Bài giảng Đạo đức nghề nghiệp nhà báo
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Đạo đức nghề nghiệp nhà báo", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- bai_giang_dao_duc_nghe_nghiep_nha_bao.doc
Nội dung text: Bài giảng Đạo đức nghề nghiệp nhà báo
- ĐạoĐạo đứcđức nghềnghề nghiệpnghiệp nhànhà báobáo Gv: Bùi Huy Lan Chương I: ĐẠO ĐỨC VÀ XÃ HỘI I. KHÁI NIỆM 1. Xã hội Xã hội theo nghĩa thơng thường là cộng đồng người sinh sống và phát triển. Theo triết học duy vật lịch sử và duy vật biện chứng thì xã hội là hình thái vận động cao nhất của thế giới vật chất, lấy con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng. Quá trình phát triển của tự nhiên đã sinh ra sự sống và theo quy luật tiến hĩa, trong những điều kiện nhất định, con người đã xuất hiện từ động vật. Sự hình thành con người gắn liền với sự hình thành các quan hệ giữa người với người. Quá trình chuyển biến từ động vật thành người cũng là quá trình chuyển biến từ cộng đồng mang tính bầy đàn, hành động theo bản năng thành một cộng đồng mới khác hẳn về chất, ta gọi là xã hội. Đây cũng là quá trình chuyển biến từ vận động sinh học thành vận động xã hội. Khác với giới tự nhiên vơ thức, mù quáng, sống theo bản năng, xã hội lồi người hoạt động cĩ ý thức, hành động cĩ suy nghĩ và theo đuổi những mục đích nhất định. Như vậy xã hội là bộ phận đặc thù của tự nhiên, là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người. Mác và Angghen đã chỉ rõ lao động và ngơn ngữ là hai sức kích thích sự chuyển biến bộ não của lồi vật thành bộ não con người, tâm lý động vật thành ý thức. Vì vậy mà con người mới cĩ ý thức và mục đích sống phù hợp với quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội để tái sản xuất chính mình và tự nhiên. Trong xã hội, sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người, bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba quá trình đĩ gắn bĩ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đĩ sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại xã hội, từ đĩ hình thành và phát triển ý thức xã hội. Triết học duy vật lịch sử đã chỉ rõ rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì những hình thái ý thức xã hội như chính trị, tư tưởng, triết học, pháp luật, đạo đức, văn hĩa, nghệ thuật v.v cũng sẽ biến đổi theo. 1
- 2. Đạo đức: Theo văn hĩa Phương Đơng, các học thuyết của Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo đều lấy đạo đức làm cơ sở trong đối nhân xử thế và tự rèn luyện mình, khuyên con người làm điều thiện, tránh điều ác. Các học thuyết ấy đề ra những quy tắc, chuẩn mực để định hướng cách đánh giá, ứng xử của con người trong quan hệ xã hội và tu thân, dưỡng tâm, rèn khí tiết. Ở Phương Tây, khái niệm đạo đức bắt đầu từ chữ mos trong ngữ vựng Latinh, cĩ nghĩa là lề thĩi; hoặc chữ ethicos trong tiếng Hy Lạp cĩ nghĩa là tập tục gắn với thĩi quen. Cả hai từ này đều nĩi về tập quán, lề thĩi trong các quan hệ giao tiếp của con người và đều chỉ đạo đức xã hội. Khái niệm đạo đức theo tiếng Anh là moral, chỉ các quan hệ, hành vi, phẩm giá về sự quan tâm của người này đối với người khác theo các chuẩn mực về cái tốt trong cộng đồng xã hội. Từ những quan niệm trên đây, cĩ thể định nghĩa: Đạo đức là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực được dư luận xã hội thừa nhận nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau, với tự nhiên và xã hội. Với định nghĩa trên đây, đạo đức gồm các thành tố: - Một hình thái ý thức xã hội (phản ánh tồn tại xã hội). - Một chế định xã hội (chuẩn mực, nguyên tắc ứng xử cho cá nhân và cộng đồng). - Cĩ giá trị điều chỉnh các mối quan hệ xã hội (bên cạnh pháp luật và các quy phạm xã hội khác). - Được dư luận xã hội thừa nhận. Đạo đức là mối quan hệ xã hội cĩ quy tắc, chuẩn mực, cĩ giá trị, được thực hiện bằng niềm tin cá nhân, truyền thống và chịu tác động của dư luận xã hội. Việc đánh giá đạo đức khơng chỉ dựa vào hành vi ứng xử của mỗi người, mà quan trọng là phải xem xét động cơ để thực hiện hành vi đĩ. II. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA ĐẠO ĐỨC 1. Nguồn gốc của đạo đức: Trước khi học thuyết Mac ra đời, các nhà triết học và đạo đức học cĩ nhiều cách tiếp cận và giải thích khác nhau về nguồn gốc, bản chất của đạo đức. Những nhà duy tâm chủ 2
- quan cho rằng đạo đức là những năng lực bẩm sinh của con người phù hợp với “mệnh lệnh tuyệt đối” hướng tới cộng đồng, sống phù hợp với tự nhiên, tơn trọng mình và người khác. Ngược lại các nhà triết học duy tâm khách quan và thần học lại cho rằng đạo đức của con người là do các đấng siêu nhiên đem lại, hoặc là sự biểu hiện của ý niệm tuyệt đối. Các nhà duy vật trước Mac thì giải thích nguồn gốc bản chất của đạo đức từ mối quan hệ giữa người với người, nhưng lại cho rằng con người là một thực thể bất biến phi lịch sử, phi giai cấp nên đạo đức cũng chỉ như là một thứ năng lực bẩm sinh khơng thay đổi. Những người theo học thuyết Đác Uyn thì quan niệm đạo đức như là sự mở rộng những bản năng bầy đàn của động vật; sự thực hiện chức năng thích nghi với mơi trường, là sự tiến hĩa của giới hữu sinh, mà đỉnh cao là con người. Quan điểm của chủ nghĩa Mac cho rằng đạo đức sinh ra trước hết là từ nhu cầu phối hợp hành động trong lao động sản xuất vật chất, trong quá trình con người tương tác với tự nhiên và xã hội, trong phân phối sản phẩm làm ra. Cùng với sự phát triển của sản xuất, của các quan hệ xã hội, ý thức và hành vi đạo đức cũng theo đĩ mà hình thành và phát triển. Như vậy đạo đức cĩ nguồn gốc từ lao động và các hoạt động sống của con người; là sản phẩm của tình hình kinh tế - xã hội, tổng hợp các yếu tố khách quan trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người. 2. Bản chất của đạo đức: Với tính cách là sự phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức trước hết mang bản chất xã hội. Bản chất xã hội của đạo đức thể hiện ở nội dung do hoạt động thực tiễn và tồn tại xã hội quyết định, đồng thời phụ thuộc vào trình độ phát triển và hồn thiện của kinh tế - xã hội. Mac và Angghen đã luận chứng bản chất xã hội của đạo đức bằng cách chỉ ra tính thời đại, tính dân tộc và tính giai cấp của đạo đức. Các nguyên tắc, chuẩn mực; các quan điểm đạo đức là sản phẩm của các chế độ kinh tế. Vì vậy, tương ứng với mỗi chế độ kinh tế, mỗi phương thức sản xuất, mỗi hình thái kinh tế - xã hội là một hình thái đạo đức nhất định. Đĩ là tính thời đại của đạo đức. Tính dân tộc cũng là một trong những biểu hiện bản chất xã hội của đạo đức. Ngồi những chuẩn mực đạo đức chung, mỗi dân tộc do điều kiện sinh sống, sự khác biệt về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cũng cĩ các quan niệm, chuẩn mực, cách ứng xử khác nhau tạo thành bản sắc dân tộc. Trong xã hội cĩ giai cấp và đối kháng giai cấp, đạo đức cũng phản ánh và khẳng định lợi ích của mỗi giai cấp. Mỗi giai cấp đều sử dụng đạo đức như một cơng cụ để bảo vệ lợi ích của mình. Tuy nhiên, hệ thống đạo đức chi phối tồn xã hội bao giờ cũng là hệ thống đạo đức của giai cấp thống trị. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội gắn với các phương thức sản xuất xã hội. Khi phương thức sản xuất xã hội thay đổi thì đạo đức cũng thay đổi theo. Tuy nhiên đạo đức cĩ tính độc lập tương đối, vừa phản ánh tồn tại xã 3
- hội, vừa tác động trở lại thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển và ảnh hưởng sâu rộng đến các hình thái ý thức xã hội khác như chính trị, khoa học, nghệ thuật, pháp luật . Điều cần chú ý là, tình thời đại của đạo đức luơn cĩ sự kế thừa đối với cơ sở sinh ra nĩ và tuy đạo đức mang tính giai cấp nhưng khơng vì vậy mà phủ nhận tính nhân loại chung của nĩ. Tính nhân loại của đạo đức tồn tại ở hình thức thấp là biểu hiện những quy tắc đơn giản, thơng thường, cần thiết để đảm bảo cuộc sống trật tự hàng ngày của con người. Biểu hiện cao hơn là những giá trị đạo đức tiến bộ nhất trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử nhân loại. 3. Cấu trúc của đạo đức: Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội độc lập, cĩ cấu trúc riêng. Tùy theo cách tiếp cận mà xem xét cấu trúc của đạo đức dưới những gĩc độ khác nhau: 3.1. Nếu xem xét từ gĩc độ mối quan hệ giữa ý thức và hoạt động thì cấu trúc của đạo đức gồm ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Ý thức đạo đức bao gồm nhận thức, tình cảm và lý trí tạo nên mục đích và động cơ của hành vi đạo đức. Thực tiễn đạo đức là tồn bộ hoạt động của con người được điều chỉnh bởi ý thức đạo đức, là sự thể hiện ý thức thành hành động phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội. 3.2. Nếu xem xét từ gĩc độ quan hệ thì đạo đức gồm một hệ thống quan hệ đặc thù giữa người và người, giữa người với cộng đồng xã hội và tự nhiên, được đặc trưng bởi tính tự giác, tự nguyện và tính động cơ. Mỗi người sinh ra đã bắt gặp hệ thống các quan hệ đạo đức xã hội tồn tại bên ngồi ý muốn của mình và trong quá trình sống, tất yếu phải tham gia vào hệ thống các quan hệ đạo đức đĩ. 3.3. Nếu xét theo gĩc độ quan hệ giữa cái chung và cái riêng thì đạo đức được cấu thành từ đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân. Đạo đức xã hội hình thành trên cơ sở cộng đồng về lợi ích, trở thành một hệ thống giá trị chung được mọi thành viên tin tưởng và noi theo. Đạo đức cá nhân là biểu hiện của đạo đức xã hội trong từng người cụ thể với các cấp độ khác nhau, phụ thuộc vào việc người đĩ quán triệt đến mức nào những yêu cầu chuẩn mực, giá trị đạo đức xã hội cả trong ý thức lẫn thực tiễn đạo đức. Đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân cĩ mối quan hệ hữu cơ, tác động và chuyển hĩa lẫn nhau. 4. Chức năng của đạo đức: 4.1. Chức năng nhận thức: Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức cĩ chức năng nhận thức thơng qua sự phản ánh tồn tại xã hội. Mục đích của nhận thức đạo đức khơng phải là phát hiện quy luật, hướng tới chân lý mà là đánh giá giá trị thiện – ác của các hiện tượng, sự kiện xã hội, hành vi, tư tưởng, tình 4
- cảm con người . Tất cả những gì gĩp phần vào việc thúc đẩy tiến bộ xã hội và giải phĩng con người đều là tiêu chí khách quan của nhận thức đạo đức như là những giá trị đích thực về cái thiện; ngược lại, đĩ là điều ác. Nhận thức đạo đức và kết quả của nĩ là cơ sở để điều chỉnh hành vi của con người. Sự nhận thức đạo đức cĩ đặc điểm: - Hành động đạo đức tiếp liền sau nhận thức đạo đức. - Nhận thức đạo đức là quá trình vừa hướng ngoại, vừa hướng nội (tự nhận thức). Nhận thức hướng ngoại lấy chuẩn mực, giá trị, đời sống đạo đức của xã hội làm đối tượng. Nhờ đĩ mà chủ thể nhận thúc chuyển hĩa được chuẩn mực đạo đức của xã hội thành ý thức đạo đức của cá nhân. Nhận thức hướng nội lấy bản thân mình làm đối tượng nhận thức. Đây là quá trình tự giác, tự thẩm định, đối chiếu những nhận thức, hành vi đạo đức của mình với những chuẩn mực chung của cộng đồng. Từ đĩ mà chủ thể hình thành, phát triển ý thức và hành vi đạo đức. Nhận thức đạo đức cĩ hai trình độ là trình độ thơng thường và trình độ lý luận: - Nhận thức ở trình độ thơng thường là những giá trị riêng lẻ, đáp ứng nhu cầu đạo đức đủ để chủ thể xử lý kịp thời các mối quan hệ thơng thường trong cuộc sống. - Nhận thức ở trình độ lý luận là những nhận thức cĩ tính nguyên tắc được chỉ đạo bởi những giá trị đạo đức phổ quát, đáp ứng những địi hỏi của sự phát triển và tiến bộ xã hội. Nhận thức đạo đức đem lại tri thức, ý thức đạo đức để chủ thể tạo dựng và hiện thức hĩa đạo đức cá nhân. 4.2. Chức năng điều chỉnh hành vi: Đạo đức là một trong những phương thức điều chỉnh hành vi làm cho con người và xã hội tồn tại, phát triển; bảo đảm hài hịa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng. Đặc trưng của sự điều chỉnh đạo đức là ở tính tự giác và tự nguyện, trong đĩ chuẩn mực đạo đức, lý tưởng đạo đức và tình cảm đạo đức cĩ vai trị cực kỳ quan trọng. Hiệu quả và phạm vi điều chỉnh đạo đức phụ thuộc vào cả nhân tố chủ quan và khách quan của các quan hệ kinh tế - xã hội. Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức địi hỏi từ tối thiểu đến tối đa hành vi của con người, được thực hiện bằng lương tâm và dư luận xã hội. 5
