Bài giảng môn Bảo tồn đa dạng sinh học - Cao Thị Lý

doc 96 trang huongle 3080
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng môn Bảo tồn đa dạng sinh học - Cao Thị Lý", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docbai_giang_mon_bao_ton_da_dang_sinh_hoc_cao_thi_ly.doc

Nội dung text: Bài giảng môn Bảo tồn đa dạng sinh học - Cao Thị Lý

  1. Chương trình hỗ trợ Lâm nghiệp xã hội Bài Giảng BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC Nhóm tác giả: Cao Thị Lý, Nguyễn Thị Mừng - Đại Học Tây Nguyên Trần Mạnh Đạt, Đinh Thị Hương Duyên - Đại Học Nông Lâm Huế Đỗ Quang Huy, Phạm Quang Vinh - Đai Học Lâm Nghiệp Việt Nam La Quang Độ - Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên Hà Nội - 2002
  2. Mục Lục Mục Lục ii Lời nói đầu iii Chương 1: Tổng Quan Về Đa Dạng Sinh Học 1 Bài 1: Khái niệm về đa dạng sinh học 1 1. Khái niệm về đa dạng sinh học 1 2. Một số vùng giàu về đa dạng sinh học trên thế giới 5 Bài 2: Giá trị của đa dạng sinh học 7 1. Định giá giá trị của đa dạng sinh học 7 2. Giá trị của đa dạng sinh học 7 Bài 3: Suy thoái đa dạng sinh học 10 1. Khái niệm về suy thoái đa dạng sinh học 10 2. Nguyên nhân gây suy thoái đa dạng sinh học 12 3. Thang bậc phân hạng mức đe doạ của IUCN, 1994 12 Chương 2: Bảo Tồn Đa Dạng Sinh Học 16 Bài 4: Cơ sở và nguyên tắc của bảo tồn đa dạng sinh học 16 1. Bảo tồn đa dạng sinh học 17 2. Các cơ sở của bảo tồn đa dạng sinh học 17 3. Các nguyên tắc cơ bản của bảo tồn đa dạng sinh học 18 Bài 5: Các phương thức bảo tồn đa dạng sinh học 19 1. Các phương thức bảo tồn chính 19 2. Luật pháp liên quan đến bảo tồn đa dạng sinh học 21 Bài 6: Tổ chức quản lý bảo tồn đa dạng sinh học 24 1. Tổ chức quản lý đa dạng sinh học tại các khu bảo tồn 24 2. Phối hợp và hỗ trợ trong bảo tồn đa dạng sinh học 28 Chương 3:Đa Dạng Sinh Học Và Bảo Tồn ĐDSH ở Việt Nam 30 Bài 7: Giới thiệu về đa dạng sinh học ở Việt Nam 31 1. Cơ sở tạo nên đa dạng sinh học ở Việt Nam 31 2. Mức độ đa dạng sinh học ở Việt Nam 32 3. Tính đa dạng trong các vùng địa lý sinh vật Việt Nam 38 Bài 8: Suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam 40 1. Thực trạng suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam 40 2. Nguyên nhân gây suy thoái đa dạng sinh học Việt Nam 43 Bài 9: Bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam 64 1. Luật pháp Việt Nam liên quan đến bảo tồn ĐDSH 46 2. Hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học 48 3. Định hướng trong hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học 51 Chương 4: Giám sát và đánh giá đa dạng sinh học 54 Bài 10: Lập kế hoạch điều tra, giám sát đa dạng sinh học 54 1. Sự cần thiết của giám sát, đánh giá đa dạng sinh học 54 3. Lập kế hoạch giám sát, đánh giá đa dạng sinh học 57 Bài 11. Phương pháp giám sát, đánh giá đa dạng sinh học 60 1. Điều tra giám sát đa dạng loài động vật 60 2. Điều tra, giám sát đánh giá đa dạng loài thực vật ii70 3. Giám sát tác động của con người đến khu bảo tồn 75
  3. LỜI NÓI ĐẦU Sự tồn tại của xã hội loài người liên quan mật thiết đến các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên sinh vật. Tuy nhiên con người đang lạm dụng quá mức việc khai thác sử dụng các nguồn tài nguyên này và kết quả là tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên sinh vật, môi trường bị suy thoái, gây ra mất cân bằng sinh thái, đe doạ cuộc sống của các loài sinh vật trong đó có loài người chúng ta. Sức khoẻ của hành tinh phụ thuộc vào sự đa dạng của các loài sinh vật. Vì vậy việc bảo tồn đa dạng sinh học được coi là nhiệm vụ rất cấp bách hiện nay và cũng là trách nhiệm của cả nhân loại. Đã đến lúc con người phải thay đổi về suy nghĩ và hành động của mình đối với việc khai thác sử dụng tài nguyên thiên nhiên theo phương châm "phát triển bền vững". Việt Nam được coi là một trong những trung tâm về đa dạng sinh học của khu vực cũng như thế giới. Những phát hiện loài mới (Sao la, Mang Trường sơn, Mang lớn) gây chấn động thế giới gần đây đã cho thấy rằng thiên nhiên Việt Nam còn nhiều điều bí ẩn chưa được khám phá. Tuy nhiên Việt Nam cũng đang phải đối mặt với một thực trạng rất đáng lo ngại đó là sự suy thoái nghiêm trọng về môi trường và tài nguyên đa dạng sinh học, đe doạ cuộc sống của các loài sinh vật và cuối cùng là ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của đất nước. Việc trang bị cho sinh viên những kiến thức, kĩ năng và thái độ cần thiết về bảo tồn đa dạng sinh học là hết sức quan trọng góp phần nâng cao ý thức và trách nhiệm của toàn xã hội đối với công tác bảo tồn đa dạng sinh học. iii
  4. Chương 1: Tổng Quan Về Đa Dạng Sinh Học Mục đích: Chương này nhằm cung cấp cho sinh viên những kiến thức tổng quan về đa dạng sinh học. Mục tiêu: Sau khi học xong chương này, sinh viên có khả năng: +Trình bày được các khái niệm về đa dạng sinh học và các giá trị của đa dạng sinh học +Giải thích được sự suy thoái và các nguyên nhân chính gây ra suy thoái đa dạng sinh học. Khung chương trình tổng quan toàn chương Phương Thời Bài Mục tiêu Nội dung Vật liệu pháp gian BÀI 1: Giải thích Khái niệm + Trình bày + OHP 3 tiết KHÁI các khái ĐDSH + Giảng có + Tài liệu NIỆM VỀ niệm ĐDSH + Đa dạng di minh hoạ phát tay ĐA truyền + Câu hỏi + AO DẠNG + Đa dạng mở SINH loài HỌC + Đa dạng hệ sinh thái Nêu được Một số + Giảng có + OHP một số vùng vùng giàu minh hoạ giàu tính tính ĐDSH ĐDSH BÀI 2: Trình bày Định giá + Trình bày + Tài liệu 2 tiết GIÁ TRỊ được các giá trị của + Bài giao phát tay CỦA giá trị của ĐDSH nhiệm vụ + OHP ĐDSH đa dạng Giá trị trực sinh học tiếp Giá trị gián tiếp BÀI 3: Trình bày Khái niệm + Giảng có + OHP, 4 tiết SUY được khái suy thoái minh hoạ Slides THOÁI niệm và qúa ĐDSH + Động não + Tài liệu ĐA trình suy Quá trình phát tay DẠNG thoái ĐDSH suy thoái + Card SINH ĐDSH màu HỌC 1
  5. Giải thích Nguyên + Trình bày + Giấy A0 được các nhân suy + Thảo + Tài liệu nguyên thoái luận nhóm phát tay nhân gây ĐDSH suy thoái, Thang bậc thang bậc phân hạng phân hạng mức đe mức đe doạ doạ ĐDSH ĐDSH Bài 1: Khái niệm về đa dạng sinh học Mục tiêu: Kết thúc bài này, sinh viên có khả năng: - Trình bày và phân biệt được các khái niệm về đa dạng sinh học - Liệt kê và mô tả được các vùng giàu tính đa dạng sinh học trên thế giới 1. Khái niệm về đa dạng sinh học Theo ước tính gần đây nhất thì có đến 12 định nghĩa khác nhau về đa dạng sinh học (Gaston and Spicer, 1998). Tuy nhiên trong số này thì định nghĩa được sử dụng trong Công ước đa dạng sinh học (1992) được coi là "toàn diện và đầy đủ nhất" xét về mặt khái niệm. Trong thực tế thuật ngữ đa dạng sinh học được dùng lần đầu tiên vào năm 1988 và sau khi Công ước Đa dạng sinh học được ký kết (5/6/1992) thì nó đã được dùng phổ biến hơn. Trong Công ước về đa dạng sinh học, thuật ngữ đa dạng sinh học được dùng để chỉ sự phong phú và đa dạng của giới sinh vật từ mọi nguồn trên trái đất, nó bao gồm sự đa dạng trong cùng một loài, giữa các loài và sự đa dạng hệ sinh thái (Gaston and Spicer, 1998). Như vậy đa dạng sinh học là toàn bộ các dạng sống trên trái đất, bao gồm tất cả các nguồn tài nguyên di truyền, các loài, các hệ sinh thái và các tổ hợp sinh thái. Đa dạng sinh học thường được thể hiện ở 3 cấp độ: đa dạng trong loài (đa dạng di truyền), giữa các loài (đa dạng loài) và các hệ sinh thái (đa dạng hệ sinh thái). 1.1. Đa dạng di truyền 1.1.1. Khái niệm Từ lâu nay chúng ta đã biết rằng sự tồn tại của một loài có được là nhờ quá trình sản xuất và sự sao chép lại các tính trạng và tính chất của cơ thể từ thế hệ này sang thế hệ khác qua sự di truyền. Đa dạng di truyền là phạm trù chỉ mức độ đa dạng của biến dị di truyền, đó chính là sự khác biệt về di truyền giữa các xuất xứ, quần thể và giữa các cá thể trong một loài hay một quần thể dưới tác dụng của đột biến, đa bội hoá và tái tổ hợp. Biến dị là những biến đổi của sinh vật do những nguyên nhân khác nhau, sự sai khác của con cái so với bố mẹ, sự đa dạng về các tính trạng và tính chất của các cá thể trong một quần thể hoặc nhóm sinh vật. Thực chất biến dị là kết quả của các tương hỗ phức tạp giữa các yếu tố khác nhau như đột biến, phản ứng với sự đa dạng của môi trường sống, kích thước quần thể, phương thức sinh sản hay mức độ lai chéo. Biến dị di truyền là cơ sở của tiến hoá và công tác cải thiện giống. Cơ sở vật chất di truyền của các loài sinh vật là các axit nucleic, gồm 2 loạ2i đó là ADN (axit deoxinucleic) và ARN (axit ribonucleic). Trong quá trình tiến hoá của
  6. sinh vật từ thấp lên cao, hàm lượng ADN trong nhân tế bào cũng được tăng lên. Đó là một biểu hiện của sự đa dạng di truyền. Vật liệu di truyền của sinh vật chứa đựng nhiều thông tin về đặc điểm, tính chất của loài và các cá thể. Do vậy sự đa dạng về vật chất di truyền đã tạo nên sự đa dạng của thế giới sinh vật. Các cá thể trong một quần thể thường có kiểu gen khác nhau. Sự khác nhau giữa các cá thể (kiểu hình) là do tương tác giữa kiểu gen và môi trường tạo ra. Đa dạng di truyền cho phép các loài thích ứng được với sự thay đổi của môi trường. Thực tế cho thấy những loài quý hiếm thường phân bố hẹp và do đó thường đơn điệu về gen (lượng biến dị nhỏ) so với các loài phổ biến, phân bố rộng (lượng biến dị lớn). Do vậy loài quí hiếm thường rất nhạy cảm với sự biến đổi của môi trường và hậu quả là dễ bị tuyệt chủng. 1.1.2 Một số nhân tố ảnh hưởng đến đa dạng di truyền -Những nhân tố làm giảm đa dạng di truyền +Phiêu bạt gen Đây là quá trình thường xuất hiện trong các quần thể nhỏ, gây nên biến đổi về tần số gen. Quần thể nhỏ thường có số cá thể ít do đó khi giao phối ngẫu nhiên thì tần số gen sau giao phối đôi khi bị lệch vì các alen ở quần thể nhỏ có tần số khác với các quần thể lớn. Ví dụ một quần thể gồm 10 gen trong đó có 5A và 5B. Đối với quần thể lớn, sau giao phối ngẫu nhiên các thế hệ sau thường vẫn có tần số gen như ban đầu. Tuy nhiên với quần thể nhỏ chỉ cần một vài cá thể không tham gia vào quá trình giao phối hoặc khả năng sinh sản kém, hoặc là tỉ lệ sống kém là tần số gen có thể bị biến tiađổi hoàn toàn, lệch so với tần số gen ban đầu chẳng hạn thành 6A và 4B hoặc là 7A và 3B, thậm chí thành 9A và 1B (Nguyễn Hoàng Nghĩa, 1999). + Chọn lọc tự nhiên và nhân tạo Trong quá trình tiến hoá thì bằng con đường chọn lọc tự nhiên, từ một loài tổ tiên ban đầu đã sinh ra các loài khác nhau. Tuy nhiên quá trình chọn lọc tự nhiên lại làm giảm lượng biến dị bởi vì quá trình này liên quan đến sự đào thải các cá thể kém thích nghi và giữ lại các cá thể thích nghi nhất với môi trường sống. Khác với chọn lọc tự nhiên, chọn lọc nhân tạo là chọn lọc có định hướng do con người tiến hành nhằm đáp ứng các mục tiêu đề ra. Bởi vì con người chỉ chọn lọc một số cá thể và loài nhất định và lai tạo chúng để đáp ứng nhu cầu của mình cho nên sẽ làm giảm lượng biến dị di truyền. Thực tế là khi một số loài ít ỏi được gây trồng trên diện rộng sẽ dẫn đến hiện tượng xói mòn di truyền. Xói mòn di truyền sẽ làm giảm sự đa dạng của các nguồn gen bên trong mỗi loài và làm mất đi các biến dị di truyền cái mà các nhà chọn giống cần phải có để triển khai công tác cải thiện giống. Có thể nói rằng những giống cây trồng và vật nuôi được con người lai tạo và sử dụng đều có nền tảng di truyền hẹp hơn so với các loài hoang dã. - Những nhân tố làm tăng đa dạng di truyền + Đột biến gen Đột biến gen là những biến đổi xảy ra trong các gen. Các đột biến gen chính là nguồn tạo ra các gen mới và là cơ sở của biến dị di truyền. Đột biến có tác dụng làm tăng lượng biến dị, cũng có nghĩa là làm tăng tính đa dạng sinh học và đảm bảo cho sự ổn định của loài. + Sự di trú Sự xâm nhập (di trú) của các các thể lạ có thể làm thay đổi tần số gen trong quần thể tại chỗ. Mức độ thay đổi phụ thuộc vào mức độ của sự di trú và sự sai khác về tần số gen giữa các cá thể cũ và cá thể mới. 3 Tất cả các nhân tố như là chọn lọc, đột biến, phiêu bạt gen, sự di trú, cách li chính là
