Bài giảng Môn Bảo hiểm (Phần 2)

pdf 38 trang huongle 3670
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Môn Bảo hiểm (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_mon_bao_hiem_phan_2.pdf

Nội dung text: Bài giảng Môn Bảo hiểm (Phần 2)

  1. Bài giảng môn bảo hiểm CHƯƠNG 5 QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH CÔNG TY BẢO HIỂM I. DOANH THU VÀ CHI PHÍ CỦA DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM 1.1 Doanh thu 1.1.1 Khái niệm Doanh thu của doanh nghiệp bảo hiểm là toàn bộ số tiền doanh nghiệp thu được trong kỳ (thường là 1 năm), bao gồm: doanh thu hoạt động kinh doanh bảo hiểm, doanh thu từ hoạt động tài chính và doanh thu từ các hoạt động khác. a. Doanh thu hoạt động kinh doanh bảo hiểm Đây là nguồn thu cơ bản và đóng vai trò quyết định đối với hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm gồm có: kinh doanh bảo hiểm gốc, kinh doanh tái bảo hiểm (bao gồm nhượng và nhận tái bảo hiểm) và các hoạt động khác có liên quan như đại lý bảo hiểm, giám định tổn hất, Doanh thu hoạt động kinh doanh bảo hiểm được tính bằng số tiền phải thu sau khi đã trừ đi các khoản chi để giảm thu phát sinh trong kỳ từ các hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Số tiền phải thu phát sinh trong kỳ từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc là phí bảo hiểm phải thu trực tiếp từ người tham gia bảo hiểm, từ hoạt động kinh doanh nhận tái bảo hiểm là phí nhận tái bảo hiểm phải thu từ các công ty nhượng tái bảo hiểm, còn từ hoạt động nhượng tái bảo hiểm là hoa hồng nhượng tái bảo hiểm phải thu từ các công ty nhận tái bảo hiểm. Ngoài ra, khi doanh nghiệp bảo hiểm đứng ra làm dịch vụ đại lý cho các doanh nghiệp bảo hiểm khác trong việc giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ bao bồi hoàn, xử ký hàng bồi thường 100%, số tiền phải thu từ các hoạt động này cũng được tính vào doanh thu phát sinh trong kỳ của doanh nghiệp bảo hiểm. Cũng như các loại hình kinh doanh khác, doanh nghiệp bảo hiểm có thể gặp phải trường hợp hàng bán bị trả lại, hoặc doanh nghiệp bảo hiểm áp dụng chính sách giảm giá hàng bán. Đây được coi là các khoản chi làm giảm thu phát sinh trong kỳ, là ác khoản thu phát sinh trong kỳ nhưng phải trả lại, bao gồm: + Hoàn phí bảo hiểm: khi hợp đồng bảo hiểm không bị giải ước, khách hàng sẽ được hoàn lại một phần phí bảo hiểm đã đóng với mức hoàn lại đã được quy định trước trong hợp đồng. Trường hợp này thường xảy ra ở các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. + Giảm phí bảo hiểm với những khách hàng lớn, hoặc khách hàng ít bị tổn thất nhằm cạnh tranh lôi kéo và giữ khách hàng. 17 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  2. Bài giảng môn bảo hiểm + Tương tự như trên, đối với hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm cũng có hoàn phái và giảm phí nhận tái bao rhieemr, hoàn và giảm hoa hồng nhượng tái bảo hiểm Hoạt động bảo hiểm là hoạt động dựa trên quy luật số lớn, dàn trải và phân tán rủi ro. Để bảo vệ chính mình, các doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện tái bảo hiểm. Khi tái bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải chuyển một phần phí bảo hiểm đã thu từ hợp đồng bảo hiểm gốc cho công ty nhận tái bảo hiểm gọi là phí nhượng tái bảo hiểm. Phí nhượng tái bảo hiểm cũng được coi là một khoản chi làm giảm thu phát sinh trong kỳ (không phải là chi phí). Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm phí nhân thọ, đôi khi phí thu được từ hợp đồng bảo hiểm gốc được chuyển phần lớn cho các công ty nhận tái bảo hiểm. vì họ muốn nhận bảo hiểm cho nhiều hợp đồng rồi lại tái đi để giảm thiểu rủi ro. b. Thu từ hoạt động tài chính Do các doanh nghiệp bảo hiểm luôn có trong tay một lượng tiền nhàn rỗi tương đối lớn phải đem đầu tư cho nên nguồn thu từ hoạt động tài chính là rất đáng kể. Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm lớn gần như toàn bộ chi phí hoạt động và lợi nhuận là từ nguồn thu này. Các khoản thu từ hoạt động tài chính bao gồm: - Thu từ lãi đầu tư chưng khoán, cho vay có thể chấp, góp vốn liên doanh, - Thu lãi trên số tiền ký quỹ. Để đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm trong trường hợp công ty bảo hiểm bị phá sản, Nhà Nước yêu cầu các doanh nghiệp bảo hiểm sử dụng một phần vốn điều lệ của mình để ký quỹ tại một ngân hàng và doanh nghiệp bảo hiểm được hưởng lãi trên số tiền ký quỹ đó. - Hoàn nhập số dư dự phòng giảm giá chứng khoáng. Do các DNBH thường đầu tư tiền nhàn rỗi vào chứng khoán với giá trị đầu tư lớn, để tránh sự mất giá của chứng khoán dẫn đến giảm giá trị khoản đầu tư, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm phải lập dự phòng giảm giá chứng khoán. Và trong trường hợp không cần sử dụng đến hoặc sử dụng không hết thì sẽ được hoàn nhập vào doanh thu. - Các khoản thu từ hoạt động cho thuê bất động sản, thuê văn phòng, c. Thu từ hoạt động khác Ngoài hai nguồn thu cơ bản trên, doanh nghiệp bảo hiểm còn có một số nguồn thu từ các hoạt động khác như: thu từ nhượng bán, thanh lý tài sản cố định, các khoản nợ khó đòi đã xóa nay thu hồi được, thu tiền phạt vi phạm hợp đồng, 1.1.2 Quản lý doanh thu 18 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  3. Bài giảng môn bảo hiểm Đối với doanh nghiệp bảo hiểm, công tác quản lý doanh thu là hết sức quan trọng, bởi vì các nguồn thu là cơ sở hình thành quỹ tài chính bảo hiểm. Doanh thu hoạt động kinh doanh bảo hiểm là nguồn thu chru yếu của các doanh nghiệp bảo hiểm, do đó, quản lý doanh thu phải tập trung vào quản lý doanh thu phí bảo hiểm. Các biện pháp quản lý cụ thể: - Phải tính toán hợp lý mức phí bảo hiểm cho từng nghiệp vụ, từng đối tượng bảo hiểm, cụ thể dựa trên cơ sở quy luật số lớn và phương pháp toán thống kê. Mức phí không được đặt cao vì ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, nhưng cũng không được quá thấp ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp với khách hàng. - Phải kiểm tra nghiêm ngặt việc thu phí của các đại lý tránh tình trạng khê đọng, tham ô bởi vì doanh nghiệp bảo hiểm thường hoạt động trên phạm vi rộng lớn và bán hàng thông qua hệ thống đại lý, môi giới là chủ yếu. Doanh nghiệp cần áp dụng các công nghệ thông tin tiên tiến để kiểm tra, kiểm soát việc thu phí các đại lý và các công ty thành viên. Nếu tiền thu phí nhanh chóng được chuyển vè quỹ tập trung sẽ tránh thất thoát, khê động phí, nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư. Để đánh giá về công tác thu phí bảo hiểm tỏng kỳ cần so sánh lượng phí thực thu với lượng phí phải thu trong kỳ như sau: Hệ số thu đủ phí bảo hiểm = lượng phí thực thu trong kỳ / lượng phí phải thu trong kỳ Hệ số trên càng gần tới 1 có nghĩa là công tác quản lý nguồn thu phí của doanh nghiệp baorhieemr càng tốt, phí bảo hiểm phải thu từ các hợp đồng đã ký kết thu được càng nhiều. Đối với những khách hàng chậm đóng hoặc cố ý không đóng bảo hiểm theo kỳ hạn cần phải có những biện pháp mềm dẻo để tận thu. - Thu hút khách hàng thông qua các biện pháp khác nhau như: hạ phí bảo hiểm, tăng tỷ lệ hoa hồng khai thác, để từ đó tăng doanh thu. Nhưng doanh nghiệp bảo hiểm phải quan tâm đến hiệu quả kinh doanh, đến chất lượng khai thác, tránh tình trạng phải chi trả bồi thường lớn hoặc hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn. - Bên cạnh nguồn thu từ phí bảo hiểm, nguồn thu từ hoạt động đầu tư cũng đóng vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp bảo hiểm, đặc biệt là doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Khi đầu tư tiền nhàn rỗi cần phải đảm bảo nguyên tắc an toàn, hiệu quả vì đây là tiền đóng góp của khách hàng dùng để chi trả, bồi thường bảo hiểm. khi giá trị các khoản đầu tư bị giảm, doanh nghiệp bảo hiểm phải lập các khoản dự phòng giảm giá theo đúng quy định của pháp luật. doanh nghiệp cần có bộ phận chuyên trách theo dõi 19 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  4. Bài giảng môn bảo hiểm tình hình đầu tư và thu đầu tư. Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ lớn hoặc doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có thể thành lập phòng hay công ty đầu tư để thực hiện đầu tư có hiệu quả và quản lý chặt chẽ nguồn thu từ hoạt động đầu tư qua các thời kỳ. - Ngoài doanh thu từ hoạt động chính là hoạt động kinh doanh bảo hiểm và hoạt động tài chính, doanh nghiệp bảo hiểm còn có doanh thu từ các hoạt động khác như bán hay thanh lý tài sản cố định, tiền thu vi phạm hợp đồng, Đây là những nguồn thu không thường xuyên và cũng không nhiều, tuy nhiên công tác quản lý tài chính cũng cần có kế hoạch chặt chẽ theo dõi nguồn thu này, tránh tình trạng thất thoát, đặc biệt khi doanh nghiệp bảo hiểm sở hữu một khối lượng lớn các loại tài sản cố định. 1.2 Chi phí 1.2.1 Khái niệm Chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm là toàn bộ số tiền doanh nghiệp chi ra trong kỳ (thường là 1 năm), bao gồm: chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm, chi phí hoạt động tài chính và chi phí cho các hoạt động khác. a. Chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm Chi phí hoạt động kinh doan bảo hiểm là khoản chi cơ bản trong doanh nghiệp bảo hiểm, bao gồm: chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc, chi phí hoạt động kinh doanh nhận và nhượng tái bảo hiểm và chi phí cho các hoạt động có liên quan như chi phí giám định tổn thất, chi phí đánh giá rủi ro đối tượng bảo hiểm, chi đề phòng, hạn chế tổn thất, Chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm được tính bằng số tiền phải chi, phải trách phát sinh trong kỳ sau khi đã trừ các khoản phải thu để giảm chi phí sinh trong kỳ từ các hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Đối với chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc, chi bồi thường bảo hiểm trong bảo hiểm phi nhân thọ và chi trả tiền bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ là khoản chi luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất và quan trọng nhất trong tổng chi. Bên cạnh đó, chi hoa hồng cho đại lý, môi giới bảo hiểm cũng là một khoản chi đáng kể. Bởi vì doanh nghiệp bảo hiểm chủ yếu bán sản phẩm thông qua các kênh trung gian này và hoa hồng khai thác là thù lao doanh nghiệp bảo hiểm trả cho họ. Hoa hồng khai thác được tính vào chi phí trực tiếp kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm và chịu sự kiểm soát của cơ quan quản lý Nhà Nước. Tương tự như hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc, chi phí hoạt động nhận tái bảo hiểm chủ yếu cũng bao gồm chi bồi thường nhận tái bảo hiểm và hoa hồng nhận tái bảo hiểm. 20 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  5. Bài giảng môn bảo hiểm Do hoạt động kinh doanh bảo hiểm có “sự đảo ngược của chu kỳ kinh doanh” nên trong cơ cấu chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm có một khoản chi đặc thù đó là chi trích lập quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm nhằm mục đích thanh toán cho các trách nhiệm còn lại của doanh nghiệp khi năm tài chính kết thúc. Mặc dù tiền này vẫn nằm tỏng tya doanh nghiệp bảo hiểm nhưng không thuộc về doanh nghiệp, đây là khoản nợ doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phải trả trong tương lai. Quỹ dự phòng nghiệp vụ là một nguồn đầu tư cơ bản của doanh nghiệp bảo hiểm. Ngoài ra, chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm còn phải kể đến các chi phí bỏ ra để thực hiện các hoạt động liên quan như: giám định tổn thất, xử lý hàng bồi thường 100%, đề phòng, hạn chế rủi ro, tổn thất, đánh giá rủi ro của đối tượng bảo hiểm, quản lý mạng lưới đại lý bảo hiểm, các khoản chi này vè cơ bản không lớn bằng chi bồi thường hay chi dự phòng, nhưng lại bao gồm nhiều khoản mục với giá trị nhỏ nên công tác quản lý chi không thể coi nhẹ. Trong cơ cấu chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm, bên cạnh các chi phí trực tiếp nếu trên, còn bao gồm các chi phí bán hàng (không bao gồm hoa hồng đại lý) và chi phí quản lý doanh nghiệp. Trong đó, lớn nhất là các khoản chi: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm ý tế phải mua cho nhân viên bảo hiểm, tiền lương, tiền thưởng, trợ cấp thôi việc và các khoản mang tính chất tiền lương phải trả theo quy định của pháp luật. các khoản chi phí bán hàng và quản lý khác có thể lấy ví dụ như chi khấu hao tài sản cố định, chi mua sắm văn phòng phẩm, Do đặc thù của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có các khoản phải thu nhưng lại không được coi là doanh thu mà là khoản để giảm chi phát sinh trong kỳ, bao gồm: - thu bồi thường nhượng tái bảo hiểm - thu đòi người thứ ba bồi hoàn - thu hàng đã xử lý, bồi thường 100% b. Chi phí hoạt động tài chính Khi thực hiện hoạt động tài chính, doanh nghiệp bảo hiểm phải bỏ ra các chi phí cho hoạt động này, như: - chi phí kinh doanh bất động sản, kinh doanh cổ phiếu, trái phiếu, - chi phí cho thuê tài sản - chi thủ tục phí ngân hàng, trả tiền vay, - trích dự phòng giảm giá chứng khoán, 21 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  6. Bài giảng môn bảo hiểm Ngoài ra, đối với kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, khi hợp đồng bảo hiểm có cam kết chia lãi, số tiền chia lãi hàng năm cho các hợp đồng này cũng được coi là chi phí hoạt động tài chính, chứ không phải là chi phí kinh doanh bảo hiểm như khi trả tiền bảo hiểm. c. Chi phí khác Chi phí khác của doanh nghiệp bảo hiểm thường bao gồm: chi nhượng bán, thanh lý tài sản cố định, chi phí cho việc thu hồi khoản nợ phải thu khó đòi đã xóa nay thu hồi được, chi tiền phạt do vi phạm hợp đồng, 1.2.2 Quản lý chi phí Bồi thường và chi trả bảo hiểm cho khách hàng thường là khoản chi lớn nhất đối với doanh nghiệp bảo hiểm. Do đó, khoản chi này cần phải được quản lý chặt chẽ với các biện pháp cụ thể: - Doanh nghiệp bảo hiểm phải có kế hoạch để luôn đảm bảo sẵn sàng bồi thường, chi trả cho khách hàng khi có rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm. Việc giải quyết bồi thường, chi trả nhanh chóng, kịp thời, đầy đủ và chính xác cho khách hàng là việc làm rất cần thiết, để tăng tính “hữu hình” của sản phẩm bảo hiểm, từ đó làm tăng uy tín cho doanh nghiệp bảo hiểm. - Cần phải xây dựng các quy trình quản lý rủi ro cho từng loại nghiệp vụ, từng sản phẩm bảo hiểm. công tác đánh giá rủi ro ban đầu là cơ sở để doanh nghiệp bảo hiểm quyết định có nhận bảo hiểm hay không, phát hiện kịp thời những trường hợp có ý định trục lợi bảo hiểm. Nếu doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm thì phí p hải đóng là bao nhiêu cho phù hợp với mức độ rủi ro được bảo hiểm. - Cần phải có biện pháp chống trục lợi bảo hiểm một cách có hiệu quả như: quản lý hồ sơ khách hàng, hồ sơ bồi thường một cách chặt chẽ, cần ứng dụng các công nghệ thông tin hiện đại để hỗ trợ công tác quản lý. Cần làm tốt công tác giám định tổn thất để thực hiện bồi thường chính xác, tránh để khách hàng trục lợi bảo hiểm. - Các bộ bảo hiểm mà trước hết là cán bộ khai thác giám định hay giải quyết bồi thường phải được đào tạo giỏi cả về chuyên môn và có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. III. QUỸ DỰ PHÒNG NGHIỆP VỤ CỦA DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM 3.1 Sự cần thiết của quỹ dự phòng nghiệp vụ Hợp đồng bảo hiểm là loại hợp đồng mang tính song vụ. Sau khi ký kết, người tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm, và người bảo hiểm phải bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm khi cảy ra sự kiện bảo hiểm. Như vậy, ngay sa khi ký kết hợp 22 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  7. Bài giảng môn bảo hiểm đồng, doanh nghiệp bảo hiểm đã có trong tay một khoản tiền nhất định từ phí bảo hiểm. Nhưng họ không đượ coi khoản tiền này là nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp, mà luôn phải xác định đó là khoản nợ đối với khách hàng. Xuất phát từ đặc điểm trên, để đảm bảo cho quyền lợi của người tham gia bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm bắt buộc phải lập các quỹ dự phòng nghiệp vụ. Việc lập quỹ dự phòng nghiệp vụ nhằm đảm bảo thực hiện các cam kết với khách hàng mà doanh nghiệp còn nợ. Phần phí dự phòng được sử dụng trước hết là dể bồi thường cho những tổn thất đã xảy ra nhưng chưa thanh toán và tổn thất có thể sẽ xảy ra. Bởi vì khi sự kiện bảo hiểm phát sinh, ít khi thanh toán ngay lập tức, mà thường là sau một thời gian nhất định, có thể kéo dài trong nhiều niên độ tài chính. Còn các hợp đồng bảo hiểm được thiết lập không phải cùng một lúc, khách hàng có quyền mua bảo hiểm bất kỳ thời điểm nào trong năm. Ngoài ra, thời hạn hiệu lực của hợp đồng cũng là khác nhau: khách hàng có thể tham gia bảo hiểm theo từng quý, nửa năm, một năm, chính vì vậy, các khoản dự phòng buộc phải được thiết lập. 3.2 Các loại quỹ dự phòng nghiệp vụ và phương pháp trích lập 3.2.1 Đối với doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Nhìn chung, các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ thông thường phải trích lập các loại quỹ dự phòng nghiệp vụ như sau: - Dự phòng phí - Dự phòng bồi thường - Dự phòng dao động lớn - Dự phòng để cân bằng nghiệp vụ gắn liền với những rủi ro mang tính chu kỳ - Hiện nay các doanh nghiệp bảo hiểm có nhiều phương pháp khác nhau để xác định dự phòng phí. Theo nguyên tắc thận trọng, các doanh nghiệp bảo hiểm có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau và lựa chọn cách tính cho kết quả cao nhất để trích lập dự phòng. Phổ biến nhất hiện nay các nước trên thế giới thường sử dụng phương pháp 1/24 và phương pháp 50%. phương pháp 1/24 Theo phương pháp này, các khoản phí thu trong tháng giả thiết đều được tính vào ngày 15 của tháng. 