- Mục đích của chức năng điều chỉnh hành vi đạo đức là tạo nên sự hài hồ quan hệ lợi ích cộng đồng và cá nhân. Đối tượng điều chỉnh trực tiếp là hành vi cá nhân, qua đĩ điều chỉnh quan hệ cá nhân với cộng đồng. 4.3. Chức năng giáo dục: Hệ thống đạo đức do con người tạo ra, nhưng sau khi ra đời, hệ thống đạo đức tồn tại như là cái khách quan tác động, chi phối con người. Đĩ là chức năng giáo dục của đạo đức. Trong xã hội cĩ giai cấp luơn tồn tại nhiều hệ thống đạo đức khác nhau tác động đến các cá nhân, làm chuyển hĩa nhận thức đạo đức và thực tiễn đạo đức của họ. Các hành vi đạo đức được lặp đi lặp lại trong đời sống xã hội và cá nhân, làm cho cả đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân được củng cố, phát triển, trở thành thĩi quen, truyền thống, tập quán đạo đức. Hiệu quả giáo dục của đạo đức phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, cách thức tổ chức, mức độ tự giác của chủ thể và đối tượng giáo dục. Chức năng giáo dục của đạo đức bao gồm sự giáo dục lẫn nhau trong cộng đồng, giữa các cá nhân và giữa cá nhân với cộng đồng; mặt khác là sự tự giáo dục ở mỗi cá nhân và cộng đồng. Tĩm lại, với những chức năng cơ bản trên đây, đạo đức cĩ vai trị rất lớn trong đời sống con người và xã hội. Đạo đức đã trở thành mục tiêu đồng thời cũng là động lực để phát triển xã hội. Các chức năng của đạo đức cĩ sự thống nhất biện chứng, chức năng này là tiền đề và điều kiện cho chức năng kia và ngược lại. III. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẠO ĐỨC TRONG LỊCH SỬ Đạo đức là sản phẩm của lịch sử xã hội, do cơ sở kinh tế - xã hội quyết định. Ngay từ chế độ cộng sản nguyên thủy, ý thức đạo đức của con người mơng muội đã được hình thành, từ đĩ được phát triển hồn thiện dần trên cơ sở phát triển của hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau từ thấp lên cao. 1. Xã hội cộng sản nguyên thủy khơng phân chia thành giai cấp, khơng cĩ hiện tượng người bĩc lột người. Mọi người cùng nhau hái lượm, săn bắt , để duy trì cuộc sống và chưa sản xuất ra sản phẩm thừa. Kỷ luật và quy tắc lao động được duy trì bằng sức mạnh của phong tục, tập quán, dư luận xã hội, bằng uy tín và sự tơn vinh đối với tộc trưởng, hay phụ nữ. Trong điều kiện đĩ, các dấu hiệu đạo đức sơ khai đã xuất hiện, với những đặc điểm mang tính cụ thể, cảm tính, trực quan và kinh nghiệm. Các chế định đạo đức được lặp lại từ kinh nghiệm thực tiễn trong dạng trực quan và thĩi quen, bắt chước. Các phong tục tập quán, lễ nghi, định kiến, dư luận xã hội hình thành và tồn tại dai dẳng trong lao động sản xuất và đời sống. 6
- Tính trung thực, thẳng thắn, kiên cường, dũng cảm là đức tính phổ biến của con người. Tính hợp tác, cơng bằng, thơng cảm, tương trợ được coi trọng. Tất cả những gì cĩ ích cho cộng đồng, bộ lạc được coi là điều thiện, ngược lại cái gì cĩ hại bị coi là điều ác. 2. Sự xuất hiện giai cấp trong chế độ nơ lệ đã tạo nên sự khác biệt giữa quyền lợi và nghĩa vụ cũng như vai trị và địa vị của từng cá nhân trong xã hội. Điều đĩ cũng dẫn tới sự tan vỡ của ý thức đạo đức thống nhất trong nội bộ cộng đồng xã hội nguyên thủy, đánh dấu một bước sa sút về đạo đức trong xã hội, bắt đầu xuất hiện những yếu tố kích thích nảy sinh những điều xấu về đạo đức (trộm cắp, tham lam, bạo lực, gian trá .) Chiếm hữu nơ lệ là một quan hệ sản xuất mới (phù hợp với sức sản xuất tiến bộ hơn) mà cơ sở là chủ nơ chiếm hữu tư liệu sản xuất và chiếm hữu cả bản thân người lao động. Từ đây xuất hiện một nền đạo đức mới mà đặc trưng là tính chất đối kháng giữa đạo đức của chủ nơ và nơ lệ. Tầng lớp chủ nơ coi mình là người cĩ đức hạnh, thượng lưu, quý tộc; cịn nơ lệ là những người khơng cĩ phẩm hạnh, thấp hèn, hạ đẳng. Sự nơ dịch của số ít với số đơng được đảm bảo bằng nhà nước, tình trạng bình đẳng nhường chỗ cho đẳng cấp. Tính chất đĩ cũng quy định các nội dung khác nhau về đạo đức. Người nơ lệ chỉ được xem là “cơng cụ biết nĩi” và phục tùng tuyệt đối. Những đức tính cao cả của người nơ lệ như lịng dũng cảm, chí khí, danh dự, bất khuất v.v đã bị chủ nơ coi là sự thách thức, bất kính, vơ đạo đức. Trong xã hội tạo thành hai hệ thống đạo đức tách biệt: Đạo đức của kẻ chiếm hữu nơ lệ và đạo đức của người bị nơ lệ. Đĩ là mâu thuẫn đầu tiên lớn nhất, tập trung nhất trong văn hĩa tinh thần của nhân loại. 3. Chế độ phong kiến dựa trên cơ sở chiếm hữu ruộng đất, là một giai đoạn mới, cao hơn trong việc phát triển sản xuất. Người nơng dân cĩ cơng cụ sản xuất riêng, dựa vào lao động cá nhân và đem lại cho họ những điều kiện sinh sống cần thiết. Tuy nhiên cuộc sống của họ vẫn phụ thuộc và gắn bĩ chặt chẽ với chế độ lao động nặng nhọc, tối tăm, ngu dốt, đè nén với lối cưỡng bức siêu kinh tế của giai cấp phong kiến thống trị. Ở đây tồn tại nhiều kiểu đạo đức, nhưng đạo đức của giai cấp phong kiến vẫn chiếm địa vị thống trị. Cơ sở đạo đức phong kiến là quyền uy, tính đẳng cấp, gia trưởng, trọng nam khinh nữ . Ở phương Tây thường xuất phát từ những tín điều tơn giáo, cịn ở phương Đơng thường xuất phát từ quan hệ giữa người với người, giữa người với tự nhiên, được dựa trên cơ sở của học thuyết Nho giáo và ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo, Đạo giáo. Quan điểm đạo đức của giai cấp phong kiến và nơng dân đã cĩ sự biến đổi, thu ngắn sự khác biệt và “hịa bình” hơn so với chủ nơ và nơ lệ. 4. Thay thế chế độ phong kiến, chế độ tư bản là bước tiến mới của lịch sử xã hội, vì nĩ đập tan xiềng xích của chế độ nơng nơ, xĩa bỏ tình trạng cát cứ của phong kiến, mở ra thị trường phát triển sản xuất và khoa học kĩ thuật. Sự thay thế quan hệ sản xuất phong kiến bằng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến biến đổi cả hệ thống đạo đức xã hội. Quan 7
- hệ hàng hĩa tiền tệ thâm nhập vào tất cả các ngõ ngách của đời sống xã hội, phá tan những sợi dây trĩi buộc con người. Ở đây, chủ nghĩa cá nhân là nguyên tắc cơ bản của đạo đức tư sản. Cơ sở lý luận của chủ nghĩa cá nhân là sự thừa nhận sự tự trị và quyền tuyệt đối của cá nhân trong xã hội. Đạo đức tư sản coi chủ nghĩa cá nhân là bản tính tự nhiên bất biến của con người. Trong quá trình tích lũy tư bản, bĩc lột lao động làm thuê, chủ nghĩa cá nhân đã chiến thắng quan hệ chật hẹp đẳng cấp phong kiến dưới khẩu hiệu cách mạng tư sản là “tự do, bình đẳng, bác ái”. Trong thời kỳ thiết lập chủ nghĩa tư bản, con người được giải phĩng và phát triển. Tuy nhiên, sự bình đẳng cũng chỉ là hình thức vì giai cấp tư sản khơng giải quyết được nguồn gốc sinh ra bất bình đẳng chính là đặc quyền chiếm hữu tư liệu sản xuất và của cải làm ra của một số ít người. Trong quá trình phát triển xã hội, giai cấp tư sản đã làm cho quan hệ giữa người với người bị chi phối bởi quan hệ tiền bạc; biến giá trị con người thành giá trị đổi chác, mua bán. Lịng tham vơ đáy chiếm địa vị thống trị trong mọi hoạt động của giai cấp tư sản. Cơng lý và nền tảng đạo đức trong xã hội khơng được đảm bảo; con người trở nên ích kỷ, đạo lý trong xã hội ngày càng suy giảm. Cĩ thể nĩi, tất cả các lý thuyết đạo đức của giai cấp bĩc lột mặc dù cĩ chỗ khác nhau, nhưng đều cĩ đặc điểm chung là ca tụng chế độ tư hữu tư liệu sản xuất, coi hiện tượng người bĩc lột người là tự nhiên, bất khả xâm phạm. 5. Sau khi cách mạng vơ sản thắng lợi, người lao động từng bước được giải phĩng về kinh tế, chính trị và xã hội. Lồi người bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa cộng sản, xây dựng một xã hội khơng cịn giai cấp bĩc lột. Mọi người sống trong hịa bình, tự do, bình đẳng và hạnh phúc. Đạo đức của giai cấp vơ sản trở thành đạo đức thống trị và là mầm mống của đạo đức cộng sản chủ nghĩa tương lai. Đạo đức cộng sản là giai đoạn cao trên con đường tiến lên của xã hội và sẽ tồn tại mãi với lồi người. Nĩ chứa đựng tất thảy những đặc điểm tốt đẹp của đạo đức trong các thời đại trước và cĩ bước phát triển mới về chất, theo những nguyên tắc: - Đề cao chủ nghĩa tập thể; mình vì mọi người, mọi người vì mình. - Lao động tự giác và sáng tạo. - Chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. - Chủ nghĩa nhân đạo triệt để nhất. 6. Sự phát triển đạo đức ở Việt Nam. Trong tiến trình phát triển của lịch sử, đất nước và nhân dân ta đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, chịu sự tác động mạnh của các luồng văn hĩa, với những quan niệm, tư tưởng, triết học, đạo đức khác nhau. Sự tiếp biến các nền văn hĩa đã hình thành truyền 8
- thống đạo đức chịu ảnh hưởng mạnh của Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo và sau này là Đạo đức cách mạng. Nho giáo, với mẫu hình nhân cách của “kẻ sĩ”, người quân tử với lý tưởng “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” và phẩm chất “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.” Những tư tưởng đạo đức được xã hội đề cao như: “trung quân ái quốc”, “hiếu thảo với cha mẹ”, “tam tịng, tứ đức”. Đạo giáo, khuyến khích con người sống “vơ vi”, khơng làm điều gì trái tự nhiên, trở về với sự chất phác, mộc mạc của tự nhiên mà đặc trưng là những phẩm chất: Vơ tư, khoan dung, khiêm nhường và mềm dẻo. Phật giáo, với mẫu hình người giác ngộ, đề cao các tín niệm “vơ thường”, “vơ ngã” và đức tính “làm lành, tránh ác”, “từ bi, hỷ xả”, “cứu nhân độ thế”, mà đặc trưng là “khuyến thiện, chống ác.” Thiên chúa giáo, với triết lý dựa vào điều giáo huấn về tình yêu của Chúa, đặc trưng là lịng nhân ái cao cả. Từ khi Cách mạng Tháng tám thành cơng, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, những giá trị đạo đức cách mạng đã được bổ sung, phát triển làm giàu thêm đạo đức truyền thống của dân tộc, hình thành nền đạo đức mới, vừa kế thừa phát huy những giá trị truyền thống, vừa bổ sung những giá trị mới phù hợp với yêu cầu của sự phát triển đất nước. Đặc trưng của đạo đức mới là đề cao lịng trung với nước, hiếu với dân, yêu thương con người; cần, kiệm, liệm, chính, chí cơng vơ tư và cĩ tinh thần quốc tế trong sáng IV. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT: Pháp luật và đạo đức cĩ mối liên hệ biện chứng với nhau và đều là những quy phạm xã hội cĩ chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Giữa hai hình thái ý thức xã hội này cĩ sự thống nhất. Bản thân pháp luật, một mặt phản ánh những yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội, nhưng mặt khác nĩ vẫn kế thừa các giá trị truyền thống. Cịn đạo đức cũng kế thừa các giá trị truyền thống và phản ánh những yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội, nhưng nĩ cũng phải đảm bảo phù hợp với những yêu cầu của pháp luật và khuyến khích thực hiện tốt pháp luật. Trong thực tế, thường cĩ sự chuyển hĩa, thống nhất hai loại quy phạm này để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Trong một chừng mực nào đĩ, cần thiết nhà nước phải thể chế hĩa những quy phạm, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức thành những quy phạm pháp luật. Sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật khơng xĩa nhịa ranh giới giữa chúng. Bởi vì giữa hai hình thái ý thức xã hội này cĩ những điểm khác biệt: 9
- Đạo đức là hình thái ý thức xã hội thường được thể hiện bằng niềm tin, lý tưởng, các nguyên tắc chung cĩ ý nghĩa định hướng tinh thần để mỗi người tự điều chỉnh hành vi của mình trong quan hệ với xã hội, dưới sự kiểm sốt của lương tâm và dư luận xã hội. Trong khi đĩ, pháp luật lại chú trọng đến việc quy định các hành vi một cách cụ thể, với những tiêu chuẩn tối thiểu bắt buộc mọi người tuân theo và được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước. Luật pháp chỉ cĩ thể điều chỉnh trên một số lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội và sẽ mất đi khi khơng cịn nhà nước. Trong khi đĩ, đạo đức cĩ vai trị điều chỉnh trong tất cả các quan hệ xã hội và sẽ tồn tại mãi mãi với lồi người. Mặt khác, luật pháp thường chỉ tham gia điều chỉnh các quan hệ xã hội khi đã đến độ gây nên những ảnh hưởng xấu và cơ bản chỉ áp dụng đối với những người đã đến tuổi cơng dân. Cịn đạo đức, do tính mềm dẻo và linh động, nĩ tham gia điều chỉnh các hiện tượng lệch chuẩn xã hội ngay từ khi mới xuất hiện, với mọi loại đối tượng. Cho nên cĩ thể nĩi, pháp luật là đạo đức tối thiểu, cịn đạo đức là pháp luật tối đa. V. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VỚI PHÁT TRIỂN VĂN HĨA VÀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI: Văn hĩa theo nghĩa chung nhất là tồn bộ những giá trị do con người sáng tạo, lưu giữ, tơn vinh và phát triển. Như vậy giữa văn hĩa và con người cĩ mối quan hệ thống nhất biện chứng. Con người với tư cách vừa là chủ thể vừa là mục tiêu của văn hĩa khơng ngừng làm tăng lên chất lượng và trình độ người trong phát triển. Để sáng tạo các giá trị văn hĩa, trước hết con người phải là chủ thể của đạo đức, nhân cách, phù hợp với những chuẩn mực đạo đức và nhân cách của xã hội. Đĩ là giá trị hàng đầu, lớn nhất trong bảng giá trị văn hĩa. Nghị quyết hội nghị trung ương Đảng lần thứ V, khĩa VIII đã khẳng định văn hĩa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong đĩ, đạo đức lối sống của từng cá nhân và cả xã hội là yếu tố quan trọng, cốt lõi làm nên diện mạo của văn hĩa dân tộc. Nền văn hĩa mà chúng ta xây dựng là nền văn hĩa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Tính chất tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc khơng chỉ biểu hiện ở hệ tư tưởng, khoa học, kỹ thuật mà cịn bộc lộ đầy đủ, sâu sắc và thực tiễn ở đạo đức, lối sống. Con người, cĩ nhân cách sẽ biết cảm thụ và sáng tạo văn hĩa để phát triển và hồn thiện chính mình, đồng thời vượt qua những lệch chuẩn, biến dạng phản văn hĩa. Nội dung cốt lõi của tiên tiến là lịng yêu nước và tiến bộ; là lý tưởng độc lập và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mac – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tồn diện của con người trong mối quan hệ hài hịa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Bản sắc văn hĩa dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đĩ là lịng yêu nước nồng nàn, ý chí 10