  7. các yếu tố chủ chốt tham gia vào quá trình tiến hoá của sinh giới, đôi khi còn được coi là động lực chính của quá trình tiến hoá. 1.2. Đa dạng loài 1.2.1. Khái niệm Đa dạng loài là phạm trù chỉ mức độ phong phú về số lượng loài hoặc số lượng các phân loài (loài phụ) trên trái đất, trong một vùng địa lý, một quốc gia hay trong một sinh cảnh nhất định. Loài là những nhóm cá thể khác biệt với các nhóm khác về mặt sinh học và sinh thái. Các cá thể trong loài có vật chất di truyền giống nhau và có khả năng trao đổi thông tin di truyền (giao phối, thụ phấn) với nhau và cho các thế hệ con cái có khả năng tiếp tục sinh sản. Như vậy các cá thể trong loài chứa toàn bộ thông tin di truyền của loài, do đó tính đa dạng loài hoàn toàn bao trùm tính đa dạng di truyền và nó được coi là quan trọng nhất khi đề cập đến tính đa dạng sinh học. Sự đa dạng về loài trên thế giới được thể hiện bằng tổng số loài có mặt trên toàn cầu. Tuy nhiên số lượng cá thể của loài cũng rất quan trọng khi đo đếm sự đa dạng loài. Theo dự đoán của các nhà phân loại học, có thể có từ 5 - 30 triệu loài sinh vật trên trái đất, trong đó chiếm phần lớn vi sinh vật là côn trùng. Thực tế hiện chỉ có khoảng trên 1,4 triệu loài sinh vật đã được mô tả (Wilson, 1998 trích trong Phạm Nhật, 1999), trong đó tập trung chủ yếu là các loài động thực vật cỡ lớn, có giá trị về nhiều mặt (Bảng 1). Do vậy còn rất nhiều loài chưa được biết đến, nhiều môi trường sống chưa được điều tra nghiên cứu kĩ như vùng biển sâu, vùng san hô hoặc đất vùng nhiệt đới. Bảng 1: Số loài sinh vật đã được mô tả trên thế giới (Wilson, 1988 có bổ sung) Nhóm Số loài đã mô tả Nhóm Số loài đã mô tả Virus 1.000 Động vật đơn 30.800 bào Thực vật đơn bào 4.760 Côn trùng 751.000 Nấm 70.000 ĐVKXS khác 238.761 Tảo 26.900 ĐVCXS bậc thấp 1.273 Địa y 18.000 Cá 19.056 Rêu 22.000 Ếch nhái 4.184 Dương xỉ 12.000 Bò sát 6.300 Hạt trần 750 Chim 9.040 Hạt kín 250.000 Thú 4.629 405.410 loài 1.065.043 loài Tổng số 1.470.453 loài Nguồn: Cao Thị Lý và Nhóm biên tập (2002) Trong nghiên cứu đa dạng sinh học việc mô tả quy mô của đa dạng loài cũng rất quan trọng. Do vậy các chỉ số toán học về đa dạng đã được phát triển để bao hàm đa dạng loài ở các phạm vi địa lí khác nhau( 3 mức độ). + Đa dạng alpha ( ): là tính đa dạng xuất hiện trong một sinh cảnh hay trong một quần xã. Ví dụ: sự đa dạng của các loài cây gỗ, các loài thú, chim . trong một kiểu rừng hoặc quần xã. + Đa dạng beta (): là tính đa dạng tồn tại giữa các sinh cảnh hay là giữa các quần xã 4 trong một hệ sinh thái. Vì vậy nếu sự khác nhau giữa các sinh cảnh càng lớn thì tính đa
  8. dạng beta càng cao. + Đa dạng gama (): là tính đa dạng tồn tại trong một quy mô địa lý rộng hơn. Ví dụ: sự đa dạng của các loài cây gỗ, các loài thú, chim trong những sinh cảnh khác nhau, cách xa nhau của cùng một vùng địa lý. Nghiên cứu quy mô đa dạng sinh học theo hệ thống trên có ý nghĩa quan trọng đối với việc xem xét quy mô khi thiết lập các ưu tiên trong công tác bảo tồn. Sự đa dạng về loài đã tạo cho các quần xã sinh vật khả năng phản ứng và thích nghi tốt hơn đối với những thay đổi của điều kiện ngoại cảnh. Chức năng sinh thái của một loài có ảnh hưởng trực tiếp đến cấu trúc của quần xã sinh vật và bao trùm hơn là lên cả hệ sinh thái. Ví dụ: Sự có mặt của một loài cây gỗ (sung, si, dẻ ) không chỉ tăng thêm tính đa dạng của quần xã sinh vật mà còn góp phần tăng tính ổn định của chính loài đó thông qua mối quan hệ khăng khít giữa chúng với các loài khác. Các loài sinh vật khác phụ thuộc vào loài cây này vì đó là nguồn thức ăn của chúng (Khỉ, Vượn, Sóc ) hoặc loài cây này có thể phát triển hay mở rộng vùng phân bố (thụ phấn, phát tán, hạt giống ) nhờ các loài khác. 1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến đa dạng loài * Sự hình thành loài mới Một loài có thể được hình thành thông qua quá trình tiến hoá. Trong quá trình hàng triệu năm tiến hoá, loài mới thường được hình thành qua 2 con đường đó là quá trình đa bội hoá và quá trình hình thành loài địa lí (N.H.Nghĩa, 1999). Một phần thực vật xuất hiện chủ yếu thông qua quá trình đa bội hoá: bội hoá số lượng thể nhiễm sắc trong loài ban đầu hoặc trong các cá thể lai của 2 loài (Nguyễn Hoàng Nghĩa, 1999). Trong thực tế đa bội hoá chỉ có ý đối với một số nhóm động vật nhưng nó lại có nghĩa rất to lớn đối với thực vật và là một yếu tố tiến hoá quan trọng. Hiện tượng đa bội hoá cho phép một loài thực vật xâm lấn có thể lai hữu thụ với một loài bản địa và có thể sinh ra một loài mới. Sự nhân đôi của thể nhiễm sắc đã biến loài mới sinh ra hoàn toàn bất thụ với loài ban đầu và loài mới được hình thành. Gần đây người ta bắt đầu nói đến một quá trình hình thành loài mới đó là loài mới được hình thành ngay trong cùng một vùng phân bố với loài ban đầu như hiện tượng đa bội hoá nhưng không có nguồn gốc đa bội hoá. Quá trình này ngược với quá trình hình thành loài địa lí khi mà loài mới được hình thành từ một địa điểm khác với loài ban đầu. Quá trình này thường được mô tả nhiều nhất cho các nòi côn trùng sống trên các cây chủ khác nhau (Wilson 1988 trích trong Nguyễn Hoàng Nghĩa, 1999). Tính đặc hữu về cây chủ là một hiện tượng phổ biến ở thế giới côn trùng. Lý thuyết tiến hoá hiện đại cho thấy hầu hết sinh vật hình thành loài mới thông qua cách li địa lý, cách li sinh sản và quá trình này được gọi là hình thành loài địa lí. Ví dụ: Hạt giống của một loài cây từ đất liền được phát tán ra đảo thông qua gió, bão hoặc các loài chim, quần thể loài cây đó được tạo thành trên đảo sau nhiều năm, nhiều thế hệ sẽ khác với quần thể ở đất liền. Trong những điều kiện hoàn toàn mới loài sẽ phải thay đổi để thích nghi và đó là cơ sở để tạo nên các loài mới. * Sự mất loài (tuyệt chủng) Nếu như quá trình hình thành loài mới làm tăng tính đa dạng loài thì sự tuyệt chủng sẽ làm giảm tính đa dạng sinh học. Sự mất loài (tuyệt chủng) sẽ được nghiên cứu kĩ trong phần "suy thoái đa dạng sinh học". 1.3. Đa dạng hệ sinh thái 5 1.3.1. Khái niệm
  9. Hệ sinh thái là một đơn vị cấu trúc và chức năng của sinh quyển bao gồm các quần xã sinh vật, đất đai và các yếu tố khí hậu. Quần xã sinh vật được xác định bởi các loài sinh vật trong một sinh cảnh nhất định vào một thời điểm nhất định cùng với mối quan hệ qua lại giữa các cá thể trong loài và giữa các loài với nhau. Quần xã sinh vật có quan hệ với môi trường vật lý tạo thành hệ sinh thái. Các loài trong hệ sinh thái tạo thành một chuỗi thức ăn liên kết với nhau một cách chặt chẽ và tạo thành một qui luật nhất định góp phần duy trì sự cân bằng sinh thái. Sự phong phú của môi trường trên cạn và dưới nước trên trái đất tạo lên một số lượng lớn các hệ sinh thái khác nhau. Sự đa dạng của các hệ sinh thái được thể hiện qua sự đa dạng về sinh cảnh, cũng như mối quan hệ giữa các quần xã sinh vật và các quá trình sinh thái trong sinh quyển. Việc xác định hệ sinh thái hay sinh cảnh trên thực tế là rất khó khăn vì ranh giới của chúng không rõ ràng. Những sinh cảnh rộng lớn trên quả đất bao gồm rừng nhiệt đới, những cánh đồng cỏ, đất ngập nước, rừng ngập mặn Những hệ sinh thái có thể là một hồ nước, rừng cây hay đồng ruộng. Trên thế giới bao gồm nhiều chỉnh thể sinh vật. Sự phân chia đó tuỳ thuộc vào điều kiện khí hậu và các sinh vật sống trên đó. Một chỉnh thể bao gồm nhiều hệ sinh thái khác nhau. Các chỉnh thể sinh vật trên thế giới bao gồm có: 1. Rừng mưa nhiệt đới 8. Đầm rêu (Tundra) và sa mạc 2. Rừng mưa á nhiệt đới - ôn đới 9. Sa mạc, bán sa mạc lạnh 3. Rừng lá kim ôn đới 10. Trảng cỏ và đồng cỏ nhiệt đới 4. Rừng khô nhiệt đới 11. Đồng cỏ ôn đới 5. Rừng lá rộng rộng ôn đới 12. Thảm thực vật vùng núi 6. Thảm thực vật Địa Trung Hải 13. Thảm thực vật vùng đảo 7. Sa mạc và bán sa mạc 14. Thảm thực vật vùng hồ 1.3.2. Những nhân tố ảnh hưởng Môi trường vật lý có ảnh hưởng đến cấu trúc và tính chất của quần xã sinh vật, ngược lại quần xã sinh vật cũng có những ảnh hưởng tới tính chất vật lý của hệ sinh thái. Ví dụ ở các hệ sinh thái trên cạn, tốc độ gió, độ ẩm, nhiệt độ ở một địa điểm nhất định có thể bị chi phối bởi thảm thực vật, hệ động vật có mặt ở đó. Trong hệ sinh thái thuỷ vực, những đặc điểm của nước như độ trong, độ đục, độ muối và các loại hoá chất khác, độ nông sâu đã chi phối đến các loài sinh vật và cấu trúc quần xã sinh vật. Nhưng ngược lại các quần xã sinh vật như quần xã tảo, dải san hô có ảnh hưởng đến môi trường vật lý. Trong những quần xã sinh vật, một số loài có vai trò quyết định đến khả năng tồn tại, phát triển của một số lớn các loài khác, người ta gọi đó là những loài ưu thế. Những loài ưu thế này có ảnh hưởng đến cấu trúc quần xã sinh vật nhiều hơn so với tổng số cá thể của các loài hay sinh khối của chúng. Do vậy những loài ưu thế nên được ưu tiên trong công tác bảo tồn. 2. Một số vùng giàu về đa dạng sinh học trên thế giới Nhiều bằng chứng cho thấy rằng nơi được coi là giàu tính đa dạng sinh học nhất là vùng nhiệt đới và tập trung chủ yếu ở các rừng mưa nhiệt đới. Ngoài ra các đảo san hô nhiệt đới và biển sâu cũng tìm thấy sự đa dạng phong phú của một số lớp nghành. Ví dụ rừng nhiệt đới tuy chỉ chiếm 7%6 diện tích bề mặt trái đất, nhưng chúng chứa ít nhất là 50%, thậm chí có thể đến 90% tổng số loài
  10. động, thực vật của trái đất (McNeely et al, 1990 trong Phạm Nhật, 1999). Nguyên nhân tại sao vùng nhiệt đới lại có tính đa dạng cao hơn những vùng khác vẫn còn đang tranh cãi nhưng một số thuyết thống nhất lí giải như sau: + Trong suốt thời gian biến đổi địa chất thì vùng nhiệt đới có khí hậu tương đối ổn định hơn so với vùng ôn đới do vậy nhiều loài có thể đảm bảo được cuộc sống tại chỗ trong khi các loài ở vùng ôn đới thường phải di cư để tránh rét. + Các quần xã sinh vật ở vùng nhiệt đới được hình thành từ lâu đời hơn so với vùng ôn đới. Chính vì vậy các loài ở vùng nhiệt đới có thời gian tiến hoá lâu đời hơn và do vậy có khả năng thích nghi cao hơn với môi trường sống. + Nhiệt độ và độ ẩm cao ở vùng nhiệt đới tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều loài mà chúng không thể tồn tại ở vùng ôn đới di chuyển đến và định cư tại vùng nhiệt đới. + Tỷ lệ giao phấn của thực vật vùng nhiệt đới cao hơn vùng ôn đới do sự hỗ trợ của khí hậu cũng như côn trùng. + Vùng nhiệt đới tiếp nhận nhiều năng lượng mặt trời trong năm hơn do đó các quần xã sinh vật vùng nhiệt đới cũng có sức sản xuất sinh khối cao hơn. Chính điều này đã giúp ích cho sự phân bố của các loài, đó là cung cấp các yêu cầu cần thiết cho sự phân bố của các loài. Về thực vật đến nay đã thống kê được khoảng 90.000 loài có mặt ở vùng nhiệt đới. Vùng nhiệt đới Nam Mỹ là nơi giàu loài nhất chiếm 1/3 tổng số loài. Braxin có 50.000 loài cây có hoa; Colombia có 35.000 loài; Venezuela có 15-25.000 loài. Vùng châu Phi kém đa dạng hơn Nam mỹ; Tanzania 10.000 loài, Camơrun 8000 loài. Trong khi đó toàn bộ vùng Bắc Mỹ, Âu, Á chỉ có 50.000 loài. Vùng Đông Nam Á có tính đa dạng khá cao, theo Van Steenis, 1971 và Yap, 1994 có tới 25 000 loài chiếm 10% số loài thực vật có hoa trên thế giới, trong đó có 40% là loài đặc hữu, Inđônesia có 20. 000 loài, Malaysia và Thái Lan có 12.000 loài, Đông Dương có 15.000 loài (Phạm Nhật, 1999). Tuy nhiên các nhà khoa học mới chỉ ước lượng số lượng tương đối các loài sinh vật trong các hệ sinh thái và có khoảng 80% số loài ở cạn. Con số này hoàn toàn chưa chính xác, có thể ở đại dương và các vùng bờ biển có mức đa dạng cao hơn. Bảng 2: Đa dạng loài thú ở một số nước thuộc các vùng địa lí khác nhau Nước nhiệt số loài Nước ôn đới số loài đới Mexico 439 Ac-hen-tina 255 Kenya 308 Ôxtralia 299 Zaire 409 Canada 163 Nigeria 274 Pháp 113 Thái Lan 263 Nhật Bản 186 Malaixia 292 Anh 77 Việt Nam 224 Mỹ 367 Nguồn: Phạm Nhật (1999, 2001) 7