15 so với 360 ngày trong 1 năm là 1/24 - Đối với các hợp đồng năm 23 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  8. Bài giảng môn bảo hiểm + Phí bảo hiểm thu được trong tháng 1 sẽ phải chuyển sang niên độ sau là: 15 ngày / 360 ngày = 1/24 + phí bảo hiểm thu được trong tháng 2 sẽ phải chuyển sang niên độ sau là: 3 * 15 ngày / 360 ngày = 3/24 + tương tự như vậy, để tính phí bảo hiểm phải chuyển sang niên độ sau của các tháng tiếp theo. Và phí bảo hiểm thu được trong tháng 12 sẽ phải chuyển sang niên độ sau là: 23 * 15 ngày / 360 ngày = 23/24 - Đối với hợ đồng nửa năm + Phí bảo hiểm thu được trong tháng 7 sẽ phải chuyển sang niên dộ sau là: 15 ngày / 180 ngày = 2/24 + Phí bảo hiểm thu được trong tháng 8 sẽ phải chuyển sang niên dộ sau là: 3 * 15 ngày / 180 ngày = 6/24 + tương tự như vậy, để tính phí bảo hiểm phải chuyển sang niên độ sau của các tháng tiếp theo. Và phí bảo hiểm thu được trong tháng 12 sẽ phải chuyển sang niên độ sau là: 11 * 15 ngày / 180 ngày = 22/24 - Đối với hợp đồng quý + Phí bảo hiểm thu được tỏng tháng 10 sẽ phải chuyển sang niên độ sau là: 15 ngày / 90 ngày = 4/24 + Phí bảo hiểm thu được tỏng tháng 11 sẽ phải chuyển sang niên độ sau là: 3 * 15 ngày / 90 ngày = 12/24 + Phí bảo hiểm thu được tỏng tháng 12 sẽ phải chuyển sang niên độ sau là: 5 * 15 ngày / 90 ngày = 20/24 Giả sử doanh nghiệp bảo hiểm chỉ có các hợp đồng năm, nửa năm và quý thì dự phòng phí bảo hiểm mà doanh nghiệp phải lập vào ngày 31/12 khi khóa sổ niên độ sẽ là: Dự phòng Tổng phí Tổng phí nửa Tổng phí quý trích lập năm của các năm của các của các tháng vào ngày = tháng chuyển + tháng chuyển + chuyển sang 31/12 sang niên độ sang niên độ niên độ sau sau sau phương pháp 50% Theo phương pháp này, giả sử phí bảo hiểm được phân bổ thu đều trong năm. Do đó, một nửa phí thu sẽ thuộc niên độ thực hiện và một nửa phải chuyển sang niên độ sau. Công thức tính như sau 24 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  9. Bài giảng môn bảo hiểm Dự phòng trích lập vào 31/12 = 50% (tổng phí năm + tổng phí nửa năm + tổng phí quý) 3.2.2 Đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ Doanh nghiệp bảo hiểm nhan thọ thường phải trích lập các loại quỹ dự phòng sau: - Dự phòng toán học: là khoản chênh lệch giữa giá trị hiện tại các cam kết của doanh nghiệp bảo hiểm và của người được bảo hiểm. - Dự phòng phí chưa được hưởng: chỉ áp dụng cho các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thời hạn dưới một năm Dự Phí định Thời gian còn lại của định kỳ nộp phí = x phòng kỳ Tổng thời gian của định kỳ nộp phí - Dự phòng chi trả - Dự phòng chia lãi: ở Việt Nam, dự phòng chia lãi được tính như sau: - Dự phòng đảm bảo cân đối IV. BÁO CÁO TÀI CHÍNH Một trong những nguồn thông tin nội bộ quan trọng nhất của một công ty là báo cáo tài chính 4.1. Bảng cân đối kế toán. Bảng cân đối kế toán của một công ty phản ánh bức tranh về tất cà các nguồn ngân quỹ nội bộ (được gọi là nợ và vốn chủ sở hữu) và việc sử dụng các nguồn ngân quỹ đó tại một thời điểm nhất định. Phương trình cơ bản xác định bảng cân đối kế toán được trình bày như sau: Tổng tài sản = tổng nợ + vốn chủ sở hữu (vốn cổ phần). Bảng 3.1 Bảng cân đối kế toán của công ty VDEC Tài sản 2004 2003 25 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  10. Bài giảng môn bảo hiểm 1. Vốn bằng tiền 2.540 2.081 2. Chứng khoán thị 1.800 1.625 trường 18.320 16.850 3. Các khoản phải 27.530 26.470 thu 50.190 47.026 4. Hàng tồn kho 31.700 30.000 TÀI SẢN LƯU ĐỘNG 31.700 30.000 5. Tài sản cố định 81.890 77.026 TÀI SẢN CỐ ĐỊNH 6. TỔNG TÀI SẢN Nguồn vốn 7. Các khoản phải trả 9.721 8.340 8. Vay ngắn hạn ngân hàng 8.500 5.635 9. Nợ dài hạn đến hạn trả 2.000 2.000 10. Nợ ngắn hạn khác 5.302 4.900 NỢ NGẮN HẠN 25.523 20.875 11. Nợ dài hạn 22.000 24.000 TỔNG NỢ 47.523 44.875 12. Vốn cổ phần 34.367 32.151 TỔNG NGUỒN VỐN 81.890 77.026 Các khoản mục trong bảng cân đối kế toán được sắp xếp theo thứ tự tính thanh khoản giảm dần. Ví dụ, bạn có thể thấy rằng kế toán viên liệt kê đầu tiên là những tài sản hầu như có thể chuyển thành tiền mặt trong tương lai gần. Chúng bao gồm: tiền mặt, các chứng khoán thị trường, các khoản phải thu, nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang và thành phẩm. Những tài sản này gọi là tài sản lưu động. Tài sản còn lại trên bảng cân đối kế toán gồm các tài sản dài hạn thường ít có tính thanh khoản như văn phòng, nhà kho, thiết bị, Bảng cân đối kế toán không cập nhật giá trị thị trường của các tài sản dài hạn này. Thay vào đó, kế toán viên ghi chép giá tị nguyên thủy và sau đó, khấu trừ hàng năm một giá trị cố định gọi là khấu hao. Bảng cân đối kế toán không bao gồm hết tài sản của công 26 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  11. Bài giảng môn bảo hiểm ty. Một tài sản có giá trị nhất lại là tài sản vô hình như bản quyền, danh tiếng, kỹ năng quản lý và lực lượng lao động lành nghề thường không được phản ánh trong bảng cân đối kế toán. Kế toán viên thường cân nhắc khi ghi các tài sản này vào bảng cân đối kế toán trừ khi chúng được xác định và đánh giá. Phần bên phải của bảng cân đối kế toán cho thấy nguồn tiền nào dùng để mua tài sản. Trước tiên đó là những khoản nợ gồm nợ phải trả trong năm gọi là nợ ngắn hạn. Chênh lệch giữa tài sản lưu động và nợ ngắn hạn gọi là vốn luân chuyển ròng. Tiếp theo là các khỏan nợ dài hạn của công ty do phát hành trái phiếu hay vay trực tiếp ở ngân hàng. Phần còn lại là vốn cổ phần. Vốn cổ phần của công ty đơn giản chỉ là tổng giá trị của vốn luân chuyển ròng và tài sản cố định trừ cho nợ dài hạn. Một phần của vốn cổ phần có được là do bán cổ phần cho các nhà đầu tư, phần còn lại là từ lợi nhuận giữ lại nhân danh các cổ đông để tái đầu tư vào công ty. 4.2. Báo cáo thu nhập. Nếu bảng cân đối kế toán cho thấy bức tranh về tài sản công ty tại một thời điểm cụ thể thì báo cáo thu nhập lại giống như một cuộn băng video, nó chiếu lại trong năm vừa qua công ty đã thu lợi như thế nào. Bảng 3.2 Báo cáo thu nhập của công ty VDEC Khoản mục 2004 13. Doanh thu thuần 112.760 14. Giá vốn hàng bán 85.300 15. Lãi gộp 27.460 16. Chi phí hoạt động Chi phí bán hàng 6.540 Chi phí quản lý (trong đó khấu hao 520) 9.400 17. Toàn bộ chi phí hoạt động 15.940 18. Lãi trước thuế và lãi vay (EBIT) 11.520 19. Lãi vay 3.160 20. Lãi trước thuế 8.360 21. Thuế thu nhập doanh nghiệp (40%) 3.344 22. Lãi ròng 5.016 27 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  12. Bài giảng môn bảo hiểm 23. Cổ tức cổ phần ưu đãi 2.800 24. Thu nhập cổ phần thường 2.216 25. Lợi nhuận giữ lại (60%) 1.329,6 26. Số lượng cổ phần thường (ngàn cổ phần) 1.300 27. Giá trị thị trường mỗi cổ phần ($) 20 28. Giá sổ sách mỗi cổ phần ($) 26,44 29. Thu nhập mỗi cổ phần (EPS) ($) 1,705 30. Cổ tức mỗi cổ phần ($) 0,681 4.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, văn bản cuối cùng trong ba loại văn bản quan trọng trong báo cáo tài chính, là văn bản tối thiểu mà nhà quản lý cần phải sử dụng và hiểu rõ. Báo cáo nêu chi tiết các lý do tại sao lượng tiền (và những khoản tương đương tiền) thay đổi trong kỳ kế toán. Đặc biệt hơn, báo cáo này phản ánh tất cả các thay đổi về tiền tệ theo 3 hoạt động: kinh doanh, đầu tư và tài chính. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cho bạn biết bạn có bao nhiêu tiền vào đầu kỳ và còn lại bao nhiêu vào cuối kỳ. Kế tiếp, nó mô tả công ty đã thu và chi bao nhiêu tiền trong một khoảng thời gian cụ thể. Việc sử dụng tiền được ghi thành số âm, và nguồn tiền được ghi thành số dương. Nếu bạn là nhà quản lý một công ty lớn, những thay đổi về dòng tiền của công ty sẽ không ảnh hưởng nhiều đến hoạt động hàng ngày của bạn. Tuy nhiên, bạn cũng nên cập nhật các dự báo lưu chuyển tiền tệ, vì chúng có thể giúp ích khi bạn dự thảo ngân sách cho năm tiếp theo. Ví dụ, nếu công ty bạn không có nhiều tiền, bạn có thể cần chi tiêu tiết kiệm hơn. Ngược lại, nếu nguồn tiền của công ty dồi dào, bạn sẽ có cơ hội thực hiện nhiều dự án đầu tư mới. Nếu bạn là nhà quản lý hay chủ sở hữu của một công ty nhỏ, bạn có thể luôn quan tâm đến tình hình lưu chuyển tiền tệ và cảm nhận tác động của nó đối với các hoạt động hàng ngày. 28 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  13. Bài giảng môn bảo hiểm Báo cáo lưu chuyển tiền tệ rất hữu ích vì nó cho biết liệu công ty bạn có khả năng chuyển các khoản phải thu thành tiền không - và về cơ bản, khả năng đó tạo điều kiện cho công ty bạn thanh toán các khoản nợ. Khả năng thanh toán nợ là khả năng trả các hóa đơn khi đến hạn. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ không thực hiện những phép tính như báo cáo thu nhập. Nếu không có giao dịch bằng tiền, thì hoạt động giao dịch đó sẽ không được phản ánh trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng thu nhập thuần ở mục đầu tiên của báo cáo lưu chuyển tiền tệ giống với dòng cuối của báo cáo thu nhập - đó chính là lợi nhuận của công ty. Qua hàng loạt điều chỉnh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ diễn giải thu nhập thuần thành cơ sở tiền mặt. Định dạng của báo cáo này phản ánh ba loại hoạt động ảnh hưởng đến tiền tệ. Tiền tệ có thể tăng hoặc giảm vì: (1) hoạt động kinh doanh, (2) mua hoặc bán tài sản, hay còn gọi là đầu tư, hoặc (3) thay đổi các khoản nợ, nhập kho hoặc các hoạt động tài chính khác. Chúng ta hãy lần lượt xem xét từng loại, bắt đầu bằng hoạt động kinh doanh: + Các khoản phải thu và hàng tồn kho thành phẩm tượng trưng cho các hạng mục mà công ty đã sản xuất nhưng chưa được thanh toán. Các chi phí trả trước thể hiện các mục công ty đã thanh toán nhưng chưa tiêu thụ. Những mục này đều được loại trừ khỏi dòng tiền. + Các khoản phải trả và chi phí cộng dồn thể hiện các mục mà công ty đã nhận hoặc sử dụng nhưng chưa thanh toán. Do đó, những mục này được cộng vào dòng tiền. Bây giờ hãy xem đến phần đầu tư. Các hoạt động đầu tư bao gồm: + Các khoản thu được từ việc bán nhà xưởng, bất động sản và trang thiết bị. Nói cách khác, đó là những khoản thu được từ việc chuyển các mục đầu tư