Bài giảng môn học Đường lối cách mạng của đảng cộng sản Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng môn học Đường lối cách mạng của đảng cộng sản Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- bai_giang_mon_hoc_duong_loi_cach_mang_cua_dang_cong_san_viet.doc
Nội dung text: Bài giảng môn học Đường lối cách mạng của đảng cộng sản Việt Nam
- 1 TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ BỘ MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐCSVN o O o ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (Tập bài giảng) TP. HỒ CHÍ MINH - 2010
- 2 MỤC LỤC MỤC LỤC 1 CHƯƠNG MỞ ĐẦU: ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 2 CHƯƠNG I: SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG 4 CHƯƠNG II: ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930-1945) 11 CHƯƠNG III: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1945-1975) 23 CHƯƠNG IV: ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HOÁ 43 CHƯƠNG V: ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 51 CHƯƠNG VI: ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ 58 CHƯƠNG VII: ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HOÁ VÀ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI 64 CHƯƠNG VIII: ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI 73 TÀI LIỆU THAM KHẢO 85 CÂU HỎI ÔN TẬP 87
- 3 CHƯƠNG MỞ ĐẦU ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM I. ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu a) Khái niệm đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đường lối cách mạng của Đảng là hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp của cách mạng Việt Nam. Đường lối cách mạng của Đảng được thể hiện qua cương lĩnh, nghị quyết, chỉ thị của Đảng. b) Đối tượng nghiên cứu môn học Đối tượng của môn học là sự ra đời của Đảng và hệ thống quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng trong tiến trình cách mạng Việt Nam - từ cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu Làm rõ sự ra đời tất yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam - chủ thể hoạch định đường lối cách mạng Việt Nam. Làm rõ quá trình hình thành, phát triển và kết quả thực hiện đường lối cách mạng của Đảng, trong đó đặc biệt làm rõ đường lối của Đảng trên một số lĩnh vực cơ bản của thời kỳ đổi. Làm rõ kết quả thực hiện đường lối cách mạng của Đảng trong tiến trình cách mạng Việt Nam * Yêu cầu đặt ra đối với việc dạy và học môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam: Đối với người dạy: cần nghiên cứu đầy đủ các cương lĩnh, nghị quyết, chỉ thị của Đảng trong toàn bộ tiến trình lãnh đạo cách mạng, bảo đảm cập nhật hệ thống đường lối của Đảng. Mặt khác, trong giảng dạy phải làm rõ hoàn cảnh lịch sử ra đời và sự bổ
- 4 sung, phát triển các quan điểm, chủ trương của Đảng trong tiến trình cách mạng, gắn lý luận với thực tiễn trong quá trình giảng dạy. Đối với người học: cần nắm vững nội dung cơ bản đường lối của Đảng, để từ đó lý giải những vấn đề thực tiễn và vận dụng được quan điểm của Đảng vào cuộc sống. Đối với cả người dạy và người học: trên cơ sở nghiên cứu một cách hệ thống, sâu sắc đường lối của Đảng cùng với tri thức chuyên ngành của mình, có thể đóng góp ý kiến cho Đảng về đường lối, chính sách, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng nước ta. II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC HỌC TẬP 1. Phương pháp nghiên cứu a) Cơ sở phương pháp luận Nghiên cứu, học tập môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam phải trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và các quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận của Hồ Chí Minh. b) Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Ngoài ra có sự kết hợp các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh, quy nạp và diễn dịch, cụ thể hoá và trừu tượng hóa thích hợp với từng nội dung môn học. 2. Ý nghĩa của học tập môn học Trang bị cho sinh viên những hiểu biết cơ bản về đường lối của Đảng trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bồi dưỡng cho sinh viên niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng theo mục tiêu, lý tưởng của Đảng, nâng cao ý thức trách nhiệm của sinh viên trước những nhiệm vụ trọng đại của đất nước. Giúp sinh viên vận dụng kiến thức chuyên ngành để chủ động, tích cực trong giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội theo đường lối, chính sách của Đảng.
- 5 CHƯƠNG I SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 1. Hoàn cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX a) Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương tây chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (hay còn gọi là chủ nghĩa đế quốc). Chúng đẩy mạnh chiến tranh xâm lược và nô dịch các dân tộc thuộc địa để tìm kiếm nguồn nguyên nhiên liệu và thị trường tiêu thụ. Sự thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống của nhân dân lao động các nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc ngày càng gay gắt, phong trào đấu tranh chống xâm lược diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa. “Chủ nghĩa đế quốc mang theo chiến tranh như mây mù mang theo mưa” (Lênin). Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) đã cướp đi biết bao sinh mạng và của cải vật chất của nhân loại. b) Ảnh hưởng của Chủ nghĩa Mác-Lênin Vào giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết phải có hệ thống lý luận khoa học với tư cách là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Trước hoàn cảnh đó, chủ nghĩa Mác ra đời, về sau được Lênin phát triển và trở thành chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản. Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ rõ, muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải lập ra đảng cộng sản. Đảng phải luôn đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, mọi chiến lược, sách lược của Đảng đều luôn xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân. Nhưng, Đảng phải đại biểu cho quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động. Bởi vì giai cấp công nhân chỉ có thể giải phóng được mình nếu đồng thời giải phóng cho các tầng lớp nhân dân lao động khác trong xã hội. Chủ nghĩa Mác-Lênin được truyền bá vào Việt Nam, thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển theo khuynh hướng cách mạng vô sản, dẫn tới sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- 6 c) Cách mạng Tháng Mười Nga và Quốc tế Cộng sản Cách mạng tháng Mười Nga thành công năm 1917 đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử loài người – kỷ nguyên quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Cách mạng tháng Mười Nga còn là cuộc cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa vốn là thuộc địa của các Sa hoàng Nga ở vùng Kavkaz, Trung Á và các thuộc địa này đã liên minh với nước Nga để thành lập Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết gồm 15 nước. Cách mạng tháng Mười Nga đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức, mở đầu cho sự phát triển mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, mà tiêu biểu nhất là ở châu Á (Lênin gọi là “phong trào châu Á thức tỉnh”) với các nước như Trung Quốc, Ấn Độ Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) được thành lập. Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được công bố tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản vào năm 1920 đã chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức trên lập trường cách mạng vô sản. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và chỉ đạo về vấn đề thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã nói: “An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”1. 2. Hoàn cảnh trong nước a) Xã hội Việt Nam dưới sự thống trị của thực dân Pháp * Chính sách thống trị, khai thác thuộc địa của Pháp ở Việt Nam Chính sách thống trị, khai thác thuộc địa của thực dân Pháp có thể đúc kết bằng công thức “Độc quyền về kinh tế, chuyên chế về chính trị, nô dịch và ngu dân về văn hóa”. Về chính trị: - Cai trị trực tiếp, nắm mọi quyền hành, vua quan nhà Nguyễn chỉ là bù nhìn. - Thực hiện chính sách “chia để trị”. - Lập Liên bang Đông Dương nhằm xoá tên ba nước Đông Dương. Về kinh tế: - Thực hiện chính sách độc quyền, chế độ thuế khóa, kìm hãm, chỉ cho phát triển một số ngành kinh tế phục vụ cho chính sách thực dân. 1 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 2, tr.287.
- 7 - Du nhập phương thức bóc lột tư bản chủ nghĩa, đồng thời vẫn duy trì phương thức bóc lột phong kiến. Về văn hoá – xã hội: - Thực hiện chính sách ngu dân. - Khuyến khích hủ tục lạc hậu, du nhập văn hoá đồi trụy phương Tây vào Việt Nam nhằm đầu độc nhân dân Việt Nam về tư tưởng. - Ngăn cấm, phá hoại bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam. Cấm các tư tưởng văn hoá tiến bộ thế giới du nhập vào Việt Nam. * Sự chuyển biến về kinh tế và xã hội ở Việt Nam Chuyển biến về kinh tế: - Nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm nặng nề, phát triển chậm, què quặt, phiếm diện, lệ thuộc vào kinh tế Pháp. Chuyển biến về xã hội: - Tính chất xã hội thay đổi: từ xã hội phong kiến chuyển sang xã hội thuộc địa nửa phong kiến. - Mâu thuẫn cơ bản thay đổi: toàn thể dân tộc Việt Nam mâu thuẫn với thực dân Pháp và tay sai; nông dân Việt Nam mâu thuẫn với giai cấp địa chủ phong kiến. - Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam thay đổi: cứu nước, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu. - Kết cấu giai cấp thay đổi: + Giai cấp cũ: địa chủ phong kiến, nông dân. + Giai cấp mới xuất hiện: công nhân, tư sản, tiểu tư sản. b) Các phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến: Phong trào chống Pháp ở Nam Kỳ (1861-1868) với các lãnh tụ nghĩa quân như Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân Phong trào Cần Vương và hưởng ứng chiếu Cần Vương (1885-1895). Phong trào Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo (1884-1913). Phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản: Phong trào Đông Du (1906-1908) của Phan Bội Châu với xu hướng vũ trang bạo động. Phong trào Duy Tân (1906-1908) của Phan Chu Trinh và Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) với xu hướng cải lương, duy tân, cải cách.
- 8 Phong trào Quốc gia cải lương (1919-1923) của bộ phận tư sản và địa chủ lớp trên, tiêu biểu là sự xuất hiện của Đảng Lập hiến của Bùi Quang Chiêu. Phong trào cách mạng quốc gia gắn liền với sự ra đời và hoạt động của Việt Nam Quốc Dân Đảng (1927-1930), với khởi nghĩa Yên Bái (9-2-1930) * Nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước trên: Thiếu đường lối cứu nước đúng đắn. Không có lực lượng lãnh đạo. Không đoàn kết được lực lượng cách mạng trong cả nước, bỏ rơi một lực lượng cách mạng đông đảo, to lớn là giai cấp nông dân. Sự thất bại của các phong yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã dẫn đến cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước, về giai cấp lãnh đạo. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra lúc này là phải tìm một con đường cách mạng mới, với một giai cấp có đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, của nhân dân, có đủ uy tín và năng lực lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thắng lợi. c) Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản Quá trình tìm đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: Ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc) đã rời Tổ quốc đi sang phương Tây tìm đường cứu nước với tên gọi Văn Ba. Từ năm 1911-1917 Người đã đi qua 4 châu lục Á - Âu - Phi - Mỹ. Qua cuộc sống thực tiễn, nghiên cứu các cuộc cách mạng trên thế giới, nhất là cách mạng tư sản Pháp, Mỹ, Người khẳng định cách mạng Việt Nam không thể đi theo con đường này. Năm 1917, cách mạng tháng Mười Nga thành công, Nguyễn Tất Thành đã tin tưởng, hướng theo con đường cách mạng tháng Mười.
- 9 Năm 1919, với tên mới là Nguyễn Ái Quốc, Người đã gửi tới hội nghị Versailess (Pháp) bản Yêu sách 8 điểm đòi quyền lợi cho dân tộc Việt Nam. Tháng 7-1920, Người đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin được đăng trên báo Nhân Đạo của Đảng Xã hội Pháp. Luận cương đã giải đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở tìm hiểu. Luận cương đã giúp Người tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam – con đường cách mạng vô sản. Ngày 30-12-1920, tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp họp ở Tuar, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc thành lập Đảng Cộng sản Pháp, gia nhập Quốc tế III. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quan trọng trên con đường hoạt động cách mạng của Người: từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, trở thành một trong những nhà sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Năm 1920 đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam: dân tộc ta đã có một đường lối đúng đắn, đó là con đường giải phóng dân tộc theo chủ nghĩa Mác-Lênin. Quá trình chuẩn bị thành lập Đảng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Sự chuẩn bị về tư tưởng: Từ nước ngoài Người đã viết và gửi các sách báo, tài liệu về Việt Nam như các báo Việt Nam hồn, Người cùng khổ, Sự Thật, Thư tín quốc tế, Nhân đạo, Đông Dương và đặc biệt là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp để truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin và chỉ rõ con đường cách mạng mà nhân dân ta cần đi theo. Nội dung và mục đích của các bài báo, bài viết trên là nhằm tố cáo tội ác và lên án chủ nghĩa thực dân Pháp, thức tỉnh ý thức dân tộc, ý thức cách mạng, kêu gọi nhân dân đoàn kết đấu tranh và kêu gọi sự đoàn kết trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc của nhân dân Pháp với nhân dân các thuộc địa. - Sự chuẩn bị về chính trị: Từ nước ngoài Người đã viết và gửi các sách báo, tài liệu về Việt Nam như các báo Việt Nam hồn, Người cùng khổ, tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, tác phẩm Đường Kách mệnh để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và chỉ rõ con đường cách mạng mà nhân dân ta cần đi theo. Các tác phẩm, bài viết của Người từ năm 1921-1927 toát lên những quan điểm về kẻ thù của cách mạng, con đường, xu hướng, lực lượng lãnh đạo và tham gia, phương pháp, hình thức cách mạng, mối quan hệ cách mạng thuộc địa với cách mạng chính quốc, - Sự chuẩn bị về tổ chức: Ngày 11-11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc) làm nhiệm vụ đặc phái viên của Quốc tế cộng sản và trực tiếp chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 6-1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, nhằm
- 10 tập hợp những thanh niên yêu nước Việt Nam có xu hướng cộng sản chủ nghĩa, chuẩn bị thành lập Đảng. Người đã trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu, cuốn Đường Cách Mệnh là tập bài giảng của Người trong lớp huấn luyện đó. Năm 1928, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đề ra chủ trương “Vô sản hóa”, đưa hội viên vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền cùng ăn, cùng ở, cùng làm với công nhân. Chủ trương này có tác dụng rèn luyện những người trí thức tiểu tư sản về lập trường giai cấp công nhân và bước đầu kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên kết nạp ngày càng nhiều hội viên, có cơ sở trong cả nước cho nên trở thành lực lượng chính trị yêu nước lớn mạnh nhất, hoàn thành ý nguyện của người sáng lập Hội là chuẩn bị tiền đề cho việc thành lập Đảng. Sự ra đời của các tổ chức Cộng sản ở Việt Nam: Đến 1929, phong trào cách mạng ở Viêt Nam phát triển mạnh, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên không còn đủ sức lãnh đạo phong trào cách mạng nữa. Đến đây, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình là chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 17-6-1929, Đông Dương cộng sản đảng được thành lập ở Hà Nội. Cuối tháng 7 đầu 8-1929, An Nam Cộng sản đảng ra đời ở Nam Kỳ. Tháng 1-1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn ra đời từ trong phái “tả” của Đảng Tân Việt ở Trung Kỳ. Nhận xét: Ba tổ chức cộng sản ra đời phản ánh xu thế tất yếu của phong trào dân tộc ở Việt Nam. Song sự tồn tại ba tổ chức Cộng sản hoạt động riêng rẽ, tranh giành quần chúng, có nguy cơ dẫn đến cách mạng bị chia rẽ. Yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam lúc này là phải có một Đảng Cộng sản thống nhất lãnh đạo cách mạng trong cả nước. II. HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG 1. Hội nghị thành lập Đảng Hội nghị hợp nhất họp từ ngày 6-1 đến 7-2-1930, tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc), quyết định thành lập Đảng Cộng sản chung trong cả nước lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. 2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng a) Nội dung Cương lĩnh: Gồm 6 nội dung chính: Phương hướng chiến lược: làm “Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
- 11 Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền: chống đế quốc và chống phong kiến, trong đó nhiệm vụ chống đế quốc nổi lên hàng đầu. Lực lượng cách mạng: công nông là lực lượng chính của cách mạng; phải đoàn kết, tranh thủ tiểu tư sản, trí thức ; đối với phú nông, trung tiểu địa chủ chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải tranh thủ hoặc trung lập họ. Phương pháp cách mạng: phải sử dụng bạo lực cách mạng để đấu tranh giành độc lập dân tộc chứ không thể đấu tranh bằng con đường cải lương, thoả hiệp do kẻ thù dùng bạo lực phản cách mạng để đàn áp. Đoàn kết quốc tế: cách mạng Việt Nam phải đoàn kết với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản quốc tế, nhất là giai cấp vô sản Pháp. Về vai trò lãnh đạo của Đảng: Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam, nên Đảng phải vững mạnh về tổ chức, phải có đường lối đúng, phải thống nhất về ý chí và hành động. b) Ý nghĩa Cương lĩnh: Cương lĩnh đã phản ánh đầy đủ những quy luật vận động, phát triển nội tại, khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng được yêu cầu cơ bản và cấp bách của nhân dân ta, đồng thời phù hợp với xu thế phát triển của thời đại lịch sử mới. Cương lĩnh trở thành ngọn cờ đoàn kết toàn Đảng, toàn dân, là vũ khí sắc bén của những người cộng sản Việt Nam trước mọi kẻ thù. Là cơ sở cho các đường lối chủ trương của cách mạng Việt Nam trong hơn 70 năm qua. Cương lĩnh thể hiện sự nhận thức, vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, điều đó chứng tỏ ngay từ đầu Đảng Cộng sản Việt Nam đã độc lập, sáng tạo trong chủ trương, đường lối của mình. 3. Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời 1930 là một tất yếu lịch sử: Đảng là kết quả của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam trong thời đại mới. Đảng là kết quả của quá trình chuẩn bị công phu, khoa học của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trên cả ba mặt tư tưởng, chính trị và tổ chức.
- 12 Đảng là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Đây là sự sáng tạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng ở một nước thuộc địa. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam: Đảng ra đời chấm dứt thời kỳ khủng hoảng bế tắc về đường lối cứu nước ở Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức nắm vai trò lãnh đạo. Đảng ra đời, Cách mạng Việt Nam có một Đảng duy nhất lãnh đạo đưa Cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
- 13 CHƯƠNG II ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930-1945) I. CHỦ TRƯƠNG ĐẤU TRANH TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1939 1. Trong những năm 1930-1935 a) Luận cương Chính trị tháng 10-1930 Tháng 10-1930, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc) do đồng chí Trần Phú chủ trì, quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương, bầu ra Ban chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí Trần Phú làm Tổng Bí thư. Hội nghị thông qua Luận cương chính trị do đồng chí Trần Phú soạn thảo. * Nội dung của Luận cương: Chiến lược cách mạng Đông Dương: tiến hành cách mạng tư sản dân quyền có tính chất thổ địa và phản đế. “Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng. Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục phát triển bỏ qua thời kỳ tư bản mà tranh đấu thẳng lên con đường XHCN”. Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền: đánh đổ phong kiến, đế quốc có quan hệ khăng khít, trong đó vấn đề đánh đổ phong kiến đem lại ruộng đất cho nông dân là vấn đề cốt lõi của cách mạng tư sản dân quyền. Lực lượng cách mạng: công nhân - nông dân là lực lượng chính, trong đó công nhân là giai cấp lãnh đạo. Phương pháp cách mạng: thực hiện vũ trang bạo động, sử dụng bạo lực cách mạng một cách linh hoạt, phù hợp với tình hình. Đảng lãnh đạo: Đảng phải có đường lối đúng, liên hệ mật thiết với quần chúng. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng, phấn đấu vì mục tiêu chủ nghĩa cộng sản. Quan hệ quốc tế: cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải đoàn kết với vô sản thế giới, trước hết là vô sản Pháp * Nhận xét về Luận cương: Luận cương chính trị tháng 10-1930 đã vạch ra nhiều vấn đề cơ bản thuộc về chiến lược cách mạng. Tuy nhiên do nhận thức giáo điều, máy móc về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong cách mạng thuộc địa, đồng thời chịu ảnh hưởng trực tiếp của khuynh hướng “tả” trong Quốc tế Cộng sản, nên Luận cương đã không nêu ra được mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp,
- 14 từ đó không đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu, mà nặng về đấu tranh giai cấp, về cách mạng ruộng đất; đánh giá không đúng vai trò cách mạng của tầng lớp tiểu tư sản, phủ nhận mặt tích cực của tư sản dân tộc và chưa thất được khả năng phân hóa, lôi kéo một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ trong cách mạng giải phóng dân tộc, từ đó Luận cương đã không đề ra được một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và tay sai. Từ nhận thức hạn chế như vậy, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã phê phán gay gắt quan điểm đúng đắn trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do đồng chí Nguyễn Ái Quốc khởi thảo được Hội nghị hợp nhất thông qua. Sau này trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã từng bước sửa chữa, khắc phục những hạn chế đó và đưa cách mạng đến thành công. b) Chủ trương khôi phục tổ chức đảng và phong trào cách mạng * Đảng lãnh đạo phong trào cách mạng 1930- 1931: Hoàn cảnh lịch sử: Đảng có đường lối cách mạng phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Mâu thuẫn về kinh tế, chính trị ngày càng sâu sắc giữa nhân dân ta và thực dân Pháp sau khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933), nhất là sau khởi nghĩa Yên Bái. Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô phát triển mạnh, là tấm gương cho các dân tộc thuộc địa noi theo. Diễn biến, kết quả: Bắt đầu từ tháng 1-1930, đỉnh cao là ở Nghệ An - Hà Tĩnh với việc thành lập các chính quyền kiểu Xô Viết (9-1930). Chính quyền Xô Viết Nghệ Tĩnh đã thực hiện chính sách đồng bộ về chính trị, kinh tế, xã hội đem lại quyền lợi, hạnh phúc bước đầu cho nhân dân. Từ năm 1931, phong trào bị đàn áp. Ý nghĩa: Phong trào được lịch sử đánh giá như là cuộc Tổng diễn tập đầu tiên của Đảng và nhân dân chuẩn bị cho thắng lợi của cách mạng tháng Tám, vì: Phong trào đã hình thành được liên minh công - nông, là lực lượng đông đảo, là động lực chính cho cách mạng, khẳng định trong thực tế quyền lãnh đạo và năng lực lãnh đạo của giai cấp vô sản mà đại biểu là Đảng Cộng sản. Đảng đã kiểm nghiệm được đường lối lãnh đạo của mình trong thực tiễn, rút được những kinh nghiệm bước đầu về kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược phản đế, phản phong, giành và giữ chính quyền. * Đảng lãnh đạo khôi phục phong trào cách mạng 1932-1935: Từ cuối năm 1931, phong trào cách mạng bị đàn áp khốc liệt, các cơ sở Đảng bị phá vỡ, phong trào cách mạng rơi vào thoái trào.
- 15 Chủ trương, hành động đấu tranh khôi phục phong trào: thể hiện ở bản Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương (6-1932). Chương trình hành động đã đánh giá hai năm đấu tranh của quần chúng công nông và đề ra 4 yêu cầu chung: Đòi các quyền tự do dân chủ, tự do tổ chức, ngôn luận, hội họp, đi lại trong nước và ra nước ngoài. Bỏ những luật hình đặc biệt đối với người bản xứ, trả lại tự do cho tù chính trị, bỏ ngay chính sách đàn áp, Bỏ thuế thân, thuế ngụ cư và các thứ thuế vô lý khác, Bỏ các độc quyền về muối, rượu, thuốc phiện. Chương trình hành động còn đề ra những yêu cầu cụ thể riêng cho từng giai cấp và tầng lớp nhân dân; vạch rõ phải ra sức tuyên truyền mở rộng ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng, củng cố và phát triển các đoàn thể cách mạng; dẫn dắt quần chúng đấu tranh, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền khi có điều kiện. Về xây dựng Đảng, phải làm cho Đảng vững mạnh, có kỷ luật nghiêm, giáo dục đảng viên về tư tưởng, chính trị, rèn luyện đảng viên qua đấu tranh cách mạng. Chương trình hành động của Đảng đã cụ thể hóa cương lĩnh của Đảng trong thời kỳ thoái trào, đề ra những yêu cầu chính trị trước mắt, những biện pháp tổ chức và đấu tranh, góp phần nhanh chóng khôi phục phong trào cách mạng và hệ thống tổ chức Đảng. Đấu tranh trong nhà tù: giữ vững khí tiết cách mạng, biến nhà tù thành trường học: “Biến cái rủi thành cái may, các đồng chí ta đã lợi dụng những ngày tháng ở tù để hội họp và học tập lý luận. Một lần nữa, việc đó lại chứng tỏ là chính sách khủng bố cực kỳ dã man của kẻ thù chẳng những không ngăn trở được bước tiến của cách mạng, mà trái lại, nó đã trở nên một thứ lửa thử vàng, nó rèn luyện người cách mạng càng thêm cứng rắn. Mà kết quả là cách mạng đã thắng, đế quốc đã thua”. Đấu tranh bên ngoài: thành lập các chi bộ bí mật, tổ chức, tập hợp nhân dân đấu tranh dưới nhiều hình thức: hội cày, hội cấy, đá bóng, đọc sách báo, tranh cử vào Hội đồng thành phố Sài Gòn Kết quả:
- 16 Phong trào cách mạng từng bước được khôi phục. Năm 1932, Ban Lãnh đạo Trung ương của Đảng được thành lập do Lê Hồng Phong đứng đầu. Đến năm 1934, đầu năm 1935, hệ thống tổ chức của Đảng và phong trào cách mạng quần chúng được khôi phục, đây là cơ sở để tiến tới Đại hội lần thứ nhất của Đảng. * Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng (3-1935) Đại hội họp từ ngày 27 đến 31-3-1935 tại Ma Cao (Trung Quốc). Dự Đại hội có 13 đại biểu thay mặt cho hơn 600 đảng viên thuộc các Đảng bộ trong nước và tổ chức Đảng hoạt động ở nước ngoài. Đồng chí Hà Huy Tập chủ trì Đại hội. Nội dung cơ bản: Đại hội nhận định tình hình trong nước và quốc tế, khẳng định thắng lợi của cuộc đấu tranh khôi phục phong trào cách mạng và hệ thống tổ chức của Đảng. Đại hội nêu ra ba nhiệm vụ chủ yếu trước mắt: + Củng cố và phát triển Đảng, tăng cường lực lượng Đảng ở các xí nghiệp, đồn điền. + Đẩy mạnh cuộc vận động quần chúng, mở rộng ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng. + Mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chiến tranh đế quốc, ủng hộ Liên Xô, Trung Quốc. Đại hội thông qua Nghị quyết chính trị, Điều lệ Đảng, bầu ra Ban chấp hành Trung ương Đảng mới do đồng chí Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư. Ý nghĩa của Đại hội: Đại hội đánh dấu thắng lợi của cuộc đấu tranh khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng và phong trào cách mạng Việt Nam, chuẩn bị điều kiện để Đảng bước vào cuộc đấu tranh mới. Song, hạn chế là Đại hội chưa tổng kết được những kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng, không đề ra được phương hướng chỉ đạo thích hợp cho cách mạng Việt Nam trước nguy cơ chiến tranh phát-xít. 2. Trong những năm 1936-1939 a) Hoàn cảnh lịch sử Tình hình thế giới Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 và nguy cơ của một cuộc khủng hoảng mới làm cho mâu thuẫn xã hội ở các nước tư bản chủ nghĩa thêm sâu sắc. Các đế quốc Đức, Ý, Nhật thiết lập chế độ phát xít, chuẩn bị chiến tranh để chia lại thế giới và từ năm 1935 chúng đã tiến hành xâm lược một số nước. Chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh đang đe dọa loài người. Do đó, phong trào đấu tranh chống phát xít, chống chiến tranh nổi lên ở nhiều nước. * Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản (tháng 7-1935 tại Moskva):
- 17 Xác định kẻ thù trước mắt của nhân dân thế giới là chủ nghĩa phát-xít. Xác định nhiệm vụ của cách mạng thế giới: đấu tranh chống chủ nghĩa phát-xít, chiến tranh phát-xít, giành dân chủ và hoà bình. Chủ trương thành lập ở mỗi nước thuộc địa và nửa thuộc địa một Mặt trận thống nhất chống đế quốc. Ý nghĩa: Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản đã nêu được những vấn đề chính của cách mạng thế giới, giúp cho cách mạng các nước thuộc địa có hướng đi đúng, phù hợp với tình hình thế giới lúc bấy giờ. Tình hình trong nước Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã tác động sâu sắc đến các giai cấp và tầng lớp nhân dân lao động. Trong khi đó, bọn cầm quyền phản động ở Đông Dương vẫn ra sức vơ vét, bóc lột, bóp nghẹt mọi quyền tự do, dân chủ và thi hành chính sách khủng bố, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân ta. Tình hình đó làm cho các giai cấp và tầng lớp tuy có quyền lợi khác nhau, nhưng đều căm thù thực dân và đều có nguyện vọng chung là đấu tranh để đòi quyền sống, quyền tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Trong lúc này, hệ thống tổ chức của Đảng và các cơ sở cách mạng của quần chúng đã được khôi phục. Đây là yếu tố rất quan trọng, quyết định bước phát triển mới của phong trào cách mạng nước ta. b) Chủ trương và nhận thức mới của Đảng Dưới ánh sáng của chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, trong những năm 1936-1939, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp Hội nghị lần thứ 2 (7-1936), lần thứ ba (3-1937), lần thứ tư (9- 1937) và lần thứ năm (3-1938) đề ra những chủ trương mới về chính trị, tổ chức và hình thức đấu tranh mới phù hợp với tình hình cách mạng nước ta. Chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ, dân sinh: Về nhiệm vụ trước mắt của cách mạng: Khẳng định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng tư sản dân quyền là chống đế quốc và chống phong kiến không thay đổi, nhưng trước mắt phải tập trung chống phát-xít, chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do dân chủ, cơm áo và hòa bình. Về kẻ thù của cách mạng: Kẻ thù trước mắt nguy hại nhất của nhân dân Đông Dương cần tập trung đánh đổ là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng. Thành lập Mặt trận nhân dân phản đế và sau đó được đổi tên thành Mặt trận Dân chủ Đông Dương.
- 18 Chuyển hình thức đấu tranh từ bí mật không hợp pháp sang các hình thức tổ chức và đấu tranh công khai và nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp để tập hợp và giáo dục quần chúng đấu tranh. Nhận thức mới của Đảng về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ: Trong khi đề ra chủ trương mới để lãnh đạo nhân dân đấu tranh, Đảng ta đã đặt vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, phản đế và điền địa trong cách mạng ở Đông Dương. Trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới công bố tháng 10-1936, Đảng đã nêu một quan điểm mới: “Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa thì cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng” 1. Vì rằng, tùy hoàn cảnh cụ thể, nếu nhiệm vụ chống đế quốc là cần kíp, còn vấn đề giải quyết điền địa tuy quan trọng nhưng chưa phải trực tiếp bắt buộc, thì có thể tập trung đánh đổ đế quốc rồi sau mới giải quyết vấn đề điền địa. Nhưng cũng có khi vấn đề điền địa và phản đế phải liên tiếp giải quyết, vấn đề này giúp cho vấn đề kia làm xong mục đích của cuộc vận động. “Nói tóm lại, nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc đấu tranh phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”2. Đây là nhận thức mới của Đảng ta, nó phù hợp với tinh thần trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và bước đầu khắc phục được những hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10-1930. Tháng 3-1939, Đảng ra bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với thời cuộc, nêu rõ họa phát xít đang đến gần và kêu gọi các tầng lớp nhân dân phải đấu tranh đòi các quyền tự do dân chủ, chống nguy cơ chiến tranh phát xít. Tháng 7-1939, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ cho xuất bản tác phẩm Tự chỉ trích. Tác phẩm đã phân tích những vấn đề cơ bản về xây dựng Đảng, tổng kết kinh nghiệm cuộc vận động dân chủ của Đảng, nhất là về đường lối xây dựng Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Tác phẩm này còn có tác dụng to lớn trong cuộc đấu tranh khắc phục những lệch lạc, sai lầm trong phong trào vận động dân chủ, tăng cường đoàn kết nhất trí trong nội bộ Đảng. Tóm lại, trong những năm 1936-1939, chủ trương mới của Đảng đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể trước mắt của cách mạng, giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, đề ra các hình thức tổ chức và đấu tranh 1 ĐCSVN: Sđd.,, tập 6, tr.152. 2 ĐCSVN: Sđd.,, tập 6, tr.152.
- 19 linh hoạt, thích hợp, Các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương trong thời kỳ này đánh dấu bước trưởng thành của Đảng về chính trị và tư tưởng, thể hiện bản lĩnh và tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng, mở ra một cao trào mới trong cả nước. c) Ý nghĩa: Lịch sử đánh giá phong trào Dân chủ 1936-1939 như cuộc Tổng diễn tập lần thứ hai của Đảng và nhân dân Việt Nam, chuẩn bị cho thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945, vì: Hình thành được Mặt trận chính trị rộng rãi chống đế quốc, phong kiến. Phong trào thể hiện được nhiều hình thức đấu tranh, giành được những quyền lợi nhất định về dân sinh, dân chủ cho nhân dân. Phong trào đã tạo được khí thế cách mạng rộng khắp trong cả nước, tạo điều kiện để cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ đấu tranh mới. II. CHỦ TRƯƠNG ĐẤU TRANH TỪ NĂM 1939 ĐẾN NĂM 1945 1. Hoàn cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng a) Tình hình thế giới và trong nước Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ: Ngày 1-9-1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan, hai ngày sau Anh và Pháp tuyên chiến với Đức, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Tháng 6-1940, Đức tấn công Pháp. Chính phủ Pháp đầu hàng Đức. Ngày 22-6- 1941, phátxít Đức tấn công Liên Xô. Từ khi phátxít Đức tấn công Liên Xô, tính chất chiến tranh đế quốc chuyển thành chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với các lực lượng phátxít do Đức cầm đầu. Tình hình trong nước: Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ đã ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến Đông Dương và Việt Nam. Ngày 28-9-1939, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, cấm lưu hành, tàng trữ tài liệu cộng sản, đặt Đảng Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, đóng cửa các tờ báo, cấm hội họp và tụ tập đông người Trong thực tế, ở Việt Nam và Đông Dương, thực dân Pháp đã thi hành chính sách thời chiến rất trắng trợn. Chúng phátxít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân, tập trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Một số quyền tự do, dân chủ giành được trong thời kỳ 1936-1939 bị thủ tiêu. Chúng ban bố lệnh tổng động viên, thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy” nhằm tăng cường vơ vét sức người, sức của để phục vụ cho chiến tranh của đế quốc. Hơn 70.000 thanh niên bị bắt sang Pháp để làm bia đỡ đạn. Lợi dụng lúc Pháp mất nước, ngày 22-9-1940, phátxít Nhật đã tiến vào Lạng Sơn và đổ bộ vào Hải Phòng. Ngày 23-9-1940, tại Hà Nội, Pháp ký hiệp định đầu hàng
- 20 Nhật. Từ đây, nhân dân ta chịu cảnh một cổ hai tròng áp bức, bóc lột của Pháp - Nhật. Mâu thuẫn giữa nhân dân ta với Pháp - Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. b)Nội dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược Kể từ khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, Ban Chấp hành Trung ương đã họp Hội nghị lần thứ sáu (11-1939), Hội nghị lần thứ bảy (11-1940) và Hội nghị lần thứ tám (5-1941) quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng như sau: Đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu: “trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”1. Để tập trung cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc, Đảng ta quyết định tạm gác lại khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiệu “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian cho dân cày nghèo”, “Chia lại ruộng đất công cho công bằng và giảm tô, giảm tức”, Thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương để đoàn kết, tập hợp các lực lượng cách mạng đông đảo trong cả nước không phân biệt thành phần, lứa tuổi nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc. Quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Phong trào chống Pháp - Nhật kể từ khởi nghĩa Bắc Sơn (27-09-1940), khởi nghĩa Nam Kỳ (23-11-1940), binh biến Đô Lương (13-01-1941) liên tục phát triển, đã thức tỉnh tinh thần cách mạng của nhân dân cả nước và để lại nhiều kinh nghiệm quý báu về khởi nghĩa vũ trang cho Đảng ta, là tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc. Trước tình hình đó, mặt trận Việt Minh đã ra tuyên ngôn, chương trình hành động nhằm hướng dẫn, chuẩn bị lực lượng cho khởi nghĩa: Xây dựng các căn cứ địa cách mạng Cao - Bắc - Lạng, Thái - Hà - Tuyên, lập các đội vũ trang tự vệ, tổ chức các trận đánh du kích. Đội du kích Bắc Sơn được tổ chức lại và đổi tên thành Cứu quốc quân. Ngày 22-12-1944 Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, hoạt động theo phương châm “chính trị trọng hơn quân sự, tuyên truyền trọng hơn tác chiến”. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân chính là tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam sau này. Coi trọng xây dựng lực lượng cách mạng ở đô thị, phát động nhân dân ở các đô thị đấu tranh. 1 ĐCSVN: Sđd.,, tập 7, tr.113.
- 21 Tổ chức quần chúng đấu tranh trên mặt trận văn hoá, tư tưởng chống lại văn hoá nô dịch, xây dựng nền văn hoá mới theo phương châm dân tộc - khoa học - đại chúng (Đề cương văn hoá Việt Nam - 1943). c) Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương đúng đắn để thực hiện. Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tập hợp rộng rãi mọi người Việt Nam yêu nước trong Mặt trận Việt Minh, xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng ở cả nông thôn và thành thị, xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang, là ngọn cờ dẫn đường cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. 2. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền a) Phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước và đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần Phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước: Vào cuối năm 1944, đầu năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Hồng quân Liên Xô quét sạch phátxít Đức ra khỏi lãnh thổ của mình và tiến như vũ bão về Berlin. Phátxít Nhật lâm vào tình trạng nguy khốn. Mâu thuẫn giữa Nhật - Pháp ngày càng gay gắt. Đêm 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương. Quân Pháp đã nhanh chóng đầu hàng quân Nhật. Ngay trong đêm 9-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng ở làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh). Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Cụ thể là: Nhận định điều kiện khởi nghĩa chưa chín muồi nhưng kẻ thù đã bị khủng hoảng chính trị, ta có nhiều cơ hội tốt để tiến tới khởi nghĩa. Xác định kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương sau ngày 9-3-1945 là phát xít Nhật, khẩu hiệu đấu tranh lúc này là “Đánh đuổi phát xít Nhật”. Xác định nhiệm vụ trước mắt là phát động cao trào Kháng Nhật cứu nước với các hình thức đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang, đấu tranh kinh tế để chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa. Dự kiến các thời cơ khởi nghĩa: + Khi quân đồng minh tiến sâu, bám chắc trên đất Đông Dương, Nhật đem quân ra đánh, để hở phía sau. + Nhật mất nước như Pháp năm 1940. + Cách mạng Nhật thắng lợi, giai cấp vô sản Nhật giành được chính quyền.
- 22 Song ta không được ỷ lại vào bên ngoài mà phải nêu cao tinh thần dựa vào sức mình là chính. Đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận: Từ giữa tháng 3-1945 trở đi, Cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra rất sôi nổi, mạnh mẽ và phong phú về nội dung, hình thức. Phong trào đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần đã diễn ra trong nhiều nơi ở vùng thượng du và trung du Bắc Kỳ. Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng giải phóng hàng loạt xã, châu, huyện thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang. Ngày 15-4-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ ở Hiệp Hòa (Bắc Giang). Hội nghị đã quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang sẵn có thành Việt Nam giải phóng quân; quyết định xây dựng bảy chiến khu trong cả nước và chủ trương phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang và nửa vũ trang. Ngày 4-6-1945, Khu Giải phóng chính thức được thành lập, trở thành căn cứ địa chính của cách mạng cả nước, là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới. Giữa lúc phong trào quần chúng đang phát triển mạnh mẽ trong cả nước ở cả nông thôn và thành thị, nạn đói đã diễn ra nghiêm trọng ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ do hậu quả của chính sách vơ vét, bóc lột của Pháp - Nhật. Hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Trước tình hình đó, Đảng kịp thời đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói”. Chủ trương đó đã đáp ứng đúng nguyện vọng cấp bách của nhân dân ta, vì vậy trong một thời gian ngắn, Đảng đã động viên được hàng triệu quần chúng tiến lên trận tuyến cách mạng. b) Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Ngày 2-5-1945, Hồng quân Liên Xô chiếm Berlin, tiêu diệt phátxít Đức tận hang ổ của chúng. Ngày 9-5-1945, phátxít Đức đầu hàng quân Đồng minh không điều kiện. Ở chấu Á, phátxít Nhật đang đi gần đến chỗ thất bại hoàn toàn. Trước sự phát triển nhanh chóng của tình hình, Trung ương quyết định họp Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 13 đến 15-8-1945: Quyết định phát động Tổng Khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Nguyên tắc chỉ đạo: đánh những nơi chắc thắng bất kể thành thị hay nông thôn, kết hợp đấu tranh chính trị với vũ trang làm tan rã tinh thần quân địch, gọi hàng trước khi đánh. Thành lập chính quyền nhân dân trước khi quân Đồng Minh vào Đông Dương. Từ ngày 16 đến ngày 17-8-1945, cũng tại Tân Trào, Đại hội quốc dân đã họp và nhiệt liệt tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng, quyết định thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam.
- 23 Ngay sau Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”1. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Từ ngày 14 đến 28-8-1945, khởi nghĩa đã thành công trong cả nước. Tiêu biểu là việc giành chính quyền ở Hà Nội (19-8), Huế (23-8) và Sài Gòn (25- 8). Ngày 30-8-1945 vua Bảo Đại thoái vị, giao nộp ấn kiếm cho đại diện Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà – nhà nước công nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. c) Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của cuộc Cách mạng Tháng Tám Ý nghĩa lịch sử: Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã đập tan ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật, lật nhào chế độ quân chủ đã tồn tại hàng mấy nghìn năm, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành nước độc lập tự do, nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình; Đảng ta trở thành Đảng hợp pháp lãnh đạo chính quyền trong cả nước. Cách mạng tháng Tám năm 1945 đánh dấu bước nhảy vọt trong lịch sử tiến hoá của dân tộc Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 đã thể hiện vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản Đông Dương. Đây là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình do Đảng Cộng sản lãnh đạo, là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác-Lênin ở một nước thuộc địa. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã chọc thủng khâu yếu nhất trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp, tan rã của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ; góp phần cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, là niềm tự hào chung của nhân dân tiến bộ thế giới. Đánh giá ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”2. 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 3, tr.554. 2 Hồ Chí Minh (2002), Sđd., t.6, tr.159.
- 24 Nguyên nhân thắng lợi: Nguyên nhân khách quan: Phe phát-xít đã thất bại trong chiến tranh thế giới II, kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta là phát-xít Nhật đã bị Liên Xô và Đồng minh đánh bại, quân đội Nhật ở Đông Dương mất hết tinh thần chiến đấu, chính phủ Trần Trọng Kim rệu rã. Nguyên nhân chủ quan: Có sự chuẩn bị công phu của Đảng Cộng sản Việt Nam: cách mạng tháng Tám là kết quả của 15 năm đấu tranh của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà trực tiếp là phong trào cách mạng 1939-1945. Trong quá trình đó, Đảng đã xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, được nhân dân nuôi dưỡng và đùm bọc, có chỗ đứng chân ngày càng vững chắc trong căn cứ địa cách mạng, giữ vai trò nòng cốt xung kích, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Đảng là người tổ chức và lãnh đạo: Đảng có đường lối cách mạng đúng đắn, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh, bắt rễ sâu trong quần chúng, đoàn kết và thống nhất, quyết tâm lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện cơ bản nhất, quyết định thắng lợi của cách mạng tháng Tám. Có sự chiến đấu hy sinh của quân dân cả nước: đó là sự hy sinh oanh liệt của các thế hệ cha anh, không quản xương máu và tính mệnh vì nền độc lập tự do của dân tộc. Kinh nghiệm lịch sử: Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Toàn dân nổi dậy trên nền tảng liên minh công - nông. Lợi dụng mâu thuẫn của kẻ thù, tránh đối đầu cùng lúc với nhiều kẻ thù. Kiên quyết sử dụng bạo lực cách mạng, biết dùng bạo lực cách mạng phù hợp với tình hình. Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ. Xây dựng Đảng Mác-Lênin đủ sức lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa.
- 25 CHƯƠNG III ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1945-1975) I. ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945-1954) 1. Chủ trương xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng (1945-1946) a) Hoàn cảnh lịch sử nước ta sau Cách mạng Tháng Tám Thuận lợi: Thế mạnh và thuận lợi lớn nhất là nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước. Toàn dân tin tưởng sâu sắc vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; đoàn kết, quyết tâm xây dựng và bảo vệ nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc. Dù còn non trẻ, chính quyền nhân dân đã được xây dựng thành hệ thống từ trung ương đến cơ sở, do Đảng lãnh đạo và được toàn dân ủng hộ. Lực lượng vũ trang nhân dân bao gồm quân đội, dân quân, tự vệ và công an mặc dù tổ chức và trang bị còn non yếu, kinh nghiệm chiến đấu còn ít, nhưng họ đều xuất thân từ nhân dân, vì nhân dân mà chiến đấu và có tinh thần yêu nước, tinh thần chiến đấu cao. Từ một Đảng hoạt động bí mật Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, Đảng có uy tín cao, có lãnh tụ sáng suốt, được toàn dân tin tưởng; Đảng có hệ thống tổ chức trong toàn quốc, có đường lối và phương pháp đúng, vững tay chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam. Khó khăn: Sau Cách mạng tháng Tám, chính quyền nhân dân mới được thành lập đã phải đương đầu với những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng. - Về kẻ thù: Đất nước bị các thế lực đế quốc phản động bao vây và tiến công. + Đầu tháng 9-1945, theo thỏa thuận của Hội nghị Postdam, Chính phủ Trung Hoa Quốc dân quốc do Tưởng Giới Thạch cầm đầu, tay sai của đế quốc Mỹ, với danh nghĩa đồng minh đã đưa 20 vạn quân vào phía Bắc vĩ tuyến 16 với âm mưu “Diệt Cộng, cầm Hồ”. + Ở phía Nam vĩ tuyến 16, từ đầu tháng 9-1945, 10 vạn quân đội Anh cũng với danh nghĩa đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Ngày 23-9-1945, thực dân Pháp
- 26 được quân Anh và quân Nhật yểm trợ đã nổ súng đánh chiếm Sài Gòn rồi Nam Bộ hòng đặt trở lại sự thống trị của thực dân Pháp đối với dân tộc Việt Nam. + Đế quốc Mỹ để cho Pháp trở lại Đông Dương nhằm lôi kéo Pháp và Anh chống Liên Xô, đồng thời cài thế để hất cẳng Pháp, Anh khỏi Đông Dương và Đông Nam Á về sau. Đế quốc Anh giúp Pháp đem quân chiếm lại Đông Dương nhằm ngăn chặn âm mưu của Mỹ và giữ các thuộc địa của mình. Các thế lực đế quốc, phản động nước ngoài tuy theo đuổi lợi ích riêng và có những thủ đoạn khác nhau, song đều có một mục tiêu chung là tiêu diệt chính quyền nhân dân, xóa bỏ thành quả của cuộc Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam. + Ngoài lực lượng của quân Tưởng, Anh, Pháp, trên đất nước ta lúc đó còn có khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp. Trong lúc chờ giải giáp, một bộ phận của đội quân Nhật đã được quân Anh sử dụng, đánh vào lực lượng vũ trang của ta, dọn đường cho quân Pháp đánh chiếm Sài Gòn và nhiều vùng ở miền Nam. + Lúc này chính quyền nhân dân vừa phải chống giặc xâm lược, vừa phải đối phó với nhiều tổ chức phản động như Việt Nam quốc dân đảng (Việt quốc), Việt Nam cách mệnh đồng minh hội (Việt cách), Đại Việt dân chính Các tổ chức đó dựa vào thế lực bên ngoài để chống phá cách mạng, hòng xóa bỏ chính quyền nhân dân. Chúng đòi Chủ tịch Hồ Chí Minh và các bộ trưởng là đảng viên cộng sản phải từ chức; chúng lập chính quyền phản động ở một số nơi như Vĩnh Yên, Yên Bái, Móng Cái. Có thể nói chưa bao giờ đất nước ta phải đương đầu với nhiều kẻ thù bên ngoài và bên trong tàn bạo và xảo quyệt như lúc này. - Về kinh tế - xã hội: bên cạnh những thách thức nghiêm trọng về quân sự và chính trị, những khó khăn về kinh tế, xã hội cũng là thách thức nặng nề đối với Đảng ta và chính quyền cách mạng. + Nạn đói ở miền Bắc do Nhật, Pháp gây ra chưa được khắc phục, 50% ruộng đất bị bỏ hoang, ở Bắc Bộ 6 tỉnh bị lụt và vỡ đê, sau lụt lại đến hạn hán. + Công nghiệp đình đốn, hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, ngoại thương đình trệ. + Tình hình tài chính rất khó khăn, kho bạc chỉ có 1,2 triệu đồng, trong đó quá nửa là tiền rách không sử dụng được, thuế chưa thu được. Ngân hàng Đông Dương vẫn còn nằm trong tay tư bản Pháp. Trong khi đó quân Tưởng lại tung tiền quan kim và quốc tệ đã bị mất giá ra thị trường gây thêm nhiều rối loạn. + 95% số dân không biết chữ, các tệ nạn xã hội như nghiện rượu, nghiện hút, mê tín dị đoan mà chế độ cũ để lại còn trầm trọng và nặng nề. - Về quan hệ quốc tế: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bị bao vây, cách biệt với thế giới bên ngoài, không có bất kỳ quốc gia nào công nhận, đặt quan hệ ngoại giao và giúp đỡ cho cách mạng nước ta.
- 27 Tất cả những khó khăn đó đã đặt vận mệnh nước ta lâm vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Chính quyền nhân dân có nguy cơ bị lật đổ, nền độc lập mới giành được có thể bị mất, dân tộc Việt Nam có nguy cơ quay trở lại kiếp sống nô lệ, lầm than. b) Chủ trương “kháng chiến kiến quốc” của Đảng (25-11-1945) Nội dung: Chủ trương Kháng chiến kiến quốc (25-11-1945) đã vạch ra con đường đi lên cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, vạch ra chủ trương và giải pháp đấu tranh nhằm giữ vững chính quyền, bảo vệ nền độc lập tự do vừa giành được. Nội dung của chủ trương kháng chiến kiến quốc: Về chỉ đạo chiến lược: Đảng xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam lúc này vẫn là dân tộc giải phóng, khẩu hiệu lúc này là “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết” 1, nhưng không phải là giành độc lập mà là giữ vững độc lập. Về xác định kẻ thù: Trên cơ sở phân tích âm mưu của các nước đế quốc đối với Đông Dương, Đảng chỉ rõ “kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược phải tập trung ngon lửa đấu tranh vào chúng” 2. Vì vậy, phải “lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược”3; mở rộng Mặt trận Việt Minh nhằm thu hút đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, Về phương hướng, nhiệm vụ: Đảng nêu lên bốn nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách cần khẩn trương thực hiện là “củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân” 4. Đảng chủ trương kiên trì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu “Hoa - Việt thân thiện” đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và “Độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế” đối với Pháp. Ý nghĩa của chủ trương: Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc có ý nghĩa hết sức quan trọng: đã xác định đúng kẻ thù chính của dân tộc Việt Nam là thực dân Pháp xâm lược; đã chỉ ra kịp thời những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược cách mạng, nhất là nêu rõ hai nhiệm vụ chiến lược mới cách mạng nước ta sau Cách mạng tháng Tám là xây dựng đất nước đi đôi với bảo vệ đất nước; đề ra những nhiệm vụ, biện pháp cụ thể về đối nội, đối ngoại để khắc phục nạn đói, nạn dốt, chống thù trong giặc ngoài bảo vệ chính quyền cách mạng. Những nội dung của chủ trương kháng chiến kiến quốc được Đảng tập trung chỉ đạo thực hiện trên thực tế với tinh thần kiên quyết, khẩn trương, linh hoạt, sáng tạo. c) Kết quả, ý nghĩa nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm Kết quả: 1 ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 8, tr.26-27. 2 ĐCSVN: Sđd.,, tập 8, tr.26-27. 3 ĐCSVN: Sđd.,, tập 8, tr.26-27. 4 ĐCSVN: Sđd.,, tập 8, tr.26-27.
- 28 Về chính trị - xã hội: Tiếp tục tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, phát triển thêm các đoàn thể cứu quốc. Xúc tiến tổ chức bầu cử Quốc hội, đề ra Hiến pháp và bầu Chính phủ chính thức. Ngày 6-1-1946, cả nước tiến hành Tổng tuyển cử bầu Quốc hội. Hơn 90% tổng số cử tri đã đi bỏ phiếu và bầu ra được 333 đại biểu. Chủ tịch Hồ Chí Minh trúng cử với hơn 98% số phiếu bầu. Ngày 2-3-1946, Quốc họi họp kỳ thứ nhất đã bầu Hồ Chí Minh giữ chức Chủ tịch Chính phủ và trao quyền cho Người lập Chính phủ chính thức. Tại kỳ họp thứ hai (tháng 11-1946), Quốc hội đã thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bộ máy chính quyền từ trung ương đến cơ sở được kiện toàn. Các đoàn thể nhân dân như Mặt trận Việt Minh, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, Tổng Công đoàn Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam được xây dựng và mở rộng. Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam được thành lập. Về kinh tế, văn hóa: Để khắc phục những khó khăn về kinh tế, tài chính, Đảng ta và Chính phủ đã đề ra và thực hiện một loạt các biện pháp như: Phát động phong trào tăng gia sản xuất, cứu đói, xóa bỏ các thứ thuế vô lý và bất công của chế độ cũ, ra sắc lệnh giảm tô 25%. Xây dựng ngân quỹ quốc gia: động viên nhân dân đóng góp dưới các hình thức như xây dựng Quỹ Độc lập (4-9-1945), tổ chức Tuần lễ vàng (17-9-1945), Quỹ Kháng chiến, Quỹ Bình dân học vụ, Quỹ Nam Bộ, Qua các phong trào đó, nhân dân ta đã tự nguyện đóng góp được 370 kg vàng và 20 triệu đồng. Để xây dựng hệ thống tiền tệ độc lập, ngày 31-1-1946, Chính phủ ra sắc lệnh phát hành tiền Việt Nam và ngày 23-11-1946, Quốc hội quyết định lưu hành tiền Việt Nam trong cả nước. Cho đến ngày toàn quốc kháng chiến, tiền Việt Nam đã căn bản thay thế đồng Đông Dương trên thị trường. Thực hiện chính sách ngu dân là một trong những biện pháp độc ác mà thực dân Pháp đã áp dụng để cai trị nhân dân ta, vì thế hơn 95% đồng bào ta mù chữ. Chủ tịch Hồ chí Minh đã nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, vì vậy Người đã đề ra chủ trương mở một chiến dịch chống nạn mù chữ, đó là phong trào Bình dân học vụ. Sau một năm thực hiện, chúng ta đã mở được 75.805 lớp học, có 97.664 người tham gia dạy học và hơn 2,5 triệu học viên đã biết đọc, biết viết. Các trường học từ hệ tiểu học, trung học cho đến đại học bắt đầu khai giảng trở lại. Tiếng Việt được dùng chính thức trong hệ thống giáo dục. Văn học, nghệ thuật cũng có bước chuyển mình mạnh mẽ. Báo chí cách mạng phát triển và trở thành vũ khí sắc bén để chống giặc ngoài thù trong, nâng cao tinh thần yêu nước và lòng căm thù giặc. Xây dựng nền văn hóa mới; xa bỏ các hủ tục lạc hậu, các tệ nạn xã hội. Về bảo vệ chính quyền cách mạng:
- 29 Ngày 23-9-1945, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn rồi Nam Bộ. Mặc dù lực lượng chênh lệch, nhưng nhân dân Nam Bộ đã chiến đấu anh dũng kìm chân địch trong các thành phố, tạo điều kiện cho các tỉnh Nam Bộ và Nam Trung Bộ có thêm thời gian chuẩn bị cho kháng chiến. Đảng ta đã quyết tâm lãnh đạo nhân dân Nam Bộ kháng chiến, tăng cường công tác trừ gian, xây dựng cơ sở và lực lượng vũ trang, phát động chiến tranh nhân dân. Đảng đã tổ chức phong trào Nam tiến, hàng vạn thanh niên đã nô nức lên đường vào Nam để tăng cường lực lượng cho miền Nam đánh Pháp. Ở miền Bắc, Đảng đã chủ trương triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù để phân hóa chúng và chủ trương đấu tranh ngoại giao theo tinh thần bình đẳng, tương trợ, thêm bạn bớt thù, “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” để bảo vệ chính quyền cách mạng. Từ ngày 2-9-1945 đến ngày 6-3-1946, trung ương Đảng chủ trương hòa với quân Tưởng với khẩu hiệu “Hoa – Việt thân thiện” để tập trung lực lượng chống Pháp ở miền Nam: + Đảng tuyên bố tự giải tán ngày 11-11-1945. + Nhân nhượng một số ghế trong Chính phủ và Quốc hội. + Cung cấp lương thực cho 20 vạn quân Tưởng; đồng ý cho chúng sử dụng tiền quan kim, quốc tệ đã bị mất giá Kết quả: Ta giữ vững và củng cố được chính quyền cách mạng, phá vỡ âm mưu của Tưởng; đồng thời tăng cường được lực lượng cho cuộc kháng chiến chống Pháp ở miền Nam. Từ sau ngày 6-3-1946, thực hiện chỉ thị “Hòa để tiến”, Đảng ta chủ trương hoà với Pháp để đuổi quân Tưởng về nước: + Ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946; + Mở Hội nghị trù bị ở Đà Lạt (từ 19-4-1946) và tham dự Hội nghị Fontenerblor (từ 6-7 đến 10-9-1946), ký Tạm ước (14-9-1946). Chủ trương hòa với Pháp tạo điều kiện đuổi nhanh quân Tưởng ra khỏi nước ta (đến tháng 9-1946 chúng rút hết), đẩy bọn phản cách mạng trong nước đến chỗ tan rã. Chúng ta có thêm thời gian để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến, xây dựng và củng cố chính quyền, lực lượng để bước vào cuộc kháng chiến mà ta đã biết trước là không thể nào tránh khỏi. Ý nghĩa: Bằng các chủ trương và biện pháp đúng đắn, Đảng đã bảo vệ được nền độc lập của đất nước, giữ vững được chính quyền cách mạng; xây dựng được những nền móng đầu tiên và cơ bản cho một chế độ mới - Dân chủ Cộng hòa; chuẩn bị được những điều kiện cần thiết, trực tiếp cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nguyên nhân thắng lợi: Có được những thắng lợi quan trọng đó là do Đảng đã đánh giá đúng tình hình nước ta sau Cách mạng tháng Tám, kịp thời đề ra chủ trương
- 30 kháng chiến, kiến quốc đúng đắn; xây dựng và phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; lợi dụng được mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù Bài học kinh nghiệm: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dựa vào dân để xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính, coi sự nhân nhượng có nguyên tắc với kẻ địch cũng là một biện pháp đấu tranh cách mạng cần thiết trong hoàn cảnh cụ thể. Tận dụng khả năng hòa hoãn để xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền nhân dân, đồng thời đề cao cảnh giác, sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến tranh lan ra cả nước khi kẻ địch bội ước. 2. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân (1946-1954) a) Hoàn cảnh lịch sử: Với dã tâm xâm lược Việt Nam lần thứ hai, thực dân Pháp đã liên tiếp bội ước. Với 100.000 quân đóng trên đất nước ta, thực dân Pháp đã mở rộng chiến tranh ở miền Nam và đưa quân ra miền Bắc. Tháng 11-1946, Pháp đánh chiếm Hải Phòng và Lạng Sơn. Ngày 18-12-1946, chúng đã gửi tối hậu thư đòi quyền giữ gìn trật tự trị an ở Hà Nội, đòi ta tước vũ khí của tự vệ Hà Nội. Đứng trước tình hình đó, ngày 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp Hội nghị mở rộng tại làng Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hạ quyết tâm phát động cuộc kháng chiến trong cả nước. Mệnh lệnh kháng chiến được phát đi. Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. 20 giờ ngày 19-12-1946, Trung ương Đảng quyết định phát động Toàn quốc kháng chiến, tất cả các chiến trường trong cả nước đã đồng loạt nổ súng. Thuận lợi: Cuộc kháng chiến của nhân dân ta là để bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc và đánh địch trên đất nước mình nên có chính nghĩa, có “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”. Ta đã có sự chuẩn bị cần thiết về mọi mặt, nên về lâu dài, ta sẽ có khả năng đánh thắng quân xâm lược. Trong khi đó, thực dân Pháp cũng gặp nhiều khó khăn về chính trị, kinh tế, quân sự ở trong nước và tại Đông Dương không dễ gì có thể khắc phục được ngay. Khó khăn: So sánh tương quan lực lượng quân sự thì chúng ta yếu hơn địch. Ta bị bao vây bốn phía, chưa được nước nào công nhận, giúp đỡ.
- 31 Quân Pháp có vũ khí tối tân, đã chiếm đóng được hai nước Lào, Campuchia và một số nơi ở Nam Bộ, có quân đội đứng chân trong các thành thị lớn ở miền Bắc. b) Quá trình hình thành và nội dung đường lối Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành từng bước qua thực tiến đối phó với âm mưu, thủ đoạn xâm lược của thực dân Pháp. Ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, trong Chỉ thị kháng chiến kiến quốc, Đảng đã nhận định kẻ thù chính, nguy hiểm nhất của dân tộc ta là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng. Trong quá trình chỉ đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, Đảng đã chỉ đạo kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao để làm thất bại âm mưu của Pháp định tách Nam bộ ra khỏi Việt Nam. Ngày 19-10-1946, Thường vụ Trung ương Đảng mở Hội nghị Quân sự toàn quốc lần thứ nhất, đề ra những chủ trương, biện pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ chức để quân dân cả nước sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới. Trong Chỉ thị Công việc khẩn cấp bây giờ (5-11-1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên những việc có tầm chiến lược, toàn cục khi bước vào cuộc kháng chiến và khẳng định lòng tin vào thắng lợi cuối cùng. Đường lối kháng chiến của Đảng được hoàn chỉnh và thể hiện tập trung trong ba văn kiện lớn là Toàn dân kháng chiến của Trung ương Đảng (12-12-1946), Lời kêu gọi toàn dân kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-12-1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi (1947) của Tổng Bí thư Trường Chinh. Nội dung đường lối: Mục đích kháng chiến: Kế tục và phát triển sự nghiệp của Cách mạng tháng Tám, “Đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”1. Tính chất kháng chiến: “Cuộc kháng chiến của dân tộc ta là một cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính chất toàn dân, toàn diện và lâu dài”2. “Là một cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa bình”3. Đó là cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới. Chính sách kháng chiến: “Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp. Đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình. Đoàn kết chặt chẽ toàn dân. Thực hiện toàn dân kháng chiến Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”4. Chương trình và nhiệm vụ kháng chiến: “Đoàn kết toàn dân, thực hiện quân, chính, dân nhất trí Động viên nhân lực, vật lực, tài lực, thực hiện toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến. Giành quyền độc lập, bảo toàn 1 ĐCSVN: Sđd.,, tập 8, tr.150. 2 Trường Chinh: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, Hà Nội, 1976, tập 2, tr.142. 3 Trường Chinh: Sđd., tập 2, tr.31. 4 ĐCSVN: Sđd.,, tập 8, tr.150.
- 32 lãnh thổ, thống nhất Trung, Nam, Bắc. Củng cố chế độ cộng hòa dân chủ Tăng gia sản xuất, thực hiện kinh tế tự túc ”1. Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. + Toàn dân: Cuộc kháng chiến của nhân dân ta vì độc lập, thống nhất, dân chủ và phú cường là một cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc; động viên nhân lực, vật lực, tài lực của cả nước cho chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Cách mạng là sự nghiệp của toàn dân. Phải động viên, giáo dục và tổ chức toàn dân tham gia kháng chiến, kháng chiến khắp nơi, thực hiện khẩu hiệu “mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi phố là một mặt trận, mỗi làng là một pháo đài”. Chiến tranh nhân dân, toàn dân kháng chiến là nội dung chủ đạo của đường lối quân sự của Đảng, của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. + Toàn diện: Chiến tranh là một cuộc đọ sức toàn diện giữa hai bên tham chiến. Đảng chủ trương phải xây dựng và sử dụng sức mạnh tổng hợp và toàn diện về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa để chống lại cuộc chiến tranh tổng lực của kẻ thù. Về chính trị: đoàn kết toàn dân, chống mọi âm mưu chia rẽ của thực dân Pháp. Đoàn kết với hai dân tộc Lào, Campuchia anh em, với nhân dân Pháp và các lực lượng hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới để cô lập kẻ thù, tranh thủ thêm nhiều bầu bạn; củng cố chế độ dân chủ cộng hòa, lập ra ủy ban kháng chiến các cấp. Về quân sự: Cuộc kháng chiến sẽ trải qua ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự và phản công; triệt để dùng chiến tranh du kích, tiến công địch ở khắp nơi, vừa đánh địch vừa xây dựng lực lượng; tản cư nhân dân ra xa vùng chiến sự. Về kinh tế: vận động toàn dân tích cực tăng gia sản xuất, tự cấp tự túc, xây dựng kinh tế theo hướng “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”; ra sức phá kinh tế địch, không cho chúng lấy chiến tranh nuôi chiến tranh. Về văn hóa: đánh đổ văn hóa nô dịch, ngu dân của thực dân Pháp, xây dựng nền văn hóa mới, xóa nạn mù chữ; thực hiện cần, kiệm, liêm, chính; động viên các nhà văn hóa tham gia kháng chiến. Về ngoại giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực. Đoàn kết với nhân dân Pháp, chống bọn phản động thực dân Pháp, sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập. + Lâu dài: Do tương quan lực lượng giữa ta và địch còn chênh lệch nên phương châm chiến lược của toàn bộ cuộc kháng chiến là đánh lâu dài, không phải đánh nhanh thắng nhanh. Đánh lâu dài là nhằm vừa đánh vừa phát triển lực lượng từ nhỏ đến lớn, từ yếu đến mạnh. Đánh lâu dài để làm cho những chỗ yếu cơ bản của địch ngày càng bộc 1 ĐCSVN: Sđd.,, tập 8, tr.151-152.
- 33 lộ rõ, chỗ mạnh của địch ngày một hạn chế; chỗ yếu của ta từng bước khắc phục, chỗ mạnh của ta ngày một phát huy, nhờ đó ta có thể chiến thắng quân thù. + Dựa vào sức mình là chính: Dựa vào sức mình là chính là bởi vì ta bị bao vây bốn phía, chưa được nước nào giúp đỡ nên phải tự lực cánh sinh. Tự lực cánh sinh là dựa vào sức lực của toàn dân, vào đường lối của Đảng, vào các điều kiện nhân hòa, địa lợi, thiên thời của đất nước ta; đồng thời khi nào có điều kiện ta sẽ ra sức tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế để chiến thắng kẻ thù. Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song nhất định thắng lợi. Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa phù hợp với thực tế đất nước lúc bấy giờ. Với đường lối đúng đắn đó, cuộc kháng chiến của nhân dân ta nhanh chóng đi vào ổn định và phát triển đúng hướng, từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang. Thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng, từ năm 1947-1950, Đảng đã chỉ đạo cuộc chiến tranh giam chân địch trong các đô thị, củng cố các vùng tự do, đánh bại cuộc hành quân lớn của địch lên Việt Bắc, xây dựng hậu phương, phá âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của thực dân Pháp. Thắng lợi của chiến dịch Biên Giới 1950 đã giáng một đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của địch, quân ta giành được quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ. Đầu năm 1951, tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương có nhiều chuyển biến mới. Nước ta đã được các nước xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương đã giành được những thắng lợi quan trọng. Song, lợi dụng tình thế khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Điều kiện lịch sử đó đặt ra yêu cầu bổ sung và hoàn chỉnh đường lối cách mạng, đưa cuộc chiến tranh đến thắng lợi. Đáp ứng yêu cầu đó, Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp Đại hội đại biểu lần thứ II (tháng 2-1951) tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Đây là Đại hội Đảng lần đầu tiên được tổ chức trong nước. Đại hội quyết định thành lập ở mỗi nước Đông Dương một Đảng Mác-Lênin riêng. Ở Việt Nam, Đại hội đã quyết định thành lập Đảng Lao động Việt Nam và đưa Đảng ra hoạt động công khai. Đại hội đã thông qua Tuyên ngôn, Chính cương và Điều lệ mới của Đảng Lao động Việt Nam. *Chính cương Đảng Lao động Việt Nam có 3 chương với những nội dung cơ bản: Tính chất của xã hội Việt Nam: có ba tính chất là dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến.
- 34 Cách mạng Việt Nam có hai đối tượng: đối tượng chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể là thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Đối tượng phụ là phong kiến, cụ thể là phong kiến phản động. Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam: + Đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất dân tộc. + Xóa bỏ những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, người cày có ruộng. + Phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội. Động lực của cách mạng Việt Nam: công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức và tư sản dân tộc; ngoài ra là những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Đặc điểm của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Triển vọng của cách mạng: “Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam nhất định sẽ đưa Việt Nam tiến tới chủ nghĩa xã hội”1. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội: đó là một con đường đấu tranh lâu dài, trải qua ba giai đoạn: thứ nhất, là hoàn thành giải phóng dân tộc; thứ hai, là xóa bỏ những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; thứ ba, xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội. Giai cấp lãnh đạo và mục tiêu của Đảng: giai cấp lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân. Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động Việt Nam. Mục tiêu của Đảng là phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thực hiện tự do, hạnh phúc cho cả dân tộc. Chính sách của Đảng: có 15 chính sách lớn nhằm phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội và đảy mạnh kháng chiến đến thắng lợi, bao bồm: kháng chiến, chính quyền nhân dân, Mặt trận dân tộc thống nhất, quân đội, kinh tế tài chính, cải cách ruộng đất, văn hóa giáo dục, đối với tôn giáo, chính sách dân tộc, đối với vùng bị tạm chiếm, ngoại giao, đối với Miên - Lào, đối với ngoại kiều, đấu tranh cho hòa bình và dân chủ thế giới, thi đua ái quốc. Quan hệ quốc tế: Việt Nam đứng về phe hòa bình và dân chủ, phải tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân thế giới; thực hiện đoàn kết Việt - Trung - Xô và đoàn kết Việt - Miên - Lào. 3. Kết quả, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm a) Kết quả và ý nghĩa lịch sử: 1 ĐCSVN: Sđd.,, tập 12, tr.434.
- 35 Kết quả của việc thực hiện đường lối: Về chính trị: Việc đưa Đảng ra hoạt động công khai đã tạo điều kiện kiện toàn tổ chức, tăng cường sự lãnh đạo đối với cuộc kháng chiến. Bộ máy chính quyền các cấp được củng cố. Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) được thành lập. Khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố và phát triển. Chính sách ruộng đất được triển khai, từng bước thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng. Về quân sự: Cuộc kháng chiến của ta là chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt. + Để tổ chức nhân dân đánh giặc, tháng 2-1947, Bộ Quốc phòng ra thông tư quy định mọi công dân Việt Nam từ 18 tuổi đến 45 tuổi vào dân quân và quy định nhiệm vụ của dân quân tự vệ cùng các đội du kích ở địa phương. Đến cuối năm 1949, số dân quân du kích trong cả nước đã có hơn 1 triệu người, trong đó có hàng ngàn lão du kích được gọi là “bạch đầu quân”. Nhờ đó, phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh mẽ trong cả nước. + Ngày 7-4-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập lực lượng bộ đội địa phương. Đến cuối năm 1950, lực lượng bộ đội địa phương đã lên đến 45.000 người. + Ngày 28-8-1949, đại đoàn chủ lực đầu tiên của quân đội nhân dân Việt Nam - Đại đoàn 308, được thành lập. Tiếp đó, các Đại đoàn 304 (10-3-1950), Đại đoàn 312 (27-12-1950), Đại đoàn 320 (16-1-1951), Đại đoàn 316 (1-5-1951), Đại đoàn Công binh - Pháo binh 351 (27-3-1951) và Đại đoàn 325 (5-12-1952). Bộ Tổng tư lệnh cũng xây dựng 2 trung đoàn trực thuộc là Trung đoàn 148 và Trung đoàn 246. Như vậy, kể từ khi thành lập đại đoàn chủ lực đầu tiên đến cuối năm 1952, quân đội chủ lực trực thuộc Bộ Tổng tư lệnh đã có 6 đại đoàn, 2 trung đoàn bộ binh và 1 đại đoàn công binh - pháo binh. Bộ đội tập trung năm 1953 lên đến 33 vạn người. + Thắng lợi của chiến dịch Trung Du, Đường 18, Hà Nam Ninh, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng thêm nhiều vùng đất đai và dân cư, mở rộng vùng giải phóng, Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954 đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp kéo dài 9 năm của nhân dân ta, báo hiệu sự thắng lợi của nhân dân các dân tộc bị áp bức, báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ trên phạm vi toàn thế giới. Về ngoại giao: với phương châm kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao, khi biết tin Pháp có ý định đàm phán, thương lượng với ta, ngày 27-12-1953, Ban Bí thư ra Thông tư nêu rõ: “lập trường của nhân dân Việt Nam là kiên quyết kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. Song nhân dân và Chính phủ ta cũng tán thành thương lượng nhằm mục đích giải quyết hòa bình vấn đề Việt Nam”1. 1 ĐCSVN: Sđd.,, tập 14, tr.553.
- 36 Thất bại về quân sự buộc thực dân Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán. Ngày 8-5- 1954, Hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương được khai mạc tại Geneva (Thụy Sỹ). Đến ngày 21-7-1954, Hiệp định Geneva được ký kết. Pháp và các nước tham gia Hội nghị cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời; hai bên Pháp và Việt Nam sẽ tiến hành chuyển quân tập kết và sau hai năm, tháng 7-1956, sẽ tiến hành tổ chức Tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Ý nghĩa: Đối với nước ta: với đường lối kháng chiến đúng đắn của Đảng, nhân dân ta đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ, buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương; đã làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm căn cứ địa, hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam; tăng thêm niềm tự hào dân tộc cho nhân dân ta và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Đối với quốc tế: đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới; mở rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới; cùng với nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân ở ba nước Đông Dương, mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực dân Pháp. b) Nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm Nguyên nhân thắng lợi: Sự lãnh đạo vững vàng của Đảng với đường lối kháng chiến đúng đắn. Sự đoàn kết chiến đấu, toàn dân tập hợp trong Mặt trận dân tộc rộng rãi. Lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Có chính quyền dân chủ nhân dân, của dân, do dân và vì dân được giữ vững, củng cố và lớn mạnh, làm công cụ sắc bén tổ chức toàn dân kháng chiến và xây dựng chế độ mới. Sự liên minh đoàn kết chiến đấu keo sơn của ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương; sự đồng tình ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc, của nhân dân Pháp và nhân dân tiến bộ trên thế giới. Bài học kinh nghiệm: Xác định đúng đường lối kháng chiến. Kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, trong đó nhiệm vụ chủ yếu là chống đế quốc.
- 37 Vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới. Quán triệt chiến lược kháng chiến lâu dài. Xây dựng Đảng vững mạnh đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến. II. ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1954-1975) 1. Đường lối giai đoạn 1954-1964 a) Hoàn cảnh lịch sử cách mạng Việt Nam sau tháng 7- 1954 Thuận lợi: Hệ thống xã hội chủ nghĩa tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự, khoa học - kỹ thuật, nhất là của Liên Xô. Phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latin; phong trào hòa bình, dân chủ lên cao ở các nước tư bản. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội, làm căn cứ địa chung cho cả nước. Thế và lực của cách mạng đã lớn mạnh hơn sau chín năm kháng chiến; toàn thể dân tộc Việt Nam đều có ý chí độc lập thống nhất Tổ quốc, thu giang sơn về một mối. Khó khăn: Đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh, âm mưu làm bá chủ thế giới với các chiến lược toàn cầu phản cách mạng. Thế giới bước vào thời kỳ chiến tranh lạnh, hình thành cuộc chạy đua vũ trang giữa hai phe xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Trong quan hệ giữa các nước trong hệ thống xã hội đã xuất hiện những bất đồng, nhất là giữa Liên Xô và Trung Quốc. Đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau, kinh tế miền Bắc nghèo nàn, lạc hậu, miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ và đế quốc Mỹ trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta. Một Đảng lãnh đạo hai cuộc cách mạng khác nhau, ở hai miền đất nước có chế độ chính trị khác nhau là đặc điểm lớn nhất của cách mạng Việt Nam sau tháng 7-1954. b) Quá trình hình thành, nội dung và ý nghĩa đường lối Quá trình hình thành và nội dung đường lối: Yêu cầu bức thiết đặt ra cho Đảng ta sau tháng 7-1954 là phải vạch ra được đường lối đúng đắn, vừa phù hợp với tình hình mỗi miền, tình hình cả nước, vừa phù hợp với xu thế chung của thời đại.
- 38 Tháng 9-1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng. Nghị quyết đã chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của tình hình trong lúc cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn mới là: từ chiến tranh chuyển sang hòa bình, nước nhà tạm thời chia cắt làm hai miền, từ nông thôn chuyển vào thành thị, từ phân tán chuyển đến tập trung. Tại Hội nghị lần thứ 7 (3-1955) và lần thứ 8 (8-1955), Đảng nhận định: muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam. Tháng 12-1957, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13, đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng được xác định. Tháng 1-1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 họp bàn về cách mạng miền Nam và xác định: Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là “giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam”1. “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân” 2 bằng sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ đế quốc và phong kiến, xây dựng chính quyền cách mạng của nhân dân. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, thể hiện rõ bản lĩnh độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng. Quá trình đề ra và chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, chủ trương nói trên chính là quá trình hình thành đường lối chiến lược chung cho cách mạng cả nước, được hoàn chỉnh tại Đại hội lần thứ III của Đảng. Từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960, Đại hội lần thứ III của Đảng được triệu tập tại Hà Nội. Đại hội đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Cụ thể là: Nhiệm vụ chung: “Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ; xây dựng một nước Việt Nam hoà bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường cho phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hoà bình ở khu vực Đông Nam châu Á và thế giới”3. 1 ĐCSVN: Sđd.,, tập 20, tr.62. 2 ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 20, tr.81. 3 ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 21, tr.918.
- 39 Nhiệm vụ chiến lược: “Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến lược: Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước”1. Mục tiêu chiến lược: “Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và nhiệm vụ cách mạng ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà tạm bị chia cắt. Hai nhiệm vụ đó lại nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hòa bình thống nhất Tổ quốc”2. Mối quan hệ của cách mạng hai miền: do cùng thực hiện một mục tiêu chung nên “Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau”3. Vai trò, nhiệm vụ của cách mạng mỗi miền: cách mạng XHCN ở miền Bắc: xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa chung cho cách mạng cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên CNXH về sau, do đó cách mạng XHCN ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam: giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước. Con đường thống nhất đất nước: trong khi tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, Đảng kiên trì con đường hòa bình thống nhất theo tinh thần Hiệp định Geneva, sẵn sàng hiệp thương tổng tuyển cử hòa bình thống nhất Việt Nam, vì đó là con đường tránh được hao tổn xương máu cho dân tộc ta và phù hợp với xu hướng chung của thế giới. Nhưng đồng thời cũng phải luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó với mọi tình thế, mọi âm mưu của kẻ thù. Triển vọng của cách mạng Việt Nam: cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và tay sai. Song thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta, đất nước nhất định thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội. Ý nghĩa đường lối: Đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng do Đại hội lần thứ III của Đảng đề ra có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn. Đường lối đó thể hiện tư tưởng chiến lược của Đảng: giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phù hợp với đặc điểm, tình hình đất nước ta và tình 1 ĐCSVN: Sđd., 2002, tập 21, tr.916. 2 ĐCSVN: Sđd., 2002, tập 21, tr.917. 3 ĐCSVN: Sđd., 2002, tập 21, tr.916.
- 40 hình quốc tế nên đã huy động và kết hợp được sức mạnh của cả nước và sức mạnh của ba dòng thác cách mạng trên thế giới, tranh thủ được sự đồng tình giúp đỡ của cả Liên Xô và Trung Quốc. Do đó đã tạo ra được sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đường lối chung của cách mạng Việt Nam đã thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng ta trong việc giải quyết những vấn đề không có tiền lệ lịch sử, vừa đúng với thực tiễn Việt Nam, vừa phù hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế của thời đại. Đường lối chiến lược chung cho cả nước và đường lối cách mạng ở mỗi miền là cơ sở để Đảng chỉ đạo quân dân ta phấn đấu giành được những thành tựu to lớn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thắng lợi chống các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam. 2. Đường lối giai đoạn 1965-1975 a) Hoàn cảnh lịch sử Từ đầu năm 1965, để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự phá sản của chiến lược chiến tranh đặc biệt, đế quốc Mỹ đã ồ ạt đưa quân Mỹ và quân các nước chư hầu vào miền Nam, tiến hành chiến lược chiến tranh cục bộ với quy mô lớn; đồng thời dùng không quân và hải quân tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trước tình hình đó, Đảng ta quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên phạm vi cả nước. Thuận lợi: Khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách mạng thế giới đang ở thế tiến công. Ở miền Bắc, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã đạt và vượt các mục tiêu về kinh tế, văn hóa. Sự chi viện sức người, sức của của miền Bắc cho cách mạng miền Nam được đẩy mạnh cả theo đường bộ và đường biển. Ở miền Nam, vượt qua những khó khăn trong những năm 1961-1962, từ năm 1963, cuộc đấu tranh của quân dân ta đã có bước phát triển mới. Ba công cụ của chiến tranh đặc biệt (ngụy quân, ngụy quyền, ấp chiến lược và đô thị) đều bị quân dân ta tấn công liên tục. Đến đầu năm 1965, chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ được triển khai đến mức cao nhất đã cơ bản bị phá sản. Khó khăn: Sự bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc càng trở nên gay gắt và không có lợi cho cách mạng Việt Nam. Việc đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh đặc biệt, ồ ạt đưa quân đội viễn chinh Mỹ và các nước chư hầu vào trực tiếp xâm lược Việt Nam đã làm cho tương quan lực lượng trở nên bất lợi cho ta.
- 41 Tình hình đó đặt ra cho Đảng ta yêu cầu mới trong việc xác định quyết tâm và đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhằm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. b) Quá trình hình thành, nội dung và ý nghĩa của đường lối Quá trình hình thành và nội dung đường lối: Khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược chiến tranh đặc biệt ở miền Nam, các hội nghị của Bộ Chính trị đầu năm 1961 và đầu năm 1962 đã nêu chủ trương giữ vững và phát triển thế tiến công mà ta đã giành được sau cuộc “đồng khởi” năm 1960, đưa cách mạng miền Nam từ khởi nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng trên khắp miền Nam. Bộ Chính trị chủ trương kết hợp khởi nghĩa của quần chúng với chiến tranh cách mạng, giữ vững và đẩy mạnh đấu tranh chính trị, đồng thời phát triển đấu trang vũ trang lên một bước mới, ngang tầm với đấu tranh chính trị. Kết hợp đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, đánh địch bằng ba mũi giáp công, đấu tranh trên cả ba vùng chiến lược. Hội nghị Trung ương lần thứ 9 (11-1963), ngoài việc xác định đúng đắn quan điểm quốc tế, hướng hoạt động đối ngoại vào việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để đánh Mỹ và thắng Mỹ, còn quyết định nhiều vấn đề quan trọng về cách mạng miền Nam. Hội nghị tiếp tục khẳng định đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang đi đôi với nhau, cả hai đều có vai trò quyết định cơ bản, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu mới của đấu tranh vũ trang. Đối với miền Bắc, Hội nghị tiếp tục xác định trách nhiệm là căn cứ địa, hậu phương cho cách mạng miền Nam, đồng thời nâng cao cảnh giác, triển khai mọi mặt sẵn sàng đối phó với âm mưu đánh phá của địch. Trước hành động gây chiến tranh cục bộ ở miền Nam, tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (3-1965) và lần thứ 12 (12-1965) đã tập trung đánh giá tình hình và đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên cả nước. Về nhận định tình hình và chủ trương chiến lược: Đảng ta cho rằng chiến lược chiến tranh cục bộ mà Mỹ đang tiến hành ở miền Nam vẫn là một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, buộc phải thực thi trong thế thua, thế thất bại và bị động, cho nên nó chứa đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược. Trên cơ sở phân tích và nhận định đó, Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong cả nước, coi chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc. Quyết tâm và mục tiêu chiến lược: nêu cao khẩu hiệu “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”1. 1 ĐCSVN: Sđd., 2003, tập 26, tr.643.
- 42 Phương châm chỉ đạo chiến lược: Tiếp tục và đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh cục bộ của Mỹ ở miền Nam, đồng thời phát động chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền bắc; thực hiện kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh và cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng của cả hai miền để mở những cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam. Tư tưởng chỉ đạo và phương châm đấu tranh ở miền Nam: giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục tiến công. “Tiếp tục kiên trì phương châm đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công”1, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược. Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên sức người sức của ở mức cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị đề phòng để đánh địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước. Nhiệm vụ và mối quan hệ giữa cuộc chiến đấu ở hai miền: trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước, vì miền Bắc xã hội chủ nghĩa là hậu phương vững chắc trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ và ra sức tăng cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt nhằm đảm bảo chi viện đắc lực cho miền Nam đánh thắng giặc Mỹ. Hai nhiệm vụ này không tách rời nhau, mà mật thiết gắn bó với nhau. Khẩu hiệu chung của nhân dân cả nước lúc này là “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Ý nghĩa đường lối: Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng được đề ra tại các Hội nghị Trung ương lần thứ 11 và 12 có ý nghĩa hết sức quan trọng: Thể hiện quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, tinh thần cách mạng tiến công, tinh thần độc lập tự chủ, sự kiên trì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, phản ánh đúng đắn ý chí, nguyện vọng chung của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Thể hiện tư tưởng nắm vững, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh, phù hợp với thực tế đất nước và bối cảnh quốc tế. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính được phát triển trong hoàn cảnh mới, tạo nên sức mạnh mới để dân tộc ta đủ sức đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. 1 ĐCSVN: Sđd., 2003, tập 26, tr.639.
- 43 3. Kết quả, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm. a) Kết quả và ý nghĩa thắng lợi Kết quả: Ở miền Bắc, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, sau 21 năm nỗ lực phấn đấu, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được những thành tựu đáng tự hào. Một chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa bước đầu được hình thành. Dù chiến tranh ác liệt, bị tổn thương nặng nề về vật chất, thiệt hại lớn về người, song không có nạn đói, dịch bệnh và sự rối loạn xã hội. Văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục không những được duy trì mà còn có sự phát triển mạnh. Sản xuất nông nghiệp phát triển, công nghiệp địa phương được tăng cường. Quân dân miền Bắc đã đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, điển hình là chiến thắng lịch sử của trận “Điện Biên Phủ trên không” trên bầu trời Hà Nội cuối năm 1972. Miền Bắc không chỉ chia lửa với các chiến trường mà còn hoàn thành xuất sắc vai trò căn cứ địa của cách mạng cả nước và nhiệm vụ hậu phương lớn đối với chiến trường miền Nam. Ở miền Nam, với sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng, quân dân ta đã vượt lên mọi gian khổ hy sinh, bền bỉ và anh dũng chiến đấu, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Trong giai đoạn 1954-1960 đã đánh bại chiến tranh đơn phương của Mỹ - Ngụy, đưa cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công; giai đoạn 1961-1965 đã giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh bại chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ; giai đoạn 1965-1968 đã đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ và chư hầu, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Paris; giai đoạn 1969-1975 đã đánh bại chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ và tay sai mà đỉnh cao là Đại thắng Mùa Xuân 1975 với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đạp tan toàn bộ chính quyền địch, buộc chúng phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Ý nghĩa lịch sử: Đối với dân tộc Việt Nam: thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã mở ra một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Nó kết thúc vẻ vang quá trình 30 năm đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc bắt đầu từ cách mạng tháng Tám năm 1945, chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa đế quốc trên đất nước ta. Tổ quốc Việt Nam độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Đối với quốc tế: thắng lợi của nhân dân Việt Nam đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược thực dân với quy mô lớn nhất và dài nhất từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II, làm phá sản chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ trên đất nước ta; làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của tên đế quốc đầu sỏ, nâng cao uy tín của hệ thống xã hội chủ nghĩa và cổ vũ phong trào cách mạng thế giới.
- 44 b) Nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm Nguyên nhân thắng lợi: Sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ của Đảng. Nhân dân và lực lượng vũ trang cách mạng anh hùng, kiên cường, bất khuất, dũng cảm. Có hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Có sự đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Việt - Lào - Campuchia. Có sự đoàn kết, giúp đỡ về vật chất, tinh thần của các nước anh em, của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Viện trợ quân sự và kinh tế của Liên Xô, Trung Quốc và các nước trong cuộc kháng chiến chống Mỹ là hơn 7 tỷ Rúp. Bài học kinh nghiệm: Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tin tưởng vào sức mạnh của dân tộc, kiên định tư tưởng chiến lược tiến công, quyết đánh và quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Đảng ta hết sức coi trọng việc xây dựng lực lượng cách mạng ở miền Nam, đi đôi với việc tổ chức xây dựng lực lượng chiến đấu trong cả nước. Đảng ta đã tìm ra được phương pháp đấu tranh cách mạng đúng đắn, sáng tạo, đó là sử dụng bạo lực cách mạng. Sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn của Trung ương Đảng và công tác tổ chức chiến đấu tài giỏi của Đảng qua các cấp bộ Đảng và các cấp chỉ huy quân đội ở miền Nam.
- 45 CHƯƠNG IV ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HOÁ I. CÔNG NGHIỆP HOÁ THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI 1. Chủ trương của Đảng về công nghiệp hoá a) Mục tiêu và phương hướng của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa Đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ Đại hội III của Đảng (9-1960). Trước thời kỳ đổi mới, nước ta đã có khoảng 25 năm tiến hành công nghiệp hóa qua hai giai đoạn: từ năm 1960 đến năm 1975 triển khai ở miền Bắc và từ năm 1975 đến năm 1985 thực hiện trên phạm vi cả nước. Ở miền Bắc (1960-1975): Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc đặc điểm miền Bắc, trong đó đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội III của Đảng khẳng định: muốn cải biến tình trạng kinh tế lạc hậu của nước ta, không có con đường nào khác, ngoài con đường công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Tức là khẳng định sự tất yếu của công nghiệp hóa đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội cũng chỉ rõ, để thực hiện được mục tiêu trên thì vấn đề quan trọng có tính chất quyết định là thực hiện trang bị kỹ thuật cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thực hiện cơ giới hóa sản xuất, từ đó nâng cao năng suất lao động. Ngay từ đầu, Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quan điểm đúng đắn này được khẳng định nhiều lần trong tất cả các Đại hội của Đảng. Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa được Đại hội III xác định là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại; bước đầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó là mục tiêu cơ bản, lâu dài, phải thực hiện qua nhiều giai đoạn. Để chỉ đạo thực hiện công nghiệp hóa, Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa III) nêu phương hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển công nghiệp là: - Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý. - Kết hợp chặt chẽ phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp. - Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. - Ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương.
- 46 Trên phạm vi cả nước (1975-1985): sau Đại thắng Mùa Xuân năm 1975, cả nước độc lập, thống nhất và quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở phân tích một cách toàn diện đặc điểm tình hình trong nước và quốc tế, Đại hội IV của Đảng (12-1976) đề ra đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công-nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất” 1. Đường lối này là sự kế thừa những nhận thức cơ bản về công nghiệp hóa ở miền Bắc trước đây đồng thời có sự phát triển thêm. Từ thực tiễn chỉ đạo công nghiệp hóa 5 năm (1976-1981), Đảng ta rút ra kết luận: từ một nền sản xuất nhỏ đi lên, điều quan trọng là phải xác định đúng bước đi của công nghiệp hóa cho phù hợp với mục tiêu và khả năng của mỗi chặng đường. Với cách đặt vấn đề như trên, Đại hội lần thứ V của Đảng (3-1982) đã xác định trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ thiết thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đại hội V coi đó là nội dung chính của công nghiệp hóa trong chặng đường trước mắt. Đây là sự điều chỉnh rất đúng đắn của công nghiệp hóa, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Tiếc rằng, trên thực tế chúng ta đã không làm đúng sự điều chỉnh chiến lược quan trọng này b) Đặc trưng chủ yếu của công nghiệp hoá thời kỳ trước đổi mới Nhìn chung trong thời kỳ 1960-1985, chúng ta đã nhận thức và tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu cũ với các đặc trưng chủ yếu sau đây: Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về phát triển công nghiệp nặng. Công nghiệp hóa chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa; việc phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa được thực hiện thông qua cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp không tôn trọng các quy luật của thị trường Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội. 2. Kết quả, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân a) Kết quả thực hiện chủ trương và ý nghĩa 1 ĐCSVN: Sđd., 2004, tập 37, tr.653.