  11. Bài 2: Giá trị của đa dạng sinh học Mục tiêu: Kết thúc bài này, sinh viên có khả năng: - Giải thích được tầm quan trọng của việc định giá giá trị của đa dạng sinh học - Trình bày được các loại giá trị và tầm quan trọng của đa dạng sinh học 1. Định giá giá trị của đa dạng sinh học Các nguồn tài nguyên thiên nhiên như đất, nước, các loài động thực vật, vi sinh vật quý hiếm, được coi là những nguồn tài nguyên chung, thuộc quyền sở hữu của toàn xã hội. Những nguồn tài nguyên này thường không quy đổi thành tiền được. Con người với các hoạt động kinh tế của mình, khi sử dụng đã vô tình hoặc cố ý huỷ hoại những nguồn tài nguyên này. Ở nhiều quốc gia sự suy giảm tài nguyên thiên nhiên và sự xuống cấp của môi trường được xác định chủ yếu do nguyên nhân kinh tế, nên các giải pháp ngăn chặn phải được dựa trên các nguyên tắc kinh tế. Việc định giá giá trị của tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học là một việc rất khó nhưng cần thiết. Việc định giá giá trị của đa dạng sinh học phải dựa trên sự kết hợp các môn khoa học về kinh tế, phân tích kinh tế, khoa học môi trường và chính sách cộng đồng. Các nhà khoa học gọi môn học này là kinh tế môi trường. Hiện nay để có thể ước lượng được sự mất mát tổng số về tài nguyên, người ta căn cứ vào việc tính toán tổng thu nhập quốc dân cùng một số chỉ số định giá chất lượng cuộc sống con người. Để diễn tả và xác định được giá trị của đa dạng sinh học, người ta thường phải sử dụng hàng loạt tiêu chí kinh tế cũng như về giá trị đạo đức khác nhau. Mặt khác cũng cần phải thấy rằng các loài sinh vật đều có một chức năng nhất định trên trái đất, do đó đa dạng sinh học có những giá trị không thay thế được. Do vậy khó có thể có thể xác định được hết giá trị của đa dạng sinh học. Trong thực tế có nhiều cách phân chia giá trị của đa dạng sinh học khác nhau. Tuy nhiên có một phương pháp khá phổ biến do McNeely và đồng nghiệp đề xuất. Khi đề cập đến giá trị của đa dạng sinh học, McNeely và đồng nghiệp (1990 trong Phạm Nhật, 2001) đã chia thành 2 loại giá trị đó là giá trị trực tiếp và giá trị gián tiếp. 2. Giá trị của đa dạng sinh học 2.1. Giá trị trực tiếp Giá trị trực tiếp là những giá trị thu được từ các sản phẩm sinh vật được con người trực tiếp khai thác và sử dụng. Các giá trị này thường được tính toán dựa trên số liệu điều tra ở những điểm khai thác và đối chiếu với số liệu thống kê việc xuất nhập khẩu của cả nước. Giá trị trực tiếp được chia thành giá trị sử dụng cho tiêu thụ và giá trị sử dụng cho sản xuất. 2.1.1. Giá trị sử dụng cho tiêu thụ Giá trị sử dụng cho tiêu thụ được đánh giá bao gồm các sản phẩm tiêu dùng cho cuộc sống hàng ngày như: củi đốt và các loại sản phẩm khác cho tiêu dùng cho gia đình. Các sản phẩm này không xuất hiện trên thị trường nên hầu như chúng không đóng góp gì vào tổng thu nhập quốc dân, nhưng nếu không có những nguồn tài nguyên này thì cuộc sống con người sẽ gặp những khó khăn nhất định. Sự tồn tại của con người không thể tách rời các loài sinh vật. Thế giới sinh vật mang lại cho con người nhiều sản phẩm mà con người đã, đang và sẽ sử dụng như: thức ăn, gỗ, củi, nguyên liệu, dược liệu Một trong những nhu cầu cần thiết của con người đối với tài nguyên sinh vật là nguồn đạm động vật. Ngoài nguồn từ vật nuôi, ở nhiều vùng miền núi hàng năm còn thu được một lượng lớn thịt động vật rừng. Ở nhiều vùng châu Phi thịt động vật hoang dã chiếm một 8 tỷ lệ lớn trong bữa ăn hàng ngày. Ví dụ ở Botswanna khoảng 40%, Nigeria 20%, Zaire
  12. 75% (Myers 1988b trong Phạm Nhật, 1999). Ở Botswana khoảng 3 triệu tấn thịt thỏ được khai thác hàng năm. Cá cũng là nguồn đạm quan trọng, hàng năm trên thế giới tiêu thụ khoảng 100 triệu tấn cá (FAO 1988 ). Phần lớn số cá đánh bắt này được sử dụng ngay tại địa phương. Ở Việt Nam theo thống kê ban đầu có khoảng 73 loài thú, 130 loài chim và hơn 50 loài bò sát có giá trị kinh tế. Cá biển cũng là nguồn thực phẩm quan trọng, hàng năm nước ta khai thác khoảng 1,2 - 1,3 triệu tấn cá (Phạm Thược 1993 trong Phạm Nhật, 1999). Ngoài ra con người còn sử dụng hàng ngàn loài cây làm thức ăn, thức ăn gia súc, lấy gỗ, chiết xuất tinh dầu, Giá trị sử dụng cho tiêu thụ của từng sản phẩm có thể xác định bằng cách khảo sát xem phải cần bao nhiêu tiền để mua một sản phẩm tương tự trên thị trường khi cộng đồng không còn khai thác tài nguyên thiên nhiên. 2.1.2. Giá trị sử dụng cho sản xuất Giá trị sử dụng cho sản xuất là giá trị thu được thông qua việc bán các sản phẩm thu hái, khai thác được từ thiên nhiên trên thị trường như củi, gỗ, song mây, cây dược liệu, hoa quả, thịt và da động vật hoang dã. Giá trị sản xuất của các nguồn tài nguyên thiên nhiên là rất lớn ngày cả ở những nước công nghiệp. Tại Mỹ hàng năm có khoảng 4,5% tổng giá trị thu nhập quốc dân tương đương 87 tỷ đô la thu được bằng cách này hay cách khác từ các loài hoang dã (Allen, 1986 trong Phạm Nhật, 1999). Ở các nước đang phát triển, đặc biệt là vùng nông thôn miền núi thì giá trị này còn cao hơn nhiều. Giá trị sản xuất lớn nhất cuả nhiều loài là khả năng cung cấp nguồn nguyên vật liệu cho công nghiệp, nông nghiệp và là cơ sở để cải thiện giống cây trồng, vật nuôi phục vụ sản xuất nông lâm nghiệp. Đặc biệt quan trọng là nguồn gen lấy từ các loài hoang dã có khả năng kháng bệnh cao và chống chịu được điều kiện ngoại cảnh bất lợi tốt hơn. Các loài hoang dã còn là nguồn cung cấp dược liệu quan trọng. Rất nhiều dược phẩm được điều chế từ cây, cỏ, nấm và các loài vi sinh vật. Ở Việt Nam qua điều tra sơ bộ có khoảng 3.200 loài cây và 64 loài động vật đã được con người sử dụng làm dược liệu và thuốc chữa bệnh(Võ Văn Chi, 1997). 2.2. Giá trị gián tiếp Giá trị gián tiếp là những lợi ích do đa dạng sinh học mang lại cho cả cộng đồng. Như vậy giá trị gián tiếp của đa dạng sinh học bao gồm cả chất lượng nước, bảo vệ đất, dịch vụ nghỉ mát, thẩm mỹ, phục vụ giáo dục, nghiên cứu khoa học, điều hoà khí hậu và tích luỹ cho xã hội tương lai. Giá trị gián tiếp cũng bao gồm các quá trình xảy ra trong môi trường và các chức năng bảo vệ của hệ sinh thái. Đó là những lợi ích không đo đếm được và nhiều khi là vô giá. Vì những lợi ích này không phải là hàng hoá nên thường không được tính đến trong quá trình tính GDP của quốc gia. Tuy nhiên chúng lại đóng vai trò rất quan trọng trong việc duy trì những sản phẩm tự nhiên mà nền kinh tế quốc gia phụ thuộc. Giá trị gián tiếp của đa dạng sinh học có thể kể đến bao gồm: Giá trị sinh thái Các hệ sinh thái là cơ sở sinh tồn của sự sống trên trái đất trong đó có loài người. Hệ sinh thái rừng nhiệt đới được xem như là lá phổi xanh của trái đất. Đa dạng sinh học là nhân tố quan trọng để duy trì các quá trình sinh thái cơ bản như: quang hợp của thực vật, mối quan hệ giữa các loài, bảo vệ nguồn nước, điều hoá khí hậu, bảo vệ và làm tăng độ phì đất, hạn chế sự xói mòn của đất và bờ biển tạo môi trường sống ổn định và bền vững cho con người. Con người không9 thể sống được nếu thiếu không khí, chính hệ thực vật đã và đang cung cấp miễn phí lượng ôxi
  13. khổng lồ cho cuộc sống của hàng tỷ người trên trái đất. Đa dạng sinh học còn góp phần tạo ra các dịch vụ nghỉ ngơi và du lịch sinh thái. Hiện nay du lịch sinh thái được xem xét như là một trong những biện pháp hiệu quả đối với việc bảo vệ đa dạng sinh học, nhất là khi chúng được tổ chức, phối hợp chặt chẽ với chương trình quản lý và bảo tồn tổng hợp. Tuy vậy cần chú ý đến việc tổ chức cho du khách quan sát những vấn đề cần thiết liên quan đến bảo vệ môi trường, tài nguyên; tránh những hành động tiêu cực hay việc xây dựng những cơ sở hạ tầng quá khang trang, hiện đại có thể sẽ trở thành mối đe doạ đối với đa dạng sinh học. Giá trị khoa học và giáo dục: Nhiều sách giáo khoa được biên soạn, nhiều chương trình vô tuyến và phim ảnh được xây dựng về chủ đề bảo tồn thiên nhiên với mục đích giáo dục và giải trí. Một số lượng lớn các nhà khoa học chuyên ngành, các nhà sinh thái học và những người yêu thích thiên nhiên đã tham gia tìm hiểu và nghiên cứu thiên nhiên mà không phải tiêu tốn nhiều tiền và không đòi hỏi nhiều loại dịch vụ cao cấp. Những hoạt động khoa học này cũng mang lại lợi nhuận kinh tế cho những khu vực nơi họ tiến hành quan sát nghiên cứu. Ngoài lợi ích về kinh tế còn là khả năng nâng cao kiến thức, tăng cường tính giáo dục và tăng vốn sống cho con người giúp cho con người hiểu rõ hơn về giá trị của đa dạng sinh học. Giá trị văn hoá và đạo đức: Ngoài những giá trị về kinh tế và sinh thái, đa dạng sinh học còn có nhiều giá trị về văn hoá và đạo đức mà nó dựa trên các nền tảng về kinh tế. Hệ thống giá trị của hầu hết các tôn giáo, triết học và văn hoá cung cấp những nguyên tắc và đạo lý cho việc bảo tồn loài. Những nguyên tắc, triết lý này được con người hiểu và quán triệt một cách dễ dàng, giúp cho con người biết bảo vệ cả những loài không mang lai giá trị kinh tế lớn. Một trong những quan niệm về đa dạng sinh học mang tính đạo đức là các loài sinh vật sinh ra đều có quyền đựơc tồn tại. Quan niệm này dựa trên giá trị nội tại của các loài mà không liên quan đến sự cần thiết của con người hay giá trị sử dụng của loài. Do vậy con người hoàn toàn không có quyền tiêu diệt các loài mà ngược lại phải tôn trọng sự tồn tại của các loài và phải nỗ lực hành động nhằm hạn chế sự tuyệt chủng của loài. Sự tôn trọng cuôc sống con người và đa dạng văn hoá phải được đặt ngang với sự tôn trọng đa dạng sinh học. Con người phải chịu trách nhiệm quản lý trái đất, nếu như chúng ta làm tổn hại nguồn tài nguyên thiên nhiên trên trái đất và làm cho nhiều loài bị đe doạ tuyệt chủng, thì những thế hệ tiếp sau sẽ phải trả giá bởi sự mất mát này. Sự đa dạng của các loài sinh vật trên thế giới có thể được ví như là cẩm nang để giữ cho trái đất của chúng ta vận hành một cách hữu hiệu. Sự mất mát của các loài có thể ví như sự mất đi những trang sách của cuốn cẩm nang đó. Nếu như một lúc nào đó, chúng ta cần đến những thông tin của cuốn cẩm nang này để bảo vệ chúng ta và những loài khác trên thế giới thì chúng ta không tìm đâu được nữa. 10
  14. Bài 3: Suy thoái đa dạng sinh học Mục tiêu: Kết thúc bài này, sinh viên có khả năng: Trình bày được khái niệm và quá trình suy thoái đa dạng sinh học Giải thích được các nguyên nhân chính gây suy thoái đa dạng sinh học Trình bày được thang bậc phân hạng mức đe doạ đa dạng sinh học 1. Khái niệm về suy thoái đa dạng sinh học 1.1. Khái niệm Suy thoái đa dạng sinh học có thể hiểu là sự suy giảm tính đa dạng, bao gồm sự suy giảm loài, nguồn gen và hệ sinh thái, từ đó làm suy giảm giá trị, chức năng của đa dạng sinh học. Sự suy thoái đa dạng sinh học được thể hiện ở các mặt: - Hệ sinh thái bị biến đổi - Mất loài - Mất (giảm) đa dạng di truyền Mất loài, sự xói mòn di truyền, sự du nhập xâm lấn của các loài sinh vật ngoại lai, sự suy thoái các hệ sinh thái tự nhiên, nhất là rừng nhiệt đới đang diễn ra một cách nhanh chóng chưa từng có mà nguyên nhân chủ yếu là do tác động của con người. Một quần xã sinh vật, hệ sinh thái có thể bị suy thoái trong một vùng, song nếu tất cả các loài nguyên bản vẫn còn sống sót thì quần xã và hệ sinh thái đó vẫn còn tiềm năng phục hồi. Tương tự đa dạng di truyền sẽ giảm khi kích thước quần thể bị giảm nhưng loài đó vẫn có khả năng tái tạo lại sự đa dạng di truyền nhờ đột biến và tái tổ hợp. Tuy nhiên, khi một loài bị tuyệt chủng thì những thông tin di truyền chứa trong bộ máy di truyền của loài đó sẽ mất đi, loài đó khó có khả năng để phục hồi và con người sẽ còn ít cơ hội để nhận biết tiềm năng của loài đó. 1.2. Quá trình suy thoái đa dạng sinh học Cùng với những biến cố về lịch sử, về kinh tế xã hội, đa dạng sinh học trên toàn cầu đã và đang bị suy thoái nghiêm trọng. Một trong những dấu hiệu quan trọng nhất của sự suy thoái đa dạng sinh học là sự tuyệt chủng loài do môi trường sống bị thay đổi. Khái niệm tuyệt chủng có nhiều nghĩa khác nhau. Một loài bị coi là tuyệt chủng khi không còn một cá thể nào của loài đó còn sống sót ở bất kỳ đâu trên thế giới. Ví dụ: loài chim Vermivora bachmaii, cá thể cuối cùng của loài này được nhìn thấy trong những năm của thập kỷ 60. Loài mà chỉ còn một số cá thể còn sót lại nhờ sự chăm sóc, nuôi trồng của con người thì được coi là đã bị tuyệt chủng trong hoang dã, ví dụ loài Hươu sao (Cervus nippon) ở Việt Nam. Một loài được coi là tuyệt chủng cục bộ nếu như nó không sống sót tại những nơi chúng đã từng sống, nhưng người ta vẫn tìm thấy chúng tại những nơi khác trong thiên nhiên. Một số nhà sinh thái học sử dụng cụm từ “loài bị tuyệt chủng về phương diện sinh thái học”, có nghĩa là số lượng cá thể của loài còn lại ít đến mức ảnh hưởng của nó không còn ý nghĩa đến những loài khác trong quần xã. Ví dụ: loài Hổ (Panthera tigris) hiện nay bị tuyệt chủng về phương diện sinh thái học, điều này có nghĩa là số lượng hổ hiện nay còn trong thiên nhiên rất ít và tác động của chúng đến quần thể động vật mồi là không đáng kể. Ngoài ra trong nghiên cứu đa dạng sinh học còn có một hiện tượng khác, đó là “cái chết đang sống”. Khi quần thể của loài có số lượng cá thể dưới mức báo động, nhiều khả năng loài sẽ bị tuyệt chủng. Đối với một số quần thể trong tự nhiên, một vài cá thể vẫn còn có thể sống sót dai dẳng vài năm, vài chục năm; chúng có thể vẫn sinh sản nhưng số phận cuối cùng của chúng11 vẫn là sự tuyệt chủng (nếu như không có sự can thiệp của công nghệ sinh học). Cây lấy gỗ là