thành tiền. 29 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  14. Bài giảng môn bảo hiểm + Tiền công ty dùng để đầu tư vào các công cụ tài chính, nhà xưởng, bất động sản và trang thiết bị (những khoản đầu tư vào nhà xưởng, bất động sản và trang thiết bị như vậy thường được ghi trong mục vốn đầu tư). Dòng tiền so với lợi nhuận Nhiều người có quan niệm nhầm lẫn rằng lợi nhuận là dòng tiền. Tại một thời điểm cụ thể, lợi nhuận có thể đóng góp tích cực cho dòng tiền, nhưng cũng có thể không. Ví dụ, nếu lợi nhuận của năm nay đạt được là nhờ vào việc kinh doanh phát đạt trong tháng Mười Một, mức doanh thu này sẽ được ghi nhận là lợi nhuận trong thời kỳ tài chính - do vậy cộng thêm vào lợi nhuận. Nhưng nếu sản phẩm bán ra chưa được thanh toán cho đến kỳ kế toán tiếp theo, nó sẽ được ghi vào khoản phải thu, làm giảm dòng tiền. 4.4. Thuyết minh báo cáo tài chính. Nếu Báo cáo thu nhập, Bảng cân đối kế toán và Báo cáo lưu chuyển tiền tệ đưa ra các thông tin quan trọng về tình hình tài chính, thì thuyết minh BCTC là bản in mạch lạc giải thích cho các thông tin trọng yếu của BCTC. Khi đọc bất cứ BCTC nào nhà đầu tư cũng tìm thấy dẫn chiếu thông tin tới thuyết minh BCTC (thường được đánh số thứ tự để tiện theo dõi). Các thuyết minh này cho biết phương pháp kế toán công ty áp dụng và bổ sung các thông tin không được nêu trong BCTC. Nói cách khác, thuyết minh BCTC đưa ra thông tin chi tiết và mở rộng các thông tin tóm tắt trong BCTC, giúp nhà đầu tư hiểu rõ hơn về tình hình hoạt động thực tế của công ty trong khoảng thời gian báo cáo. Thông tin trong thuyết minh BCTC thường được chia ra làm 2 mảng đáng chú ý. Mảng thứ nhất đưa ra thông tin về phương pháp kế toán mà công ty áp dụng, như phương pháp ghi nhận doanh thu; và mảng thứ hai giải thích cụ thể về các kết quả tài chính và hoạt động quan trọng của công ty. 4.5 Tỷ số tài chính Hầu hết các tỉ số tài chính đều có những cái tên mô tả cho người sử dụng nhận biết được làm thế nào để tính toán các tỷ số ấy hoặc làm thế nào để hiểu được lượng giá trị của nó. 30 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  15. Bài giảng môn bảo hiểm Các loại tỷ số tài chính quan trọng nhất là: 1. Tỷ số thanh toán đo lường khả năng thanh toán của công ty. 2. Tỷ số hoạt động đo lường mức độ hoạt động liên quan đến tài sản của công ty. 3. Tỷ số đòn bẩy cho thấy việc sử dụng nợ của công ty đó ảnh hưởng như thế nào đến hiệu quả hoạt động kinh doanh. 4. Tỷ số sinh lợi biểu hiện khả năng tạo lãi của tài sản và vốn chủ sở hữu. 5. Tỷ số giá thị trường cho thấy công ty được các nhà đầu tư đánh giá như thế nào. Chúng ta sẽ phân tích các tỷ số trên và sử dụng số liệu trên bảng cân đối kế toán và báo cáo thu nhập của công ty VDEC. 1. Tỷ số thanh toán – Liquidity Ratios Tỷ số thanh toán hiện hành – Current ratio: Một trong những thước đo khả năng thanh toán của một công ty được sử dụng rộng rãi nhất là khả năng thanh toán hiện hành. Tài sản lưu động Tỷ số thanh toán hiện hành R = c Nợ ngắn hạn Tài sản lưu động gồm các khoản vốn bằng tiền, đầu tư tài chính ngắn hạn (bao gồm chứng khoán thị trường, các khoản phải thu, hàng tồn kho và tài sản lưu động khác). Nợ ngắn hạn là các khoản nợ phải trả trong năm bao gồm: vay ngắn hạn, vay dài hạn đến hạn trả và các khoản phải trả khác. Tỷ số Rc cho thấy công ty có bao nhiêu tài sản có thể chuyển đổi thành tiền mặt để đảm bảo thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Tỷ số này đo lường khả năng trả nợ của công ty. Tỷ số thanh toán hiện hành của công ty VDEC năm 2004 là: (1) (2) (3) (4) 50.190 Rc = 1,97 (7) (8) (9) (10) 25.523 31 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  16. Bài giảng môn bảo hiểm Rc = 1.97 cho thấy năm 2004 công ty VDEC có 1.97$ tài sản lưu động đảm bảo cho 1$ nợ đến hạn trả. Tỷ số này được chấp nhận hay không tỳ thuộc vào sự so sánh với tỷ số thanh toán của công ty cạnh tranh hoặc so sánh với các năm trước để thấy sự tiến bộ hoặc giảm sút. Nếu tỷ số thanh toán hiện hành giảm cho thấy khả năng thanh toán giảm và cũng là dấu hiệu báo trước những khó khăn về tài chính sẽ xảy ra. Nếu tỷ số hiện hành cao điều đó có nghĩa là công ty luôn sẵn sàng thanh toán các khoản nợ. Tuy nhiên, nếu tỷ số thanh toán hiện hành quá cao sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động vì công ty đã đầu tư quá nhiều vào tài sản lưu động hay nói cách khác, việc quản lý tài sản lưu động không hiệu quả (ví dụ: có quá nhiều tiền mặt nhàn rỗi, nợ phải đòi, hàng tồn kho ứ đọng). Một công ty nếu dự trữ nhiều hàng tồn kho thì sẽ có tỷ số thanh toán hiện hành cao, mà ta đã biết hàng tồn kho là tài sản khó chuyển thành tiền, nhất là hàng tồn kho ứ đọng, kém phẩm chất. Vì thế, trong nhiều trường hợp, tỷ số thanh toán hiện hành không phản ánh chính xác khả năng thanh toán của công ty. Tỷ số thanh toán nhanh – Quick ratio: tỷ số thanh toán nhanh được tính toán dựa trên những tài sản lưu động có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, đôi khi chúng được gọi là “tài sản có tính thanh khoản” bao gồm các tài sản lưu động trừ hàng tồn kho. Tài sản lưu động – hàng tồn kho Tỷ số thanh toán nhanh Rq = Nợ ngắn hạn Tỷ số này cho thấy khả năng thanh toán thực sự của một công ty. Tỷ số thanh toán nhanh của công ty VDEC năm 2004: (1) (2) (3) 22.660 Rq = 0,89 (7) (8) (9) (10) 25.523 Điều này cho thấy năm 2004, công ty VDEC có 89% tài sản có tính thanh khoản cho mỗi $ nợ đến hạn. Tỷ số thanh toán nhanh 0.89 cho biết rằng nếu hàng tồn kho của công ty VDEC ứ đọng, không đáng giá thì công ty VDEC sẽ lâm vào khó khăn tài chính gọi là “không có khả năng chi trả”. “Không có khả năng chi trả’ xảy ra khi một công ty không đủ tiền để trả các khoản nợ khi chúng đến hạn. 2. Tỷ số hoạt động – Activity Ratios: 32 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  17. Bài giảng môn bảo hiểm Các tỷ số hoạt động đo lường hoạt động kinh doanh của một công ty. Để nâng cao tỷ số hoạt động, các nhà quản trị phải biết là những tài sản chưa dùng hoặc không dùng không tạo ra thu nhập, vì thế công ty cẩn phải biết cách sử dụng chúng có hiệu quả hoặc loại bỏ chúng đi. Tỷ số hoạt động đôi khi còn gọi là tỷ số hiệu quả hoặc tỷ số luân chuyển. Số vòng quay các khoản phải thu – Accounts Receivable Turnover Ratio: Các khoản phải thu là những hóa đơn bán hàng chưa thu tiền về do công ty thực hiện chính sách bán chịu và các khoản tạm ứng chưa thanh toán, khoản trả trước cho người bán, Số vòng quay các khoản phải thu được sử dụng để xem xét cẩn thận việc thanh toán các khoản phải thu, Khi khách hàng thanh toán tất cả các hóa đơn của họ, lúc đó các khoản phải thu quay được 1 vòng. Vòng quay các khoản phải thu = Doanh thu thuần Các khoản phải thu Số vòng quay các khoản phải thu của công ty VDEC (13) 112.760 = 6,155 lần (3) 18.320 Tỷ số trên cho thấy trong năm 2004, các khoản phải thu của công ty VDEC luân chuyển 6.155 lần. Điều này có nghĩa là bình quân khoản 360 58,49 ngày công ty mới thu hồi được nợ. Tỷ số này có thể được thể hiện 6.155 ở dạng khác đó là tỷ số kỳ thu tiền bình quân (average collection period). Các khỏan phải thu Kỳ thu tiền bình quân = Doanh thu bình quân ngày (3) 18.320 = 58,49 ngày. (13) : 360 112.760 : 360 Số vòng quay các khoản phải thu hoặc kỳ thu tiền bình quân cao hay thấp phụ thuộc vào chính sách bán chịu của công ty. Nếu số vòng quay thấp thì hiệu qủa sử dụng vốn kém do vốn bị chiếm dụng nhiều. Nhưng nếu số vòng quay các khoản phải thu cao quá thì sẽ giảm sức cạnh tranh dẫn đến giảm doanh thu. 33 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  18. Bài giảng môn bảo hiểm Khi phân tích tỷ số này, ngoài việc so sánh giữa các năm, so sánh với các công ty cùng ngành, công ty cần xem xét kỹ lưỡng từng khoản phải thu để phát hiện những khoản nợ đã quá hạn trả và có biện pháp xử lý. Số vòng quay hàng tồn kho – Inventry turnover ratio: số vòng quay hàng tồn kho là một tiêu chuẩn đánh giá công ty sử dụng hàng tồn kho của mình hiệu quả như thế nào. Doanh thu thuần Vòng quay hàng tồn kho = Hàng tồn kho (13) 112.760 Số vòng quay hàng tồn kho của công ty VDEC = 4,09 (4) 27.530 lần. Tính toán trên cho thấy rằng trong năm 2004 hàng tồn kho của công ty VDEC luân chuyển 4,09 vòng nghĩa là khoảng 88 ngày một vòng. Số vòng luân chuyển hàng tồn kho cao hay thấp tùy thuộc vào đặc điểm ngành kinh doanh. Nếu công ty VDEC là nhà máy sản xuất rượu vang với số vòng luân chuyển hàng tồn kho 4,09 vòng/năm cho thấy công ty đã sản xuất quá nhanh đến nỗi rượu chưa thích hợp để uống. Ngược lại, nếu công ty VDEC kinh doanh rau quả tươi với hàng hóa khoảng 88 ngày quay vòng một lần thì có lẽ là hàng hóa chưa kịp bán đã bị hư hỏng. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định – Sales – to – Fixed assets ratio: Tỷ số này nói lên 1$ tài sản cố định tạo ra được bao nhiêu $ doanh thu. Qua đó đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định ở công ty. Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = Tài sản cố định Hiệu suất sử dụng tài sản cố định của công ty VDEC = (13) 112.760 3,55 (5) 31.700 Tỷ số trên cho thấy tại công ty VDEC 1$ tài sản cố định đã tạo ra được 3,55$ doanh thu. Muốn đánh giá việc sử dụng tài sản cố định có hiệu quả không phải so sánh với các công ty khác cùng ngành hoặc so sánh với các thời kỳ trước. 