- tự cường dân tộc, tinh thần đồn kết; lịng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống . Đồng thời bản sắc dân tộc luơn gắn kết, mở rộng tiếp thu cĩ chọn lọc những tinh hoa văn hĩa của nhân loại để khơng ngừng làm phong phú, nâng cao các giá trị văn hĩa dân tộc, phù hợp với thời đại. Xây dựng được một mơi trường văn hĩa lành mạnh, từ trong gia đình đến cộng đồng dân cư và tồn xã hội, thấm đậm những giá trị đạo đức sẽ tạo nền tảng cho người Việt Nam phấn đấu vươn lên, phát triển tồn diện để xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. VI. MỘT SỐ PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC: Phạm trù đạo đức là những khái niệm phản ánh những đặc tính căn bản, những quan hệ phổ biến trong đời sống hiện thực. Tồn bộ những chuẩn mực đạo đức được luận giải một cách khái quát gọi là phạm trù đạo đức. Ngồi đặc tính chung như các phạm trù khoa học xã hội khác, phạm trù đạo đức cịn cĩ một số đặc điểm riêng như mang tính phổ biến và khái quát cao, chứa đựng nội dung thơng báo và nội dung đánh giá, đồng thời cĩ tính phân cực rõ ràng. Những giai đoạn lịch sử khác nhau, phạm trù đạo đức cũng mang những nội dung khác nhau. 1. Lẽ sống: (ý nghĩa của cuộc sống) Lẽ sống là phạm trù chỉ mặt ý thức của lối sống, cĩ vai trị dẫn dắt, định hướng cho lối sống ổn định, một trong những vấn đề trọng tâm của đời sống con người, theo ý nghĩa xã hội và ý nghĩa cá nhân. Cĩ thể xem lẽ sống là quan niệm sống, là ý nghĩa cuộc sống mà con người tự nhận thức được và tự giác hành động vì một lý tưởng đạo đức cao cả, tiến bộ; loại bỏ sự thấp hèn, vị kỷ, đê tiện, xấu xa, hướng con người tới chân, thiện, mỹ. Vì vậy lẽ sống là nền tảng tinh thần nĩi chung và đạo đức của con người nĩi riêng. Nĩ chi phối và liên quan mật thiết đến những định hướng cuộc sống hết sức cơ bản của con người, như lý tưởng, niềm tin, thái độ, quan điểm sống v.v . Lẽ sống là biểu hiện của sự tự ý thức cao nhất của con người về cuộc sống của mình, là hội tụ của sự trưởng thành về nhân cách, phát triển trí tuệ, tri thức và kinh nghiệm. Người cĩ lẽ sống tốt đẹp sẽ cĩ khả năng vượt qua mọi khĩ khăn, thử thách để vươn lên trong cuộc sống. Ngược lại, sự khủng hoảng về lẽ sống sẽ cĩ thể làm cho con người đổ vỡ niềm tin, chao đảo tinh thần, chệch hướng trong cuộc sống, rối loạn trong hành động, dẫn tới những hậu quả khĩ lường. Lẽ sống là phạm trù trung tâm của đạo đức, bao trùm, tác động và liên hệ đến các phạm trù khác của đạo đức. Lẽ sống giúp con người sáng tạo ra những hạnh phúc, giúp con người giữ gìn phẩm giá, danh dự, sống cao cả, gắn bĩ với cộng đồng, hồn thành tốt nghĩa vụ đạo đức với gia đình và xã hội. 11
- Lẽ sống đem lại cho con người sự lạc quan yêu đời, luơn tích cực, tự giác, kiên trì khắc phục khĩ khăn và khao khát vươn tới trong cuộc sống. Lẽ sống cịn là một phạm trù mang tính phổ biến, là nhu cầu tự nhiên tất yếu của mỗi người. Khơng cĩ lẽ sống hoặc lẽ sống khơng đúng, con người sẽ trở thành kẻ ăn bám, đục khoét, xâm phạm, phá hoại lợi ích của xã hội và của người khác. Đạo đức học macxit coi lẽ sống là quá trình thống nhất giữa nghĩa vụ và hạnh phúc. Nghĩa là, con người chỉ thật sự hạnh phúc khi tự giác làm trịn nghĩa vụ với người khác và với xã hội. Tuyệt đối hĩa một mặt nào đĩ giữa nghĩa vụ và hạnh phúc thì lẽ sống của con người sẽ chỉ thiên lệch một chiều; chỉ biết nhận và hưởng thụ, khơng bao giờ nghĩ đến cho và cống hiến; hoặc rơi vào trạng thái thụ động, chỉ biết vâng lời chấp nhận mà khơng độc lập, đấu tranh, ước mơ, sáng tạo. Lao động là cơ sở, cội nguồn của lẽ sống, là một trong những điều kiện, hành vi đầu tiên sáng tạo ra con người và xã hội lồi người. Lao động khơng chỉ tạo ra các giá trị vật chất bảo đảm cho sự tồn tại của con người mà cịn làm nảy sinh nhu cầu, khát vọng, yếu tố cơ bản làm nên lẽ sống. Đĩ là động lực để con người vươn lên và cĩ hồi bão. Lao động làm cho sản xuất và xã hội phát triển, đồng thời cũng làm nhu cầu và khát vọng của con người ngày càng tăng lên, từ đĩ lẽ sống cũng khơng ngừng nâng cao và mở rộng. Theo Mac, quá trình lao động là quá trình con người hồn thiện bản thân mình. Lao động làm tăng tính tích cực cho xã hội và những đức tính quý báu của con người như lịng nhân ái, tính vị tha, sự cao cả, tính tự giác, kỷ luật . Đồng thời nĩ cũng loại bỏ những thĩi xấu như tính lười biếng, tham lam, ích kỷ, ti tiện . Trong cuộc sống, mỗi người cần phải cĩ lẽ sống đúng đắn. Đĩ là biết sống vì xã hội, luơn phấn đấu cống hiến nhiều những thành quả lao động cĩ giá trị gĩp phần vào quá trình phát triển xã hội, đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người. Đấu tranh cho hạnh phúc cá nhân hay hạnh phúc của cả xã hội là ranh giới, tiêu chuẩn để phân biệt người cĩ lẽ sống cao cả với kẻ cĩ lẽ sống tầm thường, ích kỷ, thấp hèn. Người cĩ quan niệm đạo đức chân chính bao giờ cũng hướng lẽ sống của mình phù hợp với yêu cầu phát triển và tiến bộ của xã hội, biết kết hợp hài hịa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Như vậy, lẽ sống hay ý nghĩa cuộc sống của con người khơng hồn tồn phụ thuộc chỉ vào thời gian sống mà quan trọng nhất chính là chất lượng cuộc sống, trong đĩ con người được lao động tự giác, sáng tạo, tự do cống hiến cho xã hội và thụ hưởng từ xã hội. 2. Hạnh phúc: Hạnh phúc là ước mơ lớn nhất, là mối quan tâm sâu sắc của con người ngay từ khi con người tách khỏi động vật và bắt đầu ý thức được về mình. Quan niệm về hạnh phúc cĩ một ý nghĩa hết sức quan trọng trong đời sống tinh thần nĩi chung và đạo đức nĩi riêng. Nĩ trở 12
- thành một trong những nền tảng tinh thần giúp con người xây dựng lý tưởng, mục tiêu, thái độ sống. Đồng thời, quan niệm về hạnh phúc cịn giữ vai trị là hạt nhân, là thước đo và định hướng để con người thiết lập các khái niệm thiện, ác, phẩm giá và hàng loạt các khái niệm nhân bản khác. Hạnh phúc chân chính tạo ra những động lực thúc đẩy con người và xã hội tiến tới sự hồn thiện, thơng qua việc phấn đấu thực hiện những lý tưởng cao quý. Qua các thời đại lịch sử, cĩ nhiều quan niệm khác nhau về hạnh phúc. Phần lớn các quan niệm trước Mac đều cho rằng hạnh phúc là sự thỏa mãn các nhu cầu, là trạng thái khi con người đạt được sự sung sướng, khơng cịn những đau khổ, dằn vặt và được yên tĩnh, thanh thản trong tâm hồn. Các tơn giáo lại quan niệm hạnh phúc là cái khơng cĩ ở trần gian, mà nĩ chỉ cĩ ở thế giới bên kia. Những quan niệm trên đây đều cĩ khuynh hướng coi hạnh phúc là sự thỏa mãn những nhu cầu cá nhân, tuyệt đối hĩa, tầm thường hĩa các nhu cầu cá nhân hoặc mang nặng yếu tố siêu hình dẫn đến những lệch lạc, bế tắc trong quá trình đi tìm hạnh phúc. Đạo đức học macxit quan niệm hạnh phúc gắn liền với quá trình lao động sản xuất và hoạt động xã hội của con người. Lao động sản xuất và hoạt động xã hội mang lại cho con người niềm vui, niềm tự hào sung sướng, nâng cao ý thức phẩm giá làm người, tin tưởng vào xã hội, gắn bĩ mỗi cá nhân với cộng đồng trong tình thương yêu, quý trọng lẫn nhau. Như vậy, hạnh phúc chỉ cĩ thể tìm thấy trong lao động, học tập, trong đấu tranh và chỉ đến với con người như một tặng thưởng kèm theo những giá trị vật chất và tinh thần mà họ đã tạo ra vì xã hội, được xã hội đánh giá và thừa nhận. Do đĩ, hạnh phúc khơng phải là cái gì đĩ cĩ sẵn để con người nhận lấy một cách thụ động mà phải do chính bản thân họ tạo ra. Chỉ những hoạt động nào cĩ ích cho con người, làm lợi cho xã hội mới đem lại hạnh phúc. Những hoạt động gây nên đau khổ cho con người sẽ bị xã hội lên án và ngăn chặn. Đĩ là lẽ vì sao lười biếng, thĩi ỷ lại, trì trệ, ích kỷ, hưởng thụ một chiều trong thực tế là trái đạo đức và là kẻ thù của hạnh phúc. Mặt khác hạnh phúc của mỗi người chỉ cĩ thể đạt được khi nĩ gắn với hạnh phúc của cộng đồng và xã hội. Đấu tranh chống lại cái ác, cái xấu, cái lạc hậu, bảo thủ kìm hãm xã hội phát triển; đồng thời đấu tranh giải phĩng con người, giải phĩng giai cấp, dân tộc, xây dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp, văn minh chính là đem lại hạnh phúc cho con người. Xã hội càng văn minh tốt đẹp càng tạo điều kiện cho con người sống hạnh phúc và đạt được những giá trị cao đẹp. Những hoạt động thỏa mãn nhu cầu đạo đức xã hội, làm cho con người đạt đến hạnh phúc cao nhất, đích thực nhất; hướng con người phấn đấu vươn tới cái chân, thiện, mỹ. Hạnh phúc cịn là phạm trù cĩ tính tương đối, tính lịch sử cụ thể, luơn vận động, biến đổi theo sự vận động và biến đổi của tồn tại xã hội. Mỗi thời đại lịch sử, mỗi con người cụ thể trong những hồn cảnh, lứa tuổi khác nhau, cĩ những quan niệm khác nhau về hạnh phúc. Mặt khác hạnh phúc khơng loại trừ hồn tồn mọi nỗi khổ đau. Những nỗi khổ cĩ tính tích cực như sự trăn trở trong sáng tạo, đau khổ khi vượt qua lỗi lầm, hy sinh vì nghĩa lớn; đau khổ vì nỗi đau của người khác; những gian truân, khổ ải trước khĩ khăn trong lao 13
- động và cuộc sống v.v một khi con người đã vượt qua thì niềm vui, hạnh phúc mà họ nhận được sẽ càng lớn. Hạnh phúc trọn vẹn là sự thỏa mãn những nhu cầu cả về vật chất lẫn tinh thần, đồng thời phải khơng ngừng sáng tạo ra những giá trị đĩ. Nhưng nhu cầu vật chất thì cĩ hạn, cịn nhu cầu tinh thần thì khơng cĩ giới hạn nên bao giờ cũng là tiêu chuẩn cao hơn, địi hỏi con người phải kiên trì phấn đấu mới cĩ thể đạt được những đỉnh cao của khát vọng tinh thần. 3. Nghĩa vụ: Nghĩa vụ chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống đạo đức xã hội. Việc thực hiện nghĩa vụ tốt hay xấu là thước đo đặc thù nĩi lên tình trạng tiến bộ hay thối hĩa của đời sống đạo đức trong xã hội. Nghĩa vụ đạo đức là ý thức trách nhiệm, là tình cảm tự giác của con người đối với người khác và đối với xã hội. Một hành vi được xem là nghĩa vụ đạo đức phải đặt trên cơ sở tự nguyện, tự giác, cái thiện và tự do; là sự thống nhất giữa lý trí và tình cảm, ý thức và hành vi của cá nhân với lý trí của tồn xã hội. Nhà nghiên cứu đạo đức học nổi tiếng người Nga G. Bandzeladze đã viết: “Đạo đức của con người là năng lực phục vụ một cách tự giác và tự do những người khác và xã hội . Nơi nào khơng cĩ những hành động tự nguyện, tự giác của con người thì ở nơi ấy khơng cĩ nhân phẩm, khơng thể thực sự cĩ đời sống xã hội” (G. Bandzeladze – đạo đức học – NXB Giáo dục - Hà Nội – 1985 – t1, tr.102). Sự trưởng thành về ý thức nghĩa vụ đạo đức phản ánh xu hướng tiến bộ của một xã hội lành mạnh, hài hịa. Ý thức nghĩa vụ đạo đức khơng chỉ là sự địi hỏi, yêu cầu của xã hội đối với cá nhân mà cịn là nhu cầu của sự tiến bộ, hồn thiện đối với bản thân mình. Vì vậy, nghĩa vụ đạo đức khơng thể là sự ép buộc từ bên ngồi, mà gắn bĩ chặt chẽ với ý thức của con người về lẽ sống, lý tưởng, hạnh phúc . Những quan niệm đúng đắn giúp con người nhận thức được sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, thống nhất giữa hạnh phúc cá nhân và hạnh phúc xã hội. Đĩ là lý do làm cho ý thức nghĩa vụ đạo đức được nuơi dưỡng, củng cố phát triển trong mơi trường của một nền giáo dục gia đình đầm ấm, xã hội lành mạnh mà ở đĩ tình thương yêu, đồn kết, sự quan tâm chăm sĩc lẫn nhau với những tình cảm chân thành được duy trì và phát triển. Trong những điều kiện đĩ, con người được hưởng thụ một bầu khơng khí đạo đức trong sáng, cao quý và chan chứa tình người, mà bản thân họ cũng trưởng thành về đạo đức, yêu lao động, cĩ lý tưởng, hồi bão, giàu cảm xúc, tin tưởng vào xã hội. Mất đi ý thức nghĩa vụ đạo đức cũng chính là đánh mất ý thức về chính bản thân mình, mất đi ý nghĩa làm người của mình. Trong quan hệ xã hội, bao trùm lên tất cả và thấm sâu vào mọi quan hệ xã hội là quan hệ đạo đức, mà đặc trưng là nghĩa vụ của con người. Vì thế, ý thức nghĩa vụ đạo đức được tất cả các thế hệ người trong xã hội vun đắp, gìn giữ, phát triển để trở thành niềm tin, tình cảm thiêng liêng mà mỗi thế hệ người đều gìn giữ, kế thừa, bổ sung và hồn thiện. Ý thức 14
- nghĩa vụ đạo đức mang tính chất một tình cảm thiêng liêng cao cả cấu thành nội dung cơ bản của bổn phận, của đạo làm người. Chính ý thức nghĩa vụ đạo đức đã hun đúc lịng yêu nước, trung thành với tổ quốc, hết lịng phục vụ nhân dân; yêu thương, kính trọng, hiếu thảo với cha mẹ và lối sống thủy chung son sắt trong đạo vợ chồng, tình nghĩa anh em, bầu bạn. Ý thức nghĩa vụ đạo đức là quá trình phát triển khơng ngừng cùng với sự trưởng thành của xã hội và con người. Vì thế, việc hình thành ý thức nghĩa vụ phải là một quá trình tu dưỡng bền bỉ, rèn luyện khơng ngừng trong suốt cuộc đời của mỗi người. 4. Lương tâm: Lương tâm là tình cảm hoặc ý thức trách nhiệm đạo đức của mỗi người về hành vi của mình trong quan hệ xã hội; ý thức trách nhiệm đối với số phận của người khác và xã hội. Lương tâm đồng thời là sự tự phán xét về các hoạt động, hành vi của mình. Vì vậy, lương tâm khơng đơn thuần chỉ là tình cảm mà cịn chứa đựng cả yếu tố ý thức của con người. Nguồn gốc của lương tâm gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người qua quá trình từ thấp lên cao. Nếu chỉ vì sợ hoặc xấu hổ trước người khác mà hành động thì chưa phải là hành vi cĩ lương tâm. Chỉ khi con người biết xấu hổ với chính mình thì tình cảm lương tâm mới xuất hiện và khi đĩ con người hành động hồn tồn theo sự tự giác, tự do của tình cảm, lý trí bản thân mà khơng phụ thuộc vào những tác động bên ngồi. Vì vậy, lương tâm là biểu hiện tập trung nhất của ý thức đạo đức trong thực tiễn, nĩ là dấu hiệu và thước đo sự trưởng thành của đời sống đạo đức cá nhân. Dưới hình thức tình cảm nội tâm, lương tâm luơn tồn tại như một minh chứng cho sự hiện diện của đời sống đạo đức cá nhân. Mỗi người, với tư cách là một chủ thể đạo đức trưởng thành bao giờ cũng là người cĩ lương tâm. Vì thế khái niệm “lương tâm”, “vơ lương tâm” thường được dùng như sự khẳng định hay phủ định tình trạng cĩ đạo đức hay vơ đạo đức. Người cĩ lương tâm sẽ cĩ đủ nghị lực vượt qua khĩ khăn để đạt tới những giá trị đích thực của cuộc sống; dù sống ở đâu, trong bất kỳ hồn cảnh nào vẫn giữ được nhân cách và rất giàu tình người. Lương tâm khơng phải là một cảm xúc hời hợt, nhất thời hoặc một phản ứng tự nhiên mang tính bản năng, mà đĩ là kết quả của một quá trình nhận thức sâu sắc đối với những nhu cầu đạo đức xã hội. Sự hình thành cảm xúc lương tâm gắn liền nhận thức về lẽ sống, lý tưởng, hạnh phúc của con người với ý thức nghĩa vụ đạo đức. Nghĩa vụ đạo đức và lương tâm luơn cĩ mối liên hệ mật thiết với nhau. Nghĩa vụ đạo đức là ý thức trách nhiệm trước xã hội và người khác, cịn lương tâm là ý thức trách nhiệm trước bản thân mình. Cĩ thể xem ý thức nghĩa vụ đạo đức là nền tảng, là cơ sở hình thành lương tâm con người. Lương tâm được biểu hiện ở hai trạng thái khẳng định và phủ định. Trạng thái khẳng định là sự thư thái, là cảm giác trong sạch của lương tâm. Nĩ giúp nâng cao tính tích cực của con người, giúp con người tin tưởng vào bản thân, vào cuộc sống, thơi thúc con người 15
- vươn tới cái thiện, cái tốt đẹp. Trạng thái phủ định là sự cắn rứt, sự khơng trong sạch của lương tâm. Nĩ gây cho con người cảm giác đau khổ, làm suy giảm hoạt động tích cực của con người. Nhưng mặt khác sự cắn rứt lương tâm cũng giúp con người thức tỉnh, hối cải; giúp con người suy nghĩ lại và uốn nắn những hành vi sai trái của mình để trở về con người đúng đắn, tiến bộ. Người cĩ đạo đức bao giờ cũng đặt cho mình một “tịa án lương tâm” để tự giám sát mọi hành vi ứng xử của bản thân. Ân hận là sự trừng phạt của lương tâm; khi cĩ lỗi lầm mà lương tâm thức tỉnh thì sự ân hận giúp con người cĩ thêm nghị lực để sửa chữa sai lầm, khuyết điểm. 5. Thiện và ác: Thiện là lợi ích của con người phù hợp với lợi ích và sự tiến bộ của xã hội. Thiện cũng là những hoạt động phấn đấu hy sinh vì con người, làm cho con người ngày càng sung sướng hơn, tư do, hạnh phúc, tiến bộ hơn. Nĩ là biểu hiện tập trung nhất, cụ thể và cao cả nhất của đời sống đạo đức xã hội, gắn bĩ chặt chẽ với cái chân lý và cái tốt đẹp. Đối lập với cái thiện là cái ác. Cái ác chống lại cái thiện, gây nên nỗi đau khổ cho con người, cản trở sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Đạo đức học macxit quan niệm thiện và ác của con người là một sản phẩm lịch sử. Vì thế, nội dung của nĩ khơng phải là một cái gì vĩnh viễn khơng thay đổi. Ngược lại, ở mỗi thời đại, từ những quan hệ kinh tế, xã hội và giai cấp, con người lại hình thành nên những quan niệm thiện – ác khác nhau, tương ứng với xã hội trong thời kỳ đĩ. Trong một xã hội cĩ giai cấp đối kháng thì những quan niệm về thiện – ác cũng khác nhau thậm chí cịn đối lập nhau. Mặt khác, nhiều khi trong đời sống thực tiễn, cái ác cịn được thể hiện ra như một tất yếu phải vượt qua trên con đường con người đi tới cái thiện. Sống thiện là nét đặc trưng trong đời sống đạo đức của con người và xã hội. Đề cao việc thiện, phê phán và chống lại cái ác sẽ làm cho con người mang tính người hơn, làm nảy nở những tình cảm như lịng vị tha, nhân ái, quý trọng nhau; loại bỏ thĩi ích kỷ và những hành vi vơ nhân đạo. Xã hội nào đề cao tính thiện thì những bất cơng xã hội cũng giảm đi, con người được sống tự do, hạnh phúc hơn. Sống thiện là phải luơn suy nghĩ, hành động tích cực vì lợi ích và tiến bộ xã hội, đem lại hạnh phúc và làm giảm đi những đau khổ cho người khác và cho xã hội. Vì vậy, để cĩ cái thiện thật sự thì phải giải phĩng con người khỏi áp bức, bĩc lột, bất cơng; xây dựng một xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh, tiến bộ, bình đẳng. Nếu lịng tốt, tình thương người chỉ dừng lại ở ý thức tư tưởng thì chưa thể là thiện, điều quan trọng là nĩ phải được thể hiện bằng hành động trong cuộc sống hiện thực. Cái thiện cịn là sự thống nhất giữa động cơ và kết quả, mục đích và phương tiện. Thơng thường, một hành vi cĩ động cơ tốt sẽ dẫn đến kết quả tốt, đĩ là thiện; động cơ xấu, 16
- kết quả xấu, đĩ là ác; động cơ tốt, kết quả xấu, khơng coi là ác; động cơ xấu, kết quả tốt thì vẫn coi là ác. Mối quan hệ giữa mục đích và phương tiện cũng vậy. Đã là mục đích thiện thì khơng thể sử dụng những phương tiện ác, tàn bạo. Nhưng trong thực tế, để đi tới cái thiện con người vẫn phải trải qua những hy sinh, mất mát, phải trả giá bằng xương máu của hàng triệu người, vượt qua cái ác để giải phĩng con người, hướng tới cái thiện cao cả, vĩ đại và đáng trân trọng nhất. 17
- Chương II: ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP NHÀ BÁO I. KHÁI NIỆM VỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP Đạo đức nghề nghiệp là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong lao động nghề nghiệp và quan hệ nghề nghiệp với xã hội, được biểu hiện trong ba mối quan hệ: Với mình, với người (xã hội), với cơng việc mà phẩm chất cao nhất là lịng yêu nghề và yêu người. Những nguyên tắc và tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp gĩp phần duy trì một trình độ chuyên mơn cao nhằm hình thành nên chế độ làm việc của người lao động và tổ chức nghề nghiệp. Mặt khác, đạo đức nghề nghiệp giúp người lao động nhận thức rõ được các phẩm chất tốt của cá nhân đối với các chương trình và chính sách của tổ chức. Từ đĩ xác định thái độ, hành động phù hợp giữa lợi ích của cá nhân với lợi ích của tổ chức và xã hội. Ở nước ta từ khi Cách mạng Tháng tám thành cơng, ra đời Nhà nước của dân, do dân, vì dân thì triết lý và những giá trị đạo đức nghề nghiệp cao nhất là phục vụ nhân dân. Do tính chất và tác động xã hội của báo chí rất lớn; liên quan đến nhiều nghề, ảnh hưởng đến nhiều người, nhiều lĩnh vực, lại luơn gắn với quyền lực, danh tiếng, chịu nhiều áp lực nên đạo đức nghề nghiệp nhà báo cũng cĩ những nét đặc thù và yêu cầu mang tính xã hội cao. II. NHỮNG NGUYÊN TẮC NỀN MĨNG XÂY DỰNG QUY CHUẨN ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP NHÀ BÁO VIỆT NAM 1. Nguyên tắc về phẩm chất chính trị: Đây là nguyên tắc hàng đầu, vì làm báo là làm chính trị. Nhà báo trong chế độ ta là những chiến sỹ xung kích trên mặt trận văn hĩa tư tưởng, cĩ vai trị định hướng tư tưởng cho cơng chúng để tạo ra sự thống nhất và ổn định chính trị - xã hội, gĩp phần xây và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy trước hết nhà báo phải nắm vững các quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; cĩ lập trường vững vàng, trung thành với lý tưởng độc lập và chủ nghĩa xã hội; đấu tranh để bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và nhân dân. 2. Nguyên tắc về trình độ và năng lực chuyên mơn: Đây là nguyên tắc nhằm đảm bảo cho nhà báo hồn thành tốt nhiệm vụ trong hoạt động nghề nghiệp. Khơng ngừng phấn đấu học tập rèn luyện nâng cao trình độ hiểu biết, tích lũy kinh nghiệm, phát huy năng lực sở trường và sáng tạo trong hoạt động nghề nghiệp là tiêu chuẩn đạo đức của nhà báo. 3. Nguyên tắc về đạo đức cá nhân: 18
- Đạo đức cá nhân là cơ sở để nhà báo xây dựng và phát huy đạo đức nghề nghiệp. Nhà báo khơng thể cĩ đạo đức nghề nghiệp nếu chưa cĩ những phẩm chất tối thiểu của đạo đức làm người. Đĩ là biết sống cĩ ích (cho bản thân, gia đình và xã hội), cĩ lịng thương người; biết kiềm chế bản năng thú tính, biết chống lại cái xấu, cái ác và khơng ngừng tu dưỡng, rèn luyện để bổ sung những phẩm chất cá nhân khác như lịng nhân ái, yêu nước, hiếu thảo, trung thực, chân thành, chung thủy, cần, kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư v.v . Những phẩm chất đĩ chính là nền tảng để xây dựng và nâng cao đạo đức nghề nghiệp của mỗi nhà báo. 4. Nguyên tắc về hiệu quả cơng việc: Kết quả cơng tác là thước đo phẩm chất đạo đức của nhà báo. Đặc biệt phải quan tâm đến hiệu quả xã hội của hoạt động nghề nghiệp và hiệu quả từ các tác phẩm báo chí do nhà báo sáng tạo ra. Khơng thể nĩi nhà báo cĩ đạo đức, khi nhà báo khơng hồn thành nhiệm vụ hoặc viết nhiều, làm nhiều mà các tác phẩm do nhà báo sáng tạo ra khơng đem lại lợi ích gì cho xã hội, thậm chí cỏn gây hậu quả xấu cho xã hội. III.TỪ QUY ƯỚC ĐẾN QUY ĐỊNH VỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA NGƯỜI LÀM BÁO VIỆT NAM Dựa trên những nguyên tắc nền mĩng trên đây, ngay từ đại hội lần thứ VI (3/1995) Hội Nhà báo Việt Nam đã thơng qua 10 Quy ước Đạo đức nghề nghiệp báo chí Việt Na 1. Mục tiêu cao cả của báo chí Việt Nam là phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhà báo hoạt động trong bất kỳ lĩnh vực và hồn cảnh nào cũng hướng về mục tiêu cao cả đĩ. 2. Báo chí thực hiện quyền thơng tin của nhân dân. Nhà báo phải khách quan, trung thực, tơn trọng sự thật. Mọi thơng tin đưa ra cơng luận phải phản ánh đúng bản chất sự thật khách quan trong bối cảnh xã hội của nĩ, tuyệt đối khơng được xuyên tạc hoặc cường điệu sự việc, sự kiện. Nhà báo cĩ trách nhiệm cung cấp cho cơng chúng hình ảnh chân thật, đúng bản chất về quá trình của sự kiện và tình huống được thơng tin, thơng qua đĩ hướng dẫn dư luận. 3. Báo chí là phương tiện thơng tin thiết yếu với đời sống xã hội, là cơng cụ văn hĩa. Nhà báo tơn trọng và thực hiện tự do báo chí, chịu trách nhiệm trước xã hội; trước nhân dân và tự do hành nghề trong khuơn khổ luật pháp. Nhà báo thực hiện đúng tơn chỉ của cơ quan báo chí; khơng vì bất kỳ sức ép nào mà làm trái với mục tiêu cao cả của báo chí Việt Nam, đi ngược lợi ích đất nước. 4. Cùng với quyền tự do thơng tin, thực hiện quyền trả lời và cải chính trên báo chí là một nguyên tắc cấu thành tự do dân chủ báo chí. Nhà báo cĩ quyền kiên trì quan điểm và thơng tin đúng đắn của mình, nhưng tơn trọng quyền trả lời và quyền cải chính của cơng dân theo đúng luật pháp. 19
- 5. Nhà báo cĩ nghĩa vụ bảo vệ nguồn tin và giữ bí mật do người khác cung cấp, phù hợp với luật pháp. 6. Báo chí Việt Nam phát huy văn hĩa dân tộc, đồng thời tơn trọng các nền văn hĩa khác và những giá trị tinh thần phổ biến của lồi người; phấn đấu vì đại đồn kết dân tộc, vì hịa bình, hữu nghị, hiểu biết giữa các dân tộc và quốc gia trên thế giới. 7. Nhà báo gĩp phần phát triển lợi ích cơng đồng, tơn trọng quyền con người, khơng lợi dụng thơng tin để xúc phạm nhân phẩm và làm thiệt hại đến lợi ích của người khác. 8. Nhà báo luơn luơn giữ phẩm chất trong sáng, khơng vụ lợi. tuyệt đối khơng vì lợi ích cá nhân mà cố tình cơng bố hoặc bỏ qua khơng cơng bố một thơng tin. Nhà báo khơng được dùng uy tín nghề nghiệp của mình để trục lợi. 9. Nhà báo tơn trọng chính kiến và quan điểm xã hội, nghề nghiệp của đồng nghiệp; đồn kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong hoạt động và đời sống; đấu tranh khơng khoan nhượng chống mọi hành vi làm tổn hại đến đất nước, lợi ích nhân dân và trái với đạo đức báo chí. 10.Nhà báo sống lành mạnh, văn minh, khát khao học hỏi, khiêm tốn cầu tiến bộ. Nâng cao bản lĩnh, trình độ và kỹ năng nghề nghiệp của mình là ước vọng và sự phấn đấu suốt đời của người làm báo. Sau 10 năm thực hiện Quy ước Đạo đức nghề nghiệp Báo chí (1995 -2005), Đại hội Hội Nhà Báo Việt Nam lần thứ VIII (8/2005) đã chuyển Quy ước thành “Quy định về Đạo đức nghề nghiệp của Người làm báo Việt Nam.” Quy định này nhằm cụ thể hĩa một nội dung tiêu chuẩn hội viện trong Điều lệ Hội Nhà Báo Việt Nam – bộ luật cao nhất của tổ chức Hội, được viết ngắn gọn thành 9 điều sau đây: 1. Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Luơn gắn bĩ với nhân dân, hết lịng phục vụ nhân dân. 3. Hành nghề trung thực, khách quan, tơn trọng sự thật. 4. Sống lành mạnh, trong sáng, khơng được lợi dụng nghề nghiệp để vụ lợi và làm trái pháp luật. 5. Gương mẫu chấp hành pháp luật, làm trịn nghĩa vụ cơng dân, làm tốt trách nhiệm xã hội. 20