  15. một ví dụ điển hình, một cây sống tách biệt, không sinh sản có thể sống đến hàng trăm năm. Những loài này được coi là hiện thân của “cái chết đang sống” mặc dù về phương diện chuyên môn nó chưa bị tuyệt chủng nếu như một vài cá thể của loài vẫn sống, nhưng lúc này quần thể không thể tồn tại và sinh sản một cách khoẻ mạnh, sung sức nữa. Dù muốn hay không tương lai của loài cũng chỉ giới hạn trong vòng đời của những cá thể còn sống sót đó. Sự sống xuất hiện cách đây 3 -4 tỷ năm và tính phức tạp của sự sống bắt đầu tăng dần từ đầu kỷ Cambrian (cách ngày nay khoảng 600 triệu năm). Cùng với sự tăng tính đa dạng sinh học là sự tuyệt chủng bắt đầu xuất hiện. Trong giai đoạn từ kỷ Cambrian đến nay, các nhà cổ sinh học cho rằng có ít nhất 5 lần bị tuyệt chủng hàng loạt: - Tuyệt chủng lần thứ nhất diễn ra vào cuối kỷ Ordovican (cách đây khoảng 450 triệu năm), khoảng 12% các họ động vật biển và 60% số loài động thực vật bị tuyệt chủng. - Tuyệt chủng lần thứ hai diễn ra vào cuối kỳ Devon (cách đây khoảng 365 triệu năm) và kéo dài khoảng 7 triệu năm đã gây nên sự biến mất của 60% tổng số loài còn lại sau lần tuyệt chủng lần thứ nhất. - Tuyệt chủng lần thứ ba là nghiêm trọng nhất kéo dài khoảng 1 triệu năm diễn ra vào kỷ Permian (cách đây khoảng 242 triệu năm) đã xoá sổ 54% số họ và khoảng 77 - 96% số loài động vật biển, 2/3 số loài bò sát, ếch nhái và 30% số bộ côn trùng. - Tuyệt chủng lần thứ tư xảy ra vào cuối kỷ Triassic (cách đây khoảng 210 triệu năm) với khoảng 20% số loài sinh vật trên trái đất bị tiêu diệt. Hai đợt tuyệt chủng thứ ba và thứ tư quá gần nhau vì vậy quá trình phục hồi lại hoàn toàn phải mất khoảng 100 triệu năm (Wilson, 1992 trong N.H.Nghĩa, 1999). - Tuyệt chủng lần thứ năm diễn ra vào cuối kỷ Cretacis và đầu kỷ Tertiary (cách đây khoảng 65 triệu năm). Đây được coi là lần tuyệt chủng nổi tiếng nhất. Ngoài các loài thằn lằn khổng lồ, hơn một nửa loài bò sát và một nửa loài sống ở biển đã bị tuyệt chủng. Theo Wilson (1992 trong N.H.Nghĩa, 1999) thì ngoài nguyên nhân do thiên thạch ở lần tuyệt chủng thứ năm và một phần do núi lửa phun trào ở lần thứ ba, sự tuyệt chủng còn lại là do hiện tượng băng hà toàn cầu. 1.3. Mức độ suy thoái đa dạng sinh học Theo cách tính của các nhà khoa học thì tốc độ tuyệt chủng trung bình trong quá khứ vào khoảng 9% trên một triệu năm (Raup, 1978), tức là khoảng 0,000009% trong một năm. Như vậy cứ 5 năm mất khoảng một loài trong 2 triệu loài có trong quá khứ. Điều này có thể thấp hơn so với thực tế vì các nhà khoa học đã không tính được sự mất đi của các loài đặc hữu. Nếu vậy tốc độ tuyệt chủng cao nhất có thể là 2 loài mỗi năm (N.H.Nghĩa, 1999). Mặc dù số lượng loài đã bị tuyệt chủng chỉ là những con số ước lượng vì chúng ta chưa thống kê được chắc chắn có bao nhiêu loài, song trên cơ sở nghiên cứu các nhà khoa học cho rằng có khoảng 85 loài thú và 113 loài chim đã bị tuyệt chủng từ những năm 1600, tương ứng 2,1% các loài thú và 1,3% các loài chim. Chim và thú là những loài được nghiên cứu kĩ và do đó được biết đến nhiều nhất. Tốc độ tuyệt chủng đặc biệt tăng nhanh từ khi xuất hiện xã hội loài người, nếu tốc độ tuyệt chủng tự nhiên trong quá khứ là 1 loài/năm thì tốc độ tuyệt chủng hiện nay là 1 loài/giờ, trong đó nguyên nhân chính là do tác động của con người (Bryant, 2004). Tốc độ tuyệt chủng tăng nhanh cho thấy những mối đe doạ với đa dạng sinh học đã trở nên nghiêm trọng. Tốc độ tuyệt chủng đặc biệt lớn ở các đảo vì đảo không những là nơi tập trung các loài đặc hữu mà nó còn bị khống chế về mặt không gian. Hầu hết sự tuyệt chủng của các loài thú, chim, bò sát và ếch nhái được biết đến trong vòng 350 năm trở lại đây hầu hết là sống trên đảo và hơn 80% các loài thực vật đặc hữu trên các đảo hiện nay đều đang bị đe đoạ tuyệt chủng. Từ các nghiên cứ12u về những quần xã sống trên đảo, MacArthur và Wilson (1963 trong N.H.Nghĩa, 1999) đã đưa
  16. một quy luật chung về phân bố đa dạng sinh học và nó được gọi là Mô hình địa lý sinh học đảo. Mô hình này cho thấy rằng mối quan hệ giữa số loài với diện tích và thường tuân theo quy luật. Những đảo có diện tích rộng sẽ có nhiều loài hơn đảo có diện tích hẹp. Các đảo lớn cũng cho phép các loài cách biệt về địa lý tồn tại với quần thể có kích thước lớn hơn và do đó làm giảm xác suất tuyệt chủng của các loài. Mô hình địa lý sinh học đảo cũng được sử dụng để dự tính, dự báo số lượng và tỷ lệ loài có thể bị tuyệt chủng một khi nơi cư trú của chúng bị huỷ hoại (Simberloff, 1986 trong Phạm Nhật, 1999). Diện tích nơi cư trú bị thu hẹp làm giảm khả năng cung cấp của nơi sống. Mô hình này cũng được mở rộng sự áp dụng đối với các khu bảo tồn, nơi được bao bọc bởi các hệ sinh thái bị tổn thương và nơi cư trú bị huỷ hoại. Các khu này cũng được coi như những hòn đảo trên biển và đang bị khai thác làm cho nơi cư trú của các loài bị thu hẹp. Mô hình này cho rằng nếu 50% diện tích của đảo (và các khu bảo tồn) bị huỷ hoại thì khoảng 10% số loài trên đảo sẽ bị tuyệt chủng. Nếu 90% nơi cư trú bị phá hoại thì 50% số loài bị mất và khi 99% nơi cư trú bị mất thì 75% số loài sẽ bị mất. Rừng nhiệt đới là nơi sinh sống của phần lớn các loài sinh vật trên thế giới cho nên nếu rừng nhiệt đới tiếp tục bị suy thoái và nạn phá rừng còn tiếp tục cho đến khi chỉ còn lại các Khu bảo tồn thì khoảng 2/3 số loài thực vật và chim sẽ bị tuyệt chủng (Simberloff, 1986 trong Phạm Nhật, 1999). Nhiều nhà khoa học dự đoán rằng sẽ mất 5 - 10% số loài vào những năm 1990 - 2020, bình quân mỗi ngày mất đi 40 - 140 loài. Có thể sẽ bị mất khoảng 25% số loài vào năm 2050. 2. Nguyên nhân gây suy thoái đa dạng sinh học Sự suy thoái đa dạng sinh học là do 2 nhóm nguyên nhân chính đó là hiểm hoạ tự nhiên và tác động của con người. Các hiểm hoạ tự nhiên đã gây ra những tổn hại nặng nề cho đa dạng sinh học trong những kỷ nguyên cách đây hơn 60 triệu năm, còn ảnh hưởng của các hoạt động do con người gây nên đặc biệt nghiêm trọng từ giữa thế kỷ XIX đến nay. Những ảnh hưởng do tác động của con người gây ra chủ yếu làm thay đổi, suy thoái và huỷ hoại môi trường sống. Điều đó đẩy loài và các quần xã vào tình trạng bị tuyệt chủng hoặc có nguy cơ bị tuyệt chủng. Việc khai thác quá mức các loài phục vụ cho nhu cầu của con người, việc du nhập các loài và gia tăng bệnh dịch cũng là những nguyên nhân quan trọng làm suy thoái đa dạng sinh học. Các mối đe doạ trên một phần có liên quan mật thiết đến sự gia tăng dân số của toàn thế giới. Việc phá huỷ các quần xã sinh học xảy ra nhiều nhất trong vòng 150 năm trở lại đây và liên quan đến dân số thế giới: 1 tỷ người năm 1850, 2 tỷ người năm 1930 và 5,9 tỷ người vào năm 1995, hiện nay đã có trên 6 tỷ người. Tốc độ tăng dân số thấp ở các nước công nghiệp phát triển nhưng còn cao ở các nước kém phát triển ở châu Á, châu phi và Mỹ Latinh mà đây lại là những nơi giàu tính đa dạng sinh học (WRI/UNEP/UNDP, 1994 trong Phạm Nhật, 1999)). Tuyệt chủng - EX Đủ dẫn Tuyệt chủng ngoài liệu thiên nhiên – EW Rất nguy cấp - CR Bị đe doạ Nguy cấp - EN 13 Sẽ nguy cấp - VU Đánh giá Phụ thuộc bảo tồn - cd Ít nguy cấp - LR Sắp bị đe dọa - nt Ít lo ngại - Ic Thiếu dẫn liệu - DD Không đánh giá - NE
  17. Sơ đồ 1: Cấu trúc các cấp đe doạ (IUCN, 1994) - Thang bậc phân hạng mức đe doạ cụ thể: + Các bậc phân hạng chính: - Bị tuyệt chủng - EX (Extinct): Một đơn vị phân loại được coi là tuyệt chủng khi chắc chắn cá thể cuối cùng của đơn vị phân loại đó đã bị tiêu diệt. - Tuyệt chủng trong hoang dã - EW (Extinct in the wild): Một loài được coi là tuyệt chủng trong hoang dã khi biết được loài đó chỉ tồn tại trong điều kiện nuôi trồng nằm ngoài phạm vi phân bố lịch sử cuả loài đó. Loài được coi là tuyệt chủng trong hoang dã khi những nỗ lực điều tra tại những vùng sống của loài đã biết hoặc những sinh cảnh có hi vọng gặp được vào những thời điểm thích hợp (theo ngày, mùa, năm) khắp các vùng phân bố lịch sử của nó, mà vẫn không tìm ra một cá thể nào. Các cuộc điều tra vượt quá khung thời gian của một vòng đời hoặc tuổi thọ của chúng - Rất nguy cấp - CR (Critical Endangered): Một loài được coi là rất nguy cấp khi nó phải đối mặt với những mối đe doạ tuyệt chủng tự nhiên rất lớn trong một tương lai gần, theo định nghĩa từ mục A - E dưới đây: A. Quần thể đang bị suy giảm theo những hình thức sau: 1. Các ước lượng chỉ ra rằng quần đã bị hoặc có xu thế hoặc nghi có sự suy giảm 80% trong vòng 10 năm hoặc trong 3 thế hệ vừa qua, được xác định bởi: (a) Quan sát trực tiếp (b) Chỉ số của độ phong phú phù hợp với phân loại đó (c) Sự suy giảm trong vùng chiếm cứ (d) Mức độ khai thác hiện tại hoặc xu hướng khai thác (e) Hậu quả của du nhập loài mới, bệnh dịch, tạp lai, ô nhiễm, kí sinh 14 2. Sự suy giảm ít nhất 80%, có xu hướng hoặc nghi có thể sẽ xảy ra trong 10 năm tới hoặc
  18. trong 3 thế hệ dựa trên cơ sở xác địmh của bất kỳ điểm (b),(c),(d) hay (e) ở trên B. Phạm vi xuất hiện ước lượng nhỏ hơn 100km2 hay vùng chiếm cứ nhỏ hơn 10km2, và được chỉ ra bởi các ước lượng sau: 1. Bị phân cách nghiêm trọng hay được biết chỉ tồn tại trong một điểm duy nhất 2. Tiếp tục suy giảm qua quan sát hoặc có thể gặp phải trong các trường hợp sau: (a) Phạm vi xuất hiện (b) Diện tích chiếm cứ (c) Diện tích, phạm vi hay chất lượng sinh cảnh (d) Số lượng cá thể trưởng thành 3. Những thay đổi cực kỳ bất thường theo các điểm sau: (a) phạm vi xuất hiện (b) diện tích chiếm cứ (c) số địa điểm phân bố hay số lượng các quần thể phụ (d) số lượng cá thể trưởng thành C. Quần thể được ước lượng còn ít hơn 250 cá thể trưởng thành và: 1. Số lượng đó vẫn tiếp tục suy giảm ít nhất 25% trong 3 năm tới ở 1 thế hệ hoặc nhiều hơn. 2. Quần thể vẫn tiếp tục giảm qua quan sát hoặc có thể gặp phải về số lượng các cá thể trưởng thành và cấu trúc quần thể nằm trong các dạng: (a) bị chia cắt nghiêm trọng (b) tất cả các cá thể đều nằm trong một quần thể phụ duy nhất D. Quần thể có số lượng dưới 50 cá thể trưởng thành. E. Các phân tích trữ lượng chỉ ra rằng khả năng tuyệt chủng trong tự nhiên ít nhất là dưới 50% trong vòng 10 năm hoặc là 3 thế hệ hay bất cứ khi nào dài hơn. - Nguy cấp - EN (Endangered) Một loài được coi là nguy cấp khi nó chưa phải là nguy cấp cao nhưng nó đang phải đối mặt với những mối đe doạ tuyệt chủng tự nhiên rất lớn trong một tương lai gần theo định nghĩa từ mục A - E dưới đây: A. Quần thể đang bị suy giảm theo một trong các hình thức sau: 1. Các quan sát, ước lượng chỉ ra rằng quần đã bị/có xu thế hoặc nghi có sự sự suy giảm ít nhất 50% trong vòng 10 năm hoặc trong 3 thế hệ vừa qua hoặc lâu hơn, được xác đinh bởi: (a) Quan sát trực tiếp (b) Một chỉ số của độ phong phú sát thực với đơn vị phân loại đó (c) Suy giảm trong vùng chiếm cứ (d) Mức độ khai thác hiện tại hoặc có xu hướng khai thác (e) Hậu quả của du nhập loài mới, tạp lai, bệnh dịch, ô nhiễm hay ký sinh 2. Sự suy giảm ít nhất 50%, có xu hướng hoặc nghi sẽ có thể gặp phải trong 10 năm tới hoặc trong 3 thế hệ tới hoặc lâu hơn dựa vào trên cơ sở xác định của bất kỳ điểm (b), (c), (d) hoặc (e) ở trên. B. Phạm vi xuất hiện ước lượng nhỏ hơn 5000km2 hoặc vùng chiếm cứ nhỏ hơn 500 km2 và được chỉ ra bởi các ước lượng sau: 1. Bị phân cách nghiêm trọng hay được biết chỉ tồn tại trong 5 điểm 2. Tiếp tục suy giảm qua quan sát hoặc gặp phải trong các trường hợp sau: (a) phạm vi xuất hiện (b) diện tích chiếm cứ (c) diện tích, phạm vi hay chất lượng sinh cảnh 15 (d) số địa điểm phân bố hay số lượng quần thể phụ
  19. (e) số lượng cá thể trưởng thành 3. Những thay đổi cực kỳ bất thường theo các điểm sau: (a) phạm vi xuất hiện (b) diện tích chiếm cứ (c) số địa điểm phân bố hay số lượng các quần thể phụ (d) số lượng cá thể trưởng thành C. Quần thể được ước lượng còn ít hơn 2500 cá thể trưởng thành và: 1. Số lượng đó vẫn tiếp tục suy giảm ít nhất 20% trong 5 năm tới ở 1 thế hệ hoặc nhiều hơn. 2. Quần thể vẫn tiếp tục giảm qua quan sát hoặc có thể gặp phải về số lượng các cá thể trưởng thành và cấu trúc quần thể nằm trong các dạng: (a) bị chia cắt nghiêm trọng (b) tất cả các cá thể đều nằm trong một quần thể phụ duy nhất D. Quần thể được ước lượng ít hơn 250 cá thể trưởng thành E. Các phân tích số lượng chỉ ra rằng khả năng tuyệt chủng trong tự nhiên ít nhất là dưới 20% trong vòng 20 năm hoặc 5 thế hệ. - Sắp nguy cấp - VU (Vulnerable): Một loài được coi là sắp nguy cấp khi nó chưa phải nguy cấp cao hay nguy cấp nhưng đang phải đối mặt với những mối đe doạ tuyệt chủng tự nhiên rất lớn trong một tương lai theo định nghĩa từ mục A - D dưới đây: A. Quần thể đang bị suy giảm theo một trong các hình thức sau: 1. Các quan sát, ước lượng chỉ ra rằng quần đã bị/có xu thế hoặc nghi có sự suy giảm ít nhất 20% trong vòng 10 năm hoặc trong 3 thế hệ vừa qua hoặc lâu hơn, được xác định bởi: (a) Quan sát trực tiếp (b) một chỉ số của độ phong phú sát thực với đơn vị phân loại đó (c) suy giảm trong vòng chiếm cứ (d) mức độ khai thác hiện tại hoặc có xu hướng khai thác. (e) hậu quả của du nhập loài mới, tạp lai, bệnh dịch, ô nhiễm hay ký sinh 2. Sự suy giảm ít nhất 20%, có xu hướng hoặc nghi sẽ có thể gặp phải trong 10 năm tới hoặc trong 3 thế hệ tới hoặc lâu hơn dựa trên cơ sở xác định của bất kỳ điểm (b), (c), (d) hoặc (e) ở trên. B. Phạm vi xuất hiện ước lượng nhỏ hơn 20.000km2 hoặc vùng chiếm cứ nhỏ hơn 2000 km2 và được chỉ ra bởi các ước lượng sau: 1. Bị phân cách nghiêm trọng hay được biết chỉ tồn tại trong dưới 10 điểm duy nhất. 2. Tiếp tục suy giảm qua quan sát hoặc có thể gặp phải trong các trường hợp sau: (a) phạm vi xuất hiện (b) diện tích chiếm cứ (c) diện tích, phạm vi hay chất lượng sinh cảnh (d) số địa điểm phân bố hay số lượng quần thể phụ (e) số lượng cá thể trưởng thành 3. Những thay đổi cực kỳ bất thường theo các điểm sau: (a) phạm vi xuất hiện (b) diện tích chiếm cứ (c) số địa điểm phân bố hay số lượng các quần thể phụ (d) số lượng cá thể trưởng thành 16 C. Quần thể được ước lượng còn ít hơn 10.000 cá thể trưởng thành và:
  20. 1. Số lượng đó vẫn tiếp tục suy giảm ít nhất 10% trong 10 năm tới ở 1 thế hệ hoặc nhiều hơn. 2. Quần thể vẫn tiếp tục giảm qua các năm quan sát hoặc có thể gặp phải về số lượng các cá thể trưởng thành và cấu trúc quần thể nằm trong các dạng: (a) bị chia cắt nghiêm trọng (b) tất cả các thể đều nằm trong một quần thể phụ duy nhất D. Qui mô quần thể là rất nhỏ hoặc quần thể giới hạn dưới 1000 cá thể trưởng thành. E. Các phân tích số lượng chỉ ra rằng khả năng tuyệt chủng trong tự nhiên ít nhất là 10% trong vòng 100 năm. - Đe doạ thấp - LR (Lower Risk): Một loài được coi là bị đe doạ thấp khi nó đã được đánh giá là không thoả mãn các tiêu chuẩn đánh giá của mức nguy cấp cao, nguy cấp hay sắp nguy cấp. Loài được coi là đe doạ thấp có thể chia ra ba mức phụ sau: A. Phụ thuộc bảo tồn - CD (Conservation Dependent): Loài là trọng tâm của chương trình bảo tồn riêng cho loài hoặc chương trình bảo tồn vùng sống, do đó loài đang được quan tâm nhưng nếu chương trình bảo tồn ngừng thì loài sẽ rơi vào một trong những mức độ đe doạ đã nêu ở trên trong vòng 5 năm tới. B. Gần bị đe doạ - NT (Near Threatened): Loài không được xác định ở mức độ phụ thuộc bảo tồn, song gần với mức sắp nguy cấp. C. Ít quan tâm - LC (Least Concern): Loài chưa được xếp vào cấp phụ thuộc bảo tồn hoặc gần bị đe doạ. + Các nhóm chưa được xếp hạng: - Thiếu số liệu - DD (Data Deficient): Loài thiếu số liệu là loài không đủ thông tin để đánh giá trực tiếp hay gián tiếp hiểm hoạ tuyệt chủng dựa vào phân bố hoặc tình trạng quần thể. Loài được xếp vào mức này có thể được nghiên cứu rất nhiều và có những hiểu biết về sinh học của chúng, song lại thiếu những số liệu đáng tin cậy về mức độ phong phú hay phân bố. Vì vậy, thiếu số liệu không phải là thứ hạng bị đe doạ hay đe doạ thấp. Những loài được liệt kê vào nhóm này cần có thêm nhiều thông tin để trong tương lai có thể xếp nó vào một mức đe doạ nào đó trong số các mức đe doạ kể trên. - Chưa được đánh giá - NE (Not Evaluated) Loài chưa được đánh giá theo bất cứ tiêu chuẩn nào mà IUCN đã đưa ra. * Cần lưu ý: Trong Sách Đỏ Việt Nam, phần động vật (1992) và phần Thực vật (1996) đã sử dụng các cấp đánh giá cũ của IUCN (1978) và một số điểm khác như sau: + Hiếm - R (Rare): Gồm những taxon (nhóm đã được phân loại) có phân bố hẹp, nhất là những chi, giống đơn loài, có số lượng ít, tuy hiện nay chưa phải là đối tượng đang hoặc sẽ bị đe doạ nhưng sự tồn tại lâu dài của chúng là rất mỏng manh. + Bị đe doạ - T (Threatened): Là những taxon thuộc một trong những cấp đe doạ kể trên nhưng chưa đủ tư liệu để xếp chúng vào cấp cụ thể nào. + Không biết chính xác - IK (Insufficiently Known): Là những taxon còn nghi ngờ và không biết chắc chắn chúng thuộc loại nào trong các cấp trên vì thiếu thông tin. Do vậy cần nghiên cứu thêm để xác định cụ thể mức đe doạ của chúng. Bảng 3: Số loài động vật bị đe doạ và tuyệt chủng, tổng hợp từ danh mục các loài bị đe doạ của IUCN (1996) Mức độ Rất nguy Nguy cấp Sắp nguy Bị đe doạ Tuyệt cấp cấp chủng 17 Lớp
  21. Thú 169 315 612 1096 89 Chim 168 235 704 1107 108 Bò sát 41 59 153 253 21 Lưỡng cư 18 31 75 124 5 Côn trùng 44 116 377 537 73 Các loài khác 471 423 1194 2088 343 Nguồn: Bryant (2004) Đe doạ tuyệt chủng IUCN 2006 về Bò sát 341 loài, Thú 1093 loài Chương 2: Bảo Tồn Đa Dạng Sinh Học Mục đích: Cung cấp cho sinh viên kiến thức, kỹ năng, thái độ cần thiết để có thể tham gia vận động và thực hiện công tác bảo tồn đa dạng sinh học. Mục tiêu: Sau khi học xong chương này, sinh viên có khả năng + Giải thích được các nguyên lý của bảo tồn đa dạng sinh học + Trình bày và phân biệt được các phương thức bảo tồn và cơ sở luật pháp liên quan đến bảo tồn ĐDSH + Xác định và có thể vận dụng được cách tổ chức quản lý đa dạng sinh học. Khung chương trình tổng quan toàn chương Bài Mục tiêu Nội dung Phương Vật liệu Thời pháp gian Bài 4: Cơ sở + Trình bày + Bảo tồn + Trình bày + OHP 2T và nguyên được khái ĐDSH + Động não + Tài liệu phát tắc của bảo niệm, các cơ + Các cơ sở + Thảo luận tay tồn ĐDSH sở và của bảo tồn nhóm + A0, bút viết nguyên tắc ĐDSH bảng của bảo tồn + Các + Thẻ màu, ĐDSH nguyên tắc bảng cơ bản của ghim/kẹp bảo tồn ĐDSH Bài 5: Các + Phân biệt + Các + Trình bày + OHP, Slides 5T phương thức được các phương thức + Thảo luận + Thẻ màu, bảo tồn phương thức bảo tồn nhóm bảng ĐDSH và cơ sở chính + Bài tập tình + Tài liệu phát pháp lý + Luật pháp huống tay trong bảo liên quan tồn ĐDSH đến hoạt động bảo tồn Bài 6: Tổ + Xác định + Tổ chức + Động não + Tài liệu phát 5T chức, quản được cách quản lý đa + Trình bày tay lý bảo tồn tổ chức dạng sinh + Bài tập tình + OHP, slides 18 đa dạng sinh quản lý học tại các huống/bài + Bản đồ
  22. học ĐDSH tại KBT giao nhiệm + Băng video các KBT + Các hoạt vụ. + Thẻ + Giải thích động phối + Chiếu màu/bảng được sự cần hợp, hỗ trợ Video/hình thiết của các trong bảo ảnh hoạt động tồn ĐDSH phối hợp/hỗ trợ trong bảo tồn Bài 4: Cơ sở và nguyên tắc của bảo tồn đa dạng sinh học Mục tiêu: Sau khi học xong phần này sinh viên có khả năng: - Trình bày được khái niệm và các nguyên tắc bảo tồn đa dạng sinh học. - Giải thích được cơ sở của bảo tồn đa dạng sinh học. 1. Bảo tồn đa dạng sinh học 1.1. Khái niệm Trong từ điển Đa dạng sinh học và phát triển bền vững (2001) thì bảo tồn đa dạng sinh học được định nghĩa là "việc quản lý mối tác động qua lại giữa con người với các gen, các loài và các hệ sinh thái nhằm mang lại lợi ích lớn nhất cho thế hệ hiện tại đồng thời duy trì tiềm năng của chúng để đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của các thế hệ tương lai". Bảo tồn đa dạng sinh học có thể hiểu là giải pháp tổng hợp với mục đích bảo vệ sự đa dạng của các loài sinh vật nhằm mang lại lợi ích lớn nhất cho thế hệ hiện tại đồng thời duy trì tiềm năng của chúng để đáp ứng nhu cầu và lợi ích của các thế hệ tương lai. Nguyên lý khoa học của bảo tồn đa dạng sinh học chính là sinh học bảo tồn. Sinh học bảo tồn là một môn khoa học đa ngành được xây dựng nhằm hạn chế các mối đe doạ đối với đa dạng sinh học với hai mục đích (1) tìm hiểu những tác động tiêu cực do con người gây ra đối với đa dạng sinh học (2) Xây dựng các phương pháp tiếp cận để hạn chế sự suy thoái đa dạng sinh học. 1.2. Sự cần thiết phải bảo tồn đa dạng sinh học Thực trạng của đa dạng sinh học trên phạm vi toàn cầu là đã và đang bị suy thoái nghiêm trọng. Suy thoái đa dạng sinh học sẽ dẫn đến những hậu quả to lớn và không lường trước được đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Đa dạng sinh học có giá trị rất lớn như đã nêu ở phần trước, chính vì thế bảo tồn đa dạng là việc làm cần thiết và khẩn cấp hiện nay của nhân loại. Nhìn chung có một số lý do khẳng định sự cần thiết phải bảo tồn đa dạng sinh học là: Lý do kinh tế: lý do này trước hết đề cập đến giá trị kinh tế của đa dạng sinh học, đó là những sản phẩm được con người trực tiếp hoặc gián tiếp sử dụng. Lý do sinh thái: Lý do này đề cập đến việc duy trì các quá trình sinh thái cơ bản của đa dạng sinh học. Đa dạng sinh học đã tạo lập nên sự cân bằng sinh thái nhờ những mối liên hệ giữa các loài với nhau. Cân bằng sinh thái là cơ sở để phát triển bền vững các quá trình trao đổi chất và năng lượng trong hệ sinh thái. Lý do đạo đức: lý do này giúp chúng ta tôn trọng các loài sinh vật trong quá trình cùng tồn tại. Các loài sinh vật tồn tại không nhất thiết phụ thuộc vào giá trị sử dụng của chúng và sự cần thiết của con người. 19 Lý do thẩm mỹ: đa dạng sinh học đã tạo ra những dịch vụ tự nhiên phục vụ nhu cầu
  23. vui chơi giải trí của con người chẳng hạn như du lịch sinh thái, thăm quan, do đó nó góp phần cải thiện đời sống tinh thần của con người. Lý do về giá trị tiềm ẩn: không phải các loài sinh vật đều có những giá trị kinh tế, sinh thái, đạo đức, thẩm mỹ giống nhau và thực tế hiện nay chúng ta chưa xác định được hết các giá trị của chúng. Một số loài hiện được coi là không có giá trị có thể trở thành loài hữu ích hoặc có một giá trị lớn nào đó trong tương lai, đó chính là giá trị tiềm ẩn của đa dạng sinh học. 2. Các cơ sở của bảo tồn đa dạng sinh học Những nỗ lực về bảo tồn thường hướng đến việc bảo vệ các loài đang bị suy giảm về số lượng và đang có nguy cơ bị tuyệt chủng. Nhưng để có thể bảo tồn thành công loài trong những điều kiện khắc nghiệt do con người tạo nên, các nhà sinh học và các nhà bảo tồn cần phải xác định được tính ổn định của quần thể dưới những điều kiện nhất định. Đó là liệu quần thể của một loài đang có nguy cơ bị tuyệt chủng có thể tiếp tục tồn tại hoặc thậm chí phát triển trong một khu bảo tồn được không?. Đồng thời các loài đang bị suy giảm có cần đến sự quan tâm đặc biệt nào để tránh khỏi sự tuyệt chủng hay không?. Nhiều khu bảo tồn được thành lập để bảo vệ một số loài quí hiếm, biểu tượng cho vùng, cho quốc gia hoặc có các giá trị đặc biệt khác. Tuy nhiên việc khoanh nuôi thành các khu bảo tồn chưa hẳn đã có thể ngăn chặn được sự tuyệt chủng kể cả khi chúng được pháp luật bảo vệ. Nhìn chung các khu bảo tồn chỉ được thành lập sau khi con người nhận thấy được sự suy giảm của hầu hết các quần thể và loài đang có nguy cơ bị tuyệt diệt trong hoang dã. Trong những điều kiện như vậy thì hiện trạng của loài thường thay đổi theo xu thế suy giảm nhanh chóng về số lượng và dần tiến tới tuyệt chủng. Cùng lúc đó các cá thể nằm ngoài ranh giới khu bảo tồn vẫn tiếp tục bị đe doạ do không được bảo vệ đúng mức. Theo nguyên tắc chung thì một kế hoạch bảo tồn thích hợp cho một loài đòi hỏi càng nhiều cá thể được bảo tồn càng tốt trong một diện tích lớn nhất có thể được của khu vực cần được bảo vệ. Qua kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học đối với bảo tồn quần thể cho thấy cần có các quần thể đủ lớn để bảo tồn hầu hết các loài. Những quần thể nhỏ thường dễ có cơ bị tuyệt chủng cục bộ vì 3 nguyên nhân chính là: Mất tính biến dị di truyền, giao phối hẹp và lạc dòng gen Những dao động về số lượng quần thể do những biến động ngẫu nhiên giữa tỷ lệ sinh và tỷ lệ chết. Những biến động môi trường do những biến đổi về sự bắt mồi, cạnh tranh, dịch bệnh, nguồn thức ăn cũng như các rủi ro, thiên tai xảy ra bất thường. 3. Các nguyên tắc cơ bản của bảo tồn đa dạng sinh học Theo khuyến nghị của các nhà nghiên cứu bảo tồn, khi tiến hành nghiên cứu và triển khai việc phát triển chiến lược đa dạng sinh học, cần phải tuân thủ 10 nguyên tắc chỉ đạo cơ bản sau: 1. Mọi dạng của sự sống là độc nhất và cần thiết và mọi người phải nhận thức được điều đó. 2. Bảo tồn đa dạng sinh học là một dạng đầu tư đem lại lợi ích lớn cho địa phương, cho đất nước và toàn cầu. 3. Chi phí và lợi ích của bảo tồn đa dạng sinh học phải được chia đều cho mọi đất nước và mọi người trong mỗi đất nước. 4. Vì là một phần của các cố gắng phát triển bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học đòi hỏ20i những biến đổi lớn về hình mẫu và thực tiễn của phát triển kinh tế toàn cầu.
