ năm trước. Đầu tư nước ngoài trong 10 tháng đầu năm chỉ xấp xỉ 25% so với cùng kỳ năm trước. Đây là những thử thách to lớn đối với nền kinh tế và với chính phủ - với tư cách là người lèo lái con thuyền này. Lèo lái tốt trong khủng hoảng: Trong bối cảnh như vậy, tăng trưởng kinh tế ước tính của năm 2009 vẫn lên tới 5.2% (sau khi đã khấu trừ lạm phát). Việt Nam là nước duy nhất trong khối ASEAN luôn tăng trưởng trong tất cả 4 quý của năm 2009. Thành tích tăng trưởng này được Ngân hàng Thế giới tán dương với nhận định “kinh tế Việt Nam chèo chống tương đối tốt qua cuộc khủng hoảng,” còn IMF thì tuyên bố Việt Nam chắc sẽ làm tốt hơn các nước láng giềng trong giai đoạn hồi phục.” Duy trì được tốc độ tăng trưởng tương đối tốt trong điều kiện thế giới chìm đắm trong cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại Suy thoái rõ ràng là thành tích ấn tượng nhất trong lĩnh vực quản lý kinh tế của chính phủ trong năm 2009.
- Hình 1: Chỉ số VN-Index từ cuối 2008 tới nay Nguồn: Bloomberg Thị trường chứng khoán VN (TTCK) hồi phục: TTCK bắt đầu năm 2009 với VN-Index nằm ở mức 315 điểm, sau đó tụt xuống thấp nhất ở mức 235 điểm vào ngày 24 tháng 2 (giảm 25.4%). Từ đó tới nay, TTCK đã hồi phục mạnh mẽ, VN-Index đạt trần vào ngày 22 tháng 10 với mức 624 điểm, tức là tăng khoảng 100% so với hồi đầu năm và 165% so với thời điểm chỉ số này chạm đáy. Tuy nhiên, VN- Index đã liên tục giảm trở lại từ cuối tháng 10 và hiện nay chỉ còn ở mức 440 điểm (số liệu trong ngày 16 tháng 12). Đà giảm điểm này có lẽ còn kéo dài nữa do vấn đề thanh khoản (liquidity) trong hệ thống ngân hàng ở VN. Thâm hụt mậu dịch và sức ép phá giá tiền tệ: Ngược lại với các điểm sáng kể trên, kinh tế Việt Nam vẫn còn đang gặp phải vô số khó khăn trong ngắn hạn. Thâm hụt mậu dịch quốc tế vẫn liên tục tăng từ hàng chục năm nay tạo nên sức ép thường trực lên giá trị của đồng VND. VN đã phải tuyên bố phá giá 5.4% giá trị đồng VND vào hồi cuối tháng 11 vừa rồi mặc dù chỉ vài ngày trước đó các chính trị gia hàng đầu của đất nước vẫn khẳng định như đinh đóng cột là không có chuyện phá giá. Đầu tư nước ngoài ít thực chất: Do sức ép phải duy trì được thành tích kêu gọi vốn nước ngoài, Việt Nam đã phải chấp nhận cho FDI đi mạnh vào các khu vực “bong bóng” như bất động sản và du lịch thay vì vào các khu vực công nghệ, kỹ thuật, hạ tầng, hay giáo dục là các khu vực có tác dụng nâng cao năng suất của nền kinh tế về dài hạn. Tỉ lệ FDI đầu tư vào bất động sản trong năm 2008 là 36.8% và trong 10 tháng đầu năm 2009 là 30% ($5.67 tỉ trong tổng số khoảng $19 tỉ). Nếu tính cả số FDI đầu tư vào dịch vụ du lịch thì vốn FDI vào bất động sản và du lịch chiếm tới 76% trong tổng số vốn FDI đầu tư vào VN trong 10 tháng đầu năm 2009. Khả năng trả nợ của quốc gia ngày càng bị đánh giá thấp: Xếp hạng tín dụng quốc gia đang ngày càng kém đi. Hiện nay các khoản nợ quốc gia của Việt Nam được Moody xếp hạng Ba3 và Standard & Poor’s xếp hạng BB. Hồi giữa năm 2008, Standard & Poor’s đã hạ thấp mức xếp hạng chỉ số tín dụng quốc gia của Việt Nam từ “ổn định” (stable) xuống “tiêu cực” (negative). Một báo cáo gần đây của Nomura còn khuyến cáo rằng Việt Nam đang đứng trước khả năng tiếp tục bị đánh tụt hạng tín dụng. Vì bị xếp hạng tín dụng thấp, khả năng huy động vốn qua phát hành trái phiếu chính phủ ra nước ngoài ngày càng khó khăn. Cuộc đánh đổi giữa kiềm chế lạm phát và tăng trưởng tín dụng: Việt Nam hứng chịu sức ép lạm phát trong suốt cả năm 2009 do tăng trưởng tín dụng nhanh và giá nguyên vật liệu thô tăng. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã tìm cách kiềm chế đà tăng này bằng cách yêu cầu các ngân hàng duy trì mức tăng tín dụng cả năm không quá 30%. Tuy nhiên, chỉ trong 11 tháng từ đầu năm, tăng trưởng tín dụng đã lên tới 36%. Vì thế, mức lạm phát cả năm hiện nay được dự tính sẽ vào khoảng 6.8%. Ngân hàng phát triển Châu Á hồi cuối tháng 9 vừa qua còn dự báo lạm phát của năm 2010 ở Việt Nam có thể lên tới 8.5% nếu chính phủ tiếp tục duy trì gói kích thích tài chính. Để ngăn chặn khả năng lạm phát quá cao, hồi cuối tháng 11 này, NHNN đã phải tăng lãi suất cơ bản và yêu cầu các ngân hàng thương mại (NHTM) hạn chế cho vay vào các mục đích phi sản xuất. Hậu quả
- là nguồn tín dụng cho chứng khoán và nhà đất bị thu hẹp một cách bất ngờ. Chính vì vậy mà TTCK tiếp tục tụt dốc không phanh, còn thị trường bất động sản thì cũng được VNeconomy mô tả là “bong bóng đang xì hơi.” Hiệu quả sử dụng vốn quá thấp: Một thước đo thường được sử dụng để xác định hiệu quả sử dụng vốn là Tỉ lệ vốn tăng thêm trên sản lượng (ICOR-Incremental Capital Output Ratio). Ti lệ này cho biết mức độ hiệu quả của việc sử dụng vốn trong sản xuất. ICOR càng cao có nghĩa là Việt Nam càng phải sử dụng nhiều vốn hơn chỉ để sản xuất ra một sản lượng như trước. Nghiên cứu của Deutsche Bank cuối năm 2007 đã kết luận “không may là hiệu quả của vốn đầu tư của Việt Nam đã ngày càng kém đi trong nhiều năm trở lại đây. ICOR của Việt Nam [năm 2006] là 4.2, cao hơn nhiều so với Trung Quốc khi đó là 3.7 hay Ấn Độ là 3.3.” Theo một nghiên cứu được Intellasia trích đăng lại thì ICOR trong năm 2007 là 4.76. Có vẻ như chỉ số này của năm 2009 còn kém hơn nữa. Khi được đề nghị dự báo về chỉ số cho năm 2009, ông Bùi Bá Cường của Tổng cục Thống kê đã trả lời: “Đầu tư của nhà nước tăng bất thường lên hơn gấp rưỡi - tính theo giá thực tế, mà tăng trưởng kinh tế chỉ ở mức 5,2% thì rõ ràng là ảnh hưởng đến ICOR rồi.” Hiệu quả sử dụng vốn thấp đồng nghĩa với giá thành cao và khả năng cạnh tranh của hàng hóa ở Việt Nam sẽ phải kém đi tương đối. Điều này hoàn toàn bất lợi cho một nền kinh tế dựa vào xuất khẩu. Các lãnh đạo của Việt Nam hiểu rõ vấn đề này, ngay đến như Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh cũng bình luận: “ICOR tăng cao thế là rất đáng lo ngại nhưng cần có đánh giá thêm của các nhà khoa học.” Nền kinh tế “chạy” không nhanh nhưng luôn “quá nóng”: Điểm đau đầu nhất mà chính phủ của Thủ tướng Dũng đang gặp phải có lẽ là kinh tế Việt Nam đang bị coi là ở trong tình trạng “quá nóng” mặc cho tốc độ tăng trưởng không thực sự cao nếu so sánh với tốc độ phát triển kinh tế của các nước Đông Á hay Trung Quốc một vài thập niên trước. Mấu chốt của vấn đề này có lẽ ở chỗ cơ cấu kinh tế của Việt Nam đang bị mất cân đối nghiêm trọng và cần phải được điều chỉnh về cơ bản. Hiện nay các chủ nợ như ADB đang kêu gọi Việt Nam nên tăng trưởng chậm lại và tập trung vào giải quyết các vấn đề đang tồn đọng, tái cấu trúc cơ cấu kinh tế nhằm duy trì được khả năng tăng trưởng bền vững trong dài hạn. DỰ TRỮ BẮT BUỘC Bốn công cụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân Hàng Nhà Nước SanOTC- NHNN là cơ quan có trách nhiệm điều hành chính sách tiền tệ nhằm đến mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá hối đoái và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong việc điều hành chính sách tiền tệ NHNN thường sử dụng bốn công cụ chính nhằm đạt được các mục đích của mình. Công cụ thứ nhất: lãi suất chiết khấu Lãi suất chiết khấu, hay còn gọi là lãi suất tái chiết khấu là lãi suất mà NHNN (ngân hàng Nhà nước) đánh vào các khoản tiền cho các ngân hàng thương mại vay để đáp ứng nhu cầu tiền mặt ngắn hạn hoặc bất thường của các ngân hàng này. Quy định lãi suất chiết khấu là một trong những công cụ
- của chính sách tiền tệ nhằm điều tiết lượng cung tiền. Các ngân hàng thương mại phải tính toán tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và họ có một tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi an toàn tối thiểu. Tỷ lệ này ngoài quy định của NHNN về tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn phụ thuộc vào tình hình kinh doanh của ngân hàng thương mại và dự trữ của NHTM thường lớn hơn dự trữ bắt buộc. Khi tỷ lệ dự trữ tiền mặt thực tế của ngân hàng thương mại giảm xuống đến gần tỷ lệ an toàn tối thiểu thì họ sẽ phải cân nhắc việc có tiếp tục cho vay hay không vì buộc phải tính toán giữa số tiền thu được từ việc cho vay với các chi phí liên quan trong trường hợp khách hàng có nhu cầu tiền mặt cao bất thường: Nếu lãi suất chiết khấu bằng hoặc thấp hơnlãi suất thị trường thì ngân hàng thương mại sẽ tiếp tục cho vay đến khi tỷ lệ dự trữ tiền mặt giảm đến mức tối thiểu cho phép vì nếu thiếu tiền mặt họ có thể vay từ NHNN mà không phải chịu bất kỳ thiệt hại nào. Nếu lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất thị trường, các ngân hàng thương mại không thể để cho tỷ lệ dự trữ tiền mặt giảm xuống đến mức tối thiểu cho phép, thậm chí phải dự trữ thêm tiền mặt để tránh phải vay tiền từ NHNN với lãi suất cao hơn lãi suất thị trường khi phát sinh nhu cầu tiền mặt bất thường từ phía khách hàng. Công cụ thứ hai: Nghiệp vụ thị trường mở Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động NHNN mua vào hoặc bán ra những giấy tờ có giá của chính phủ trên thị trường. Thông qua hoạt động mua bán giấy tờ có giá, ngân hàng trung ương tác động trực tiếp đến nguồn vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết lượng cung tiền và tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường. Tại Việt Nam, theo nghiệp vụ thị trường mở chỉ là việc mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn như tín phiếu kho bạc chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Công cụ thứ ba: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc Dự trữ bắt buộc, hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một quy định của NHNNvề về tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi mà các ngân hàng thương mại bắt buộc phải tuân thủ để đảm bảo tính thanh khoản. Các ngân hàng có thể giữ tiền mặt cao hơn hoặc bằng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc nhưng không được phép giữ tiền mặt ít hơn tỷ lệ này. Nếu thiếu hụt tiền mặt các ngân hàng thương mại phải vay thêm tiền mặt, thường là từ NHNN để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Công cụ thứ tư: Lãi suất cơ bản Lãi suất cơ bản là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ của NHNN trong ngắn hạn. Theo Luật Ngân hàng Nhà nước, lãi suất cơ bản chỉ áp dụng cho VND, do Ngân hàng Nhà nước công bố, làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh. Lãi suất cơ bản được xác định dựa trên cơ sở lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước, lãi suất huy động đầu vào của tổ chức tín dụng và xu hướng biến động cung cầu vốn. Theo Luật Dân sự, các tổ chức tín dụng không được cho vay với lãi suất cao gấp rưỡi lãi suất cơ bản. Như vậy lãi suất cơ bản là công cụ rất mạnh tác động trực tiếp đến lãi suất huy động và cho vay của các NHTM. [ ] Dự trữ bắt buộc, hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một quy định của ngân hàng trung ương về về tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi mà các ngân hàng thương mại bắt buộc phải tuân thủ để đảm bảo tính thanh khoản. Các ngân hàng có thể giữ tiền mặt cao hơn hoặc bằng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc nhưng không được phép giữ tiền mặt ít hơn tỷ lệ này. Nếu thiếu hụt tiền mặt các ngân hàng thương mại phải vay thêm tiền mặt, thường là từ ngân hàng trung ương để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đây là một trong những công cụ của ngân hàng trung ương nhằm thực hiện chính sách tiền tệ bằng cách làm thay đổi số nhân tiền tệ.