- 6. Bảo vệ bí mật quốc gia, nguồn tin và giữ bí mật cho người cung cấp thơng tin. 7. Tơn trọng, đồn kết, hợp tác giúp đỡ đồng nghiệp trong hoạt động nghề nghiệp. 8. Thường xuyên học tập, nâng cao trình độ chính trị, văn hĩa, nghiệp vụ, khiêm tốn cầu tiến bộ. 9. Giữ gìn và phát huy văn hĩa dân tộc đồng thời tiếp thu cĩ chọn lọc các nền văn hĩa khác. Như vậy, từ “Quy ước” đến “Quy định Đạo đức nghề nghiệp của Người làm báo Việt Nam” đã cĩ những điểm mới. Về hình thức, được viết ngắn gọn, súc tích hơn nhằm giúp các nhà báo dễ nhớ để thực hiện. Nội dung được nhấn mạnh vào sự gắn bĩ hết lịng hết sức phục vụ nhân dân, tính trung thực, khơng vụ lợi trong đạo đức lối sống và hoạt động nghề nghiệp; đề cao trách nhiệm xã hội, gương mẫu chấp hành pháp luật, làm trịn nghĩa vụ cơng dân nhằm xây dựng Hội Nhà báo các cấp trong sạch vững mạnh, khơng ngừng nâng cao chất lượng nhà báo. Tính pháp lý của Quy ước chỉ là sự “thỏa thuận với nhau”, cịn Quy định là “những điều khoản định ra để phải tuân theo, phải thực hiện” (từ điển Tiếng Việt). Nếu vi phạm “Quy định” thì Hội cĩ hình thức chế tài với những mức độ khác nhau, kể cả khai trừ ra khỏi Hội. IV. LUẬT BÁO CHÍ VÀ QUY ĐỊNH ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP NHÀ BÁO: Nhằm đảm bảo những yêu cầu tối thiểu mang tính bắt buộc nhà báo phải tuân theo, một số nội dung đạo đức nghề nghiệp nhà báo đã được luật hĩa thành các nghĩa vụ pháp lý của báo chí và nhà báo trong Luật Báo chí hiện hành. Đĩ là những trách niệm của nhà báo và cơ quan báo chí trong việc đảm bảo quyền tự do báo chí, tự do ngơn luận trên báo chí của cơng dân (điều 2). Đĩ là nghĩa vụ của nhà báo và cơ quan báo chí trong việc thơng tin trung thực, phù hợp với lợi ích của đất nước, của nhân dân; phản ánh ý kiến, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, gĩp phần thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngơn luận trên báo chí của cơng dân; bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; phát hiện, bảo vệ nhân tố tích cực, đấu tranh phịng chống các tư tưởng, hành vi sai phạm; bảo vệ sự trong sáng của Tiếng Việt; thường xuyên học tập nâng cao trình độ mọi mặt và khơng được lợi dụng danh nghĩa nhà báo để sách nhiễu nhân dân, vi phạm pháp luật; phải cải chính xin lỗi trong trường hợp thơng tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức và cơng dân (điều 6 và điều 15). 21
- Đặc biệt, Luật Báo chí cũng quy định những điều cấm nhà báo khơng được làm khi hoạt động nghề nghiệp (điều 10): - Khơng được kích động nhân dân chống Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phá hoại khối đồn kết tồn dân. - Khơng được kích động bạo lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước, kích động dâm ơ, đồi trụy, tội ác. - Khơng được tiết lộ bí mật Nhà nước, bí mật quân sự, an ninh, kinh tế, đối ngoại và những bí mật khác do pháp luật quy định. - Khơng được đưa tin sai sự thật, xuyên tạc vu khống nhằm xúc phạm danh dự của tổ chức, danh dự nhân phẩm của cơng dân. Nghị định số 51 ngày 26/4/2002 của Chính phủ, hướng dẫn thi hành Luật Báo chí cịn cụ thể thành 6 điều khơng được thơng tin trên báo chí. Trong đĩ nhấn mạnh đến các yêu cầu, khi thơng tin nhà báo khơng được miêu tả tỉ mỉ những hành động tội ác, dâm ơ, chém giết rùng rợn; khơng được đăng, phát tin, bài, tranh ảnh khỏa thân, kích dâm, thiếu thẩm mỹ, trái với thuần phong mỹ tục Việt Nam; khơng được đăng, phát tin, bài, ảnh làm ảnh hưởng xấu đến việc bảo vệ bí mật đời tư và quyền về hình ảnh của cá nhân; khơng được đăng, phát tin, bài truyền bá hủ tục, mê tín dị đoan v.v Nhà báo cĩ đạo đức trước hết phải đề cao ý thức tơn trọng pháp luật, thực hiện tốt các quy định của Luật Báo chí và các văn bản dưới luật khác. Đồng thời phải tự giác thực hiện tốt các Quy định Đạo đức nghề nghiệp của Người làm báo Việt Nam. V. NHỮNG TIÊU CHUẨN ĐẠO ĐỨC CƠ BẢN CỦA NHÀ BÁO NƯỚC TA: Từ những quy định về đạo đức nghề nghiệp của Hội Nhà Báo Việt Nam và Luật Báo chí hiện hành, cĩ thể rút ra những tiêu chuẩn cơ bản về đạo đức nghề nghiệp của nhà báo nước ta hiện nay như sau: 1. Trọng dân, vì dân – Tiêu chuẩn hàng đầu đạo đức nghề nghiệp nhà báo: Trọng dân là nĩi về thái độ ứng xử của nhà báo khi hành nghề và sáng tạo phải luơn kính trọng nhân dân, tơn trọng lễ phép, gắn bĩ chặt chẽ với nhân dân, yêu thương tin tưởng ở nhân dân; luơn lắng nghe và chịu sự giám sát của nhân dân. Vì dân là nĩi về mục đích hoạt động nghề nghiệp của nhà báo, phải hết lịng hết sức tận tụy phục vụ nhân dân; mọi hoạt động sáng tạo của nhà báo phải luơn hướng tới lợi ích và sự tiến bộ của nhân dân. Tư tưởng trọng dân, vì dân trước hết xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân; nhân dân là chủ, cán bộ cơng chức là cơng bộc của dân. Vì vậy giá trị đạo đức nghề nghiệp cao nhất của báo chí và nhà báo là phục vụ nhân dân. 22
- Trọng dân, vì dân cịn xuất phát từ chức năng nhiệm vụ của báo chí là đảm bảo quyền được thơng tin, một trong những quyền cơ bản của con người đã được Hiến pháp và Luật Báo chí nước ta minh định. Nhân dân cĩ quyền tiếp nhận thơng tin và cung cấp thơng tin cho báo chí. Báo chí và nhà báo phải tơn trọng và đảm bảo các quyền cơ bản đĩ của người dân. Trong xu hướng phát triển báo chí hiện nay, vai trị của nhân dân tham gia vào quá trình làm báo ngày càng tăng. Nhân dân là nguồn sống, lực lượng quan trọng gĩp phần quyết định nâng cao chất lượng sản phẩm báo chí, nên trọng dân, vì dân cịn là yêu cầu mới nhằm đảm bảo cho báo chí phát triển và thực hiện tốt mục đích của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã nêu tấm gương sáng về đạo đức “trọng dân, vì dân” trong hoạt động nghề nghiệp báo chí. Đối với Bác Hồ , trọng dân, vì dân vừa là mục đích vừa là điều kiện, vừa là tiêu chuẩn đạo đức trong hoạt động báo chí. Đĩ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng yêu nước, thương dân, truyền thống nhân đạo của người Việt Nam. Trong nhiều bài viết của mình Bác luơn nhắc các nhà báo trước khi viết phải trả lời rõ: “Viết cho ai xem? Viết để làm gì?” (Hồ Chí Minh tồn tập, tập 9, trang 415), “Vì ai mà viết? Mục đích viết để làm gì?” (Hồ Chí Minh tồn tập, tập 6, trang 443 - 444) v.v . đĐặt ra những câu hỏi đĩ chính là Bác đã địi hỏi các nhà báo phải xác định rõ đối tượng tiếp nhận thơng tin trước khi sáng tạo một tác phẩm báo chí để lựa chọn mục đích và phương pháp phù hợp. Theo Bác, “Đối tượng của tờ báo là đại đa số nhân dân” và mục đích của việc viết báo khơng cĩ gì khác ngồi lợi ích và sự tiến bộ của nhân dân. Vì vậy, Người luơn dạy các nhà báo phải gần gũi nhân dân, lấy dân làm đối tượng, làm mục đích phục vụ. Viết báo phải làm cho dân dễ hiểu, dễ nhớ; phải giúp dân tiến bộ và viết cái gì cĩ lợi cho nước, cho dân. Nhà báo phải đồng hành cùng nhân dân và dân tộc, sống trong lịng nhân dân, tơn trọng, lắng nghe, học tập nhân dân, làm cho dân tin, dân yêu, đồng thời phải hiểu dân và tin yêu dân. Nhân dân là hịn đá thử vàng đối với quá trình học tập, tu dưỡng và hoạt động của mỗi nhà báo. Vì vậy, nhà báo phải lấy dân làm thước đo, kiểm tra đánh giá mình; phải coi dân là người thầy, người bảo trợ giúp đỡ mình hoạt động. Trọng dân, vì dân theo yêu cầu đổi mới, báo chí khơng chỉ phục vụ, đáp ứng yêu cầu nguyện vọng chính đáng, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhân dân mà cịn phải thực sự trở thành diễn đàn, tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Với vai trị là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, báo chí cĩ trách nhiệm tạo ra sự đồng thuận xã hội, phát huy mọi tiềm lực của nhân dân trong việc tham gia quản lý, giám sát và phản biện xã hội để xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, làm cho “dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh.” Thể hiện tư tưởng trọng dân, vì dân trong Quy định Đạo đức nghề nghiệp Nhà báo là: Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (điều 1); Luơn gắn bĩ với nhân dân, hết lịng phục vụ nhân dân (điều 2); Hành nghề trung thực, khách quan, tơn trọng sự thật 23
- (điều 3); Khơng lợi dụng nghề nghiệp để vụ lợi và làm trái phát luật (điều 4); Làm tốt trách nhiệm xã hội (điều 5); Giữ bí mật cho người cung cấp thơng tin (điều 6); Giữ gìn phát huy văn hĩa dân tộc (điều 9). Nhà báo biết trọng dân, vì dân sẽ luơn sống trong lịng nhân dân, bám sát thực tiễn cuộc sống, gắn bĩ chặt chẽ với nhân dân nên nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, tơn tọng dân quyền. Vì vậy họ luơn được nhân dân tin tưởng, yêu mến, giúp đỡ, bảo bọc; luơn sáng tạo được những tác phẩm báo chí cĩ chất lượng, hiệu quả xã hội cao. Khơng trọng dân, vì dân nhà báo sẽ quan liêu biến thành những nhà báo “salon”, chỉ ngồi một chỗ mà khơng đi thực tế để tìm hiểu, quan sát, lắng nghe ý dân, tìm hiểu lịng dân, sẽ chỉ tạo ra những tác phẩm thiếu khách quan trung thực, phiến diện. Những nhà báo như vậy thường mắc bệnh tự cao, tự mãn, thiếu khiêm tốn, cĩ thái độ hống hách xem thường nhân dân. Họ luơn coi mình ở thế đứng trên dân để chỉ bảo, răn dạy, ban ơn nên thường thơng tin một chiều áp đặt. Hoặc tự đặt mình đứng ngồi cuộc sống của dân để săm soi, phê phán với thái độ lạnh lùng, vơ cảm, thiếu khách quan, trung thực, thiếu tính nhân văn. 2. Tính trung thực – đặc trưng nhân cách đạo đức nghề nghiệp nhà báo. Trung thực là ngay thẳng, thật thà, tơn trọng sự thật, lẽ phải và chân lý trong các quan hệ xã hội. Đây là nguyên tắc đạo đức quan trọng trong hoạt động nghề nghiệp, là sức mạnh của báo chí. Yêu cầu này trước hết xuất phát từ mục đích của hoạt động báo chí là vì dân, từ tính chân thật của báo chí, đồng thời cũng nhằm bảo vệ danh dự và uy tín của nhà báo. Trung thực là đức tính cần cĩ của mọi người, mọi nghề nhưng nghề báo cĩ tính đặc thù. Sản phẩm của nghề báo là thơng tin, tạo nên hiệu ứng xã hội mạnh mẽ trên diện rộng. Sức mạnh và uy tín của báo chí phụ thuộc vào tính khách quan, chân thật của những thơng tin mà nhà báo đem đến hoặc phản ánh ý chí nguyện vọng của cơng chúng. Vì vậy, nhà báo phải khách quan trung thực trong hoạt động nghề nghiệp, trong giao tiếp và lao động sáng tạo mới được dân tin, dân nghe, dân làm theo. Đảm bảo tính chân thật theo yêu cầu mới, địi hỏi nhà báo phải nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và phản ánh rõ sự thật. Nhìn thẳng vào sự thật, địi hỏi mỗi nhà báo phải nhìn rõ cả mặt tốt và mặt chưa tốt, mặt xấu của xã hội để xác định thái độ đúng đắn trong thơng tin. Nhà báo phải tơn trọng, phát huy mặt tốt, mặt tích cực và kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi cái ác, cái xấu để xây dựng xã hội lành mạnh, tiến bộ. Đánh giá đúng sự thật là yêu cầu cĩ tính quyết định của nhìn thẳng vào sự thật. Vì bản chất của sự thật thường bị che lấp bởi những biểu hiện hình thức bên ngồi. Mặt khác, những yếu tố chủ quan của nhà báo, như thế giới quan, trình độ năng lực, kinh nghiệm, tâm lỳ, lợi ích, phương thức tiếp cận nguồn tin và thái độ khi thơng tin cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến việc đánh giá đúng sự thật. Vì vậy, nhà báo phải khách quan, trung thực; cĩ sự hiểu biết, thái độ nghiêm túc, chân thành và cơng tâm. Phản ánh rõ sự thật là thực hiện sự cơng khai sau khi đánh giá đúng sự thật. Việc này liên quan đến vai trị định hướng và chức 24
- năng bảo vệ lợi ích xã hội của báo chí. Nhà báo phải cân nhắc, chọn lọc để mọi sự thật được phản ánh phải phù hợp với đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, lợi ích của đất nước và của nhân dân. Để thể hiện tính trung thực, nhà báo trước hết phải trung thực với chính mình, cĩ thái độ yêu, ghét rõ ràng, sự cơng tâm trong ứng xử, trong hoạt động nghề nghiệp và phản ánh hiện thực; phải giữ phẩm chất trong sáng, khơng vụ lợi, thiên vị để bảo vệ lẽ phải và chân lý. Đồng thời khi thơng tin sai phải chân thành, thẳng thắn nhận khuyết điểm và kịp thời cải chính, xin lỗi cơng chúng. Trong quá trình hoạt động, lịng trung thực của nhà báo luơn phải đối mặt với nhiều áp lực và sự cám dỗ, địi hỏi phải cĩ dũng khí, bản lĩnh, sự chân thành và nhân ái để vượt qua. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luơn quan tâm đến tính trung thực, khách quan trong hoạt động báo chí và căn dặn các nhà báo: “Khơng biết rõ, hiểu rõ, chớ nĩi, chớ viết. Khi khơng cĩ gì cần nĩi, khơng cĩ gì cần viết, chớ nĩi, chớ viết càn; chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ, chớ nĩi, chớ viết”. Bác yêu cầu các nhà báo: “Khơng nên chỉ viết cái tốt mà giấu đi cái xấu. Nhưng phê bình phải đúng đắn. Nêu cái hay, cái tốt thì phải cĩ chừng mực, chớ phĩng đại . Phê bình phải phê bình một cách thật thà, chân thành, đúng đắn ” để “phần thiện trong con người nảy nở, chứ khơng cĩ nghĩa là vùi dập” (Hồ Chí Minh tồn tập, tập 4, trang 444,526,530). Tiếp nối tinh thần đĩ, nhân kỷ niệm 70 năm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (21/6/1995), Ban chấp hành Trung ương Đảng đã tặng các nhà báo bức trướng ghi dịng chữ “Trung thực – Đồn kết – Trí tuệ - Đổi mới vì sự nghiệp cơng nghiệp hĩa, hiện đại hĩa đất nước”. Luật Báo chí quy định quyền và nghĩa vụ của báo chí và nhà báo: “Thơng tin trung thực về tình hình trong và ngồi nước phù hợp với lợi ích của đất nước và nhân dân.” Điều 3 trong Quy định Đạo đức nghề nghiệp của Người làm báo Việt Nam cũng ghi rõ : “Hành nghề trung thực, khách quan, tơn trọng sự thật.” Tĩm lại, trung thực là đặc trưng nhân cách của nhà báo và cũng là phẩm chất hàng đầu mà Đảng, Nhà nước, nhân dân địi hỏi các cơ quan báo chí, các nhà báo phải tơn trọng và thực hiện. 3. Trách nhiệm xã hội – Tiêu chuẩn đạo đức sống cịn của báo chí và nhà báo: Trách nhiệm xã hội thuộc phạm trù nghĩa vụ đạo đức. Nhà báo khi hoạt động nghề nghiệp mang trên vai hai thứ trách nhiệm. Đĩ là trách nhiệm trước cơ quan báo chí, phải hồn thành tốt mọi cơng việc được giao. Vượt lên trên trách nhiệm ấy là trách nhiệm với xã hội. Hai trách nhiệm này cĩ mối quan hệ thống nhất với nhau. Hồn thành tốt trách nhiệm 25
- với cơ quan báo chi là tiền đề để nhà báo hồn thành tốt trách nhiệm xã hội và ngược lại. Nghề báo là nghề của nhiều nghề, liên quan đến mọi mặt, mọi đối tượng của đời sống xã hội. Hiệu ứng của sản phẩm thơng tin báo chí bao giờ cũng mang tính hai mặt. Khi thơng tin đúng, trúng sẽ tạo hiệu quả tích cực gĩp phần ổn định và thúc đẩy xã hội phát triển, ngược lại sẽ gây hiệu ứng tiêu cực, làm mất ổn định và cản trở sự phát triển của xã hội. Điều này địi hỏi nhà báo phải đề cao trách nhiệm xã hội trong lao động nghề nghiệp để luơn tạo được hiệu ứng tích cực. Mặt khác, hoạt động báo chí gắn liền với quyền lực. Dù khơng phải là cơ quan quyền lực, nhưng báo chí ở nước ta lại là tiếng nĩi của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội; là diễn đàn của nhân dân nên tồn bộ các hoạt động sáng tạo ra sản phẩm báo chí đều mang ý nghĩa đại diện cho ý chí và quyền lợi của nhân dân. Mọi thơng tin của báo chí và nhà báo tác động vào tiến trình phát triển xã hội đều được đảm bảo bằng sức mạnh quyền lực của dư luận xã hội. Vì vậy, các nhà báo phải đề cao trách nhiệm xã hội để khi sử dụng quyền lực ấy khơng đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Trong sự nghiệp đổi mới, báo chí nước ta cĩ vai trị và uy tín lớn trong xã hội, lại được Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ tham gia giám sát và phản biện xã hội; được nhân dân tin tưởng, ủng hộ, làm theo nên nhà báo càng phải đề cao trách nhiệm xã hội để xứng đáng với vị thế và lịng tin yêu ấy. Trách nhiệm xã hội yêu cầu nhà báo trước hết phải làm trịn nghĩa vụ cơng dân, luơn gương mẫu chấp hành tốt pháp luật. Chế độ tự do báo chí tạo điều kiện cho các nhà báo nhiều thuận lợi để hoạt động và sáng tạo. Nhưng tự do của nhà báo chỉ cĩ thể được đảm bảo và phát huy khi tự do hoạt động phải gắn liền với kỷ cương phép nước; tự do hành nghề phải gắn với đạo đức nghề nghiệp và tự do sáng tạo phải gắn liền với trách nhiệm cơng dân. Tính đặc thù của loại hình lao động sáng tạo báo chí địi hỏi các nhà báo phải hiểu sâu sắc, cân nhắc kỹ lưỡng từng việc làm, xem xét, phân tích đầy đủ các hậu quả chính trị, xã hội của từng chi tiết trong tác phẩm và sản phẩm làm ra. Chỉ cĩ như vậy nhà báo mới cĩ thể phục vụ xã hội, hồn thành sứ mạng cao cả của mình. Để nâng cao trách nhiệm xã hội, mỗi nhà báo phải cĩ bản lĩnh chính trị và lịng yêu nước, thương dân, tính trung thực; cĩ kiến thức và vốn sống sâu sắc nhằm xử lý thơng tin đúng đắn, hợp tình hợp lý. Trách nhiệm xã hội được thể hiện ở tất cả các điều trong Quy định Đạo đức nghề nghiệp của Người làm báo Việt Nam. Trung thành với Tổ quốc, bảo vệ Đảng và Nhà nước; gắn bĩ tận tụy phục vụ nhân dân, tơn trọng nhân dân; thơng tin khách quan, trung thực, cĩ định hướng và tính nhân văn; kiên quyết chống tiêu cực, khơng lợi dụng danh nghĩa nhà báo để tham nhũng, vụ lợi, sách nhiễu nhân dân; giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt; khi thơng tin sai phải dũng cảm, chân thành nhận sai sĩt và kịp thời cải chính, xin lỗi nhân dân v.v Đĩ là những tiêu chuẩn đạo đức sống cịn của nhà báo. 4. Lương tâm – Thước đo đạo đức nghề nghiệp nhà báo: 26
- Lương tâm nghề nghiệp là sự phát triển cao của trình độ đạo đức vì nĩ dựa trên cơ sở tự ý thức về trách nhiệm của bản thân người lao động khi hoạt động nghề nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp được nâng cao sẽ thành lương tâm nghề nghiệp. Vì vậy lương tâm trở thành thước đo của trình độ đạo đức nhà báo. Hoạt động báo chí cĩ vai trị, chức năng định hướng tư tưởng cho xã hội, địi hỏi nhà báo trước hết phải cĩ quan điểm đúng đắn. Tư tưởng và lương tâm của nhà báo lại luơn cĩ mối quan hệ mật thiết với nhau. Khi lương tâm trong sáng thì nhìn nhận đánh giá sự việc khách quan, khoa học và thể hiện tư tưởng đúng đắn. Ngược lại, khi tư tưởng đúng đắn sẽ củng cố cái tâm trong sáng hơn. Cái tâm của nhà báo cịn phải gắn với cái tài; tức là phải khơng ngừng phấn đấu học tập nâng cao trình độ và năng lực nghề nghiệp. Tư tưởng đúng, lương tâm trong sáng, tài năng phát triển, đĩ là ba phẩm chất cĩ mối quan hệ thống nhất biện chứng, quyết định sự thành cơng của nhà báo. Nhà báo cĩ lương tâm, sẽ luơn tâm huyết với nghề nghiệp mà mình theo đuổi, vì vậy mà cĩ lịng yêu nghề, yêu người tha thiết. Tình yêu ấy chính là động lực giúp các nhà báo khơng ngừng phấn đấu học tập, rèn luyện để trở thành những nhà báo tài đức vẹn tồn; biết trọng danh dự, luơn tự kiểm sốt và làm chủ bản thân, vững vàng trước mọi khĩ khăn, cám dỗ. Lương tâm nghề nghiệp cịn là biểu hiện của đức tính khiêm tốn, nghĩa là cĩ ý thức và thái độ đúng mức trong việc đánh giá bản thân, khơng tự mãn, tự kiêu vì thế mà nhà báo cĩ sự tỉnh táo để nhận thức được chân lý một cách khách quan, đúng đắn. Mặt khác, nghề báo là nghề cĩ uy quyền, được đảm bảo bằng sức mạnh của cơng luận nên thường gắn với danh tiếng, quyền lực và lợi ích. Nhà báo ngồi ý thức trách nhiệm đối với xã hội, cịn cần đề cao ý thức trách nhiệm trước bản thân mình; luơn tự vấn và giữ cho lương tâm trong sạch. Nếu nhà báo cĩ lương tâm thì ngịi bút sẽ trở thành vũ khí sắc bén biểu dương nhân rộng cái tốt đẹp, thơng tin cĩ tính định hướng, tính giáo dục sâu sắc và đấu tranh chống tiêu cực cĩ hiệu quả. Ngược lại, nếu lương tâm hèn nhát, khơng trong sáng sẽ khơng thắng nổi cám dỗ tầm thường; sẽ dễ tơ hồng, bơi đen, thậm chí đổi trắng thành đen, tiếp tay cho thế lực xấu, gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. Tĩm lại, trọng dân vì dân, trung thực, đề cao trách nhiệm xã hội và lương tâm nghề nghiệp là những phẩm chất tốt đẹp cần cĩ đối với các nhà báo. Các tiêu chuẩn trên cĩ mối quan hệ mật thiết với nhau. Người biết trọng dân, vì dân sẽ trung thực, luơn đề cao trách nhiệm xã hội và giữ cho lương tâm trong sạch. Mặt khác lương tâm trong sạch sẽ đảm bảo cho các nhà báo hành nghề khách quan trung thực, đề cao trách nhiệm xã hội và hết lịng, hết sức phục vụ nhân dân. Nhà báo hoạt động trên lĩnh vực phát thanh, truyền hình và báo điện tử cĩ những đặc điểm, vừa là ưu thế lại vừa là những yếu tố cĩ thể dẫn đến vi phạm đạo đức nghề nghiệp: - Khả năng biểu đạt bằng âm thanh, hình ảnh, sự tương tác, đối thoại trực tiếp giữa nhà báo và cơng chúng làm tăng tính hấp dẫn của báo chí. Nhưng lời nĩi và hình ảnh 27
- đưa ra cơng luận lại là vấn đề nhạy cảm, dễ gây tổn thương cho người dân và đối tượng được phản ảnh, nếu ngơn ngữ và hình ảnh khơng chuẩn mực, khơng được chọn lọc kỹ. - Cĩ điều kiện thơng tin nhanh, kịp thời, ít bị phụ thuộc vào thời gian như báo in; phạm vi tỏa sĩng và truyền thơng tin trên mạng Internet rộng, khơng bị giới hạn về địa giới hành chính nên cĩ ảnh hưởng lớn. Tuy nhiên, ưu thề này thường dẫn đến sự thiếu chính xác của thơng tin, khi chưa cĩ điều kiện điều tra xác minh, thẩm định, dẫn đến hậu quả xấu cho xã hội. - Thơng tin qua sĩng của phát thanh truyền hình được cơng chúng tiếp nhận chỉ thống qua, “lời nĩi giĩ bay”. Báo điện tử dễ dàng xĩa dấu vết nếu thơng tin sai sự thật. Các phương tiện kỹ thuật hiện đại tạo điều kiện dễ dàng cho báo chí và nhà báo thay đổi nội dung, hình ảnh khi thơng tin, hoặc dùng xảo thuật khơng lương thiện khi hành nghề. Vì vậy các nhà báo càng cần giữ cho lương tâm trong sạch, tơn trọng, bảo vệ dân, luơn trung thực và đề cao trách nhiêm với xã hội. Khơng được lợi dụng những đặc điểm và ưu thế của nghề nghiệp để trục lợi, vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp nhà báo. VI. ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP TRONG CÁC MỐI QUAN HỆ CƠ BẢN CỦA NHÀ BÁO. Trong hoạt động nghề nghiệp, nhà báo phải thể hiện những phẩm chất đạo đức trên trong 6 mối quan hệ chủ yếu sau đây: 1. Quan hệ với cơng chúng. Đây là quan hệ giữa người sản xuất và người tiêu dùng thơng tin, giữ vai trị chủ đạo trong quan hệ đạo đức nghề nghiệp của nhà báo. Người đọc, người nghe, người xem – đĩ là những người mà vì họ mà nhà báo làm việc và dành cho họ thành quả lao động của mình. Tơn trọng, bảo vệ, định hướng, hết lịng vì lợi ích và tiến bộ của cơng chúng là biểu hiện của đạo đức nghề nghiệp nhà báo. 2. Quan hệ với nguồn tin. Nguồn tin là đối tượng phản ánh của nhà báo, gồm các tài liệu, mơi tường, sự kiện và con người (nguồn tin sống), cĩ ý nghĩa quyết định đối với cơng việc của nhà báo. Chính nhờ mối quan hệ này mà các nhà báo tiếp cận và phản ánh chính xác sự thật. Trong quá trình quan hệ với nguồn tin, nhà báo cần: - Sử dụng các hành động đàng hồng, hợp pháp, trừ trường hợp cĩ bằng chứng rõ ràng về mối đe dọa đối với sự yên ổn và lợi ích của xã hội. - Tơn trọng quyền pháp nhân, khơng bất nhã, gây áp lực hay đe dọa nguồn tin sống. 28
- - Chỉ rõ xuất xứ nguồn tin, trừ trường hợp cĩ căn cứ phải giữ bí mật để bảo vệ các nguồn tin ấy. - Tơn trọng quyền con người, đời tư cơng dân. 3. Quan hệ với các nhân vật được phản ánh trong tác phẩm. Đây là quan hệ rất tế nhị và phức tạp. những nhân vật được nhà báo phản ánh trong tác phẩm của mình cĩ thể là chính diện hay phản diện. Họ đều là những con người cụ thể trong xã hội, phải tiếp tục sống trong cộng đồng và cơng đồng ấy sẽ đọc, sẽ nghe, sẽ xem tác phẩm của nhà báo nĩi về họ; vì vậy nhà báo phải chú ý: - Cơng tâm, khơng vụ lợi, thiên vị. - Tơn trọng quyền con người, đặc biệt là đời tư cơng dân. - Trung thành với hiện thực, khơng xuyên tạc cuộc đời nhân vật. - Kiềm chế, khơng kết án nhân vật khi chưa cĩ sự phán xét của tịa án. 4. Quan hệ với cộng tác viên Các bổn phận nghề nghiệp của nhà báo khơng chỉ gắn liền với việc tạo ra các tác phẩm của riêng mình, mà phải tổ chức, lơi kéo cộng tác viên tham gia để nâng cao chất lượng sản phẩm báo chí. Trong quan hệ với cộng tác viên, nhà báo phải đảm bảo các quy chuẩn đạo đức: - Tơn trọng tác giả trên cơ sở tự nguyện. - Tơn trọng bản sắc riêng của tác giả. - Khơng làm tổn thương lịng tự trọng của tác giả. - Khơng vay mượn, ăn cắp ý tưởng, chứng cứ tài liệu hoặc tác phẩm của tác giả. 5. Quan hệ với các đồng nghiệp Bầu khơng khí đạo đức trong tịa soạn cĩ vai trị quyết định sự thành bại của hoạt động báo chí. Nhà báo, ngồi quan hệ với cơng việc cịn phải xử lý tốt mối quan hệ với đồng nghiệp để đảm bảo cho tập thể tịa soạn là khối thống nhất, tất cả vì chất lượng của sản phẩm báo chí, vì cơng chúng. Biểu hiện của đạo đức nghề nghiệp nhà báo trong mối quan hệ này cần phải: - Thực sự đồn kết, thân thiện và tơn trọng đồng nghiệp. 29
- - Giúp đỡ, hợp tác và tin cậy lẫn nhau. - Thi đua lành mạnh. - Tơn trọng quyền tác giả và chính kiến của nhau. 6. Quan hệ với chính quyền và các tổ chức chính trị - kinh tế – xã hội. Sự tương tác giữa chính quyền và các tổ chức chính trị - kinh tế - xã hội với báo chí là một bộ phận rất quan trọng trong các quan hệ xã hội và nĩ khơng phải chỉ được điều tiết bằng pháp luật mà cịn bằng cả đạo đức từ hai phía. Nhà báo, trong hoạt động nghề nghiệp cần tuân thủ các chuẩn mực đạo đức: - Luơn tơng trọng, ủng hộ chính quyền và các tổ chức như một thiết chế xã hội quan trọng cĩ chức năng quản lý và thúc đẩy xã hội phát triển. - Thực hiện thơng tin khách quan, trung thực, nhiều chiều để đảm bảo mối quan hệ thống nhất, lành mạnh giữa chính quyền, tổ chức và cơng chúng. - Vừa hợp tác, vừa đấu tranh để giữ cho bộ máy chính quyền và các tổ chức chính trị - kinh tế - xã hội trong sạch, lành mạnh. VII. TU DƯỠNG, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP NHÀ BÁO: Sự nghiệp đổi mới của Đảng ta, trong đĩ cĩ việc chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tác động của tồn cầu hĩa đã tạo ra sự thay đổi các hệ giá trị, trong đĩ cĩ giá trị đạo đức theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực. Sự giải phĩng sức sản xuất đã tạo ra những tiền đề cho sự phát triển đạo đức. Về nhân cách, con người được độc lập, tự do, cĩ quyền bình đẳng trong cạnh tranh; tính tự chủ, năng động, sáng tạo được đề cao; chữ tín trong quan hệ kinh tế - xã hội được coi trọng; ý thức cộng đồng được quan tâm. Những giá trị đạo đức truyền thống như lịng yêu nước, nhân ái, cần cù, dũng cảm, ý chí vươn lên, hiếu thảo, thủy chung vẫn được giữ gìn và phát huy. Trong bối cảnh đĩ, các nhà báo nước ta cũng khơng ngừng phấn đấu phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của báo chí cách mạng, cố gắng học tập rèn luyện về mọi mặt để trở thành những nhà báo vừa cĩ đức, vừa cĩ tài. Đa số các nhà báo tâm huyết với nghề, gắn bĩ với nhân dân, hết lịng hết sức phục vụ nhân dân; trung thực và đề cao trách nhiệm xã hội trong hoạt động nghề nghiệp. Vì vậy uy tín của báo chí ngày càng cao, vai trị vị trí của các nhà báo được khẳng định trong xã hội. Báo chí đã gĩp phần tích cực vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự phát triển và tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, sự phân cực giàu nghèo, sự kích thích lợi ích vật chất trong sản xuất kinh doanh cũng dẫn đến chủ nghĩa thực dụng, cá nhân cực đoan; lối sống chạy theo đồng tiền đã làm cho con người suy giảm nhân tính, xuống cấp về đạo đức lối sống. Một số ít nhà báo 30
- chạy theo lợi ích cá nhân, bị danh vọng và đồng tiền cám dỗ đã thiếu đạo đức trong hoạt động nghề nghiệp, làm mất uy tín của báo chí và nhà báo, gây hậu quả xấu cho xã hội. Chỉ thị 22 – CT/TW của Ban chấp hành trung ương Đảng về tăng cường lãnh đạo quản lý báo chí trong tình hình mới đã chỉ rõ: Bên cạnh những ưu điểm, báo chí nước ta cũng bộc lộ những khuyết điểm, yếu kém, cĩ khi nghiêm trọng. Một số bị khuynh hướng thương mại và cơ chế thị trường chi phối chạy theo thị hiếu tầm thường, đăng tải những chuyện giật gân, tình dục, bạo lực, mê tín dị đoan, hoặc những chuyện vụn vặt. Cĩ trường hợp phủ nhận truyền thống và thành tựu cách mạng, xa rời định hướng xã hội chủ nghĩa, làm lộ bí mật quốc gia . Cĩ những vụ việc thơng tin thiếu chính xác, thiếu khách quan, gây nhiễu thơng tin, vi phạm đạo đức nghề nghiệp; đưa tin sai khơng cải chính xin lỗi, hoặc cải chính chiếu lệ làm ảnh hưởng tới uy tín đội ngũ làm báo. Thời gian gần đây, tình trạng thiếu tu dưỡng, rèn luyện dẫn đến vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp trong một bộ phận cơ quan báo chí và nhà báo cĩ xu hướng tăng lên, khiến dư luận xã hội bất bình, lo lắng. Sự suy thối về đạo đức, lối sống đã xuất hiện ở một số cơ quan báo chí, kể cả cơ quan báo chí lớn, cĩ nhiều cơng chúng. Khơng phải chỉ các nhà báo trẻ mà cả một số nhà báo cĩ quá trình hoạt động lâu năm trong nghề, thậm chí cả những nhà báo giữ trọng trách lãnh đạo, quản lý báo chí cũng vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Đặc biệt nghiêm trọng, đã xuất hiện một số nhà báo lợi dụng hoạt động báo chí để đe dọa, tống tiền cá nhân, doanh nghiệp, mĩc nối với nhau để thơng tin thiếu khách quan, trung thực nhằm trục lợi. Vì vậy vấn đề tu dưỡng rèn luyện đạo đức nĩi chung và đạo đức nghề nghiệp nhà báo nĩi riêng cĩ tầm quan trọng đặc biệt, cấp bách cần đặt ra với mỗi cơ quan báo chí, mỗi nhà báo ở nước ta. Việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức nghề nghiệp nhà báo trong giai đoạn hiện nay cần kết hợp chặt chẽ giữa phát huy các giá trị đạo đức truyền thống với bổ sung các giá trị đạo đức mới, phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người tài đức vẹn tồn. Người đã nêu tấm gương sáng về đạo đức cách mạng và đạo đức nghề nghiệp nhà báo. Suốt đời làm cách mạng, Người luơn gắn bĩ với cơng việc làm báo; coi việc làm báo cũng là làm cách mạng. Nĩi chuyện tại Đại hội lần thứ ba Hội Nhà Báo Việt Nam, Người đã chỉ rõ: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sỹ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ” (Hồ Chí Minh tồn tập, tập 10, trang 616). Vì vậy đạo đức nghề nghiệp nhà báo phải nâng lên thành đạo đức cách mạng, với những nội dung sau đây: 1. Trung với nước, hiếu với dân. Nội dung này được Bác Hồ kế thừa và phát triển từ đạo Trung – Hiếu trong đạo đức truyền thống dân tộc cho phù hợp với hồn cảnh và điều kiện mới. Trung với nước là trung thành vơ hạn với sự nghiệp dựng nước, giữ nước, phát triển đất nước, làm cho đất nước 31
- “sánh vai với cường quốc năm châu.” Nước là của dân, dân là chủ đất nước, trung với nước là trung với dân, vì lợi ích của nhân dân. Hiếu với dân là phải hết lịng hết sức phục vụ nhân dân, là người đầy tớ trung thành của dân. 2. Yêu thương con người, sống cĩ nghĩa, cĩ tình. Yêu thương con người xuất phát từ tuyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại và chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Theo Bác, yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất, thể hiện mối quan hệ giữa người và người trong quan hệ xã hội. Người cách mạng yêu thương con người dám dấn thân làm mọi việc để giải phĩng con người khỏi áp bức bất cơng, nghèo nàn lạc hậu và những thĩi hư tật xấu để đem lại hạnh phúc và hướng con người tới chân, thiện, mỹ. Nhà báo cách mạng thể hiện đức tính này phải cĩ thái độ khoan dung, độ lượng, rơng rãi, nâng con người lên trong lao động sáng tạo, kể cả với những người lầm đường lạc lối, mắc sai lầm khuyết điểm. Đồng thời cũng phải nghiêm khắc với chính mình, đấu tranh khơng khoan nhượng với cái xấu, cái ác để bảo vệ con người, bảo vệ xã hội. 3. Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư. Đây là phẩm chất trọng tâm của đạo đức cách mạng, là quan hệ với tự mình. Cần cù, siêng năng, lao động sáng tạo, biết tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tiền của của bản thân, của tập thể và xã hội; luơn trong sạch, khơng xâm phạm của cơng, của dân, khơng tham địa vị, tiền tài; thật thà chính trực, khiêm tốn chân thành; rất mực cơng bằng, cơng tâm cũng là những phẩm chất của nhà báo cách mạng. Những đức tính này cĩ quan hệ chặt chẽ với nhau. Cần phải gắn liền với kiệm và liêm, cĩ cần, kiệm, liêm, chính thì sẽ cĩ chí cơng vơ tư và ngược lại. 4. Tinh thần quốc tế trong sáng Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế là sự mở rộng những quan niệm nhân đạo, nhân văn ra phạm vi tồn nhân loại vì mục tiêu chung là đấu tranh cho hịa bình, cơng lý và tiến bộ xã hội. Trong thời kỳ tồn cầu hĩa, hội nhập quốc tế sâu rộng, nhà báo phải nắm vững đường lối đối ngoại đa phương hĩa, đa dạng hĩa, đồn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước chân chính, chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa bá quyền, sơ vanh, vị kỷ, hẹp hịi, kỳ thị dân tộc. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh địi hỏi các nhà báo phải trung thành vơ hạn với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, lý tưởng độc lập và chủ nghĩa xã hội. Trong lao động sáng tạo luơn tơn trọng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, giữ gìn đồn kết tồn dân tộc, đề cao trách nhiệm xã hội và giữ lương tâm trong sáng. Đồng thời để việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức đạt kết quả tốt phải đảm bảo các nguyên tắc: a. Nĩi đi đơi với làm 32
- Nghề báo là nghề viết nhiều, nĩi nhiều. Thơng qua các bài viết nhà báo luơn hướng cơng chúng đến sự nhận thức về điều hay, lẽ phải để hành động thúc đẩy xã hội phát triển. Vì vậy trước hết nhà báo phải là tấm gương thực hành những điều mình viết và nĩi để cổ vũ, lơi cuốn mọi người làm theo. Về điều này, Bác Hồ nĩi: “Trước mặt quần chúng, khơng phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người cĩ tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước.” (Hồ Chí Minh tồn tập, tập 5, trang 552) b. Xây đi đơi với chống Phạm trù đạo đức luơn cĩ hai mặt đối lập. Con người luơn cĩ thiện –ác, tốt – xấu ở trong lịng. Nghề báo lại luơn chịu nhiều áp lực, cám dỗ. Vì vậy, ngồi việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện phi đạo đức, chống chủ nghĩa cá nhân. Phải thường xuyên tự vấn lương tâm, phát hiện sớm những mầm mống tiêu cực trong lịng, chú ý phịng ngừa, ngăn chặn. c. Tu dưỡng đạo đức suốt đời Chù tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đạo đức cách mạng khơng phải từ trên trời sa xuống. Nĩ do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển rồi củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong.” (Hồ Chí Minh tồn tập, tập 9, trang 293). Thực tế thời gian qua, khơng ít nhà báo cĩ tài, lâu năm gắn bĩ với nghề và đã cĩ những thành tựu, cống hiến nhất định trong sự nghiệp phát triển báo chí nước nhà, nhưng do việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức khơng thường xuyên, đã khơng thắng được cám dỗ của đồng tiền, danh vọng nên đã bán rẻ lương tâm, vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật. Đây là bài học mà tất cả các thế hệ người làm báo phải quan tâm, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời, khơng bao giờ được lơi lỏng, chủ quan, tự mãn. Tĩm lại, học tập và làm theo tư tưởng đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cách tốt nhất để tu dưỡng, rèn luyện đạo đức nghề nghiệp nhà báo. 33
- Chương III: GIỚI THIỆU MỘT SỐ QUY ƯỚC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA BÁO CHÍ NƯỚC NGỒI I. MỘT SỐ QUY ƯỚC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP NHÀ BÁO NƯỚC NGỒI 1. Tám quy ước của nhật báo Anh ngữ Bangkok Post: 1. Vì mục đích săn tìm sự thật bằng việc tường thuật những vấn đề địa phương, quốc gia nhằm kích thích hiểu biết và mở rộng tri thức. 2. Vì cơng bằng, ngay thực và khơng bè phái trong việc đưa tin bài, ý kiến; cho tất cả mọi phía cơ hội ngang nhau để trình bày ý kiến và cải chính những sai lệch. 3. Khơng bị chi phối bởi các cá nhân, đảng phái hay bất cứ nhĩm quyền lợi nào khác. 4. Chiến đấu vì sự tiến bộ quốc gia về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hĩa. 34
- 5. Tránh mọi hình thức giật gân câu khách và thiên vị. 6. Xác tín rằng quyền lợi quốc gia nằm trên chủ nghĩa bè phái. 7. Bảo vệ nghiêm ngặt bí mật của các nguồn tin. 8. Ủng hộ và tơn trọng chế độ quân chủ lập hiến của Thái Lan 2. Quy ước đạo đức báo chí của HongKong 1. Nhà báo phải cĩ nghĩa vụ giữ gìn những tiêu chuẩn nghề nghiệp và đạo đức cao nhất. 2. Bất cứ lúc nào nhà báo cũng phải bảo vệ những nguyên tắc tự do báo chí và truyền thơng trong khi thu lượm thơng tin cũng như khi viết bài bình luận hay phê bình. Nhà báo phải chống lại mọi hình thức bĩp méo, áp đặt và kiểm duyệt tin tức. 3. Nhà báo phải xác tín rằng thơng tin mình truyền đi là cơng bình và chính xác; tránh bình luận hay phỏng đốn một cách bịa đặt và giả tạo bằng cách bĩp méo, cắt xén hay trình bày sai lệch. 4. Nhà báo phải cải chính nhanh nhất những điểm khơng chính xác gây thiệt hại, bảo đảm sự cải chính, xin lỗi tương xứng và dành cho người bị thiệt quyền trả lời trên báo nếu cần. 5. Nhà báo chỉ được thu lượm tin tức, hình ảnh, và minh họa bằng những phương tiện đứng đắn, cơng khai. Việc sử dụng các phương tiện khác chỉ được chấp nhận khi mà sự xem xét ngoại lệ dựa trên lợi ích của cơng chúng. Nhà báo được quyền từ chối sử dụng những phương tiện (hành nghề) khơng đứng đắn. 6. Đối với những chiếu cố ngoại lệ vì lợi ích cơng cộng, nhà báo cũng khơng được quyền làm bất cứ điều gì cĩ thể xâm phạm vào đời tư cơng dân. 7. Nhà báo phải bảo vệ nguồn tin riêng. Nhà báo khơng được nhận hối lộ hay bất cứ hình thức khen tặng, quà biếu nào khác làm ảnh hưởng đến việc hành nghề của mình. 8. Nhà báo khơng để bị mua chuộc nhằm thay đổi hay áp đặt sự thật vì quảng cáo hay những lợi lộc khác. 9. Nhà báo khơng được sử dụng tài liệu nhằm khuyến khích sự phân biệt chủng tộc, màu da, nguồn gốc, tín ngưỡng hay nam nữ. 10.Nhà báo khơng được sử dụng những thơng tin thu lượm được trong khi hành nghề để trục lợi riêng, trước khi thơng tin đĩ được đăng lên báo. 3. Bản quy ước đạo đức đối với báo chí, phát thanh và truyền hình Thụy Điển (Do pressens Sammarbetsnamnd ban hành năm 1997) Pressens Sammarbetsnamnd là một Ủy ban chung do các tổ chức thơng tin đại chúng hàng đầu ở Thụy Điển thành lập – đĩ là Hội Các Nhà xuất bản báo chí, Hội Nhà báo và Câu lạc bộ Báo chí quốc gia. Ba tổ chức này cĩ trách nhiệm về những nguyên tắc chỉ đạo của Hội đồng Báo chí và những chỉ thị hiện hành đối với Thanh tra Báo chí. Tất cả đều đĩng gĩp cho Hội đồng Báo chí và văn phịng Thanh tra Báo chí. 35
- Khái niệm tự quản cĩ nghĩa là các bên đưa ra hướng dẫn cụ thể về đạo đức, nghiệp vụ và theo dõi xem các hướng dẫn này cĩ được tơn trọng hay khơng. 3.1. Quy ước đạo đức đối với báo chí, phát thanh và truyền hình. Báo chí, phát thanh và truyền hình sẽ được quyền tự do đến mức cao nhất trong khuơn khổ đạo luật về Quyền tự do báo chí và Quyền tự do ngơn luận đã ghi trong Hiến pháp để cĩ thể phục vụ truyền bá tin tức và theo dõi những sự việc cĩ liên quan đến cơng chúng. Tuy nhiên trong cơng việc này điều quan trọng là phải đảm bảo cá nhân tránh được những thiệt thịi khơng đáng cĩ do kết quả của thơng tin. Đạo đức khơng chỉ là trước tiên áp dụng một loạt các quy định chính thức mà cịn phải duy trì một thái độ cĩ trách nhiệm trong khi làm nhiệm vụ của nhà báo. Quy ước đạo đức đối với báo chí, phát thanh và truyền hình là nhằm ủng hộ thái độ này. 3.2. Các quy định về phổ biến thơng tin a. Cung cấp tin chính xác Vai trị của thơng tin đại chúng trong xã hội và lịng tin của cơng chúng đối với các phương tiện này địi hỏi phải đưa tin chính xác và khách quan. Cần nghiêm khắc đối với nguồn tin. Kiểm tra lại sự việc thật cẩn thận theo tình huống xảy ra ngay cả sau khi được đăng phát. Để cho độc giả/ thính giả/ khán giả cĩ thể phân biệt được giữa việc nêu sự kiện và bình luận. Thơng báo, tĩm lược tin chính và phần giới thiệu phải cĩ văn bản xác nhận. Đảm bảo ảnh cĩ tính xác thực. Phải xem ảnh và đồ họa cĩ chính xác và khơng bị lợi dụng làm người xem hiểu lầm. b. Độ lượng trước việc phản bác. Những sai sĩt về sự việc phải được cải chính nếu cĩ yêu cầu. bất kỳ ai cĩ ý muốn phản bác đều được phép nếu việc làm này là chính đáng. Cải chính và phản bác sẽ được đăng đúng thể thức và như vậy mới gây được sự chú ý đến người đầu tiên nhận tin. Cần lưu ý rằng khơng phải lúc nào cĩ phản bác cũng phải cĩ bình luận của tịa soạn. Đăng tải ngay những thơng báo khiển trách của Hội đồng Báo chí trong trường hợp liên quan đến tờ báo của mình. c. Tơn trọng chuyện riêng tư cá nhân Cần thận trọng trong việc phổ biến thơng tin ở nơi cĩ thể đụng chạm đến chuyện riêng tư của cá nhân. Tránh làm như vậy nếu nĩ khơng hề được cơng chúng quan tâm. 36
- Cần hết sức thận trọng khi đăng tải thơng báo liên quan đến các vụ tự tử và định tự tử, đăc biệt phải cân nhắc đến tình cảm của họ hàng và những gì đã nĩi ở trên liên quan đến chuyện riêng tư của cá nhân. Luơn luơn phải cân nhắc kỹ đến nạn nhân hình sự và các sự cố xảy ra, kiểm tra kỹ tên và ảnh khi đăng tải liên quan đến nạn nhân và họ hàng của họ. Khơng được nhấn mạnh đến chủng tộc, giới tính, quốc tịch, nghề nghiệp, khuynh hướng chính trị hoặc tín ngưỡng trong trường hợp cĩ đối tượng mà những đặc điểm như vậy lại khơng phải là quan trọng hoặc khơng đáng kể trong bối cảnh xảy ra. d. Thận trọng trong việc sử dụng ảnh Ở đâu cĩ ảnh đều phải áp dụng các quy định này. Khơng được dựng, sửa sang lại ảnh bằng phương pháp điện tử hoặc viết lời chú thích cho ảnh với ý định đánh lạc hướng hoặc đánh lừa dư luận. Luơn luơn phải nĩi rõ ngay gần chỗ cĩ ảnh là ảnh đã bị dựng hoặc sửa sang lại. Áp dụng việc này khi lập hồ sơ tư liệu. e. Lắng nghe từng bên Cố gắng để người bị chỉ trích trong bài báo cĩ cơ hội được cùng lúc trả lời về những chỉ trích đĩ. Cố gắng nêu ra quan điểm của các bên cĩ liên quan. Cần nhớ rằng cái khách quan duy nhất của các bài báo khác nhau cĩ thể sẽ gây tổn hại đến chủ đề của bài báo. Cần nhớ rằng theo con mắt của pháp luật, đối tượng bị nghi vấn là phạm tội được giả định là vơ tội, cho đến khi chứng minh được người đĩ là phạm tội. Kết quả cuối cùng của vụ xử phải được đưa tin. f. Thận trọng khi đăng tải tên Cần suy tính đến hậu quả tai hại cĩ thể xảy ra đối với đối tượng người bị đăng tên. Tránh đưa tên nếu nĩ khơng hề được cơng chúng quan tâm. Nếu tên của đối tượng khơng được cơng bố, cần tránh đăng tải ảnh hoặc đặc điểm về nghề nghiệp, chức danh, tuổi tác, quốc tịch, giới tính, v.v để làm cho đối tượng bị nghi vấn cĩ thể bị nhận diện. Cần nhớ rằng nhà xuất bản sẽ chịu trách nhiệm hồn tồn về việc đăng tải tên và ảnh. 4. 13 điều nên và khơng nên khi đưa tin của Báo chí Ấn Độ Phĩng viên phải thơng thạo luật báo chí nước mình, song cịn cĩ một số nguyên tắc chỉ đạo dựa trên tinh thần chung, phép tắc chung, cần phải nắm vững trong khi làm tin. Ấy là: 37
- 1. Nên tránh tin gây nguy hại đến an ninh quốc gia, hoặc làm rối loạn sự hịa hợp trong nước. 2. Khi các quan chức phát biểu trong thẩm quyền của mình, cần phải cảnh giác với những lời tuyên bố cĩ thể tác động đến quan hệ quốc tế của đất nước. 3. Khi đưa tin về những vụ lộn xộn (như các cuộc nổi loạn, biểu tình, bãi cơng), nên tránh dùng những lời nhận xét thiếu cẩn thận, cĩ thể làm xấu thêm tình hình. 4. Hãy nhớ rằng trong những lúc gặp nạn hoặc bị kích động, con người cĩ thể đưa ra những nhận xét mà lúc bình thường khơng làm như vậy, Khi viết những tin đĩ, hãy giúp đỡ người này bằng cách tha thứ những hành động khơng thận trọng của người đĩ. 5. Tránh khơng được làm mất thể diện của một người, dù thực tế cĩ lời nhận xét như vậy về người đĩ. Tác giả cĩ thể đưa tin về việc đĩ bằng cách trích dẫn. 6. Hãy cẩn thận trong việc nêu tên những người liên quan đến các hành động phạm lỗi và phạm pháp. Người ta cĩ thể bị bắt vì bị nghi ngờ và cĩ khi người đĩ sẽ được thả sau khi thẩm vấn khơng thấy cĩ tội lỗi gì. 7. Cẩn thận trọng khi viết những tin liên quan đến sự hiếp dâm và cưỡng bức phụ nữ; khơng nên để nạn nhân vơ tội phải trả giá phụ nữa do viết tên tuổi người ta lên báo. 8. Một khi sai sĩt được phát hiện, cần phải ngay lập tức đăng cải chính và lời xin lỗi. 9. Nhà báo khơng được lẩn tránh trách nhiệm về sự phỉ báng hoặc sự vu khống bằng cách biện bạch rằng điều đĩ do nguồn cung cấp tin phát ra. 10.Hãy làm quen với quy tắc bản quyền để những đoạn trích từ các tác phẩm (cĩ nêu nguồn lấy) trong những tin bài khơng bị kiện tố. 11.Hãy tiếp tục đưa tin tức về các vụ xử, dù mối quan tâm của cơng chúng vào vụ việc đĩ đã bị giảm sút. Vì một người bị đưa lên tịa án cĩ thể được trắng án hoặc được xĩa bớt tội. 12.Trong lời kể của những người chứng kiến một sự kiện hoặc một tai nạn, tránh sử dụng những lời bình luận và những từ gây nghi ngờ. 13.Khi đưa tin về các tai nạn ơ tơ, tránh nĩi ai đâm ai, khi tịa chưa xác định. An tồn hơn cả là dùng từ “vụ đâm nhau” v.v . (Học Viện thơng tin đại chúng Ấn Độ đúc kết) 5. 10 tiêu chuẩn đạo đức nhà báo ASEAN (CAJ) 1. Chỉ sử dụng các phương tiện cơng khai, trung thực và rõ ràng để lấy tin, chụp ảnh, lấy tài liệu cần thiết, cho phép mình thực hiện nghiệp vụ với tư cách như một đại điện cơ quan truyền thơng. 2. Khơng được phép vì động cơ hoặc lợi ích cá nhân làm ảnh hưởng hoặc thay đổi quan điểm của mình, hại đến nghề nghiệp hoặc suy giảm phẩm giá nghề nghiệp của mình. 3. Khơng yêu cầu hoặc chấp nhận bất cứ một sự trả cơng, quà biếu hay bất cứ hình thức thù lao nào để tuyên bố hay cơng bố những thơng tin sai sự thật. 4. Phản ánh, đưa tin một cách trung thực với tất cả sự hiểu biết và năng lực của mình. Khơng được giấu giếm những sự thật quan trọng hay bĩp méo sự thật, phĩng đại hay đề cao khơng đúng mực. 38
- 5. Dành cho bất cứ ai bị xúc phạm, ảnh hưởng do tin tức của mình quyền được trả lời. 6. Khơng vi phạm thơng tin hoặc tài liệu mật mình thu thập được trong khi thực hiện những yêu cầu của mình. 7. Khơng làm lộ nguồn tin và chống lại bất cứ ý đồ nào bên ngồi bắt buộc mình phải tiết lộ nguồn tin. 8. Khơng viết những bài báo làm ảnh hưởng đến danh dự hay uy tín của bất cứ cá nhân nào, trừ lợi ích của cộng đồng buộc phải làm như vậy. 9. Nhà báo ASEAN phải quan tâm một cách đúng mức tới cơ sở hạ tầng đa sắc tộc, văn hĩa và tơn giáo của các nước ASEAN. 10.Khơng viết bài hoặc cĩ chính kiến và nhận xét đe dọa đến nền an ninh của nước mình hoặc khuấy động sự đối lập về quân sự giữa nước mình với bất kỳ nước ASEAN nào. Lúc nào cũng phấn đấu để phát triển tình hữu nghị gắn bĩ giữa các nước trong khu vực. (Manila, 11-1987) 6. Quy định đạo đức của nhà báo Nga Nhà báo phải thực hiện các quy định về đạo đức báo chí này. Việc chấp thuận và tuân thủ các quy định này là điều kiện bắt buộc khi gia nhập Hội nhà báo Liên bang Nga. Nhà báo hiểu luật pháp của nước mình, nhưng khi tác nghiệp, họ chỉ cảm nhận việc tuân thủ quy định của đồng nghiệp, cịn bản thân họ thường tránh những động thái can thiệp của chính phủ hoặc những thể chế khác. Khi đưa tin và nhận xét về thơng tin, nhà báo đã bị thơng tin thuyết phục, hoặc cảm nhận rằng nguồn cung cấp thơng tin đĩ cĩ danh tiếng. Nếu thơng tin đĩ khơng chính xác cĩ thể gây ảnh hưởng đến người đọc, nhà báo phải đấu tranh, tránh gây thiệt hại cho người đọc. Trong khĩ khăn nhà báo luơn giữ tinh thần sáng suốt để biết phải giữ bí mật thơng tin xã hội quan trọng, hoặc ngừng đưa tin thiếu chính xác. Nhà báo phải tuân thủ chặt chẽ việc tách bạch các sự kiện, thơng tin với những ý kiến, phĩng tác, và giả định cĩ trong thơng tin. Nhưng nhà báo cũng khơng nhất thiết phải giữ tính trung lập trong cơng việc. Khi tác nghiệp, lấy thơng tin nhà báo nhất thiết khơng áp dụng phương thức phạm luật, thiếu chân chính. Nhà báo phải hiểu và tơn trọng quyền cơ bản và quyền pháp lý của con người được phép khơng đưa tin và khơng trả lời câu hỏi, trong trường hợp những thơng tin đĩ quy định rõ trong pháp luật. Nhà báo phải coi các hành động sau đây là tội phạm báo chí nghiêm trọng, bao gồm bĩp méo sự thật cĩ ác ý, vu cáo, lấy tiền để đưa tin sai sự thật, hoặc giấu giếm thơng tin đúng sự thật trong bất kỳ tình huống nào. Nĩi chung, nhà báo khơng nên nhận trực tiếp hoặc gián tiếp bất kỳ khoản tiền thưởng, thù lao từ đối tượng thứ ba để phát hành tài liệu hoặc phổ biến ý kiến của bên thứ ba. Khi bị buộc tội đưa tin sai hoặc bĩp méo sự thật, nhà 39
- báo phải cải chính, trong trường hợp cần thiết phải xin lỗi trên phương tiện thơng tin báo chí hoặc phát thanh truyền hình mà anh ta đã đưa tin sai. Nhà báo lấy tên thật và danh tiếng của mình đưa ra phản biện về độ tin cậy của thơng điệp và tính cơng bằng trong nhận định của chính mình, nhưng được viết dưới bút danh, bút hiệu, hoặc nặc danh mà anh ta biết hoặc chấp thuận. Khơng ai cĩ quyền cấm nhà báo rút lại chữ ký hoặc rút lại những nhận định khỏi văn đàn, nhưng điều đĩ thậm chí cĩ phần thay đổi ý định của nhà báo đĩ. Nhà báo giữ bí mật về nguồn cung cấp tin mật. Khơng ai được quyền ép buộc nhà báo phải đưa ra thơng tin về nguồn cung cấp tin tức. Quyền lấy tên nặc danh chỉ bị phá bỏ trong những trường hợp ngoại lệ, đĩ là nguồn cung cấp thơng tin bị tình nghi bĩp méo sự thật, và trong trường hợp tìm nguồn tin để tránh thiệt hại nghiêm trọng và thường xảy ra cho cộng đồng. Nhà báo phải tơn trọng người được phỏng vấn nếu họ yêu cầu khơng đưa tin chính thức về nhận định của họ. Nhà báo phải hiểu rõ hoạt động gây khiêu khích của nhà báo cĩ nguy cơ gây ra cấm đốn, bức hại hoặc bạo lực. Trong khi tác nghiệp, nhà báo chống đối với chủ nghĩa cực đoan và những ngăn cấm quyền dân sự cơ bản bao gồm giới tính, chủng tộc, ngơn ngữ, tơn giáo, chính trị hoặc quan điểm cũng như nguồn gốc xã hội và quốc tịch. Nhà báo tơn trọng danh dự và phẩm giá của những nhân vật trong tin bài. Nhà báo phải kiềm chế khơng viết những nội dung, nhận xét cĩ hàm ý xúc phạm liên quan đến chủng tộc, quốc tịch, màu da, tơn giáo, nguồn gốc xã hội, giới tính, người khuyết tật, hoặc bệnh tật của người cĩ trong tin bài. Nhà báo phải kiềm chế khơng viết những nội dung cĩ liên quan đến những loại thơng tin này, khơng ngoại lệ với trường hợp nào. Nhà báo tuyệt đối khơng được đưa ra những nội dung cơng kích cĩ khả năng gây tổn thương đạo đức hoặc thể chất của người được nĩi trong tin bài. Nhà báo phải chấp nhận một quy tắc rằng khơng ai cĩ tội nếu phía đối kháng của họ chưa thưa kiện với tịa án. Trong thơng tin của mình đưa ra, nhà báo tránh nêu tên của người thân trong gia đình, bạn bè của những người cĩ tội hoặc bị buộc đã phạm tội – trừ trường hợp cần thiết khách quan, phải đưa những thơng tin này. Nhà báo phải tránh đưa tên nạn nhân trong vụ việc và tránh đưa những tài liệu cĩ thể nhận dạng được nạn nhân. Trong trường hợp đối với trẻ vị thành niên, quy định này phải tuân thủ tuyệt đối vì những bài báo cĩ thể gây tổn hại lợi ích của trẻ. Chỉ những trường hợp bảo vệ lợi ích xã hội mới cho phép nhà báo thâm nhập vào đời sống riêng tư cá nhân. Những quy định về thâm nhập thơng tin cá nhân cĩ liên quan đến chữa trị bệnh tật và các đơn vị y tế liên quan phải được kiểm sốt nghiêm ngặt. Nhà báo phải hiểu rõ vị thế của mình rất khác biệt với những vị trí trong các tổ chức chính phủ, pháp lý, hoặc tịa án, cũng như các thể chế đảng phái chính trị hoặc các hình thức chính trị khác. Nhà báo phải nhận ra các hoạt động của mình sẽ chấm dứt khi anh ta bị quyền lực ảnh hưởng. 40