  24. 5. Tăng kinh phí cho bảo tồn đa dạng sinh học tự nó không làm giảm mất mát đa dạng sinh học. Cần phải thực hiện cải cách chính sách và tổ chức để tạo ra các điều kiện để nguồn kinh phí được sử dụng một cách có hiệu quả. 6. Mỗi địa phương, đất nước và toàn cầu đều có các ưu tiên khác nhau về bảo tồn đa dạng sinh học và chúng cần được xem xét khi xây dựng chiến lược bảo tồn. Mọi quốc gia và mọi cộng đồng đều quan tâm đến bảo tồn đa dạng sinh học riêng của mình, nhưng không nên chỉ tập trung cho riêng một số hệ sinh thái hay các đất nước giàu có về loài. 7. Bảo tồn đa dạng sinh học chỉ có thể được duy trì khi nhận thức và quan tâm của mọi người dân được đề cao và khi các nhà làm chính sách nhận được thông tin đáng tin cậy làm cơ sở xây dựng chính sách.(TL) 8. Hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học phải được lên kế hoạch và được thực hiện ở phạm vi đã được các tiêu chuẩn sinh thái và xã hội xác định. Hoạt động cần tập trung vào nơi có người dân hiện đang sinh sống và làm việc và trong các vùng rừng cấm hoang dã. 9. Đa dạng văn hoá gắn liền với đa dạng sinh học. Hiểu biết của nhân loại về đa dạng sinh học cũng như việc quản lý, sử dụng đa dạng sinh học đều nằm trong đa dạng văn hoá. Do đó bảo tồn đa dạng sinh học góp phần tăng cường các giá trị và sự thống nhất văn hoá và ngược lại. 10.Tăng cường sự tham gia của người dân, quan tâm tới các quyền cơ bản của con người, tăng cường giáo dục và thông tin và tăng cường khả năng tổ chức là những nhân tố cơ bản của bảo tồn đa dạng sinh học. (Nguồn: Nguyễn Hoàng Nghĩa, 1994) IUCN, UNEP, WWF (1991) cũng đã đưa ra 9 nguyên tắc sống bền vững liên quan đến bảo tồn đa dạng sinh học: 1. Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống của cộng đồng 2. Cải thiện chất lượng cuộc sống con người 3. Bảo vệ sự sống và tính đa dạng của trái đất 4. Hạn chế đến mức thấp nhất việc làm suy giảm nguồn tài nguyên không tái tạo 5. Giữ vững/duy trì khả năng chịu đựng của trái đất 6. Thay đổi thái độ và thói quen của con người. 7. Cho phép các cộng đồng tự quản lý lấy môi trường của mình. 8. Một quốc gia thống nhất tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển và bảo tồn 9. Cần tạo ra một cơ cấu liên minh toàn cầu trong bảo tồn ĐDSH Bài 5: Các phương thức bảo tồn đa dạng sinh học Mục tiêu: Sau khi học xong bài này, sinh viên có khả năng: + Phân biệt được các phương thức bảo tồn đa dạng sinh học + Trình bày được luật pháp liên quan đến bảo tồn đa dạng sinh học. 1. Các phương thức bảo tồn chính Để bảo tồn nguồn tài nguyên động thực vật nói riêng và đa dạng sinh học nói chung, hiện nay có 2 phương thức chủ yếu đó là bảo tồn tại chỗ (In - situ) và bảo tồn chuyển chỗ (Ex- situ). Ngoài 2 phương thức bảo tồn kể trên, gần đây trên thế giới người ta còn chú trọng đến một hình thức bảo tồn mới gọi là bảo tồn circa situ. Phương thức bảo tồn này ra đời nhằm bảo tồn nguồn gen của một số loài cây hữu ích và có giá trị kinh tế ngay trên các trang trại. Phương thức bảo tồn này cũng chú trọng đến vai trò của người dân và cộng đồng địa phương trong việc duy trì nguồn gen của những loài cây có giá trị trên trang trại mà không tồn tại trong các khu bảo tồn (Kanowski and Boshier, 1997). Hiện nay trong chương 21 trình giảng dạy của Trường Đại học Lâm Nghiệp Việt Nam còn đề cập đến phương
  25. thức bảo tồn "nội vi kết hợp ngoại vi" mặc dù phương thức này chưa được đề cập trong trong sách, tạp chí chuyên nghành. 1.1. Bảo tồn tại chỗ (In - situ conservation): Phương thức này nhằm bảo tồn các hệ sinh thái và các sinh cảnh tự nhiên để duy trì và khôi phục quần thể các loài trong môi trường tự nhiên của chúng. Đối với các loài được thuần hoá, bảo tồn in - situ là bảo tồn chúng trong môi trường sống nơi đã hình thành và phát triển các đặc điểm đặc trưng của chúng. Do vậy bảo tồn in - situ cũng là hình thức lý tưởng trong bảo tồn nguồn gen. Ở những nơi có thể áp dụng các biện pháp bảo vệ có hiệu qủa thì bảo tồn in - situ cho cả hệ sinh thái là phương pháp lý tưởng. Chẳng hạn để bảo tồn nguồn gen cây rừng thì phương thức bảo tồn in - situ được thể hiện qua việc xây dựng các khu dự trữ thiên nhiên nghiêm ngặt, xác lập tình trạng hợp pháp trong các đơn vị lớn hơn như các khu rừng cấm và các công viên quốc gia. Loại hình bảo tồn tại chỗ hiện đang được phát triển mạnh trên thế giới là việc xây dựng các khu bảo tồn. Khu bảo tồn là một vùng đất hay biển đặc biệt được dành cho việc bảo vệ và duy trì tính đa dạng sinh học, các tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên văn hoá và được quản lý bằng các hình thức hợp pháp hay các hình thức hữu hiệu khác (IUCN, 1994 trong Phạm Nhật, 1999). Loại hình và phân hạng các loại hình khu bảo tồn ở các quốc gia trên thế giới hiện có nhiều điểm khác nhau. IUCN (1994 trong Phạm Nhật, 1999) đã đưa ra 6 loại hình khu bảo vệ như sau: Khu bảo vệ nghiêm ngặt (Strict Protection): gồm hai hình thức Khu dự trữ thiên nhiên nghiêm ngặt (Strict nature reserve, Ia): là vùng đất hoặc biển chứa một số hệ sinh thái nổi bật hoặc đại diện, có những đặc điểm sinh vật, địa lý hoặc những loài nguyên sinh phục vụ cho nghiên cứu khoa học, quan trắc môi trường, giáo dục và để duy trì nguồn tài nguyên di truyền trong một trạng thái động và tiến hoá. Vùng hoang dã (Wilderness area, Ib): là vùng đất rộng lớn chưa bị tác động hay biến đổi đáng kể hoặc là vùng biển còn giữ lại được những đặc điểm tự nhiên của nó, không bị ảnh hưởng thường xuyên và là nơi sống đầy ý nghĩa mà việc bảo tồn nhằm giữ được các điều kiện tự nhiên của nó. Vườn quốc gia (National park, II) hay khu bảo tồn hệ sinh thái và giải trí (Ecosystem conservation and recreation): II Là vùng đất hoặc biển tự nhiên được quy hoạch để (a) bảo vệ sự toàn vẹn sinh thái của một hoặc nhiều hệ sinh thái cho các thế hệ hiện tại và mai sau; (b) loại bỏ sự khai thác hoặc chiếm dụng không mang tính tự nhiên đối với những mục đích của vùng đất và (c) tạo cơ sở nền móng cho tất cả các hoạt động khoa học, giáo dục, vui chơi, giải trí và tham quan mà các hoạt động đó phải phù hợp với văn hoá và môi trường. Vườn Quốc gia hoặc khu bảo tồn hệ sinh thái và giải trí thể hiện một hình mẫu tiêu biểu cho trạng thái tự nhiên của một vùng địa lý, một quần xã sinh học và tài nguyên di truyền, những loài có nguy cơ bị tuyệt chủng để tạo ra tính ổn định và đa dạng. Thắng cảnh thiên nhiên (Natural monument)/ Bảo tồn đặc điểm tự nhiên (Conservation of natural feature): III Là vùng đất bao gồm một hoặc nhiều đặc điểm tự nhiên hoặc văn hoá nổi bật hoặc có giá trị độc đáo phục vụ cho mục đích thuyết minh, giáo dục và thưởng ngoạn của nhân dân. Khu bảo tồn thiên nhiên có quản lý (Conservation through active management)/ Khu bảo tồn sinh cảnh/bảo tồn loài (Habitat Species management area): IV Là một vùng đất hay biển bắt buộc phải can thiệp tích cực cho mục tiêu quản lý để đảm bảo những điều kiện cần thiết cho việc bảo vệ những loài có tầm quan trọng quốc gia, những nhóm loài, quần xã sinh học hoặc các đặc điểm tự nhiên của môi trường nơi mà chúng 22 cần có sự quản lý đặc biệt để tồn tại lâu dài. Nghiên cứu khoa học, quan trắc môi
  26. trường và phục vụ giáo dục là những hoạt động thích hợp với loại hình này. Khu bảo tồn cảnh quan đất liền/cảnh quan biển (Protected Landscape/Seascape): V Là một vùng đất hay biển lân cận, nơi tác động giữa con người với tự nhiên được diễn ra thường xuyên. Mục tiêu quản lý và duy trì những cảnh quan có tầm quan trọng quốc gia thể hiện tính chất tác động qua lại giữa người với đất hoặc biển. Những khu này mang tính chất kết hợp giữa văn hoá và cảnh quan tự nhiên có giá trị thẩm mỹ cao và đó cũng là nơi phục vụ mục đích đa dạng sinh thái, khoa học, văn hoá và giáo dục. Khu sử dụng bền vững các hệ sinh thái tự nhiên (Sustainable use of natural ecosystem) hay Khu quản lý tài nguyên (Managed resource protected area): VI Một vùng chứa các hệ thống tự nhiên chưa hoặc ít bị biến đổi được quản lý bảo vệ một cách chắc chắn dài hạn vừa duy trì tính đa dạng sinh học đồng thời có khả năng cung cấp bền vững các sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của con người. 1.2. Bảo tồn chuyển chỗ (Ex - situ conservation) Bảo tồn chuyển chỗ là một bộ phận quan trọng trong chiến lược tổng hợp nhằm bảo vệ các loài đang có nguy cơ bị tuyệt diệt. Đây là phương thức bảo tồn các hợp phần của đa dạng sinh học bên ngoài sinh cảnh tự nhiên của chúng. Thực tế, bảo tồn chuyển chỗ hay bảo tồn nơi khác là phương thức bảo tồn các cá thể trong những điều kiện nhân tạo dưới sự giám sát của con người. Đối với nhiều loài hiếm thì bảo tồn tại chỗ chưa phải là giải pháp khả thi nhất đặc biệt trong những điều kiện áp lực của con người ngày càng gia tăng. Nếu quần thể còn lại là quá nhỏ để tiếp tục tồn tại, hoặc nếu như tất cả những cá thể còn lại được tìm thấy ở ngoài khu bảo vệ thì bảo tồn tại chỗ sẽ không có hiệu quả. Trong trường hợp này, giải pháp duy nhất để ngăn cho loài khỏi bị tuyệt chủng là bảo tồn chuyển chỗ. Bảo tồn chuyển chỗ thường gặp phải những khó khăn như: chi phí lớn, khó nghiên cứu đối với các loài có vòng đời phức tạp, có chế độ dinh dưỡng thay đổi mỗi khi chúng lớn lên và do đó môi trường sống của chúng thay đổi theo, và khó áp dụng cho các loài không thể sinh sản (động vật) hoặc tái sinh (thực vật) ngoài môi trường sống tự nhiên. *Một số hình thức bảo tồn chuyển chỗ thường gặp: Vườn động vật hay vườn thú (Zoo): Vườn động vật trước đây có truyền thống là đặc biệt quan tâm đến các loài động vật có xương sống. Trong vài ba chục năm trở lại đây, mục tiêu cuả các vườn động vật đã có nhiều thay đổi, trở thành nơi nhận nuôi các loài động vật đang có nguy cơ bị tuyệt chủng và phục vụ nghiên cứu. Các vườn động vật trên thế giới hiện nay đang nuôi khoảng trên 500.000 loài động vật có xương sống ở cạn, đại diện cho 3000 loài thú,chim, bò sát và ếch nhái (Conway, 1998 trong Phạm Nhật, 1999). Phần lớn mục đích của các vườn động vật hiện nay là gây nuôi các quần thể động vật hiếm và đang bị đe doạ tuyệt chủng trên thế giới. Việc nghiên cứu ở các vườn động vật đang được chú ý nhiều và các nhà khoa học đang cố gắng tìm mọi biện pháp tối ưu để nhân giống, phòng chống bệnh tật. Tất nhiên có nhiều vấn đề về kỹ thuật nhân nuôi, sinh thái và tập tínhh loài cũng như việc thả các loài trở về với môi trường sống tự nhiên đang đặt ra cho công tác nhân nuôi mà các vườn động vật cần giải quyết. Bể nuôi (Aquarium): Trước kia bể nuôi thường chỉ dùng để trưng bày các loài cá lạ và hấp dẫn khách tham quan. Gần đây để đối phó trước nguy cơ tuyệt chủng của nhiều loài sinh vật sống ở nước, các 23 chuyên gia về cá, thú biển và san hô đã cùng hợp tác với các Viện nghiên cứu biển, các
  27. thuỷ cung và các bể nuôi tổ chức nhân nuôi bảo tồn các loài đang được quan tâm. Có khoảng 580.000 loài cá đang được nuôi giữ trong bể nuôi (Olney and Ellis, 1991 trong Phạm Nhật, 1999). Các chương trình gây giống các loài cá biển và san hô hiện còn trong giai đoạn khởi đầu, song đây là một lĩnh vực nghiên cứu có nhiều triển vọng. Vườn thực vật (Botanic garden) Hiện nay có khoảng 1500 vườn thực vật trên thế giới đã có các bộ sưu tập của các loài thực vật chính. Đó thực sự là một nỗ lực lớn trong sự nghiệp bảo tồn thực vật. Các vườn thực vật trên thế giới hiện nay đang quản lí ít nhất là 35000 loài thực vật chiếm khoảng 15% số loài thực vật toàn cầu (IUCN/WWF, 1989; Given, 1994 trong Phạm Nhật, 1999). Vườn thực vật lớn nhất trên thế giới là Vườn thực vật Hoàng gia Anh ở Kew có khoảng 25000 loài thực vật đã được trồng, bằng khoảng 10% số loài thực vật trên thế giới, trong đó có 2700 loài đã được liệt kê vào Sách Đỏ thế giới (Reid and Miller, 1989 trong Phạm Nhật, 1999). Vườn thực vật hiện đang có xu thế tập trung vào gieo trồng các loài cây quý hiếm đang có nguy cơ tuyệt chủng. Vườn thực vật góp phần quan trọng trong việc bảo tồn thực vật vì các bộ sưu tập sống của chúng cũng như các bộ tiêu bản khô là một trong những nguồn thông tin tốt nhất về phân bố cũng như yêu cầu về nơi cư trú của thực vật. Ban thư ký bảo tồn các vườn thực vật (Botanic Garden Conservation Secretariat-BGCS) của IUCN đã được thành lập để điều phối những hoạt động bảo tồn của các vườn thực vật trên thế giới (BGCS, 1987 trong Phạm Nhật, 1999). Các ưu tiên của chương trình này là xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu toàn cầu để phối hợp các hoạt động thu mẫu cũng như xác định các loài quan trọng chưa được hiểu biết đầy đủ hay những loài không còn tìm thấy trong tự nhiên. Ngân hàng hạt giống (Seed bank): Hạt của nhiều loài thực vật có thể giữ và bảo quản trong điều kiện khô, lạnh nên ngoài việc trồng cây, các vườn thực vật và viện nghiên cứu đã xây dựng bộ sưu tập về hạt. Đây được coi là các bộ sưu tập hay là ngân hàng hạt giống. Khả năng tồn tại lâu dài của hạt đặc biệt có giá trị cho việc bảo tồn Ex - situ vì nó cho phép bảo tồn hạt trong một không gian nhỏ, chi phí thấp. Hiện có hơn 50 ngân hàng hạt giống trên thế giới, trong đó nhiều ngân hàng hạt giống được đặt tại các nước đang phát triển và được điều phối tích cực bởi nhóm tư vấn về nghiên cứu nông nghiệp Quốc tế (Consultative Group on International Agricultural Research - CGIAR) (Phạm Nhật, 1999). 1.3. Sự liên quan giữa 2 phương thức bảo tồn Bảo tồn Ex - situ và bảo tồn In - situ phải được nhìn nhận là những cách tiếp cận có tính bổ sung cho nhau (Robinson, 1992). Những cá thể từ các quần thể được bảo tồn Ex -situ có thể được thả định kỳ ra ngoài thiên nhiên để tăng cường cho các quần thể được bảo tồn In- situ. Việc nghiên cứu các quần thể được bảo tồn Ex -situ có thể cung cấp cho ta những hiểu biết về đặc tính sinh học của loài và gợi ra những chiến lược bảo tồn mới cho các quần thể được bảo tồn+ In - situ. Các quần thể Ex -situ được bảo tồn tốt sẽ làm giảm nhu cầu phải bắt các cá thể ngoài hoang dã để phục vụ mục đích trưng bày hoặc nghiên cứu. Kết quả của bảo tồn Ex -situ đối với một loài sẽ góp phần giáo dục quần chúng về sự cần thiết phải bảo tồn loài cung như bảo vệ các cá thể của loài đó ngoài tự nhiên. Một phương thức trung gian cần cho bảo tồn In -situ và bảo tồn Ex - situ là sự giám sát và quản lý chặt chẽ quần thể các loài quý hiếm, đang có nguy cơ tuyệt diệt trong các khu 24 bảo vệ nhỏ. Những quần thể này vẫn còn mang tính hoang dã song con người thỉnh
  28. thoảng có thể can thiệp được để tránh sự suy thoái số lượng quần thể. Việc lựa chọn phương thức bảo tồn phải dựa trên cơ sở luật pháp về bảo tồn đa dạng sinh học (các công ước quốc tế, luật pháp của mỗi quốc gia) và điều kiện cụ thể của từng quốc gia, từng vùng. 2. Luật pháp liên quan đến bảo tồn đa dạng sinh học 2.1. Vai trò của luật pháp trong bảo tồn đa dạng sinh học Công cụ pháp chế hay luật pháp có thể được áp dụng tại các cấp địa phươnng, quốc gia hay quốc tế để bảo vệ tất cả các khía cạnh của đa dạng sinh học. Các văn bản pháp luật sẽ cung cấp phương tiện và chương trình để bảo tồn đa dạng sinh học. Mặc dù luật pháp là hết sức quan trọng nhưng nó chỉ là cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ các loài động thực vật quan trọng đang có nguy cơ bị tuyệt chủng. Ngoài ra cần phải tổ chức tốt công tác bảo vệ cụ thể cũng như làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục để nhân dân trong vùng tự giác tham gia công tác bảo tồn đa dạng sinh học thì mới thực hiện được bảo tồn đa dạng sinh học một cách toàn diện. 2.2. Các thoả hiệp quốc tế về bảo tồn đa dạng sinh học 2.2.1. Lý do Bảo tồn đa dạng sinh học cần có sự tham gia của các quốc gia trên toàn thế giới. Các cơ chế kiểm soát hiện đang tồn tại trên thế giới được dựa trên cơ sở của mỗi quốc gia và sự thoả hiệp quốc tế là tăng cường khả năng bảo tồn loài và sinh cảnh (de Klemn, 1993 trong Phạm Nhật, 1999). Hợp tác quốc tế là cần thiết vì một số lý do sau: + Các loài động vật không có khái niệm về biên giới trong phân bố. Nỗ lực bảo tồn là phải bảo vệ loài ở tất cả mọi điểm trong vùng phân bố của chúng. Như vậy, sự nỗ lực của một quốc gia là không hiệu quả nếu trong khi đó môi trường sống của loài đó ở quốc gia khác đang bị phá huỷ. + Nạn buôn bán các sản phẩm sinh học hiện đang diễn ra trên thị trường quốc tế. Nhu cầu lớn ở các nước giàu có thể sẽ dẫn đến hậu quả khai thác quá mức các loài ở những nước nghèo. Để ngăn chặn việc khai thác quá mức, việc kiểm soát và quản lý buôn bán là yêu cầu cấp thiết cả trong nhập khẩu và xuất khẩu. + Những lợi ích mà đa dạng sinh học mang lại có tầm quan trọng quốc tế. Các quốc gia giàu có thuộc vùng ôn đới được hưởng lợi từ đa dạng sinh học của vùng nhiệt đới, do đó họ cần phải sẵn sàng giúp đỡ các nước nghèo khó hơn vì họ đã tham gia thực hiện việc bảo tồn đa dạng sinh học tại đó. + Rất nhiều vấn đề của các loài hay các hệ sinh thái bị đe doạ có quy mô toàn cầu nên đòi hỏi sự hợp tác quốc tế để giải quyết, ví dụ như việc đánh bắt thuỷ hải sản quá mức, săn bắn quá mức, ô nhiễm không khí và mưa axit, ô nhiễm sông hồ, đại dương, biến đổi khí hậu toàn cầu và suy thoái tầng ôzôn. 2.2.2. Các công ước quốc tế + Công ước về bảo tồn loài: Thoả hiệp quan trọng nhất trong việc bảo vệ các loài ở quy mô quốc tế là Công ước về buôn bán các loài đang có nguy cơ tuyệt chủng (Convention on International Trade in Endangered Species of Wild Fauna and Flora - CITES). Công ước ra đời năm 1973 với tham gia của 120 nước, đồng thời có sự phối hợp với chương trình môi trường Liên Hiệp Quốc (United Nations Environmental Program - UNEP). Theo công ước này, các quốc gia thành viên đồng ý hạn chế buôn bán và khai thác có tính huỷ diệt những loài nằm trong danh sách được nhất trí của Công ước. Công ước có 25 điều và 3 phụ lục. Việt Nam là 25 thành viên thứ 122 của CITES, được chấp nhận ngày 20/4/1994 (Phạm Nhật, 1999).
  29. Một số công ước bảo tồn khác: + Công ước về bảo tồn các loài động vật di cư (1979) + Công ước về bảo tồn các loài sinh vật biển vùng Nam Cực + Công ước về điều tiết săn bắt cá Voi + Công ước về bảo vệ các loài chim + Công ước về đánh bắt và bảo vệ sinh vật biển ở Vịnh Ban tích Các công ước về bảo tồn sinh cảnh có 3 công ước quan trọng: + Công ước về bảo vệ các vùng đất ướt Ramsar (Ramsar Convention on Wetlands) ra đời năm 1971 nhằm ngăn chặn sự xuống cấp của các vùng đất ướt và thừa nhận các giá trị sinh thái, khoa học, kinh tế, văn hoá và giải trí của chúng. Công ước này bao hàm các vùng nước ngọt, cửa sông, sinh cảnh bờ biển của 400 điểm khác nhau với 30 triệu ha. + Công ước về bảo tồn văn hoá thế giới và di sản thiên nhiên (Convention Concerning the Protection of the World Cultural and Natural Heritage) của UNESCO, IUCN với 109 nước tham gia. Mục đích của công ước là bảo vệ các vùng đất tự nhiên đáng chú ý trên thế giới. + Mạng lưới khu dự trữ sinh quyển (International Network of Biosphere Reserves) được thiết lập bởi chương trình "Con người và sinh quyển" của UNESCO (UNESCO Man and the Biosphere Program - MAB). Công ước về kiểm soát ô nhiễm: được ký kết nhằm ngăn cấm hoặc hạn chế tình trạng ô nhiễm ở các quốc gia và trên phạm vi toàn thế giới. + Công ước về bảo vệ tầng ôzon (Convention on the Protection of the Ozone Layer). Công ước này liên quan đến việc điều tiết và không khuyến khích sử dụng chất chlorofluofluorocarbon vì nó liên quan đến việc phá huỷ tầng ôzôn và làm tăng lượng tia cực tím chiếu vào quả đất. + Ngoài ra còn có một số công ước khác như công ước về việc ngăn chặn ô nhiễm biển, công ước về vùng biển, cũng đã được ký kết. 2.2.3. Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu Hội nghị Liên Hiệp Quốc về môi trường và phát triển (United Nations Conference on Environment and Development - UNCED) diễn ra tại Rio de Janeiro, Braxin, trong thời gian 12 ngày vào tháng 6 năm 1992 (5/61992). Tham gia Hội nghị có 178 nước với hơn 100 nguyên thủ quốc gia, cùng với những người đứng đầu tổ chức Liên Hiệp Quốc, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức bảo tồn khác trên thế giới. Các thành viên Hội nghị đã bàn bạc, đi đến thoả thuận ký kết 5 văn bản chính thức được trình bày dưới đây và khởi xướng thực hiện nhiều dự án mới liên quan đến công tác bảo tồn và phát triển bền vững. Tuyên bố Rio (The Rio Declaration): tuyên bố nêu rõ những nguyên tắc có tính định hướng cho các nước giàu cũng như các nước nghèo về môi trường và phát triển. Quyền lợi của các dân tộc trong việc sử dụng các nguồn tài nguyên của họ phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội được thừa nhận đầy đủ nếu các hoạt động đó không làm tổn hại đến môi trường tại đó hay ở bất kỳ một nơi nào khác. Tuyên bố đề cập đến nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, theo nguyên tắc này thì bất kỳ một công ty hay một chính phủ nào gây ra ô nhiễm môi trường phải có trách nhiệm sửa chữa thiệt hại hoặc trả tiền đền bù. Công ước về sự thay đổi khí hậu toàn cầu (Convention on Global Climate Change): Công ước này đỏi hỏi các nước công nghiệp phải giảm thiểu các chất gây ô nhiễm và các khí nhà kính khác do họ gây ra và phải thường xuyên làm báo cáo về tiến trình này. 26 Trong khi các giới hạn ô nhiễm chưa được xác định, công ước nêu rõ: các khí nhà kính
  30. phải được duy trì ổn định ở mức không làm ảnh hưởng đến khí hậu toàn cầu. Công ước về đa dạng sinh học (Convention on Biological Diversity): Công ước này có 3 mục tiêu: bảo vệ đa dạng sinh học, sử dụng bền vững đa dạng sinh học, phân phối công bằng lợi nhuận của các sản phẩm mới lấy từ các loài hoang dã và các loài thuần dưỡng. Hai mục tiêu đầu không phức tạp nhưng mục tiêu thứ ba gây ra rất nhiều tranh cãi bởi vì nó yêu cầu các nước có tài nguyên đa dạng sinh học phải nhận được sự đền bù hợp lý từ các nước hay công ty có sử dụng các loài được thu thập từ lãnh thổ nước họ. Đã có 170 nước phê chuẩn công ước đa dạng sinh học (Bryant, 2004). Việt Nam là thành viên thứ 99 (ký công ước vào tháng 10/1994) và Công ước này chính thức có hiệu lực ở Việt Nam từ ngày 28 tháng 11 năm 1994. Một số nước trong đó có Mỹ không phê chuẩn công ước này vì e ngại ngành công nghệ sinh học khổng lồ của họ sẽ bị hạn chế. Các chính phủ đã kí kết và phê chuẩn công ước này nhất trí sẽ thực thi một số giải pháp nhằm bảo tồn đa dạng sinh học. Các giải pháp chủ yếu bao gồm: + xây dựng các kế hoạch quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học +xác định các hệ sinh thái, loài và tổ hợp gen quan trọng nhằm bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học +theo dõi, giám sát đa dạng sinh học và các yếu tố có thể ảnh hưởng đến đa dạng sinh học +thiết lập một hệ thống các khu vực bảo tồn +quản lí tài nguyên sinh học phục vụ cho việc bảo tồn và sử dụng bền vững +phục hồi các hệ sinh thái bị suy thoái +thực thi các giải pháp về bảo tồn ngoại vi Tuyên bố về các nguyên tắc đối với rừng (Statement on Forest Principles): Sự nhất trí đạt được về công tác quản lý rừng đã gặp nhiều khó khăn vì những khác biệt sâu sắc về quan điểm giữa các nước ôn đới và nhiệt đới, các nước giàu và các nước nghèo. Cuối cùng tuyên bố đã đưa ra lời kêu gọi về quản lý rừng theo hướng bền vững mà không có thêm khuyến cáo nào kèm theo. Lịch trình 21 (Agenda 21): Tài liệu này ra đời là một cố gắng mới để trình bày một cách có hệ thống và toàn diện những chính sách cần thiết liên quan đến phát triển bền vững. Lịch trình này chỉ ra sự liên kết giữa môi trường và các vấn đề khác vốn trước đây vẫn thường đưa ra cân nhắc một cách tách biệt như: quyền lợi của trẻ em, sự nghèo khó, vấn đề phụ nữ, chuyển giao công nghệ Các kế hoạch hoạt động được vạch ra để giải quyết các vấn đề về khí quyển, suy thoái đất, sa mạc hoá, phát triển miền núi, nông nghiệp và phát triển nông thôn, việc phá rừng, đất ngập nước, môi trường thuỷ vực và vấn đề ô nhiễm. Các cơ chế về tài chính, tổ chức, công nghệ và pháp luật để thực hiện những hoạt động này cũng được đề cập. 2.3. Luật pháp của mỗi quốc gia Luật pháp là chỗ dựa hết sức quan trọng, là các căn cứ pháp lý làm cơ sở cho việc tổ chức bảo tồn. Ở mỗi quốc gia, dựa trên tình hình kinh tế, xã hội, điều kiện tự nhiên, đặc điểm và hiện trạng nguồn tài nguyên thiên nhiên nhiều văn bản pháp luật, dưới luật và các chính sách, thể chế liên quan được soạn thảo và ban hành kịp thời nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các hoạt động liên quan đến bảo tồn đa dạng sinh học. Một điều dễ dàng nhận thấy rằng các văn bản pháp luật ở mỗi quốc gia không hoàn toàn giống nhau và luôn được thay đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện thực tế. Bài 6: Tổ chức quản lý bảo tồn đa dạng sinh học 27 Mục tiêu: Sau khi học xong bài này học viên có khả năng:
  31. + Xác định được cách thức tổ chức và quản lý đa dạng sinh học tại các khu bảo tồn. + Giải thích được sự cần thiết và xác định được các hoạt động phối hợp, hỗ trợ trong bảo tồn đa dạng sinh học. 1. Tổ chức quản lý đa dạng sinh học tại các khu bảo tồn 1.1. Sự hình thành các khu bảo tồn Một trong những bước đi cơ bản quan trọng nhất trong việc bảo tồn các quần xã sinh vật là việc thành lập hệ thống các khu bảo tồn. Trong khi các điều kiện khác (pháp luật, việc sử dụng đất .) chưa đảm bảo cho việc gìn giữ môi trường sống của các loài thì các khu bảo tồn sẽ là một điểm khởi đầu quan trọng. Có thể thành lập các khu bảo tồn theo nhiều cách, song có hai phương thức phổ biến nhất, đó là thông qua nhà nước ( thường ở cấp trung ương hay cấp địa phương ), và các tổ chức bảo tồn hay cá nhân sở hữu những vùng đất đó. Nhà nước có thể dành ra những vùng đất làm khu bảo tồn và ban hành luật pháp cho phép sử dụng tài nguyên của các khu bảo tồn đó ở các mức độ khác nhau cho mục đích thương mại, thăm quan vui chơi giải trí và sử dụng theo phương pháp truyền thống của người dân địa phương. Nhiều khu bảo tồn cũng đã được các tổ chức tư nhân thành lập nên. Một hình thức đang ngày càng phổ biến đó là sự hợp tác giữa chính phủ của một nước đang phát triển với các tổ chức bảo tồn quốc tế, các ngân hàng quốc tế và chính phủ của các quốc gia phát triển. Trong mối quan hệ hợp tác như thế, các tổ chức bảo tồn thường cung cấp tài chính và các hỗ trợ về đào tạo, khoa học và quản lý nhằm giúp các nước đang phát triển thành lập và quản lí hệ thống các khu bảo tồn. Hình thức hợp tác này đã được tăng lên đáng kể nhờ cơ chế hỗ trợ vốn mới thông qua quỹ Môi Trường Toàn cầu (GEF) do Ngân hàng thế giới và các cơ quan của Liên Hiệp Quốc thành lập. Các khu bảo tồn còn được hình thành bởi các cộng đồng địa phương vì họ muốn gìn giữ những phong tục tập quán riêng trong đời sống của họ. Thông thường các khu bảo tồn cũng là nơi cư trú của một số cộng đồng địa phương do vậy cần phải có những quyết định cho phép con người tác động ở một mức độ nào đó. IUCN (1984, 1985, 1994) đã xây dựng và cải tiến một hệ thống phân loại các khu bảo tồn như đã nêu ở bài 5. Mức độ sử dụng/can thiệp cụ thể ở các khu bảo tồn đã được phân định từ nhỏ đến lớn như sau: + Khu bảo tồn thiên nhiên nghiêm ngặt: Là những khu được bảo vệ nghiêm ngặt, chỉ dành cho các hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo và quan trắc môi trường. Các khu bảo tồn thiên nhiên này cho phép giữ gìn các quần thể của các loài cũng như các quá trình của hệ sinh thái sao cho chúng ở trạng thái không bị nhiễm loạn càng nhiều càng tốt. + Vườn quốc gia: là những khu vực rộng lớn có vẻ đẹp thiên nhiên (ở biển hay ở đất liền) được gìn giữ bảo vệ một hoặc vài hệ sinh thái ở đó, đồng thời được dùng cho các mục đích giáo dục, nghiên cứu khoa học, nghỉ ngơi giải trí và tham quan du lịch. Tài nguyên ở đây thường không được phép khai thác cho mục đích thương mại. + Các di sản quốc gia: là những khu vực nhỏ hơn được thiết lập nhằm bảo tồn những đặc trưng về sinh học, địa lí, địa chất hay văn hoá của của một nơi nào đó. + Các khu vưc quản lý nơi cư trú của động vật hoang dã: có những điểm tương tự với các khu bảo tồn nghiêm ngặt nhưng một số hoạt động chủ yếu của con người được phép tiến hành tại đây để duy trì các đặc thù của cộng đồng dân cư. Việc khai thác có kiểm soát cũng được phép. 28 + Các khu bảo tồn cảnh quan trên đất liền và trên biển: cho phép người dân tác
  32. động/sử dụng theo cách cổ truyền, không phá huỷ, đặc biệt tại những nơi mà việc sử dụng đã hình thành nên những khu vực có đặc tính văn hoá, thẩm mỹ và sinh học đặc sắc. Những nơi này tạo nhiều cơ hội phát triển cho các ngành du lịch và nghỉ ngơi giải trí. + Các khu dự trữ tài nguyên: là các vùng mà ở đó việc sử dụng tài nguyên được kiểm soát phù hợp với chính sách quốc gia. Nguồn tài nguyên thiên nhiên được bảo vệ cho tương lai. + Các khu sử dụng bền vững hệ sinh thái - nhân văn tự nhiên: cho phép các cộng đồng địa phương được duy trì cuộc sống của họ mà không có sự can thiệp từ bên ngoài. Thông thường họ được săn bắt và khai thác tài nguyên chủ yếu phục vụ cho đời sống cộng đồng. Trong canh tác, họ thường áp dụng các biện pháp truyền thống. + Các khu quản lý tài nguyên cho phép sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên, trong đó có tài nguyên nước, động vật hoang dã, chăn nuôi gia súc, gỗ, du lịch và đánh bắt cá. Hoạt động bảo tồn các quần xã sinh học thường đi đôi với các hoạt động khai thác nói trên. Năm loại hình nêu đầu tiên có thể coi như là khu bảo tồn thực sự mà trong đó các nơi cư trú chủ yếu được quản lý vì mục tiêu bảo tồn đa dạng sinh học. Mục tiêu của ba loại hình còn lại phục vụ gián tiếp việc quản lý bảo tồn đa dạng sinh học. Các khu được quản lý này đôi khi đặc biệt quan trọng vì chúng thường rộng lớn hơn các khu bảo tồn thực sự rất nhiều, vì chúng còn bao gồm rất nhiều hay thậm chí đa số các loài nguyên sinh, mặt khác các khu bảo tồn thực sự thường nằm trong một hệ thống các khu được quản lý. 1.2. Các khu bảo tồn trên thế giới Cho đến năm 2003 thì toàn thế giới đã có tất cả 102.102 khu bảo tồn, với diện tích khoảng 18,8 triệu km2, chiếm 11,5% diện tích bề mặt trái đất. Số lượng và diện tích các khu bảo tồn đã tăng hơn 10 lần kể từ 1962 khi khu bảo tồn đầu tiên trên thế giới được thành lập. Vườn Quốc gia rộng nhất thế giới rộng 700.000km2 ở Greenland. Mặc dù con số về các khu bảo tồn nói trên khá ấn tượng song chúng chỉ đại diện cho 11,5% tổng diện tích bề mặt trái đất. Chỉ có 3,5% tổng diện tích đất đai của thế giới là thuộc loại được bảo vệ nghiêm ngặt cho mục đích khoa học gồm vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên. Châu Âu là nơi có số lượng khu bảo tồn nhiều nhất, khoảng 43.000 khu nhưng Nam và Trung Mỹ có diện tích được bảo vệ nhiều nhất, khoảng 25%. Diện tích của các khu bảo tồn lớn nhất là ở Bắc và Trung Mỹ và nhỏ nhất là ở Liên Xô cũ. Diện tích của các khu bảo tồn khác nhau đáng kể giữa các quốc gia, ví dụ: Đức: 24,6%, Anh: 18,9%; Nga: 1,2%; Hy Lạp: 0,8% và Thổ Nhĩ Kỳ: 0,3%. Số liệu này cũng mang tính tương đối ở từng quốc gia và châu lục. Bảng 4: Các khu bảo tồn và các khu được quản lý trên thế giới Vùng Các khu bảo tồn Các khu được quản lý (Phân (Phân loại của IUCN, I - V) loại của IUCN, I - V) Số Diện Phần trăm Số Diện Phần trăm các tích tổng diện các tích tổng diện khu (km2) tích khu (km2) tích Châu Phi 740 1.388.9 4,6 1.526 746.360 2,5 30 Châu á (a) 2.181 1.211.6 4,4 1.191 309.290 1,1 10 Bắc và Trung 1.752 2.632.5 11,7 243 161.470 0,7 29 Mỹ 00
  33. Nam Mỹ 667 1.145.9 6,4 679 2.279.3 12,7 60 50 Châu Âu 2.177 455.330 9,3 143 40.350 0,8 Liên Xô (cũ) 218 243.300 1,1 1 4.000 0,6 Châu úc (b) 920 845.040 9,9 91 50.000 0,6 Thế giới (c) 8.619 7.922.6 5,8 3.868 3.588.4 2,7 60 80 (Nguồn WRI/UNEP/UNDP, 1994) (a) Không bao gồm Liên Xô cũ (b) Ôxtrâylia, Niu Dilân và các đảo Thái Bình Dương (c) Không bao gồm Nam Cực Tổ chức IUCN đề xuất các quốc gia nên dành tối thiểu từ 7 - 10% tổng diện tích cho các khu bảo tồn bởi nhu cầu của con người đối với tài nguyên thiên nhiên là rất lớn. Việc thành lập các khu bảo tồn đã đạt đỉnh cao vào những năm 1970 - 1975 rồi sau đó chững lại, có lẽ là do những vùng đất còn lại đã được chọn cho mục đích sử dụng khác. Nhiều khu bảo tồn nằm trên những vùng đất được coi là không có hoặc ít có giá trị kinh tế. Một diện tích khiêm tốn của các khu bảo tồn nói trên cho thấy rằng nhiều vùng đất có tầm quan trọng sinh học đã được sử dụng vào mục đích sản xuất. 1.3. Tính hiệu quả của các khu bảo tồn Diện tích các khu bảo tồn chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trên trái đất do vậy khi xét đến hiệu quả bảo tồn không chỉ chú ý đến phạm vi diện tích còn phải xét đến toàn bộ cảnh quan, nơi tập trung sự phân bố loài. Một vùng cảnh quan thường bao gồm các dải đất rộng lớn cùng với nơi cư trú của nhiều loài và trong đó chỉ có một vài khu vực nhỏ là nơi cư trú của các loài hiếm. Trong trường hợp này hiệu qủa bảo tồn các loài hiếm có thể sẽ không phụ thuộc quá nhiều vào bảo tồn toàn bộ vùng đất rộng lớn mà phải bảo tồn tất cả các kiểu nơi cư trú của loài trong một hệ thống các khu bảo tồn. Một số ví dụ minh hoạ: ở Indonexia, mục tiêu của kế hoạch bảo vệ các loài chim và linh trưởng bản địa sẽ đạt được nhờ vào việc tăng diện tích các khu bảo tồn trong hệ thống các khu bảo tồn từ 3,5% lên 10% so với tổng diện tích cả nước. Ở Zaia cả nước có trên 1000 loài chim. Trong số đó có 89% số loài xuất hiện trong các khu bảo tồn với diện tích chỉ chiếm 3,9% tổng diện tích cả nước. Tương tự như vậy, 85% số chim của Kenya được bảo vệ trong các khu vực mà diện tích chỉ chiếm 5,4% tổng diện tích đất đai. Từ kinh nghiệm của các khu bảo tồn khác nhau trên thế giới cho thấy rằng: những khu bảo tồn được lựa chọn cẩn thận thì có thể nuôi dưỡng và che chở cho rất nhiều, nếu không nói là hầu hết các loài của một quốc gia. Tuy nhiên tương lai lâu dài của nhiều loài trong các khu bảo tồn này vẫn còn là một vấn đề còn tranh cãi. Xét về tính hiệu quả của khu bảo tồn còn phải tính đến cách thức quản lý, đây là một trong những yếu tố có tính chất quyết định. 1.4. Xác định các ưu tiên cho bảo tồn đa dạng sinh học Trong một thế giới rộng lớn và với nguồn kinh phí có hạn, không thể lập kế hoạch bảo tồn tất cả các loài, sinh cảnh do vậy cần phải thiết lập được các ưu tiên cho bảo tồn đa dạng sinh học và quan trọng nhất là bảo tồn loài. Trong khi một số người bảo thủ cho rằng chưa chắc đã có loài nào đó bị tuyệt chủng, thì trên thực tế loài đang bị mất đi hàng ngày. Câu hỏi đặt ra ở đây là làm sao có thể giảm thiểu sự mất mát của các loài với một nguồn tài chính và sức lực có hạn. Những câu hỏi có mối quan hệ tương tác lẫn nhau mà các nhà hoạch định công tác bảo tồn cần phải làm sáng tỏ là: cần phải bảo vệ cái gì?, bảo vệ ở 30 đâu? và bảo vệ như thế nào?. Có thể dùng 3 tiêu chí sau đây để lập ra các ưu tiên cho
  34. bảo tồn loài và quần xã. Tính đặc biệt Một quần xã sẽ được ưu tiên bảo vệ cao hơn nếu ở đó là nơi sinh sống chủ yếu của nhiều loài đặc hữu quý hiếm hơn so với quần xã chỉ gồm các loài phổ biến. Một loài thường có giá trị bảo tồn nhiều hơn nếu có tính độc nhất về mặt phân loại học, tức là loài duy nhất của giống hay họ. Tính nguy cấp Một loài đang có nguy cơ tuyệt chủng sẽ được quan tâm nhiều hơn so với những loài không bị đe doạ tuyệt chủng. Những quần xã sinh học đang bị đe doạ và sắp sửa bị tiêu diệt cũng cần được ưu tiên bảo vệ. Tính hữu dụng Những loài có giá trị kinh tế hoặc có giá trị tiềm năng đối với con người sẽ được ưu tiên bảo vệ nhiều hơn so với các loài chưa biết giá trị rõ ràng. Loài rồng đất Komodo ở Indonesia là một ví dụ cụ thể cho một loài được ưu tiên bảo vệ theo cả 3 tiêu chí nêu trên: nó là loài thằn lằn lớn nhất thế giới (tính đặc biệt); chỉ xuất hiện trên một vài đảo nhỏ của một quốc gia (tính nguy cấp) và có tiềm năng lớn cho việc thu hút khách du lịch cũng như là mối quan tâm lớn của khoa học (tính hữu dụng). Bằng cách ứng dụng tiêu chí này, nhiều hệ thống ưu tiên nhằm vào các loài và quần xã đã được xây dựng ở quy mô quốc gia và quốc tế. Những tiêu chí trên nhìn chung có tính chất bổ sung trong việc lựa chọn ưu tiên trong công tác bảo tồn vì mỗi tiêu chí cho thấy một triển vọng riêng. 1.5. Các phương pháp tiếp cận khi thành lập khu bảo tồn. Nhiều khu bảo tồn đã được thành lập để bảo vệ những loài độc nhất, những loài thú lớn, đẹp, những loài thu hút sự quan tâm của công chúng, có giá trị biểu trưng và có tính quyết định cho du lịch sinh thái. Trong qúa trình bảo vệ loài này, toàn bộ các quần xã của hàng ngàn loài khác cũng sẽ được bảo vệ. Xác định và chỉ ra được các loài cần ưu tiên nhất là bước đầu tiên trong quá trình lập kế hoạch bảo tồn cho từng loài. Một số người quan tâm đến bảo tồn, với cách tiếp cận khác lại cho rằng nên tập trung vào bảo tồn các quần xã hoặc các hệ sinh thái hơn là chỉ bảo tồn loài. Bảo tồn các quần xã có thể sẽ bảo vệ được một số lượng lớn hơn các loài, trong khi đó việc cứu hộ các loài cụ thể nào đó lại thường không đơn giản, tốn kém và ít hiệu quả. Cần phải lập ra những ưu tiên có tính toàn cầu cho các khu bảo tồn mới tại các nước đang phát triển để từ đó có thể hướng mọi nguồn nhân và vật lực vào các nhu cầu thiết yếu nhất. Một quá trình như vậy sẽ làm thay đổi khuynh hướng của các cơ quan tài trợ quốc tế, các nhà khoa học và các cán bộ phát triển là chỉ tập trung những dự án lớn cho bảo tồn ở một số nước có nền chính trị ổn định và giao thông thuận tiện. Hiện nay, việc thiết lập những ưu tiên bảo tồn trên quy mô toàn cầu có tầm quan trọng hơn bao giờ hết bởi vì lượng kinh phí dành cho xây dựng và quản lý các vườn quốc gia mới đã tăng lên đáng kể sau khi Quỹ môi trường toàn cầu (GEF) và các quỹ bảo tồn khác ra đời. Việc hình thành các khu bảo tồn mới cần phải đảm bảo được càng nhiều đại diện của các loại quần xã sinh học càng tốt. Định ra được những khu vực nào trên thế giới đã được bảo vệ thoả đáng và những khu vực nào cần khẩn trương đưa vào bảo tồn bổ sung là một việc làm có tính chất quyết định trong công tác bảo tồn. Mọi nguồn lực, công tác nghiên cứu và tuyên truyền cần phải hướng vào những khu vực trên thế giới đang cần được đưa vào bảo vệ bổ sung. 31 1.6. Thiết kế các khu bảo tồn
  35. Kích thước và vị trí của các khu bảo tồn trên thế giới thường được xác định qua sự phân bố của dân cư , các giá trị tiềm tàng của đất đai và nhận thức của cộng đồng. Mặc dù hầu hết các vườn quốc gia và khu bảo tồn đã ra đời theo kiểu ngẫu nhiên và hoàn toàn phụ thuộc vào sự có sẵn của đất đai và kinh phí, song hiện đã có rất nhiều tài liệu về sinh thái học đề cập đến những cách thiết kế các khu bảo tồn nhằm bảo tồn đa dạng sinh học một cách hiệu quả nhất. Tuy nhiên, các nhà sinh học bảo tồn đã thận trọng trong việc đưa ra các hướng dẫn chung và đơn giản trong việc thiết kế các khu bảo tồn bởi vì các vấn đề liên quan đến bảo tồn đều đòi hỏi một sự quan tâm đặc biệt. Những câu hỏi then chốt mà các nhà bảo tồn cố gắng giải quyết là: 1. Một khu bảo tồn cần rộng đến mức nào để bảo tồn được loài? 2. Tạo ra một khu bảo tồn lớn tốt hơn hay là nhiều khu bảo tồn nhỏ tốt hơn? 3. Cần phải phải bảo vệ trong khu bảo tồn bao nhiêu cá thể của một loài nguy cấp là đủ để ngăn cho loài đó khỏi bị tuyệt diệt ? 4. Hình dạng hợp lý nhất cho một khu bảo tồn là gì? 5. Khi một số khu bảo tồn được hình thành, chúng nên nằm cạnh nhau hay xa nhau, và chúng nên biệt lập với nhau hay là liên hệ với nhau qua những hành lang? Cho đến nay, sự thống nhất về kích thước khu bảo tồn có vẻ thiên về việc tuỳ thuộc vào nhóm loài cần bảo tồn cũng như vào đều kiện khoa học. Điều được thừa nhận là những khu bảo tồn lớn sẽ có khả năng hơn khu bảo tồn nhỏ trong việc gìn giữ các loài khác nhau bởi vì nó chứa đựng nhiều hệ sinh thái và những quần thể có kích thước lớn. Tuy nhiên, những khu bảo tồn nhỏ nếu được quản lý tốt thì cũng rất có giá trị, đặc biệt là trong trường hợp bảo tồn các loài cây, các loài động vật không xương sống và những loài động vật nhỏ có xương số Trên thực tế ít có khả năng lựa chọn nào khác nhau ngoài việc phải chấp nhận bảo tồn các loài trong các khu bảo tồn nhỏ bởi vì xung quanh các khu bảo tồn nhỏ không còn thừa đất để sử dụng vào mục đích vào bảo tồn. 1.7. Quản lý các khu bảo tồn Sau khi đã được thành lập một cách hợp pháp thì khu bảo tồn phải được quản lý tốt nhằm duy trì và bảo tồn đa dạng sinh học. Tuy nhiên, việc đưa ra được những quyết định có hiệu quả về quản lý trong các khu bảo tồn còn phụ thuộc vào việc có đủ thông tin qua các chương trình nghiên cứu và có đủ kinh phí cho việc thực hiện các kế hoạch quản lý đó hay không? Thực tế, việc quản lý tốt đôi khi lại không cần phải có những hoạt động gì vì nhiều hoạt động quản lý có lúc không hiệu quả thậm chí lại có hại. Ví dụ: về việc các nhà quản lý khu bảo tồn quá sốt sắng trong việc thu dẹp, thu gom cây cối bị đổ và phát quang bờ bụi để "cải tiến" bộ mặt của khu bảo tồn đôi khi lại vô tình làm mất đi những nơi làm tổ, trú ngụ, nguồn thưc ăn của nhiều loài hay một số loài nhất định. Một thực tế khác, "chính sách không tác động đến’’ của các nhà quản lý ở một số khu bảo tồn tưởng chừng như cho phép thiên nhiên được tự do phát triển nhưng hậu quả lại làm huỷ hoại nhanh chóng một số loài. Thực tế cho thấy không có cách quản lý các khu bảo tồn nào là luôn đúng hoặc sai. Việc áp dụng bất cứ một phương thức quản lý nào cũng phải dựa vào các đối tượng quản lý ở một địa điểm cụ thể. Chỉ khi đã xác định được các đối tượng quản lý thì các kết quả quản lý khoa học mới được áp dụng. Việc quản lý đa dạng sinh học trong các khu bảo tồn cần thiết phải chú trọng đến các vấn đề: xử lý các mối đe doạ đối với các khu bảo tồn; quản lý tốt nơi cư trú của loài; quản 32 lý hoạt động của con người liên quan đến tài nguyên khu bảo tồn.