34 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  19. Bài giảng môn bảo hiểm Hiệu suất sử dụng toàn bộ tài sản – Sales-to-total assets ratio: Hiệu suất sử dụng toàn bộ tài sản đo lường 1$ tài sản tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh sẽ tạo ra được bao nhiêu $ doanh thu. Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng toàn bộ tài sản = Toàn bộ tài sản (13) 112.760 Tại công ty VDEC năm 2004 = 1,377 lần. (6) 81.890 Điều này có nghĩa là, tại công ty VDEC trong năm 2004 1$ tài sản đã tạo ra được 1,377$ doanh thu. Nếu chỉ số này cao cho thấy công ty đang hoạt động gần hết công suất và rất khó để mở rộng hoạt động nếu không đầu tư thêm vốn. Hiệu suất sử dụng vốn cổ phần – Sales-to-equity ratio: Hiệu suất sử dụng vốn cổ phần là chỉ tiêu rất hữu ích cho việc phân tích khía cạnh tài chính của công ty mà sẽ được đề cập kỹ hơn ở phần sau. Hiệu suất sử dụng vốn cổ phần đo lường mối quan hệ giữa doanh thu và vốn cổ phần. Hiệu suất sử dụng vốn cổ phần = Doanh thu thuần Vốn cổ phần Hiệu suất sử dụng vốn cổ phần của công ty VDEC năm 2004 (13) 112.760 = 3,28 lần (12) 34.367 Việc tính toán trên cho thấy rằng công ty VDEC có doanh thu 3,28 lần lớn hơn vốn cổ phần trong năm 2004. Lý do mà hiệu suất sử dụng vốn cổ phần của công ty lớn hơn tổng tài sản của công ty vì công ty đã sử dụng đòn bẩy tài chính từ việc tài trợ bằng vốn vay. Hiệu suất sử dụng vốn cổ phần = Doanh thu thuần Vốn cổ phần = Doanh thu thu ần x T ổng tài sản Tổng tài sản Vốn cổ phần = Hiệu suất sử dụng tổng tài sản x Bội số tài sản so vốn cổ phần 35 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  20. Bài giảng môn bảo hiểm 81.890 = 1,37 x =3,28 34.367 3. Tỷ số đòn bẩy tài chính – Financial leverage ratios Tỷ số đòn bẩy tài chính đánh giá mức độ mà một công ty tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình bằng vốn vay. Khi một công ty vay tiền, công ty luôn phải thực hiện một chuỗi thanh toán cố định. Vì các cổ đông chỉ nhận được những gì còn lại sau khi chi trả cho chủ nợ, nợ vay được xem như là tạo ra đòn bẩy. Trong thời kỳ khó khăn, các công ty có đòn bẩy tài chính cao có khả năng không trả được nợ. Vì thế khi công ty muốn vay tiền, ngân hàng sẽ đánh giá xem công ty có vay quá nhiều hay không? Ngân hàng cũng xét xem công ty có duy trì nợ vay của mình trong hạn mức cho phép không? Các nhà cung cấp tín dụng căn cứ vào tỷ số đòn bẩy tài chính để ấn định mức lãi suất cho vay đối với công ty (vì công ty càng có nhiều nợ vay, rủi ro về mặt tài chính càng lớn). Ở các nước phát triển, người ta đánh giá được độ rủi ro này và tính vào lãi suất cho vay. Điều đó có nghĩa là công ty càng vay nhiều thì lãi suất càng cao. Đối với công ty, tỷ số đòn bẩy tài chính sẽ giúp nhà quản trị tài chính lựa chọn cấu trúc vốn hợp lý nhất cho công ty mình. Qua tỷ số đòn bẩy tài chính nhà đầu tư thấy được rủi ro về tài chính của công ty từ đó dấn đến quyết định đầu tư của mình. Các tỷ số đòn bẩy thông thường là: Tỷ số nợ trên tài sản- Debt ratio: tỷ số này cho thấy bao nhiều phần trăm tài sản của công ty được tài trợ bằng vốn vay. Tổng nợ Tỷ số nợ = T ổng tài sản Tổng nợ: bao gồm toàn bộ khỏan nợ ngắn hạn và dài hạn tại thời điểm lập báo cáo tài chính gồm các khỏan phải trả, vay ngắn hạn, nợ dài hạn do đi vay hay phát hành trái phiếu dài hạn. Tổng tài sản: toàn bộ tài sản của công ty tại thời điểm lập báo cáo. Tổng nợ trên tài sản của công ty VDEC năm 2004 (7) (8) (9) (10) (11) 47.523 = 0,5803 58,03% (6) 81.890 36 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  21. Bài giảng môn bảo hiểm Điều này cho thấy 58,03% tài sản của công ty VDEC được tài trợ bởi vốn vay. Lưu ý rằng tỷ số này sử dụng giá trị sổ sách chứ không phải giá trị thị trường. Giá thị trường của công ty cuối cùng xác định các chủ nợ có thu hồi được tiền của họ không. Vì thế các nhà phân tích tài chính phải xem mệnh giá của các khoản nợ như một phần của tổng giá trị thị trường của nợ và vốn cổ phần. Giá trị thị trường bao gồm giá trị tài sản cố định vô hình thể hiện trong chi phí nghiên cứu và phát triển, quảng cáo, v.v. Những tài sản này thương không sẵn sàng để bán và nếu công ty rơi vào tình cảnh khó khăn về tài chính thì tất cả giá trị này sẽ biến mất. Có thể vì một vài lý do nào đó, việc các kế toán viên bỏ qua tài sản cổ định vô hình lại tốt cho công ty như khi người cho vay yêu cầu người đi vay không được phép dùng tỷ số nợ theo sổ sách để tăng các hạn mức vay. Tỷ số nợ trên vốn cổ phần – Debt-to-equity ratio: Tỷ số nợ trên vốn cổ phần = Tổng nợ Vốn cổ phần Tỷ số nợ trên vốn cổ phần của công ty VDEC năm 2004: (7) (8) (9) (10) (11) 47.523 = 1,383 138.3% (12) 34.367 Tính toán trên cho thấy rằng trong năm 2004, các nhà cho vay đã tài trợ nhiều hơn vốn cổ phần 38,3%. Điều này dường như công ty đã sử dụng một lượng vốn vay đáng kể. Tuy nhiên, hầu hết các khoản vốn vay này lại là tín dụng thương mại phi lãi suất và những khoản phải trả ngắn hạn. Vì vậy để thấy được mức độ tài trợ bằng vốn vay một cách thường xuyên (qua đó thấy được rủi ro về mặt tài chính mà công ty phải chịu), người ta dùng tỷ số nợ dài hạn trên vốn cổ phần. Tỷ số nợ dài hạn trên vốn cổ phần = Nợ dài hạn Vốn cổ phần 37 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  22. Bài giảng môn bảo hiểm (11) 22.000 Ở công ty VDEC, tỷ số này là = 0,6401 64,01% (12) 34.367 Vì tỷ số nợ dài hạn trên vốn cổ phần có giá trị nhỏ hơn tỷ số nợ trên vốn cổ phần, điều này có nghĩa là phần lớn nợ của công ty VDEC là nợ ngắn hạn. Mặc dù vậy, những người cho vay dài hạn đã cung cấp cho công ty VDEC 64,01% ngân quỹ so với cổ đông. Tỷ số tổng tài sản trên vốn cổ phần – Equity multiplier ratio: Một tỷ số khác cũng được sử dụng đến để tính toán mức độ đi vay (rủi ro về tài chính) mà công ty đang gánh chịu đó là tỷ số tổng tài sản trên vốn cổ phần. Toàn bộ tài sản Tổng tài sản trên vốn cổ phần = Vốn cổ phần (6) 81.890 Ở công ty VDEC, tỷ số này là = 2,3828 238,28% (12) 34.367 Tỷ số này cho thấy trong năm 2004 công ty đã có được tổng tài sản gấp 2,3828 lần so với vốn cổ phần. Điều này cũng cho thấy tình hình vay nợ của công ty. Lãi vay từ những khoản nợ dài hạn như vậy sẽ làm gia tăng những rủi ro về tài chính nếu lợi nhuận của công ty làm ra không đủ trả lãi vay. Khả năng thanh toán lãi vay – Times interest earned ratio: Lãi vay hàng năm là chi phí tài chính cố định và chúng ta muốn biết công ty sẵn sàng trả lãi đến mức nào. Cụ thể hơn, chúng ta muốn biết rằng liệu số vốn đi vay có thể sử dụng tốt đến mức nào, có thể đem lại khoản lợi nhuận bao nhiêu và đủ bù đắp lãi vay hay không. Tỷ số này dùng để đo mức độ mà lợi nhuận phát sinh do sử dụng vốn để đảm bảo trả lãi hằng năm như thế nào. Nếu công ty quá yếu về mặt này, các chủ nợ có thể đi đến kiện tụng và tuyên bố phá sản. Lãi trước thuế và lãi vay Khả năng thanh toán lãi vay = Lãi vay Trong công thức trên, phần tử số phản ánh số tiền mà công ty có thể được sử dụng để trả lãi vay trong năm. Ở đây phải lấy tổng số lợi nhuận trước thuế và lãi vay vì lãi vay được tính vào chi phí trước khi tính thuế thu nhập. Phần mẫu số 38 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  23. Bài giảng môn bảo hiểm là lãi vay, bao gồm tiền lãi trả cho các khoản vay ngắn hạn và dài hạn, kể cả lãi do phát hành trái phiếu. Khả năng thanh toán lãi vay ở công ty VDEC năm 2004 là = 11.520 3,465 lần 3.160 4. Tỷ số sinh lợi – Profitability ratios Tỷ số sinh lợi đo lường thu nhập của công ty với các nhân tố khác tạo ra lợi nhuận như doanh thu, tổng tài sản, vốn cổ phần. Loại tỷ số này bao gồm các chỉ tiêu sau: Tỷ suất sinh lợi trên doanh thu – Net profit margin ratio: Chỉ tiêu này nói lên 1$ doanh thu tạo ra được bao nhiêu $ lợi nhuận. Lợi nhuận ròng Tỷ số sinh lợi trên doanh thu = Doanh thu thuần (22) 5.016 Chỉ tiêu này ở công ty VDEC = 0,0445 4045% (13) 112.760 Ở công ty VDEC có được 100$ doanh thu mới tạo ra được 4,45$ lãi ròng. Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản – Return on total assets ratio (ROA): chỉ tiêu này đo lường khả năng sinh lợi trên 1$ vốn đầu tư vào công ty. Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản = Lợi nhuận ròng x 100 Toàn bộ tài sản Công ty VDEC có tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản năm 2004 là (22) 5.016 0,0612 6,12% = (6) 81.890 Tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần – Return on Equity ratio (ROE): đây là chỉ tiêu mà nhà đầu tư rất quan tâm vì nó cho thấy khả năng tạo lãi của 1$ vốn họ bỏ ra để đầu tư vào công ty. Lợi nhuận ròng Tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần = x 100. Vốn cổ phần 39 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  24. Bài giảng môn bảo hiểm Công ty VDEC có tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần năm 2004 là (22) 5.016 0,1459 14,59% (12) 34.367 Sự khác nhau giữa tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản và tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần là do công ty có sử dụng vốn vay. Nếu công ty không có vốn vay thì 2 tỷ số này sẽ bằng nhau. Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản của công ty VDEC là 6,12% trong khi tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần 14,59%, điều này cho thấy công ty đã sử dụng vốn vay có hiệu quả nên đã khuếch đại được tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần cao hơn tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản. 5. Tỷ số giá thị trường – Market-value ratio. Các nhà đầu tư cổ phần đặc biệt quan tâm đến vài giá trị mà có ảnh hưởng mạnh đến giá thị trường của cổ phần như: Thu nhập mỗi cổ phần – Earning per share (EPS): thu nhập mỗi cổ phần là một yếu tố quan trọng, quyết định giá trị của cổ phần bởi vì nó đo lường sức thu nhập chứa đựng trong một cổ phần, hay nói cách khác nó thể hiện thu nhập mà nhà đầu tư có được do mua cổ phần. Thu nhập ròng của cổ đông thường Thu nhập mỗi cổ phần = Số lượng cổ phần thường Thu nhập ròng của cổ đông thường được tính bằng cách lấy lãi ròng trừ đi tiền lãi của cổ phần ưu đãi. Ví dụ, ở công ty VDEC, thu nhập mỗi cổ phần năm 2004 là 2.216 1,705$ 1.300 Tính toán trên cho thấy trong năm 2004, công ty VDEC sẽ mang lại thu nhập cho một cổ phần là 1,705$ Tỷ lệ chi trả cổ tức – Payout ratio: Cổ tức mỗi cổ phần 40 Thu nhập mỗi cổ phần GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  25. Bài giảng môn bảo hiểm Tỷ lệ chi trả cổ tức = Tổng cổ tức Trong đó, cổ tức mỗi cổ phần = Số lượng cổ phần thường Chỉ tiêu tỷ lệ chi trả cổ tức nói lên công ty chi trả phần lớn thu nhập cho cổ đông hay giữ lại để tái đầu tư. Đây là một nhân tố quyết định đến giá trị thị trường của cổ phần. 0,681 Tỷ lệ chi trả cổ tức của công ty VDEC = 0,4 40% 1,705 Từ đó ta tính được tỷ lệ lợi nhuận giữ lại = 100% - tỷ lệ chi trả cổ tức. Tỷ số giá thị trường trên thu nhập – Price-earning ratio (P/E) Giá trị thị trường mỗi cổ phần Tỷ số giá thị trường trên thu nhập = Thu nhập mỗi cổ phần Đây cũng là chỉ tiêu mà nhà đầu tư rất quan tâm vì nó thể hiện giá cổ phần đắt hay rẻ so với thu nhập. Tỷ số giá thị trường trên thu nhập của công ty VDEC = (27) 20 11,73lần (29) 1,705 Điều này có nghĩa là giá cổ phần của công ty VDEC được bán gấp 11,73 lần so với thu nhập hiện hành của nó. Tỷ suất cổ tức – Divident Yield Cổ tức mỗi cổ phần Tỷ suất cổ tức = Giá trị thị trường mỗi cổ phần 0,68 Ở công ty VDEC, chỉ tiêu này là = 0,034 3,4% 20 Điều này có nghĩa là cổ tức của công ty VDEC chiếm 3,4% so với giá thị trường mỗi cổ phần. Thu nhập của nhà đầu tư gồm hai phần: cổ tức và chênh lệch giá do chuyển nhượng cổ phần. Nếu tỷ suất cổ tức của một công ty thấp điều đó chưa 41 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  26. Bài giảng môn bảo hiểm hẳn là xấu bởi vì nhà đầu tư có thể chấp nhận tỷ lệ chi trả cổ tức thấp để dành phần lớn lợi nhuận để tái đầu tư. Họ mong đợi một tăng trưởng nhanh chóng trong cổ tức và hưởng được sự chênh lệch lớn của giá cổ phần. 42 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  27. Bài giảng môn bảo hiểm CHƯƠNG VI: ĐẠI LÝ VÀ MÔI GIỚI BẢO HIỂM I. ĐẠI LÝ BẢO HIỂM 1.1 Khái niệm Theo thuật ngữ pháp lý, đại lý là người làm việc cho một người khác trên cơ sở hợp đồng đại lý. Theo thuật ngữ bảo hiểm, đại lý bảo hiểm là người làm việc cho doanh nghiệp bảo hiểm, thay mặt doanh nghiệp bán các sản phẩm bảo hiểm cho người mua. Theo luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam thì “đại lý bảo hiểm là tổ chức, cá nhân được doanh nghiệp bảo hiểm ủy quyền trên cơ sở hợp đồng đại lý bảo hiểm để thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm theo quy định của luật này và các quy định khác của luật có liên quan” (điều 84, chương IV) Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam quy định về điều kiện hoạt động đại lý bảo hiểm như sau: “1. Cá nhân hoạt động đại lý bảo hiểm phải có đủ các điều kiện sau đây: a. Là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam; b. Từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; c. Có chứng chỉ đạo tạo đại lý bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm hoặc hiệp hội bảo hiểm Việt Nam cấp. 2. Tổ chức hoạt động đại lý bảo hiểm phải có đủ các điều kiện sau đây: a. Là tổ chức được thành lập và hoạt động hợp pháp, b. Nhân viên trong tổ chức đại lý trực tiếp thực hiện hoạt động dại lý bảo hiểm phải có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 điều này. 3. Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoạt đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc bị tòa án tước quyền hành nghề vi phạm các tội theo quy định của pháp luật không được ký kết hoạt động đại lý bảo hiểm” (điều 86, mục 1 chương IV) 1.1.2 Phân loại đại lý bảo hiểm Đại lý bảo hiểm được phân loại theo các tiêu thức khác nhau: Căn cứ theo tư cách pháp lý, có hai loại đại lý là cá nhân và tổ chức. Cách phân loại này giúp doanh nghiệp bảo hiểm quản lý tốt lực lượng bán hàng của mình, đặc biệt là khâu tuyển dụng đại lý. Căn cứ theo loại hình bảo hiểm và tính chất của rủi ro có hai loại đại lý là đại lý bảo hiểm nhân thọ và đại lý bảo hiểm phi nhân thọ 1.1.3 Vai trò của đại lý bảo hiểm 43 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  28. Bài giảng môn bảo hiểm - Đối với doanh nghiệp bảo hiểm: đại lý là lực lượng tiếp thị có hiệu quả nhất, giúp doanh nghiệp bán sản phẩm. Thông qua bán hàng, đại lý giải thích cho khách hàng tiềm năng những điều họ chưa biết hoặc chưa rõ về sản phẩm cũng như thương hiệu của doanh nghiệp bảo hiểm. Đại lý cũng là người trực tiếp nhận các thông tin phản hồi về sản phẩm bảo hiểm từ phía khách hàng. Vì vậy, những ý kiến họ đóng góp với doanh nghiệp bảo hiểm về các vấn đề chính sách sản phẩm, phát hành và quản lý hợp đồng rất có giá trị thực tế giúp doanh nghiệp bảo hiểm nghiên cứu, điều chỉnh kịp thời để nâng cao tính cạnh tranh. - Đối với khách hàng: đại lý là người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng. Thay vì người mua phải tự tìm hiểu về bảo hiểm thì đại lý sẽ làm công việc này và như vậy sẽ giúp khách hàng tiết kiệm thời gian và tiền của. - Đối với xã hội: đại lý là người cung cấp dịch vụ cho xã hội, mang đến sự đảm bảo cho mỗi cá nhân, tổ chức và gia đình và sự yên tâm cho những người có trách nhiệm trong gia đình. Do vậy, xét trên một khía cạnh nào đó, đại lý bảo hiểm còn góp phần đảm bảo an toàn xã hội. 1.2 Nhiệm vụ và trách nhiện của đại lý bảo hiểm 1.2.1 Nhiệm vụ a. Bán các sản phẩm bảo hiểm Hầu hết các đại lý bảo hiểm đều phải thuyết phục các cá nhân tổ chức có nhu cầu tham gia bảo hiểm mua các sản phẩm và dịch vụ do doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp. Việc bán bảo hiểm thành công hay thất bại phụ thuộc vào khả năng thuyết phục người khác, vào sự nhanh nhạy, năng động của đại lý. Các phương pháp thường được áp dụng là quảng cáo và nhờ khách hàng hiện tại của đại lý giới thiệu. Đại lý trao đổi với khách hàng các thông tin đầy đủ, chính xác về doanh nghiệp bảo hiểm và các sản phẩm bảo hiểm của doanh nghiệp, giải thích về quyền lợi và nghĩa vụ của khách hàng, tư vấn cho khách hàng ký hợp đồng bảo hiểm. b. Ký kết hợp đồng Để ký kết hợp đồng bảo hiểm, trước hết cần xác định các nhu cầu của khách hàng thông qua việc phân tích rủi ro. Phân tích rủi ro là phương pháp chính để xác định các nhu cầu bảo hiểm của khách hàng và có vai trò quan trọng trong việc bán bảo hiểm. Qua phân tích rủi ro sẽ giúp đại lý biết được nhu cầu của khách hàng, về từng loại sản phẩm. Việc phân tích rủi ro là cơ sở khoa học giúp đại lý thuyết phục khách hàng mua 44 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  29. Bài giảng môn bảo hiểm bảo hiểm dễ dàng hơn, đánh giá rủi ro ban đầu chính xác hơn để định phí bảo hiểm, phục vụ cho việc bán bảo hiểm và ký kết hợp đồng bảo hiểm. Sau khi khách hàng đã đồng ý mua sản phẩm bảo hiểm, đại lý bảo hiểm phải cung cấp cho họ đơn bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm, hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm (gọi chung là hợp đồng bảo hiểm). Hợp đồng bảo hiểm là bằng chứng thể hiện khách hàng đã mua sản phẩm của doanh nghiệp bảo hiểm. Nếu sau này xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm còn hiệu lực thì doanh nghiệp bảo hiểm phải có trách nhiệm chi trả, bồi thường cho khách hàng. c. Thu phí bảo hiểm, cấp biên lai hoặc các giấy tờ khác theo sự ủy quyền và hướng dẫn của doanh nghiệp bảo hiểm Các đại lý được phép cấp hợp đồng bảo hiểm có thể lập hóa đơn và thu phí bảo hiểm của khách hàng. Sau khi khấu trừ các khoản hoa hồng phí của mình, đại lý gửi số phí bảo hiểm còn lại cho doanh nghiệp bảo hiểm. Nếu doanh nghiệp bảo hiểm cấp hợp đồng bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm thường gửi hoặc thanh toán phí trực tiếp cho doanh nghiệp bảo hiểm mà không cần thông qua đại lý. Trong hình thức thanh toán này, doanh nghiệp bảo hiểm gửi hóa đơn thu phí đến người tham gia bảo hiểm, sau đó thu phí và gửi hoa hồng cho đại lý. d. Chăm sóc khách hàng Đại lý phải thường xuyên giữ quan hệ với khách hàng, tư vấn kịp thời cho khách hàng muốn thay đổi hoặc bổ sung vào hợp đồng bảo hiểm nhằm đảm bảo quyền lợi và thỏa mã nhu cầu của họ. Đồng thời phản hồi ý kiến từ phía khách hàng cho doanh nghiệp bảo hiểm. e. Thuyết phục khách hàng tái tục hợp đồng bảo hiểm. Đại lý phải thường xuyên giữ quan hệ với khách hàng để thuyết phục khách hàng tái tục hợp đồng bảo hiểm, đồng thời cung cấp thông tin về các sản phẩm mới của doanh nghiệp bảo hiểm. Hơn nữa, đại lý có thể tìm kiếm thêm khách hàng tiềm năng thông qua mối quan hệ này. f. Các nhiệm vụ khác. Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam quy định nhiệm vụ của đại lý bảo hiểm như sau: - Giới thiệu, chào bán bảo hiểm: - Thu xếp việc giao kết hợp đồng bảo hiểm: - Thu phí bảo hiểm; 45 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  30. Bài giảng môn bảo hiểm - Thu xếp giải quyết bồi thường, trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. - Thực hiện các hoạt động khác có liên quan đến việc thực hiện hoạt động bảo hiểm ( điều 85, mục 1, chương IV) 1.2.2. Trách nhiệm của đại lý bảo hiểm. Đại lý có các trách nhiệm sau: - Phải thực hiện đầy đủ và đúng đắng các điều khoản đã ký kết trong hợp đồng đại lý với doanh nghiệp bảo hiểm: phải trung thực trong quá trình thực hiện nhiệm vụ mà doanh nghiệp bảo hiểm giao cho. - Không được đồng thời làm đại lý doanh nghiệp bảo hiểm khác không được sự chấp thuận bằng văn bản của doanh nghiệp bảo hiểm mà mình đang làm đại lý ( nếu trong hợp đồng đại lý có quy định điều này) - Cung cấp thông tin trung thực cho khách hàng, không hứa hẹn ngoài phạm vi cho phép, nếu sai phạm phải chịu trách nhiệm. - Nộp phí bảo hiểm về doanh nghiệp bảo hiểm trong giới hạn thời hạn cho phép; đồng thời chịu sự kiểm tra và giám sát của doanh nghiệp bảo hiểm, thực hiện chế độ báo cáo định kỳ và bảo mật thông tin theo quy định. - Trong trường hợp chấm dứt hợp đồng đại lý trước thời hạn. đại lý phải khai báo chi tiết về tình trạng của các hợp đồng bảo hiểm mà mình quản lý (nếu có ) Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam quy định về trách nhiệm của đại lý bảo hiểm như sau: “Trong trường hợp đại lý bảo hiểm vi phạm hoạt động đại lý bảo hiểm, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm vẫn phải chịu trách nhiệm về hoạt động bảo hiểm do đại lý bảo hiểm thu xếp giao kết; đại lý bảo hiểm có trách nhiệm bồi hoàn cho doanh nghiệp bảo hiểm các khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi thường cho người được bảo hiểm” ( Điều 88, mục 1, chương IV) Các doanh nghiệp bảo hiểm thường cấm đại lý có các hành vi sau đây: 1. Thông tin, quảng cáo sai sự thật về nội dung, phạm vi hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, điều kiện và điều khoản bảo hiểm làm tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của bên mua bảo hiểm. 2. Ngăn cản bên mua bảo hiểm cung cấp các thông tin cần thiết liên quan đến hợp đồng bảo hiềm, xúi giục bên mua bảo hiểm kê khai không trung thực hoặc không kê khai các chi tiết liên quan đến hợp đồng bảo hiểm. 46 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  31. Bài giảng môn bảo hiểm 3. Tiết lộ, cung cấp thông tin làm thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của bên mua bảo hiểm 4. tranh giành khách hàng dưới các hình thức ngăn cản, lôi kéo, mua chuộc, đe dọa nhân viên hoặc khách hàng của doanh nghiệp bảo hiểm, đại lý bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm khác. 5. khuyến mại khách hàng dưới hình thức bất hợp pháp như: hứa hẹn giảm phí bảo hiểm, hoàn phí bảo hiểm hoặc các quyền lợi khác mà doanh nghiệp bảo hiểm không cung cấp cho khách hàng 6. xúi giục bên mua bảo hiểm hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm hiện có để mua hợp đồng bảo hiểm mới. 1.3 Quyền lợi của đại lý bảo hiểm - Được lựa chọn và ký kết hợp đồng đại lý với doanh nghiệp bảo hiểm thích hợp theo đúng các quy định của pháp luật. - Được đào tạo cơ bản và nâng cao. Đại lý của doanh nghiệp bảo hiểm có quyền được tham gia các khóa đào tạo từ đầu và đào tạo liên tục, bồi dưỡng ngân cao trình độ về bảo hiểm ở trong và ngoài nước. Trong thời gian học nghề, đại lý có thể được hưởng trợ cấp học việc tùy theo quy định của doanh nghiệp bảo hiểm. - Được doanh nghiệp bảo hiểm tạo mọi điều kiện thuận lợi như cung cấp thông tin cần thiết, giúp đỡ tài chính, trang bị các phương tiện hoạt động để hoàn thành nhiện vụ của mình. - Được hưởng thù lao lao động theo kết quả làm việc. Các đại lý độc lập thường nhận thù lao thông qua hoa hồng phí, còn các đại lý là nhân viên của doanh nghiệp bảo hiểm có thể được nhận thù lao thông qua tiền lương hoặc kết hợp giữa tiền lương với hoa hồng phí. - Được khen thưởng, thăng tiến trong nghề nghiệp nếu có kết quả hoạt động tốt, tình thần trách nhiệm cao. Đồng thời được hưởng quyền lợi như các nhân viên khác trong doanh nghiệp chẳng hạn: chế độ phúc lợi, tham gia sinh hoạt trong các tổ chức đoàn thể và các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, - Các quyền lợi khác II. MÔI GIỚI BẢO HIỂM 2.1 khái niệm Môi giới bảo hiểm là trung gian bảo hiểm tư vấn cho khách hàng của mình (người tham gia bảo hiểm) và thu xếp bảo hiểm cho khách hàng đó. 47 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  32. Bài giảng môn bảo hiểm Như vậy, môi giới bảo hiểm là người trung gian giữa doanh nghiệp bảo hiểm với khách hàng, đại diện chủ yếu cho quyền lợi khách hàng và có nhiệm vụ tham mưu tư vấn, thu xếp các hợp đồng bảo hiểm cho họ. Môi giới là người được khách hàng ủy quyền và luôn hành động vì lợi ích của khách hàng. 2.2 Phân loại môi giới bảo hiểm a. Môi giới bảo hiểm gốc Là tổ chức hoặc cá nhân đứng ra dàn xếp các vấn đề về bảo hiểm giữa khách hàng và doanh nghiệp bảo hiểm. Hoạt động môi giới bảo hiểm gốc mang lại nhiều lợi ích: - Tư vấn cho khách hàng về quản lý rủi ro một cách hiệu quả nhất. - Thông báo cho khách hàng biết về những văn bản quy phạm pháp luật mới nhất về bảo hiểm và các lĩnh vực có liên quan, giúp khách hàng xem xét các vụ đã bồi thường để nhận ra những hạn chế và do đó có thể giảm bớt các vụ khiếu nại trong tương lai. Điều này cũng tiết kiệm cho các doanh nghiệp bảo hiểm. - Giới thiệu khách hàng mới cho doanh nghiệp bảo hiểm - Tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu các khoản thuế liên quan đến phí bảo hiểm, b. Môi giới tái bảo hiểm Là người hỗ trợ, giúp đỡ các doanh nghiệp bảo hiểm gốc làm việc với các doanh nghiệp tái bảo hiểm trong việc bảo hiểm cho chính các doanh nghiệp bảo hiểm gốc. Hoạt động môi giới tái bảo hiểm mang lại nhiều lợi ích: - Thay mặt doanh nghiệp bảo hiểm tiếp cận với nhiều doanh nghiệp tái bảo hiểm. - Các doanh nghiệp bảo hiểm gốc nhận được khối lượng dịch vụ lớn hơn, do đó khách hàng sẽ được đảm bảo tài chính tốt hơn. - Hỗ trợ các doanh nghiệp bảo hiểm gốc lập kế hoạch đối phó với những tổn thất mang tính thảm họa như bão, lốc, động đất, xảy ra hàng năm - Tạo thêm công ăn việc làm, hạn chết chảy máu ngoại tệ do giữ được dịch vụ trong nước, tăng nguồn thu từ thuế và góp phần đưa công nghệ cao vào đất nước. - Tăng khả năng kiểm soát của chính phủ đối với hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm có trụ sở ở nước ngoài. - Tăng khả năng quản lý của chính phủ đối với các nội dung chuyên môn nghiệp vụ bảo hiểm như: nội dung hợp đồng bảo hiểm, quy định biểu phí bảo hiểm, 48 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  33. Bài giảng môn bảo hiểm 2.3 Nhiệm vụ của môi giới bảo hiểm Luật kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam quy định: “nội dung hoạt động môi giới bảo hiểm bao gồm: 1. Cung cấp thông tin về loại hình bảo hiểm, điều kiện, điều khoản, phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm; 2. tư vấn cho bên mua bảo hiểm trong việc đánh giá rủi ro, lựa chọn loại hình bảo hiểm, điều kiện, điều khoản, biểu phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm, 3. đàm phán, thu xếp giao kết hợp đồng bảo hiểm giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm 4. thực hiện các công việc khác có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm” (điều 90, mục 2, chương IV) và “doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có nghĩa vụ: a. thực hiện việc môi giới trung thực b. không được tiết lộ, cung cấp thông tin làm thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của bên mua bảo hiểm c. bồi thường thiệt hại cho bên mua bảo hiểm do hoạt động môi giới bảo hiểm gây ra” (khoản 2, điều 91, mục 2 chương IV) 2.4 Quyền lợi của môi giới bảo hiểm - Được trả tiền hoạt động (gọi là hoa hồng môi giới bảo hiểm) và các khoản tiền khác - Được đào tạo về nghiệp vụ bảo hiểm - Được doanh nghiệp bảo hiểm bảo trợ về kỹ thuật và thương mại - Được hỗ trợ các phương tiện hoạt động 49 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  34. Bài giảng môn bảo hiểm CHƯƠNG VII: PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM Mỗi nghiệp vụ bảo hiểm thường được doanh nghiệp triển khai theo một quy trình thống nhất bao gồm ba khâu cơ bản: - khai thác bảo hiểm (bán các dịch vụ, các sản phẩm bảo hiểm) - đề phòng và hạn chế tổn thất (kiểm soát tổn thất) - giám định và bồi thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm 1. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch khai thác Hàng năm các doanh nghiệp bảo hiểm đều phải tiến hành lập kế hoạch khai thác cho từng nghiệp vụ, từng loại sản phẩm bảo hiểm. Để lập kế hoạch và kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch khai thác có thể vận dụng các chỉ số - chỉ số nhiệm vụ kế hoạch (iNK): iNK = yK / y0 - chỉ số hoàn thành kế hoạch (iHK) iHK = y1 / y0 - chỉ số thực hiện (i) i = y1 / y0 trong đó, y1, y0, yK là mức độ khai thác kỳ báo cáo, kỳ gốc và kỳ kế hoạch. Các mức độ trên (y1, y0, yK) có thể là: số hợp đồng, số giấy chứng nhận bảo hiểm, số đơn bảo hiểm, doanh thu phí bảo hiểm. Trong bảo hiểm nhân thọ, chúng có thể là: số hợp đồng khai thác mới, số hí bảo hiểm thu năm đầu tiên của những hợp đồng khai thác mới, 1.1 Phân tích cơ cấu khai thác Các doanh nghiệp bảo hiểm thường triển khai cùng một lúc nhiều nghiệp vụ, nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để xác định và đánh giá được nghiệp vụ nào, sản p hẩm nào là chủ yếu cũng như xu hướng phát triển của chúng trong tương lai cần phải tính toán và phân tích cơ cấu khai thác. Hướng phân tích này đơn giản, dễ hiểu song tác dụng lại rất lớn, vì thế nó được sử dụng phổ biến trong phân tích hoạt động kinh doanh. Phân tích cơ cấu khai thác bảo hiểm chủ yếu được thực hiện với các chỉ tiêu: Tổng số hoạt động bảo hiểm và doanh thu phí bảo hiểm. - đối với doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ: cơ cấu doanh thu theo loại hình bảo hiểm (tài sản, trách nhiệm và con người phi nhân thọ). Theo xu hướng chung thì nghiệp vụ bảo hiểm chủ yếu thường chiếm tỷ trọng 50 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  35. Bài giảng môn bảo hiểm cao trong tổng doanh thu, nhưng khi phân tích cần quan tâm đến lợi nhuận mà doanh nghiệp hoặc loại hình bảo hiểm đó mang lại. những nghiệp vụ bảo hiểm mới triển khai thường có tỷ trọng doanh thu thấp, nhưng nếu tính toán và so sánh trong nhiều năm, có thể thấy được xu hướng biến động và triển vọng của nghiệp vụ trong thời gian tới. mỗi nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ có những đặc thù riêng về đối tượng khách hàng, phạm vi bảo hiểm. Để có cơ sở đánh giá thực trạng, lập kế hoạch khai thác, dự báo diễn biến của thị trường và chọn lựa các biện pháp cạnh tranh hữu hiệu, cần phải phân tích cơ cấu khai thác chi tiết theo nhiều tiêu thức. - Đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ: Phân tích cơ cấu số hợp đồng khai thác mới, số phí bảo hiểm thu năm đầu tiên của các hợp đồng khai thác mới, tổng doanh thu phí bảo hiểm gốc, phải được thực hiện định kỳ thường xuyên và càng chi tiết càng tốt. Cơ cấu các chỉ tiêu trên không chỉ phản ánh trung thực khâu khai thác mà còn giúp doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ quản lý tốt các loại hợp đồng, hoàn thiện và cải tiến sản phẩm, tổ chức tốt dịch vụ khách hàng, xác định chính xác thị trường mục tiêu, Các chỉ tiêu trên có thể được phân tích chi tiết theo: + Sản phẩn bảo hiểm nhân thọ (bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm sinh lý, bảo hiểm tử kỳ, bảo hiểm nhân thọ tổng hợp, ) + Khách hàng tham gia bảo hiểm (nam, nữa, vùng lãnh thổ, độ tuổi, ) + Số tiền bảo hiểm (từ 5 đến 10 triệu, từ 10 đến 20 triệu đồng, từ 20 đến 30 triệu đồng, ) + Phương thức nộp phí bảo hiểm (nộp phí theo tháng, theo quý, theo năm hay nộp phí 1 lần, ) Ví dụ: thực trạng và cơ cấu các sản phẩm BHNT mới khai thác trong ba năm của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ A: 51 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  36. Bài giảng môn bảo hiểm Qua bảng trên ta thấy, các sản phẩm “bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp” và “bảo hiểm an sinh giáo dục” khai thác được qua các năm là rất lớn, chiếm tuyệt đại đa số trong tổng lượng hợp đồng khai thác mới và có xu hướng tăng lên. Ngược lại, các sản phẩm “bảo hiểm sinh kỳ” và “bảo hiểm tử vong có kỳ hạn” chiếm tỷ trọng không đáng kể và lại có xu hướng giảm đi. Kết quả trên phản ánh thực trạng và xu hướng biến động của từng loại sản phẩm. Qua đó giúp doanh nghiệp bảo hiểm có định hướng đúng đắn để cải tiến và thiết kế sản phẩm mới thay thế những sản phẩm không đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Đồng thời, còn giúp các đại lý bảo hiểm nhân thọ xác định được khách hàng mục tiêu để tiến hành khai thác có hiệu quả 1.2 Phân tích tính thời vụ trong khâu khai thác bảo hiểm Trong quá trình khai thác, có một số nghiệp vụ và một số sản phẩm bảo hiểm phát sinh tính thời vụ, như : bảo hiểm vật chất và bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, bảo hiểm xây dựng và xây lắp, bảo hiểm an sinh giáo dục, Việc xác định và vạch rõ ính thời vụ cho mỗi nghiệp vụ và mỗi loại sản phẩm bảo hiểm là rất cần thiết. Bởi vì, tính thời vụ là cơ sở thực tế giúp doanh nghiệp bảo hiểm tổ chức khai thác bố trí và sử dụng lao động hợp lý, chuẩn bị cơ sở vật chất cần thiết để ký kết hợp đồng bảo hiểm. Phân tích tính thời vụ trong khâu khai thác có thể sử dụng các phương pháp: - Tính chỉ số thời vụ theo các tháng trong năm Ki = Xi / X trong đó ki : chỉ số thời vụ tháng thứ i 52 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  37. Bài giảng môn bảo hiểm Xi : Mức độ khai thác tháng thứ i X: mức độ khai thác bình quân một tháng trong năm X = (X1 + X2 + X12) / 12 Chỉ số thời vụ theo tháng (ki) phản ánh mối quan hệ giữa mức độ khai thác trong từng tháng với mức độ khai thác bình quân một tháng trong năm. Kết quả tính ra càng gần 1 thì tính chất thời vụ trong tháng đó càng ít và ngược lại. Có thể đưa kết quả tính toán của 12 tháng trong năm lên một biểu đồ sẽ dễ dang nhận thấy tính chất thời vụ trong từng tháng. Nếu tính toán và so sánh kết quả nhiều năm liên tục sẽ lộ rõ tính quy luật trong khâu khai thác đối với từng nghiệp vụ hay từng loại sản phẩm bảo hiểm, sau khi xác định được các chỉ số thời vụ theo tháng, cần tính thêm hệ số biến thiên để thấy được sự biến động tương đối về mức độ khai thác. 2. phân tích tình hình kiểm soát tổn thất Kiểm soát tổn thất liên quan đến cả trách nhiệm và quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm. Nếu làm tốt khâu này, số vụ tổn thất sẽ giảm đi và mức độ tổn thất trong mỗi vụ cũng giảm, từ đó doanh nghiệp bảo hiểm sẽ tiết kiệm được số tiền bồi thường hoặc chi trả. Kiểm soát tổn thất bao gồm cả đề phòng và hạn chế tổn thất, cho nên khâu này không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn có ý nghĩa xã hội rất lớn. Tổn thất không xảy ra và kiểm soát được tổn thất tạo thêm niềm tin của khách hàng với doanh nghiệp bảo hiểm và hơn thế nữa là góp phấn bảo đảm an toàn cho xã hội. đối với mỗi loại hình, mỗi nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau công tác đề phòng và hạn ché tổn thất cũng khác nhau. Dù thực hiện đề phòng và hạn chế tổn thất theo phương thức nào chăng nữa thì hàng năm các doanh nghiệp bảo hiểm đều phải chi ra một khoản tiền nhất định trong tổng số phí bảo hiểm thu được. Để nâng cao hiệu quả của khoản chi này cần phải thống kê chi tiết số vụ tổn thất xảy ra theo các nguyên nhân khác nhau, sau đó phân tích và đề ra các biện pháp kiểm soát tổn thất phù hợp và có tính khả thi cho từng nghiệp vụ bảo hiểm. Phân tích tình hình đề phòng và hạn chết tổn thất có thể tiến hành theo các bước sau: - So sánh và đánh giá các vụ tổn thất xảy ra do các nguyên nhân khác nhau, so với cùng kỳ hoặc so với kỳ trước khi thực hiện các biện pháp đề phòng, hạn chết tổn thất. - Vân dụng phương pháp phân tổ, phương pháp hồi quy tương quan để phân tích mối quan hệ giữa chi phí bỏ ra trong khâu này với số vụ tổn thất xảy ra với số tiền bồi thường thực tế của doanh nghiệp bảo hiểm. 53 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  38. Bài giảng môn bảo hiểm Các hướng phân tích trên cần áp dụng cho từng nghiệp vụ bảo hiểm. Tuy nhiên, khi phân tích cần phải chú ý đến độ trễ của thời gian vì chi phí đề phòng và hạn chế tổn thất chi ra kỳ này, nhưng các kỳ sau mới phát huy tác dụng cả ở những kỳ sau 3. Phân tích tình hình giám định và bồi thường tổn thất Khi phân tích và đánh giá thực trạng của khâu này thường dựa vào các chỉ tiêu sau: số vụ khiếu nại đòi giải quyết bồi thường trong kỳ số vụ khiếu nại đã được giải quyết bồi thường trong kỳ số vụ khiếu nại còn tồn đọng chưa giải quyết bồi thường trong kỳ tỷ lệ giải quyết bồi thường = số vụ khiếu nại đã được giải quyết bồi thường trong kỳ / số vụ khiếu nại đòi giải quyết bồi thường trong kỳ tỷ lệ tồn đọng = số vụ khiếu nại còn tổn đọng chưa giải quyết bồi thường trong kỳ / số vụ khiếu nại đòi giải quyết bồi thường trong kỳ số tiền bồi thường thực tế trong kỳ số tiền bồi thường bình quân mỗi vụ khiếu nại đã được giải quyết trong kỳ = tổng số tiền phải bồi thường cho các vụ khiếu nại đã được giải quyết trong kỳ / số vụ khiếu nại đã được giải quyết bồi thường trong kỳ tỷ lệ chi bồi thường = số tiền chi bồi thường thực tế trong kỳ / tổng chi trong kỳ tỷ lệ bồi thường trong kỳ = tổng số tiền chi bồi thường trong kỳ / tổng doanh thu phí bảo hiểm trong kỳ tỷ lệ tổn thất trong kỳ = tổng số tiền bị tổn thất trong kỳ thuộc phạm vi bảo hiểm / tổng số tiền bảo hiểm trong kỳ thời gian xử lý ban đầu: là khoảng thời gian kể từ khi doanh nghiệp bảo hiểm nhận được thông bảo tổn thất đến khi có phản hồi ban đầu với khách hàng. Chỉ tiêu này phản ánh mức độ nhanh nhạy của doanh nghiệp bảo hiểm trong việc thực hiện những phương hướng, hành động xử lý khi nhận được thông báo tổn thất. Những hành động xử lý ban đầu thường là: ghi nhận tổn thất, tiến hành tổ chức giám định và trả lời khách hàng. 54 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy