Bài giảng môn Phân tích Báo cáo tài chính - Chương 1 đến Chương 4 - Phạm Thị Ý Nguyện

pdf 78 trang huongle 190
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng môn Phân tích Báo cáo tài chính - Chương 1 đến Chương 4 - Phạm Thị Ý Nguyện", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_mon_phan_tich_bao_cao_tai_chinh_chuong_1_den_chuon.pdf

Nội dung text: Bài giảng môn Phân tích Báo cáo tài chính - Chương 1 đến Chương 4 - Phạm Thị Ý Nguyện

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHẠM VĂN ĐỒNG KHOA KINH TẾ BÀI GIẢNG MÔN: PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH (Dùng cho đào tạo tín chỉ) Người biên soạn: Th.S Phạm Thị Ý Nguyện Lưu hành nội bộ - Năm 2015 0
  2. CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 1.1. Nội dung của tài chính và tài chính doanh nghiệp 1.1.1. Nội dung của tài chính Tài chính là một phạm trù kinh tế xã hội, phát sinh và tồn tại cùng với sự tồn tại của nhà nước và nền sản xuất hàng hoá. Khái niệm và quan điểm về tài chính cũng luôn thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử, từng chế độ chính trị, do vậy xem xét các quan điểm về tài chính là rất cần thiết đối với các nhà phân tích tài chính. Kinh tế chính trị Mác-LêNin đã chỉ rõ, tài chính là một phạm trù kinh tế khách quan, thuộc phạm trù phân phối. Quá trình tái sản xuất xã hội gồm 4 khâu: sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Tài chính thuộc về phạm trù phân phối, các quan hệ phân phối được thực hiện dưới hình thức giá trị. Hoạt động phân phối giá trị các sản phẩm xã hội được thực hiện dưới hình thái tiền tệ, nói một cách rõ ràng hơn, hoạt động phân phối trong tài chính là phân phối bằng tiền chứ không phải phân phối bằng hiện vật. Hoạt động tài chính không chỉ liên quan đến việc hình thành các quỹ tiền tệ mà cả việc sử dụng các quỹ tiền tệ đó một khi việc sử dụng đó lại dẫn đến việc hình thành một quỹ tiền tệ khác. Hoạt động phân phối của tài chính nhất định phải kèm theo sự vận động của vốn tiền tệ và có hình thức biểu hiện đặc biệt là các nguồn tài chính. Trong thực tế, nguồn tài chính có thể được gọi với các tên như vốn tiền tệ, vốn bằng tiền, tiền vốn hay trong từng trường cụ thể được gọi bằng các tên gọi riêng như vốn trong dân, vốn tín dụng, vốn ngân sách Nguồn tài chính không chỉ hình thành từ các quỹ tiền tệ mà còn từ những tài sản hiện vật có khả năng chuyển hoá thành tiền tệ. Những tài sản này khi cần có thể chuyển hoá thành tiền tệ để trở thành các nguồn tài chính. Xét trên phạm vi quốc gia, nguồn tài chính hình thành không chỉ từ các quỹ tiền tệ trong nước mà còn từ các quỹ tiền tệ huy động từ nước ngoài vào. Đặc biệt, nguồn tài chính cũng không chỉ được hiểu là bao gồm các giá trị hiện tại mà cả những giá trị có khả năng nhận được trong 1
  3. tương lai. Một chủ thể kinh tế khi đưa ra các quyết định sử dụng các quỹ tiền tệ hiện tại không chỉ dựa trên nguồn tài chính mà họ hiện nắm giữ mà cả những nguồn tài chính mà họ kỳ vọng sẽ có trong tương lai. Trên cơ sở những phân tích trên, có thể rút ra định nghĩa về tài chính như sau: Tài chính là quá trình phân phối các nguồn tài chính nhằm đáp ứng nhu cầu của các chủ thể kinh tế. Hoạt động tài chính luôn gắn liền với sự vận động độc lập tương đối của các luồng giá trị dưới hình thái tiền tệ thông qua việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế. Quan điểm truyền thống về khái niệm tài chính nhấn mạnh tới các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài chính. Quan điểm này nhấn mạnh rằng hoạt động tài chính thực chất là hoạt động “phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức giá trị” giữa các chủ thể kinh tế, do vậy để hoạt động tài chính được phát triển và hiệu quả thì phải giải quyết tốt mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể tham gia vào quá trình phân phối - những mối quan hệ được xem là cơ sở quyết định cách thức phân phối các sản phẩm xã hội. Nói một cách khác, các hoạt động tài chính nào đảm bảo được sự công bằng trong phân chia quyền lợi nảy sinh từ hoạt động tài chính thì hoạt động tài chính đó sẽ hiệu quả và phát triển. Các giáo trình kinh điển về tài chính tại các nước phát triển lại tiếp cận khái niệm tài chính theo góc độ khác. Các giáo trình này nhấn mạnh: tài chính, với tư cách là một lĩnh vực khoa học, nghiên cứu về cách thức phân bổ các nguồn lực tài chính có hạn qua thời gian. Mọi chủ thể kinh tế đều phải đối mặt với sự ràng buộc về nguồn tài chính hạn chế trong khi nhu cầu sử dụng nguồn tài chính thì đa dạng và thường là vô hạn. Chính vì vậy vấn đề đặt ra đối với các chủ thể kinh tế là làm sao để tối ưu hóa việc hạnn bổ các nguồn tài chính của mình cho các nhu cầu sử dụng. Hai đặc trưng quan trọng trong các quyết định tài chính là chi phí và lợi ích của các quyết định tài chính diễn ra trong một khoảng thời gian và luôn không thể biết trước một cách chắc chắn. 1.1.2. Nội dung của tài chính doanh nghiệp 2
  4. Tài chính doanh nghiệp là toàn bộ các quan hệ tài chính biểu hiện qua quá trình “huy động và sử dụng vốn để tối đa hoá giá trị của doanh nghiệp”. Hai yếu tố đó gắn liền với nhau qua hoạt động đầu tư vì đầu tư tạo điều kiện cho sự vận động của các quỹ tiền tệ trong toàn xã hội. Tài chính được xem như là một hệ thống trong đó thị trường tài chính là trung tâm của quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ. Hoạt động của ngân sách nhà nước, tài chính doanh nghiệp, Bảo hiểm và của mọi tổ chức tín dụng đều xoay quanh thị trường tài chính. Tài chính doanh nghiệp có hai chức năng cơ bản là huy động và sử dụng vốn. Nói đến tài chính là nhấn mạnh đến các dòng tiền. Chức năng “huy động” còn gọi là chức năng tài trợ, ám chỉ quá trình tạo ra các quỹ tiền tệ từ các nguồn lực bên trong và bên ngoài để doanh nghiệp hoạt động trong lâu dài với chí phí thấp nhất. Chức năng “sử dụng vốn” hay còn gọi là đầu tư, liên quan đến việc phân bổ vốn ở đâu, lúc nào sao cho vốn được sử dụng có hiệu quả nhất. Những vấn đề trên cho thấy bản chất của tài chính vẫn là các quan hệ kinh tế tiền tệ thông qua hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn. Đó cũng chính là bản chất của tài chính doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế kế hoạch và nền kinh tế thị trường xét theo khía cạnh này thì hoàn toàn giống nhau. Sự khác nhau xuất phát từ hệ thống tài chính và nội dung các quan hệ tài chính doanh nghiệp. Các quan hệ tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường có thể chia thành bốn nhóm sau: + Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính. Mối quan hệ này thường thể hiện qua việc doanh nghiệp tìm nguồn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh: từ ngân hàng thông qua vay, từ công chúng qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu, từ các định chế tài chính khác. Trong điều kiện thị trường tài chính vững mạnh và phát triển thì mối quan hệ này cần được vận dụng linh hoạt để doanh nghiệp sử dụng nguồn tài trợ có chi phí thấp nhất. Một thị trường tài chính vững mạnh còn là môi trường thuận lợi để doanh nghiệp đầu tư vốn nhàn rỗi ra bên ngoài. + Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với ngân sách nhà nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường, quan hệ này thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp trong thanh toán các khoản thuế theo luật định. Trong nhiều trường hợp đặc biệt, nếu nhà nước có chính 3
  5. sách hỗ trợ cho sản xuất trong nước qua hình thức trợ giá, bù lỗ, cấp phát thì đây cũng là một dạng quan hệ tài chính. + Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường khác như: thị trường hàng hoá và dịch vụ. Mối quan hệ này thể hiện qua việc doanh nghiệp tận dụng các khoản tín dụng thương mại từ các nhà cung cấp hàng hoá, dịch vụ Đó còn là các quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp với các khách hàng để kích thích hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp. Sử dụng linh hoạt các mối quan hệ tài chính này để đảm bảo doanh nghiệp sử dụng các nguồn vốn tạm thời có chi phí thấp, tăng cường hiệu quả hoạt động kinh doanh. Nghiên cứu mối quan hệ này còn đánh giá công tác thanh toán giữa doanh nghiệp với các chủ nợ cũng như công tác quản lý công nợ của doanh nghiệp. + Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp: thể hiện qua quan hệ thanh toán giữa doanh nghiệp với người lao động về lương, các khoản tạm ứng ; quan hệ về phân phối vốn giữa doanh nghiệp với các đơn vị thành viên, quan hệ phân phối và sử dụng quỹ hình thành từ lợi nhuận để lại Như vậy, nội dung các quan hệ tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế kế hoạch hoá và nền kinh tế thị trường hoàn toàn khác nhau. Nếu như trong nền kinh tế kế hoạch hoá, các quan hệ tài chính doanh nghiệp chịu sự chi phối của nhà nước để phân phối của cải xã hội có kế hoạch thì trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ này chịu sự chi phối của thị trường sao cho tối đa hoá giá trị của doanh nghiệp. Thị trường, đặc biệt là thị trường tài chính tạo điều kiện khơi thông cho sự vận động các dòng tiền. Hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động kinh doanh tách biệt rõ ràng thông qua hệ thống pháp luật. 1.2. Mục tiêu và nội dung của phân tích tài chính 1.2.1. Mục tiêu phân tích tài chính Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là việc tập hợp và xử lý các thông tin liên quan về hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp bằng những công cụ và phương pháp nhất định; thông qua đó có thể đánh giá một cách đúng đắn tình hình và kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong một thời kỳ; giúp người sử dụng 4
  6. thông tin có thể đưa ra các quyết định tài chính phù hợp đối với hoạt động của doanh nghiệp. Mục tiêu phân tích tình hình tài chính biểu hiện trên các mặt sau: Một là, phân tích tình hình tài chính nhằm đánh giá đúng thực chất tình hình và kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong một thời kỳ. Số liệu trên các báo cáo tài chính chỉ mới phản ánh tình hình tài chính và kết quả hoạt động về mặt lượng một cách đơn thuần chưa chỉ ra mối tương quan giữa kết quả đạt được với các nhân tố ảnh hưởng, chưa thể hiện đầy đủ và toàn diện chất lượng hoạt động của doanh nghiệp. Thông qua phân tích tình hình tài chính với các chỉ tiêu phân tích phù hợp, có thể thấy được một cách tổng thể chất lượng hoạt động kinh doanh và hoạt động tài chính của doanh nghiệp trong một thời kỳ, có thể đánh giá được mức độ thực hiện nhiệm vụ của doanh nghiệp tốt hay chưa tốt. Hai là, phân tích tài chính doanh nghiệp nhằm thấy được mối quan hệ nhân quả giữa tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ gắn liền với việc giải quyết các quan hệ tài chính phát sinh. Hoạt động kinh doanh làm phát sinh các quan hệ tài chính, ngược lại việc xử lý các mối quan hệ tài chính của doanh nghiệp tốt hay xấu có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh trong kỳ. Thông qua phân tích tài chính doanh nghiệp có thể xác định nguyên nhân của những thành công hay hạn chế của doanh nghiệp trong việc thực hiện các hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng chiến lược kinh doanh trong giai đoạn đến. Ba là, phân tích tài chính nhằm cung cấp những thông tin cần thiết cho nhiều chủ thể trong việc đưa ra các quyết định liên quan đối với hoạt động của doanh nghiệp. + Đối với người quản lý doanh nghiệp: kết quả phân tích tài chính là căn cứ quan trọng để đưa ra các quyết định đầu tư và tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp. Thông qua phân tích tài chính, người quản lý có thể thấy được mặt yếu, mặt mạnh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, từ đó có thể đưa ra các quyết định quản lý theo hướng khai thác các tiềm năng, thế mạnh của doanh nghiệp, khắc phục những mặt yếu kém để đạt mục tiêu kinh doanh trong thời kỳ sắp đến. 5
  7. + Đối với nhà đầu tư: phân tích tài chính giúp họ lựa chọn cơ hội đầu tư phù hợp. Thông qua kết quả phân tích, họ có thể thấy được khả năng tài chính, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp để trên cơ sở đó có thể quyết định đầu tư hay cho vay đối với doanh nghiệp. + Đối với các nhà cung cấp: kết quả phân tích tài chính giúp họ đưa ra các quyết định liên quan đến việc tiếp tục hay không cung ứng các yếu tố vật tư kỹ thuật đầu vào cho doanh nghiệp cũng như quyết định phương thức bán hàng và cung cấp dịch vụ đối với doanh nghiệp. + Đối với cơ quan quản lý doanh nghiệp: phân tích tài chính là cơ sở quan trọng để thực hiện các biện pháp kiểm tra, giám sát, hướng dẫn và điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp. Phân tích tài chính là việc vận dụng tổng thể các phương pháp phân tích khoa học để đánh giá chuẩn xác tình hình tài chính của doanh nghiệp, giúp cho các đối tượng quan tâm nắm được thực trạng tài chính và an ninh tài chính của doanh nghiệp, dự đoán được chính xác các chỉ tiêu tài chính trong tương lai cũng như rủi ro tài chính mà doanh nghiệp có thể gặp phải. Qua đó, đưa ra các quyết định phù hợp với lợi ích của họ. 1.2.2. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp Xuất phát từ mục tiêu phân tích tài chính cũng như bản chất và nội dung các quan hệ tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp được chia thành những nhóm sau: Một là: Phân tích cấu trúc tài chính và cân bằng tài chính. Nội dung phân tích này nhằm đánh giá khái quát cấu trúc tài sản, cấu trúc nguồn vốn của đơn vị; qua đó phát hiện những đặc trưng trong việc sử dụng vốn, huy động vốn. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các doanh nghiệp có tính tự chủ cao trong huy động vốn và sử dụng vốn nên phân tích tài chính còn quan tâm đến cân bằng tài chính của doanh nghiệp. Hai là: Phân tích hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Hoạt động trong cơ chế thị trường, mỗi doanh nghiệp có những hướng chiến lược phát triển riêng trong từng 6
  8. giai đoạn. Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng nhưng mục tiêu đó luôn gắn liền với mục tiêu thị phần. Do vậy, doanh thu và lợi nhuận là hai yếu tố quan trọng khi đánh giá hiệu quả. Hiệu quả của doanh nghiệp cần xem xét một cách tổng thể trong sự tác động giữa hoạt động kinh doanh và hoạt động tài chính. Phân tích hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp không chỉ xem xét hiệu quả cá biệt mà còn xem xét hiệu quả tổng hợp. Ba là: phân tích giá trị của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tài chính doanh nghiệp với hai chức năng cơ bản là huy động vốn và sử dụng vốn nhưng hướng đến mục tiêu là tối đa hoá giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp được nâng cao không chỉ là kết quả tổng hợp từ sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của doanh nghiệp mà còn liên quan đến thái độ, trách nhiệm của doanh nghiệp trước cộng đồng. Đó chính là phương cách để doanh nghiệp nâng cao vị trí của mình trên thị trường, từ đó tác động ngược lại đến hoạt động tài chính. Phân tích giá trị doanh nghiệp có thể được xem như là phần “mở” trong phân tích tài chính. 1.3. Nguồn thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp 1.3.1. Thông tin từ hệ thống kế toán 1.3.1.1. Bảng cân đối kế toán (BCĐKT) a. Khái niệm và kết cấu BCĐKT Bảng cân đối kế toán là bảng báo cáo tình hình tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp ở một thời điểm nào đó. Thời điểm báo cáo thường được chọn là thời điểm cuối quý hoặc cuối năm. Do đó, đặc điểm chung của bảng cân đối kế toán là cung cấp dữ liệu thời điểm về tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp. Kết cấu của bảng CĐKT được chia thành 2 phần: Tài sản và nguồn vốn, được trình bày dưới dạng 1 phía hoặc 2 phía. Cả hai phần tài sản và nguồn vốn đều bao gồm hệ thống các chỉ tiêu tài chính phát sinh, phản ánh từng nội dung tài sản và nguồn vốn. Các chỉ tiêu được sắp xếp thành từng mục, khoản theo một trình tự logic, khoa học, phù hợp với yêu cầu quản lý và phân tích tài chính doanh nghiệp. Bảng 1.1. BẢNG CÂN ĐỐI KẾ TOÁN Tại ngày tháng năm (1) 7
  9. Đơn vị tính: Số Số Mã Thuyết cuối đầu TÀI SẢN số minh năm năm (3) (3) 1 2 3 4 5 A – TÀI SẢN NGẮN HẠN 100 I. Tiền và các khoản tương đương tiền 110 II. Đầu tư tài chính ngắn hạn 120 III. Các khoản phải thu ngắn hạn 130 IV. Hàng tồn kho 140 V. Tài sản ngắn hạn khác 150 B - TÀI SẢN DÀI HẠN 200 I. Các khoản phải thu dài hạn 210 II. Tài sản cố định 220 III. Bất động sản đầu tư 230 IV. Tài sản dở dang dài hạn 240 V. Đầu tư tài chính dài hạn 250 VI. Tài sản dài hạn khác 260 TỔNG CỘNG TÀI SẢN (270 = 100 + 200) 270 C – NỢ PHẢI TRẢ 300 I. Nợ ngắn hạn 310 II. Nợ dài hạn 330 D - VỐN CHỦ SỞ HỮU 400 I. Vốn chủ sở hữu 410 II. Nguồn kinh phí và quỹ khác 430 TỔNG CỘNG NGUỒN VỐN (440 = 300 + 400) 440 Trên BCĐKT, phần TÀI SẢN phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo theo cơ cấu tài sản và hình thức tồn tại trong quá trình 8
  10. kinh doanh của doanh nghiệp. Các tài sản được sắp xếp theo khả năng hoán chuyển thành tiền theo thứ tự giảm dần hoặc theo độ dài thời gian để chuyển hoá tài sản thành tiền. Phần NGUỒN VỐN phản ánh toàn bộ nguồn hình thành tài sản hiện có ở doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Các loại nguồn vốn được sắp xếp theo trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc sử dụng nguồn vốn đối với các chủ nợ và chủ sở hữu. Khi sử dụng các dữ liệu từ BCĐKT để phân tích tài chính doanh nghiệp cần chú ý đến những đặc điểm sau: + Tổng cộng tài sản của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo bằng tổng cộng nguồn hình thành tài sản vào thời điểm đó. Đặc trưng này thể hiện tính cân đối của BCĐKT. + Các chỉ tiêu trên BCĐKT được biểu hiện bằng tiền nên có thể tổng hợp được toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp. Tuy nhiên, chỉ có chỉ tiêu "Tiền" mới phản ánh số tiền thực sự. Các khoản còn lại phản ánh số tiền mà doanh nghiệp bỏ ra để mua, tiếp nhận, sản xuất hoặc từ bán hàng trong quá khứ. Các khoản tài sản không phải là tiền sẽ tạo ra tiền trong tương lai, và số tiền tạo ra từ những tài sản này có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn giá trị hiện tại, tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh. + BCĐKT phản ánh tài sản và nguồn hình thành tài sản tại một thời điểm. Do vậy, căn cứ vào số liệu trên BCĐKT ở nhiều thời điểm khác nhau có thể đánh giá biến động tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp. Tính thời vụ, tính chu kỳ hoặc những thay đổi bất thường trong các hoạt động cung ứng, tiêu thụ và thanh toán đều ảnh hưởng đến số liệu trên BCĐKT. Vì thế, nhà phân tích nên thận trọng khi đưa ra các kết luận phân tích đối với các biến động trên BCĐKT. + BCĐKT được lập theo các nguyên tắc kế toán chung, trong đó giá trị của tài sản được trình bày theo giá lịch sử (giá gốc). Do vậy, trong trường hợp có biến động về giá (một nền kinh tế có mức lạm phát cao hoặc giá trị doanh nghiệp giảm thấp do kinh doanh không hiệu quả) thì sử dụng số liệu trên BCĐKT sẽ không đánh giá xác thực thực trạng tài chính doanh nghiệp. Nhà phân tích trong trường hợp này cần quan tâm 9
  11. đến giá hiện hành để có những điều chỉnh phù hợp khi xây dựng các chỉ tiêu phân tích.û + Số liệu trên BCĐKT là số liệu tổng hợp về tài sản và nguồn vốn, do vậy không thể chỉ ra bức tranh cụ thể về tình hình tài chính tại doanh nghiệp. Trong trường hợp đó, cần quan tâm đến số liệu bổ sung trên thuyết minh báo cáo tài chính, hay khai thác các tài liệu chi tiết từ bộ phận kế toán tài chính doanh nghiệp. + Một đặc trưng của phần nguồn vốn trên BCĐKT là tính chi phí của nguồn vốn. Thông thường việc sử dụng nguồn vốn đều phải chịu chi phí: trả lãi ngân hàng, tiền thu sử dụng vốn, cổ tức và về nguyên tắc sử dụng nguồn vốn nào có chi phí sử dụng vốn cao thì rủi ro cao. Do vậy, xem xét đặc tính này của từng khoản mục trên phần nguồn vốn kết hợp với cơ cấu nguồn vốn cũng có thể đánh giá sự rủi ro và chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp. + Những phương pháp kế toán (phương pháp đánh giá hàng xuất kho, phương pháp khấu hao) áp dụng ở doanh nghiệp cũng ảnh hưởng đến các chỉ tiêu trên BCĐKT. Trong trường hợp doanh nghiệp thay đổi phương pháp kế toán thì cần quan tâm đến ảnh hưởng của những thay đổi đó. b. Ý nghĩa của bảng cân đối kế toán BCĐKT có ý nghĩa cả về mặt kinh tế và pháp lý. Về mặt kinh tế: số liệu phần tài sản cho phép nhà phân tích đánh giá một cách tổng quát quy mô và kết cấu tài sản của doanh nghiệp. Số liệu phần nguồn vốn phản ánh các nguồn tài trợ cho tài sản của doanh nghiệp, qua đó đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Về mặt pháp lý: số liệu phần tài sản thể hiện giá trị các loại tài sản hiện có mà doanh nghiệp có quyền quản lý và sử dụng lâu dài để sinh lợi. Phần nguồn vốn thể hiện phạm vi trách nhiệm và nghĩa vụ của doanh nghiệp về tổng số vốn kinh doanh với chủ nợ và chủ sở hữu. Như vậy, tài liệu từ BCĐKT cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình huy động và sử dụng vốn của doanh nghiệp. 1.3.1.2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 10
  12. a. Khái niệm và kết cấu của báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ (quý, năm) chi tiết theo các loại hoạt động. + Hoạt động tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ + Hoạt động tài chính + Hoạt động khác Bảng 1.2. BÁO CÁO KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH Năm Đơn vị tính: Mã Thuyết Năm Năm minh CHỈ TIÊU số nay trước 1 2 3 4 5 1. Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ 01 2. Các khoản giảm trừ doanh thu 02 3. Doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ 10 (10= 01-02) 4. Giá vốn hàng bán 11 5. Lợi nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ 20 (20=10 - 11) 6. Doanh thu hoạt động tài chính 21 7. Chi phí tài chính 22 - Trong đó: Chi phí lãi vay 23 8. Chi phí bán hàng 25 9. Chi phí quản lý doanh nghiệp 26 10 Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh 30 {30 = 20 + (21 - 22) - (25 + 26)} 11
  13. 11. Thu nhập khác 31 12. Chi phí khác 32 13. Lợi nhuận khác (40 = 31 - 32) 40 14. Tổng lợi nhuận kế toán trước thuế (50 = 30 + 40) 50 15. Chi phí thuế TNDN hiện hành 51 16. Chi phí thuế TNDN hoãn lại 52 17. Lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp (60=50 60 – 51 - 52) 18. Lãi cơ bản trên cổ phiếu (*) 70 19. Lãi suy giảm trên cổ phiếu (*) 71 (*) Chỉ áp dụng tại công ty cổ phần b. Ý nghĩa Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có ý nghĩa rất lớn trong việc đánh giá hiệu quả kinh doanh và công tác quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có thể kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch thu nhập, chi phí và kết quả từng loại hoạt động cũng như kết quả chung toàn doanh nghiệp. Dựa vào số liệu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, người sử dụng thông tin có thể kiểm tra, phân tích, đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ; so sánh với các kỳ trước và với các doanh nghiệp khác cùng ngành để nhận biết khái quát kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong kỳ và xu hướng vận động, nhằm đưa ra các quyết định quản lý, quyết định tài chính phù hợp. 1.3.1.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (BCLCTT) a. Khái niệm và kết cấu BCLCTT BCLCTT là một trong bốn báo cáo tài chính bắt buộc mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải lập để cung cấp cho người sử dụng thông tin của doanh nghiệp. Nếu BCĐKT cho biết những nguồn lực của cải (tài sản) và nguồn gốc của những tài sản đó; và báo cáo kết quả kinh doanh cho biết thu nhập và chi phí phát sinh để tính được kết quả lãi, lỗ trong một kỳ kinh doanh, thì BCLCTT được lập để trả lời các vấn đề liên 12
  14. quan đến các luồng tiền vào, ra trong doanh nghiệp, tình hình tài trợ, đầu tư bằng tiền của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh theo các hoạt động khác nhau trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. BCLCTT có thể được lập theo phương pháp trực tiếp hoặc gián tiếp, kết cấu BCLCTT được khái quát theo bảng sau: BÁO CÁO LƯU CHUYỂN TIỀN TỆ Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh Phương pháp gián tiếp Phương pháp trực tiếp 1. Lợi nhuận trước thuế 1. Tiền thu từ bán hàng, cung cấp dịch vụ 2. Điều chỉnh cho các khoản và doanh thu khác - Khấu hao TSCĐ và BĐSĐT 2. Tiền chi trả cho người cung cấp hàng - Các khoản dự phòng hoá và dịch vụ - Lãi, lỗ chênh lệch tỷ giá hối đoái do đánh 3. Tiền chi trả cho người lao động giá lại các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại 4. Tiền lãi vay đã trả tệ 5. Thuế thu nhập doanh nghiệp đã nộp - Lãi, lỗ từ hoạt động đầu tư 6. Tiền thu khác từ hoạt động kinh doanh - Chi phí lãi vay 7. Tiền chi khác cho hoạt động kinh - Các khoản điều chỉnh khác doanh 3. Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh trước thay đổi vốn lưu động - Tăng, giảm các khoản phải thu - Tăng, giảm hàng tồn kho - Tăng, giảm các khoản phải trả (không kể lãi vay và thuế TNDN phải nộp) - Tăng, giảm chi phí trả trước - Tăng, giảm chứng khoán kinh doanh - Tiền lãi vay đã trả - Thuế thu nhập doanh nghiệp đã nộp - Tiền thu khác từ hoạt động kinh doanh - Tiền chi khác từ hoạt động kinh doanh Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư 13
  15. 1.Tiền chi để mua sắm, xây dựng TSCĐ và các tài sản dài hạn khác 2.Tiền thu từ thanh lý, nhượng bán TSCĐ và các tài sản dài hạn khác 3.Tiền chi cho vay, mua các công cụ nợ của đơn vị khác 4.Tiền thu hồi cho vay, bán lại các công cụ nợ của đơn vị khác 5.Tiền chi đầu tư góp vốn vào đơn vị khác 6.Tiền thu hồi đầu tư góp vốn vào đơn vị khác 7.Tiền thu lãi cho vay, cổ tức và lợi nhuận được chia Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính 1. Tiền thu từ phát hành cổ phiếu, nhận vốn góp của chủ sở hữu 2. Tiền trả lại vốn góp cho các chủ sở hữu, mua lại cổ phiếu của doanh nghiệp đã phát hành 3. Tiền thu từ đi vay 4. Tiền trả nợ gốc vay 5. Tiền trả nợ gốc thuê tài chính 6. Cổ tức, lợi nhuận đã trả cho chủ sở hữu Nội dung báo cáo lưu chuyển tiền tệ BCLCTT phản ánh 3 mục thông tin chủ yếu. - Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh Phần này phản ánh các khoản tiền đã thu được và đã chi trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nguồn tiền được cung cấp ở đây chủ yếu là tiền thu về bán hàng và cung cấp dịch vụ. + Theo phương pháp trực tiếp, tiền từ hoạt động kinh doanh được tính trực tiếp bằng cách cộng các khoản tiền thu được từ khách hàng rồi trừ đi các khoản tiền đã sử dụng cho chi phí hoạt động kinh doanh trong kỳ. + Theo phương pháp gián tiếp, kết quả tính lượng tiền thuần lưu chuyển trong kỳ bắt đầu từ lợi nhuận trước thuế sau đó điều chỉnh những khoản thu nhập và chi phí, các khoản lãi và lỗ. - Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư Phần này phản ánh các khoản chi tiền đầu tư vào các đơn vị khác dưới hình thức mua cổ phiếu, trái phiếu, góp vốn liên doanh, chi mua sắm TSCĐ và thu tiền đầu tư 14
  16. do bán cổ phiếu, trái phiếu đã mua; tiền lãi thu được từ các khoản đầu tư vào các đơn vị khác, thu bán, thanh lý TSCĐ - Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính Phần này phản ánh các khoản tiền thu được từ các chủ sở hữu hoặc các nhà đầu tư và các khoản tiền chi ra để mua lại cổ phiếu của chủ sở hữu, trả cổ tức cho cổ đông b. Ý nghĩa báo cáo lưu chuyển tiền tệ BCLCTT cung cấp cho nhà quản trị một số thông tin quan trọng về: lượng tiền mặt có được hiện tại là từ đâu, tiền được sử dụng chủ yếu cho những hoạt động nào, sự khác biệt giữa lợi nhuận và lượng tiền mặt hiện có. Căn cứ vào Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, kết hợp với các thông tin trên các Báo cáo tài chính khác, nhà quản trị có thể nắm được tình hình sử dụng tiền, dự báo lượng tiền cần thiết để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó có các phương án phù hợp như vay vốn hoặc cho vay để tăng hiệu quả sử dụng tiền. 1.3.1.4. Thuyết minh báo cáo tài chính và các báo cáo kế toán nội bộ khác Khi phân tích tài chính doanh nghiệp, nhà phân tích cần sử dụng thêm các dữ liệu chi tiết từ thuyết minh báo cáo tài chính hoặc các báo cáo kế toán nội bộ để hệ thống chỉ tiêu phân tích được đầy đủ hơn, đồng thời khắc phục tính tổng hợp của số liệu thể hiện trên BCĐKT và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Các số liệu bổ sung bao gồm: + Số liệu về chi phí khấu hao TSCĐ trong kỳ. Số liệu này được trình bày trên thuyết minh BCTC (phần chi phí SXKD theo yếu tố) và được sử dụng để tính khả năng tự tài trợ hay xác định lợi nhuận hoạt động kinh doanh khi loại trừ sự khác biệt về phương pháp tính khấu hao giữa các kỳ, giữa các doanh nghiệp. + Số liệu về chi phí lãi vay trong kỳ. Số liệu này được sử dụng trong đánh giá khả năng thanh toán, hiệu quả hoạt động kinh doanh hay tác động của nợ đối với khả năng sinh lời vốn chủ sở hữu. 15
  17. + Số liệu về tình hình tăng, giảm các khoản nợ phải thu, nợ phải trả của từng khách nợ, chủ nợ. Với tài liệu này, nhà phân tích sẽ đánh giá đầy đủ, chi tiết hơn tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Số liệu này thường được thể hiện trong thuyết minh báo cáo tài chính hoặc từ các báo cáo công nợ ở doanh nghiệp. + Số liệu về tình hình tăng, giảm nguồn vốn kinh doanh và các quỹ chuyên dùng. Tài liệu này được sử dụng để giải thích biến động nguồn vốn chủ sở hữu và phân tích cấu trúc nguồn vốn của doanh nghiệp. + Số liệu về tình hình tăng giảm từng loại TSCĐ trong kỳ, tình hình tăng, giảm các khoản đầu tư vào các đơn vị khác + Số liệu liên quan đến biến phí và định phí ở doanh nghiệp. Trên đây chỉ là một số dữ liệu cơ bản thường sử dụng bổ sung khi phân tích tài chính doanh nghiệp. Tài liệu phân tích bổ sung nào được sử dụng tuỳ thuộc vào mục tiêu của nhà phân tích và khả năng tiếp cận thông tin của họ. Thông thường, các nhà quản trị ở doanh nghiệp có nhiều thuận lợi hơn so với các đối tượng khác khi khai thác các thông tin chi tiết trên. 1.3.2. Các nguồn thông tin khác Ngoài thông tin từ các báo cáo kế toán ở doanh nghiệp, phân tích tài chính doanh nghiệp còn sử dụng nhiều nguồn thông tin khác để các kết luận trong phân tích tài chính có tính thuyết phục. Các nguồn thông tin khác được chia thành ba nhóm sau: 1.3.2.1 Thông tin liên quan đến tình hình kinh tế Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu tác động bởi nhiều nhân tố thuộc môi trường vĩ mô nên phân tích tài chính cần đặt trong bối cảnh chung của kinh tế trong nước và các nền kinh tế trong khu vực. Kết hợp những thông tin này sẽ đánh giá đầy đủ hơn tình hình tài chính và dự báo những nguy cơ, cơ hội đối với hoạt động của doanh nghiệp. Những thông tin thường quan tâm bao gồm: + Thông tin về tăng trưởng, suy thoái kinh tế + Thông tin về lãi suất ngân hàng, trái phiếu kho bạc, tỷ giá ngoại tệ + Thông tin về tỷ lệ lạm phát 16
  18. + Các chính sách kinh tế lớn của Chính phủ, chính sách chính trị, ngoại giao của nhà nước 1.3.2.2. Thông tin theo ngành Ngoài những thông tin về môi trường vĩ mô; những thông tin liên quan đến ngành, lĩnh vực kinh doanh cũng cần được chú trọng. Đó là: + Mức độ và yêu cầu công nghệ của ngành + Mức độ cạnh tranh và qui mô của thị trường + Tính chất cạnh tranh của thị trường hay mối quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp và khách hàng + Nhịp độ và xu hướng vận động của ngành + Nguy cơ xuất hiện những đối thủ cạnh tranh tiềm tàng v v Những thông tin trên sẽ làm rõ hơn nội dung các chỉ tiêu tài chính trong từng ngành, lĩnh vực kinh doanh, đánh giá rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp. 1.3.2.3. Thông tin về đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp Do mỗi doanh nghiệp có những đặc điểm riêng trong tổ chức sản xuất kinh doanh và trong phương hướng hoạt động nên để đánh giá hợp lý tình hình tài chính, nhà phân tích cần nghiên cứu kỹ lưỡng đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp. Những vấn đề cần quan tâm bao gồm: + Mục tiêu và chiến lược hoạt động của doanh nghiệp, gồm cả chiến lược tài chính và chiến lược kinh doanh. + Đặc điểm quá trình luân chuyển vốn trong các khâu kinh doanh ở từng loại hình doanh nghiệp. + Tính thời vụ, tính chu kỳ trong hoạt động kinh doanh + Mối liên hệ giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp, khách hàng, ngân hàng, và các đối tượng khác. + Các chính sách hoạt động khác 1.4. Vận dụng các phương pháp trong phân tích tài chính 17
  19. 1.4.1. Phương pháp so sánh Phương pháp so sánh là phương pháp sử dụng phổ biến nhất trong phân tích tài chính. Để vận dụng phép so sánh trong phân tích tài chính cần quan tâm đến tiêu chuẩn so sánh, điều kiện so sánh của chỉ tiêu phân tích cùng như kỹ thuật so sánh. Tiêu chuẩn so sánh là chỉ tiêu gốc được chọn làm căn cứ so sánh. Khi phân tích tài chính, nhà phân tích thường sử dụng các gốc sau: + Sử dụng số liệu tài chính ở nhiều kỳ trước để đánh giá và dự báo xu hướng của các chỉ tiêu tài chính. Thông thường, số liệu phân tích được tổ chức từ 3 đến 5 năm liền kề. + Sử dụng số liệu trung bình ngành để đánh giá sự tiến bộ về hoạt động tài chính của doanh nghiệp so với mức trung bình tiên tiến của ngành. Số liệu trung bình ngành thường được các tổ chức dịch vụ tài chính, các ngân hàng, cơ quan thống kê cung cấp theo nhóm các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong trường hợp không có số liệu trung bình ngành, nhà phân tích có thể sử dụng số liệu của một doanh nghiệp điển hình trong cùng ngành để làm căn cứ phân tích. + Sử dụng các số kế hoạch, số dự toán để đánh giá doanh nghiệp có đạt các mục tiêu tài chính trong năm. Thông thường, các nhà quản trị doanh nghiệp chọn gốc so sánh này để xây dựng chiến lược hoạt động cho tổ chức của mình. Điều kiện so sánh yêu cầu các chỉ tiêu phân tích phải phản ánh cùng nội dung kinh tế, có cùng phương pháp tính toán và có đơn vị đo lường như nhau. Bản chất của vấn đề này liên quan đến tính so sánh của chỉ tiêu phân tích. Những thay đổi về chế độ tài chính kế toán là một trong những lý do ảnh hưởng đến tính không so sánh được của chỉ tiêu phân tích. Nhà phân tích cần chú ý đến ảnh hưởng của những thay đổi này để đánh giá đúng hơn về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra, tính so sánh được còn liên quan việc tuân thủ theo chuẩn mực kế toán đã ban hành. Có thể lấy điển hình về sự thay đổi phương pháp kế toán. Mặc dù nguyên tắc nhất quán yêu cầu doanh nghiệp phải áp dụng nhất quán các phương pháp kế toán giữa các kỳ kế toán (đánh giá hàng tồn kho, phương pháp khấu hao ) nhưng doanh nghiệp vẫn có quyền thay đổi 18
  20. phương pháp kế toán. Những thay đổi này phải được trình bày trong thuyết minh báo cáo tài chính để nhà phân tích có thể đánh giá những ảnh hưởng của phương pháp kế toán đối với chỉ tiêu phân tích. Trong trường hợp này, một báo cáo tài chính đã được kiểm toán là cơ sở đáng tin cậy đối với nhà phân tích. Kỹ thuật so sánh trong phân tích tài chính thường thể hiện qua các trường hợp sau: + Trình bày báo cáo tài chính dạng so sánh nhằm xác định mức biến động tuyệt đối và tương đối của từng chỉ tiêu trong báo cáo tài chính qua hai hoặc nhiều kỳ, qua đó phát hiện xu hướng của các chỉ tiêu. Khi phân tích báo cáo tài chính dạng so sánh, cần chú ý mối liên hệ giữa các chỉ tiêu kinh tế để phần thuyết minh số liệu chặt chẽ hơn. Chẳng hạn, khi thiết lập báo cáo lãi lỗ dạng so sánh cần xem đến mối liên hệ giữa tốc độ biến động của chỉ tiêu doanh thu với tốc độ của chỉ tiêu giá vốn hàng bán. Sự mất cân đối về tốc độ biến động của chỉ tiêu nợ phải thu khách hàng trên BCĐKT với tốc độ biến động của chỉ tiêu doanh thu đòi hỏi nhà phân tích phải tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự mất cân đối đó. + Trình bày báo cáo tài chính theo qui mô chung. Với cách so sánh này, một chỉ tiêu trên báo cáo tài chính được chọn làm qui mô chung và các chỉ tiêu có liên quan sẽ tính theo tỷ lệ phần trăm trên chỉ tiêu qui mô chung đó. Báo cáo tài chính theo qui mô chung giúp đánh giá cấu trúc của các chỉ tiêu tài chính ở doanh nghiệp. Chẳng hạn, đối với bảng cân đối kế toán, để đánh giá cơ cấu tài sản của doanh nghiệp, phải chọn chỉ tiêu tổng tài sản làm qui mô chung. Đối với báo cáo lãi lỗ, thông thường chỉ tiêu doanh thu thuần được chọn làm qui mô chung để xác định tỷ lệ của các chỉ tiêu khác so với doanh thu thuần. Trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp trực tiếp, cần xử lý lại các dòng tiền vào và dòng tiền ra để xác định qui mô chung là tổng dòng tiền vào (nguồn tiền) hoặc tổng dòng tiền ra (sử dụng tiền), qua đó có thể đánh giá: nguồn tiền chủ yếu tạo ra từ đâu và sử dụng cho mục đích nào. 19
  21. + Thiết kế các chỉ tiêu có dạng tỷ số. Một tỷ số được xây dựng khi các yếu tố cấu thành nên tỷ số phải có mối liên hệ và mang ý nghĩa kinh tế. Chẳng hạn, để phân tích khả năng thanh toán khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp cần sử dụng những yếu tố có khả năng chuyển hoá thành tiền trong ngắn hạn. Do vậy, có thể xây dựng các tỷ số phản ánh khả năng thanh toán ngắn hạn như sau: Tỷ số 1 = Tiền / Nợ ngắn hạn Tỷ số 2 = (Tiền + ĐTNH + Nợ phải thu) / Nợ ngắn hạn Tỷ số 3 = TSNH / Nợ ngắn hạn Với nguyên tắc thiết kế các tỷ số như trên, nhà phân tích có thể xây dựng chỉ tiêu phân tích phù hợp với đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp. Các tỷ số còn là công cụ hỗ trợ công tác dự đoán tài chính. 1.4.2. Phương pháp loại trừ Trong một số trường hợp, phương pháp này được sử dụng trong phân tích tài chính nhằm xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu tài chính giả định các nhân tố còn lại không thay đổi. Phương pháp phân tích này còn là công cụ hỗ trợ quá trình ra quyết định. Chẳng hạn, chỉ tiêu khả năng sinh lời của tài sản (ROA) thường được tính như sau: Tỷ suất sinh lợi của Lợi nhuận trước thuế = x100% tài sản (ROA) Tổng tài sản bình quân Nếu dừng lại ở phép so sánh thì chưa thể hiện rõ nhân tố nào tác động đến khả năng sinh lời của tài sản. Tuy nhiên, khi xây dựng chỉ tiêu này trong quan hệ với hiệu suất sử dụng tài sản và khả năng sinh lời từ doanh thu thì chỉ tiêu ROA được chi tiết như sau: Lợi nhuận Doanh thu Tỷ suất sinh lợi của = x tài sản (ROA) Doanh thu Tổng tài sản bình quân = Hiệu suất sử dụng tài sản x Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu 20
  22. Với phương pháp loại trừ, nhà phân tích sẽ thấy được nhân tố nào ảnh hưởng chủ yếu đến khả năng sinh lời tài sản, qua đó phát hiện những lợi thế (hay bất lợi) trong hoạt động của doanh nghiệp và định hướng hoạt động trong kỳ đến. 1.4.3. Phương pháp cân đối liên hệ Các báo cáo tài chính đều có đặc trưng chung là thể hiện tính cân đối: cân đối giữa tài sản và nguồn vốn; cân đối giữa doanh thu, chi phí và kết quả; cân đối giữa dòng tiền vào và dòng tiền ra, cân đối giữa tăng và giảm Cụ thể là các cân đối cơ bản: Tổng tài sản = TSNH + TSDH Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn Lợi nhuận = Doanh thu - Chi phí Dòng tiền thuần = Dòng tiền vào - Dòng tiền ra Dựa vào những cân đối cơ bản trên, trong phân tích tài chính thường vận dụng phương pháp cân đối liên hệ để xem xét ảnh hưởng của từng nhân tố đến biến động của chỉ tiêu phân tích. Chẳng hạn, với biến động của tổng tài sản giữa hai thời điểm, phương pháp này sẽ cho thấy loại tài sản nào (hàng tồn kho, nợ phải thu, TSCĐ ) biến động ảnh hưởng đến biến động tổng tài sản của doanh nghiệp. Như vậy, dựa vào biến động của từng bộ phận mà chỉ tiêu phân tích sẽ được đánh giá đầy đủ hơn. 1.4.4. Phương pháp phân tích tương quan Giữa các số liệu tài chính trên báo cáo tài chính thường có mối tương quan với nhau. Chẳng hạn, mối tương quan giữa doanh thu (trên Báo cáo lãi lỗ) với các khoản nợ phải thu khách hàng, với hàng tồn kho (trên BCĐKT). Thông thường, khi doanh thu của đơn vị càng tăng thì số dư các khoản nợ phải thu cũng gia tăng, hoặc doanh thu tăng dẫn đến yêu cầu về dự trữ hàng cho kinh doanh gia tăng. Một trường hợp khác là tương quan giữa chỉ tiêu ‘Chi phí đầu tư xây dựng cơ bản’ với chỉ tiêu ‘Nguyên giá TSCĐ’ ở doanh nghiệp. Cả hai số liệu này đều trình bày trên BCĐKT. Một khi trị giá các khoản đầu tư XDCB gia tăng thường phản ánh doanh nghiệp có tiềm lực về cơ sở hạ tầng trong thời gian đến. Phân tích tương quan sẽ đánh giá tính hợp lý về biến động 21
  23. giữa các chỉ tiêu tài chính, xây dựng các tỷ số tài chính được phù hợp hơn và phục vụ công tác dự báo tài chính ở doanh nghiệp. Trên đây là những phương pháp kỹ thuật thường được vận dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, vận dụng phương pháp phân tích thích hợp cho nội dung và chỉ tiêu phân tích nào với các đánh giá tổng hợp được xem như là nghệ thuật của nhà phân tích tài chính. Mỗi nhà phân tích bằng kinh nghiệm nghề nghiệp với khả năng tổ chức dữ liệu, khả năng chẩn đoán và tổng hợp các vấn đề tài chính trong một môi trường ‘mở ’ sẽ đưa ra bức tranh về tài chính doanh nghiệp. Kết quả phân tích đó là cơ sở cho các quyết định ở doanh nghiệp. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Những đối tượng nào tiến hành phân tích tài chính doanh nghiệp? Mục tiêu phân tích của từng đối tượng là gì? Tác dụng của phân tích báo cáo tài chính đối với công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp. 2. Trình bày các phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp? Điều kiện áp dụng của từng phương pháp? 3. So sánh điểm giống và khác nhau giữa báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp? 4. So sánh điểm giống nhau và khác nhau giữa phân tích kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và phân tích bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp ? 22
  24. CHƯƠNG 2 PHÂN TÍCH CẤU TRÚC TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 2.1. Phân tích cấu trúc tài sản 2.1.1. Các chỉ tiêu chủ yếu phản ánh cấu trúc tài sản Phân tích cơ cấu tài sản của doanh nghiệp được thực hiện bằng cách tính ra và so sánh tình hình biến động giữa kỳ phân tích với kỳ gốc về tỷ trọng của từng bộ phận tài sản chiếm trong tổng số tài sản. Tỷ trọng của từng bộ phận tài sản chiếm trong tổng số tài sản được xác định như sau: Tỷ trọng của từng bộ phận tài sản Giá trị của từng bộ phận tài sản = x100% chiếm trong tổng số tài sản Tổng tài sản Khi phân tích cấu trúc tài sản, thông thường sử dụng các chỉ tiêu cơ bản: - Tiền và các khoản tương đương tiền Khi xem xét chỉ tiêu này cần liên hệ với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp trong từng giai đoạn để nhận xét. Khoản mục này có thể tăng hoặc giảm không phải do ứ đọng hay thiếu tiền mà có thể do doanh nghiệp đang có kế hoạch tập trung tiền để chuẩn bị mua sắm vật tư, tài sản hay do doanh nghiệp vừa đầu tư vào một số lĩnh vực kinh doanh - Đầu tư tài chính Đầu tư tài chính là một hoạt động quan trọng của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường nhằm phát huy hết mọi tiềm năng sẵn có cũng như những lợi thế của doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả kinh doanh, khẳng định vị thế của mình. - Các khoản phải thu Các khoản phải thu của doanh nghiệp có nhiều loại, trong đó chủ yếu là các khoản phải thu người mua và tiền đặt trước cho người bán. Đây là số vốn (tài sản) của doanh nghiệp nhưng bị người mua và người bán chiếm dụng. Khoản phải thu này tăng (hoặc giảm) do nhiều nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên, khi xem xét nội dung này cần liên hệ với phương thức tiêu thụ (bán buôn, bán lẻ), chính sách tín dụng bán hàng (tín dụng ngắn hạn, tín dụng dài hạn), chính sách thanh toán tiền hàng, khả năng quản 23
  25. lý nợ cũng như năng lực tài chính của khách hàng để nhận xét. Chẳng hạn, số nợ phải thu tăng hoặc giảm không phải do yếu kém của doanh nghiệp trong việc quản lý nợ mà có thể do phương thức tiêu thụ áp dụng tại doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp áp dụng phương thức bán lẻ là chủ yếu thì số nợ phải thu sẽ thấp do bán hàng ra được thu tiền ngay. Ngược lại, với doanh nghiệp áp dụng phương thức bán buôn là chủ yếu thì tỷ trọng nợ phải thu sẽ cao do đặc trưng của phương thức tiêu thụ này là thanh toán chậm. Hoặc với chính sách tín dụng bán hàng khác nhau, trong thời kỳ doanh nghiệp áp dụng chính sách tín dụng dài hạn số nợ phải thu chắc chắn sẽ lớn hơn số nợ phải thu trong thời kỳ áp dụng chính sách tín dụng ngắn hạn. Do chính sách tín dụng bán hàng có quan hệ chặt chẽ với lượng hàng hoá tiêu thụ và được coi như một biện pháp để kích thích tiêu thụ nên khi xem xét số nợ phải thu phát sinh, nhà phân tích cần liên hệ với lượng hàng hoá tiêu thụ để đánh giá. Việc áp dụng chính sách chiết khấu thanh toán cũng có quan hệ trực tiếp với số nợ phải thu. Bởi vậy, để thu hồi vốn kịp thời, tránh bị chiếm dụng vốn, doanh nghiệp cần xây dựng và vận dụng chính sách chiết khấu thanh toán hợp lý, linh hoạt. Trường hợp do khả năng quản lý khách hàng kém, khoản nợ phải thu sẽ tăng do phát sinh các khoản “nợ xấu” trong kỳ. Để giảm bớt rủi ro có thể xảy ra, doanh nghiệp cần có biện pháp thích hợp như: bán các khoản nợ cho công ty mua bán nợ, ngừng cung cấp hàng hoá cho khách hàng này hay nhờ sự can thiệp của pháp luật để thu hồi nợ. Đồng thời để tránh tình trạng nợ đọng tăng thêm, doanh nghiệp cần tìm hiểu kỹ càng về năng lực tài chính của khách hàng và tình hình thanh toán của khách hàng trước khi đặt quan hệ làm ăn. - Hàng tồn kho Để đảm bảo cho quá trình kinh doanh được liên tục, không bị gián đoạn, đòi hỏi doanh nghiệp phải xác định được lượng hàng tồn kho dự trữ hợp lý. Lượng hàng tồn kho dự trữ hợp lý là lượng dự trữ vừa đáp ứng được nhu cầu kinh doanh liên tục, vừa không tăng chi phí tồn kho gây ứ đọng vốn. Khi xem xét tỷ trọng hàng tồn kho chiếm trong tổng tài sản, cần liên hệ với ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh của doanh 24
  26. nghiệp, chính sách dự trữ, tính thời vụ của kinh doanh, chu kỳ sống của sản phẩm hàng hoá. Chẳng hạn, trong các doanh nghiệp kinh doanh thương mại, tỷ trọng hàng tồn kho thường lớn do đối tượng kinh doanh của các doanh nghiệp này là hàng hoá; ngược lại, trong các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hàng tồn kho thường chiếm tỷ trọng thấp. Đối với các doanh nghiệp sản xuất – kinh doanh mang tính thời vụ vào những thời điểm nhất định trong năm, tỷ trong hàng tồn kho thường rất cao do yêu cầu dự trữ thời vụ; ngược lại, vào những thời điểm khác, lượng hàng tồn kho lại quá thấp. Tương tự, khi sản phẩm, hàng hoá đang ở giai đoạn tăng trưởng, lượng dự trữ hàng tồn kho thường cao để đáp ứng nhu cầu chiếm lĩnh thị trường; còn khi sản phẩm hàng hoá ở vào giai đoạn suy thoái, để tránh rủi ro, lượng hàng tồn kho thường được giảm xuống ở mức thấp nhất. Một doanh nghiệp có hệ thống cung cấp tốt sẽ giảm được lượng hàng tồn kho mà không ảnh hưởng đến tính liên tục của quá trình kinh doanh. - Tài sản cố định Tỷ trọng tài sản cố định chiếm trong tổng tài sản phụ thuộc vào ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh, chính sách đầu tư, chu kỳ kinh doanh và phương pháp khấu hao mà doanh nghiệp áp dụng. Đối với các doanh nghiệp có chính sách đầu tư mới (cả chiều sâu và chiều rộng), trong giai đoạn mới đầu tư tỷ trọng này thường cao do lượng vốn đầu tư lớn và mức khấu hao chưa nhiều. Mặt khác, tỷ trọng của tài sản cố định chiếm trong tổng tài sản được xác định bằng giá trị còn lại của tài sản cố định nên phương pháp khấu hao mà doanh nghiệp áp dụng cũng có ảnh hưởng đáng kể do mỗi phương pháp khấu hao khác nhau thì có mức khấu hao khác nhau. Do vậy, khi xem xét tỷ trọng của tài sản cố định chiếm trong tổng tài sản, bên cạnh việc liên hệ với ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp, nhà phân tích cần liên hệ đến tình hình đầu tư, chu kỳ kinh doanh và phương pháp khấu hao để rút ra nhận xét thích hợp. Đồng thời, cần đi sâu xem xét tỷ trọng của từng bộ phận tài sản cố định chiếm trong tổng tài sản; qua đó đánh giá chính xác hơn tình hình đầu tư và cơ cấu tài sản cố định của doanh nghiệp. Đặc biệt, cần chú trọng đến một số bộ phận tài 25
  27. sản cố định vô hình vì trong nền kinh tế thị trường, giá trị các bộ phận này thường có xu hướng gia tăng. 2.1.2. Bảng cân đối kế toán so sánh và phân tích biến động tài sản của doanh nghiệp Việc xem xét tình hình biến động về tỷ trọng của từng bộ phận tài sản chiếm trong tổng tài sản giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc mặc dầu cho phép các nhà quản lý đánh giá được khái quát tình hình phân bổ (sử dụng) vốn nhưng lại không cho biết các nhân tố tác động đến sự thay đổi cơ cấu tài sản của doanh nghiệp. Vì vậy, để biết được chính xác tình hình sử dụng vốn, nắm được các nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến sự biến động về cơ cấu tài sản, các nhà phân tích còn kết hợp cả việc phân tích ngang, tức là so sánh sự biến động giữa kỳ phân tích với kỳ gốc (cả về số tuyệt đối và số tương đối) trên tổng tài sản cũng như theo từng loại tài sản. Bên cạnh việc so sánh sự biến động trên tổng tài sản cũng như từng loại tài sản giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc, các nhà phân tích còn xem xét tỷ trọng từng loại tài sản chiếm trong tổng số và xu hướng biến động của chúng theo thời gian để thấy được mức độ hợp lý của việc phân bổ. Việc đánh giá phải dựa trên tính chất kinh doanh và tình hình biến động của từng bộ phận. Trong điều kiện cho phép có thể xem xét và so sánh sự biến động về tỷ trọng của từng bộ phận tài sản chiếm trong tổng tài sản của doanh nghiệp qua nhiều năm và so với cơ cấu chung của ngành để đánh giá. Nhằm thuận tiện cho việc đánh giá cơ cấu tài sản, khi phân tích có thể lập bảng sau: 26
  28. Cuối năm Cuối năm N so với cuối năm (N-3) (N-2) (N-1) N (N-3) (N-2) (N-1) Chỉ tiêu Số Tỷ Số Tỷ Số Tỷ Số Tỷ Số Tỷ Tỷ Số Tỷ Tỷ Số Tỷ Tỷ tiền trọng tiền trọng tiền trọng tiền trọng tiền lệ trọng tiền lệ trọng tiền lệ trọng A B C D E G H I K L M N O P Q R S T A. Tài sản ngắn hạn I. Tiền và tương đương tiền II. Đầu tư tài chính ngắn hạn III. Phải thu ngắn hạn IV. Hàng tồn kho V. Tài sản ngắn hạn khác B. Tài sản dài hạn I. Phải thu dài hạn II. Tài sản cố định III. Bất động sản đầu tư IV. Đầu tư tài chính dài hạn V. Tài sản dài hạn khác Tổng tài sản 27
  29. Qua bảng phân tích trên, các nhà phân tích sẽ nắm được các nội dung chủ yếu sau: - Cột “Số tiền” trong kỳ phân tích (cột I) và kỳ gốc (các cột B, D và G) phản ánh trị số của từng chỉ tiêu (từng loại tài sản và tổng tài sản) ở thời điểm cuối kỳ tương ứng (cuối năm N và các năm liền kề trước năm N); trong đó, số tổng cộng theo từng cột của chỉ tiêu A “Tài sản ngắn hạn” và chỉ tiêu B “Tài sản dài hạn” đúng bằng số liệu của chỉ tiêu “Tổng tài sản” ở từng kỳ. - Cột “Tỷ trọng” trong kỳ phân tích (cột K) và kỳ gốc (các cột C, E và H) phản ánh tỷ trọng của từng bộ phận tài sản (tài sản ngắn hạn, tài sản dài hạn và từng loại tài sản ngắn hạn, dài hạn cụ thể) chiếm trong tổng tài sản ở từng thời điểm cuối kỳ tương ứng (cuối năm N và các năm liền kề trước năm N); trong đó, số tổng cộng theo từng cột của các chỉ tiêu bộ phận đúng bằng 100% và đúng bằng tỷ trọng của chỉ tiêu “Tổng tài sản”. - Cột “cuối năm N so với cuối năm (N-1), (N-2), (N-3)”: + Cột “Số tiền” (các cột L, O và R): phản ánh sự biến động về số tuyệt đối của tổng tài sản cũng như từng loại tài sản theo thời gian. Qua các cột này, các nhà phân tích sẽ thấy được mức độ biến động về quy mô của tài sản cũng như nguyên nhân ảnh hưởng đến sự thay đổi về tỷ trọng của từng bộ phận tài sản chiếm trong tổng tài sản. Đồng thời qua số liệu cột R, các nhà phân tích sẽ xác định được ảnh hưởng của các nhân tố bộ phận (từng loại tài sản) đến sự biến động của chỉ tiêu A “tài sản ngắn hạn”, chỉ tiêu B “Tài sản dài hạn” cũng như ảnh hưởng của “Tài sản ngắn hạn” và “Tài sản dài hạn” đến sự biến động của chỉ tiêu “Tổng tài sản”. + Cột “Tỷ lệ” (các cột M, P và S): phản ánh sự biến động về số tương đối theo thời gian của từng bộ phận tài sản chiếm trong tổng tài sản. Qua các cột này, các nhà phân tích sẽ thấy được mức độ tăng trưởng và xu hướng biến động theo thời gian của từng loại tài sản. + Cột “Tỷ trọng” (các cột N, Q và T): phản ánh tình hình biến động về tỷ trọng theo thời gian của từng loại tài sản. Sự thay đổi theo thời gian về tỷ trọng của từng bộ 28
  30. phận tài sản chiếm trong tổng tài sản sẽ cho các nhà quản lý đánh giá được xu hướng biến động của cơ cấu tài sản hay tình hình phân bổ vốn. Bằng việc xem xét bảng phân tích trên, các nhà quản lý sẽ thấy được những đặc trưng trong cơ cấu tài sản của doanh nghiệp, xác định được tính hợp lý của việc sử dụng vốn. Qua việc xem xét cơ cấu tài sản và sự biến động về cơ cấu tài sản của nhiều kỳ kinh doanh, các nhà quản lý sẽ có quyết định đầu tư vào loại tài sản nào thích hợp, đầu tư vào thời điểm nào; xác định được việc gia tăng hay cắt giảm hàng tồn kho cũng như mức dự trữ hàng tồn kho hợp lý trong từng thời kỳ để sao cho có đủ lượng hàng tồn kho cần thiết đáp ứng cho nhu cầu sản xuất – kinh doanh và nhu cầu tiêu thụ của thị trường mà không làm tăng chi phí tồn kho; có chính sách thích hợp về thanh toán để vừa khuyến khích được khách hàng vừa thu hồi vốn kịp thời, tránh bị chiếm dụng vốn Khi phân tích cơ cấu tài sản nhà phân tích cần liên hệ với số liệu bình quân của ngành cũng như so sánh với số liệu của các doanh nghiệp khác kinh doanh cùng ngành nghề có hiệu quả cao hơn để có nhận xét xác đáng về tình hình sử dụng vốn và tính hợp lý của cơ cấu tài sản của doanh nghiệp. Đồng thời cần căn cứ vào tình hình thực tế của doanh nghiệp cũng như chính sách đầu tư và chính sách kinh doanh mà doanh nghiệp vận dụng trong từng thời kỳ để đánh giá. 2.2. Phân tích cấu trúc nguồn vốn của doanh nghiệp 2.2.1. Phân tích tính tự chủ về tài chính của doanh nghiệp Để tiến hành hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải xác định nhu cầu đầu tư, tiến hành tạo lập, tìm kiếm, tổ chức huy động vốn. Doanh nghiệp có thể huy động vốn cho nhu cầu kinh doanh từ nhiều nguồn khác nhau; trong đó có thể quy về hai nguồn chính là vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Doanh nghiệp có trách nhiệm xác định số vốn huy động, nguồn huy động, thời gian huy động, chi phí huy động sao cho vừa bảo đảm đáp ứng nhu cầu về vốn kinh doanh, vừa tiết kiệm chi phí huy động, tiết kiệm chi phí sử dụng vốn và bảo đảm an ninh tài chính cho doanh nghiệp. Vì thế, qua phân tích cơ cấu nguồn vốn, các nhà quản lý nắm được cơ cấu vốn huy động, biết được trách nhiệm của doanh nghiệp đối với các 29
  31. nhà cho vay, nhà cung cấp, người lao động, ngân sách về số tài sản tài trợ bằng nguồn vốn của họ. Cũng qua phân tích cơ cấu nguồn vốn, các nhà quản lý nắm được mức độ độc lập về tài chính cũng như xu hướng biến động của cơ cấu nguồn vốn huy động. Để phân tích cơ cấu nguồn vốn các nhà phân tích cần tính ra và so sánh tình hình biến động giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc về tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn chiếm trong tổng số nguồn vốn. Tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn chiếm trong tổng số nguồn vốn được xác định như sau: Tỷ trọng của từng bộ phận nguồn Giá trị của từng bộ phận nguồn vốn = x100% vốn chiếm trong tổng nguồn vốn Tổng nguồn vốn Nhằm thuận tiện cho việc đánh giá cơ cấu nguồn vốn, khi phân tích có thể lập bảng sau: 30
  32. Cuối năm Cuối năm N so với cuối năm (N-3) (N-2) (N-1) N (N-3) (N-2) (N-1) Chỉ tiêu Số Tỷ Số Tỷ Số Tỷ Số Tỷ Số Tỷ Tỷ Số Tỷ Tỷ Số Tỷ Tỷ tiền trọng tiền trọng tiền trọng tiền trọng tiền lệ trọng tiền lệ trọng tiền lệ trọng A B C D E G H I K L M N O P Q R S T A. Nợ phải trả I. Nợ ngắn hạn II. Nợ dài hạn B. Vốn chủ sở hữu I. Vốn chủ sở hữu II. Nguồn kinh phí và quỹ khác Tổng nguồn vốn 31
  33. Qua bảng phân tích trên, các nhà phân tích sẽ nắm được các nội dung chủ yếu sau: - Cột “Số tiền” trong kỳ phân tích (cột I) và kỳ gốc (các cột B, D và G) phản ánh trị số của từng chỉ tiêu (từng loại nguồn vốn và tổng nguồn vốn) ở thời điểm cuối kỳ tương ứng (cuối năm N và các năm liền kề trước năm N); trong đó, số tổng cộng theo từng cột của chỉ tiêu A “Nợ phải trả” và chỉ tiêu B “Vốn chủ sở hữu” đúng bằng số liệu của chỉ tiêu “Tổng nguồn vốn” ở từng kỳ. - Cột “Tỷ trọng” trong kỳ phân tích (cột K) và kỳ gốc (các cột C, E và H) phản ánh tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn (Nợ phải trả, vốn chủ sở hữu và từng loại vốn chủ sở hữu, từng khoản nợ phải trả ngắn hạn, dài hạn) chiếm trong tổng nguồn vốn ở từng thời điểm cuối kỳ tương ứng (cuối năm N và các năm liền kề trước năm N); trong đó, số tổng cộng theo từng cột của các chỉ tiêu bộ phận đúng bằng 100% và đúng bằng tỷ trọng của chỉ tiêu “Tổng nguồn vốn”. - Cột “cuối năm N so với cuối năm (N-1), (N-2), (N-3)”: + Cột “Số tiền” (các cột L, O và R): phản ánh sự biến động về số tuyệt đối của tổng nguồn vốn cũng như từng loại nguồn vốn theo thời gian. Qua các cột này, các nhà phân tích sẽ thấy được mức độ biến động về quy mô của nguồn vốn cũng như nguyên nhân ảnh hưởng đến sự thay đổi về tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn chiếm trong tổng nguồn vốn. Đồng thời qua số liệu cột R, các nhà phân tích sẽ xác định được ảnh hưởng của các nhân tố bộ phận (từng loại nguồn vốn) đến sự biến động của chỉ tiêu A “Nợ phải trả”, chỉ tiêu B “Vốn chủ sở hữu” cũng như ảnh hưởng của “Nợ phải trả” và “Vốn chủ sở hữu” đến sự biến động của chỉ tiêu “Tổng nguồn vốn”. + Cột “Tỷ lệ” (các cột M, P và S): phản ánh sự biến động về số tương đối theo thời gian của từng bộ phận nguồn vốn chiếm trong tổng nguồn vốn. Qua các cột này, các nhà phân tích sẽ thấy được mức độ tăng trưởng và xu hướng biến động theo thời gian của từng loại nguồn vốn. + Cột “Tỷ trọng” (các cột N, Q và T): phản ánh tình hình biến động về tỷ trọng theo thời gian của từng loại nguồn vốn. Sự thay đổi theo thời gian về tỷ trọng của từng 32
  34. bộ phận nguồn vốn chiếm trong tổng nguồn vốn sẽ cho các nhà quản lý đánh giá được xu hướng biến động của cơ cấu nguồn vốn hay cơ cấu nguồn vốn huy động. Bằng việc xem xét bảng phân tích trên, các nhà quản lý sẽ thấy được những đặc trưng trong cơ cấu huy động vốn của doanh nghiệp, xác định được tính hợp lý và an toàn của việc huy động vốn. Qua việc xem xét cơ cấu nguồn vốn và sự biến động về cơ cấu nguồn vốn của nhiều kỳ kinh doanh gắn với điều kiện kinh doanh cụ thể, các nhà quản lý sẽ có quyết định huy động nguồn vốn nào với mức độ bao nhiêu là hợp lý, bảo đảm hiệu quả kinh doanh cao nhất. Bảng phân tích trên cho phép các nhà quản lý đánh giá được năng lực tài chính cũng như mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp thông qua sự biến động của các chỉ tiêu: hệ số tài trợ, Hệ số nợ so với vốn chủ sở hữu, Hệ số nợ so với tổng nguồn vốn. Chỉ tiêu “Hệ số tài trợ” phản ánh khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính và mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết, trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp, nguồn vốn chủ sở hữu chiếm bao nhiêu. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn, chứng tỏ khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính càng cao, mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp càng tăng và ngược lại. Hệ số tài trợ được xác định theo công thức: Vốn chủ sở hữu Hệ số tài trợ = Tổng nguồn vốn Chỉ tiêu “Hệ số nợ so với vốn chủ sở hữu” cho biết cơ cấu nguồn tài trợ tài sản của doanh nghiệp, cứ một đồng tài sản tài trợ bằng vốn chủ sở hữu thì tương ứng với bao nhiêu đồng tài trợ bằng nợ phải trả. Nợ phải trả Hệ số nợ so với vốn chủ sở hữu = Vốn chủ sở hữu Chỉ tiêu “Hệ số nợ so với tổng nguồn vốn” cho biết trong một đồng vốn tài trợ tài sản của doanh nghiệp có bao nhiêu đồng nợ phải trả. Nợ phải trả Hệ số nợ so với tổng nguồn vốn = Tổng nguồn vốn 33
  35. Trị số của các chỉ tiêu hệ số nợ so với vốn chủ sở hữu và hệ số nợ so với tổng nguồn vốn càng cao, mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp càng thấp và ngược lại. Để đánh giá chính xác tính hợp lý và mức độ an toàn tài chính của doanh nghiệp, các nhà phân tích cần liên hệ với chính sách huy động vốn và chính sách đầu tư trong từng thời kỳ của doanh nghiệp. Mặt khác, cũng cần liên hệ trị số của các chỉ tiêu trên với trị số trung bình ngành hoặc với các doanh nghiệp khác tương đương. 2.2.2. Phân tích tính ổn định của nguồn tài trợ Xét trên góc độ ổn định về nguồn tài trợ tài sản, toàn bộ tài trợ tài sản (nguồn vốn) của doanh nghiệp được chia thành nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời. Nguồn vốn thường xuyên là nguồn tài trợ mà doanh nghiệp được sử dụng thường xuyên, ổn định và lâu dài vào hoạt động kinh doanh. Theo cách phân loại này, nguồn vốn thường xuyên tại một thời điểm bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và các khoản nợ vay trung và dài hạn. Khoản nợ vay dài hạn đến hạn trả không được xem là nguồn vốn thường xuyên. Nguồn vốn tạm thời là nguồn tài trợ mà doanh nghiệp tạm thời sử dụng vào hoạt động kinh doanh trong một khoảng thời gian ngắn. Thuộc nguồn vốn tạm thời bao gồm các khoản vay ngắn hạn; nợ ngắn hạn; các khoản vay – nợ quá hạn (kể cả vay – nợ dài hạn quá hạn); các khoản chiếm dụng bất hợp pháp của người bán, người mua, người lao động Khi phân tích tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh, để có nhận xét xác đáng và chính xác về tình hình đảm bảo vốn, các nhà phân tích sử dụng các chỉ tiêu: - Hệ số tài trợ thường xuyên: Chỉ tiêu này cho biết, so với tổng nguồn vốn của doanh nghiệp, nguồn vốn thường xuyên chiếm bao nhiêu phần. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn, tính ổn định về nguồn tài trợ của doanh nghiệp càng cao và ngược lại: Nguồn vốn thường xuyên Hệ số tài trợ thường xuyên = Tổng nguồn vốn - Hệ số tài trợ tạm thời: 34
  36. Hệ số tài trợ tạm thời cho biết so với tổng nguồn vốn của doanh nghiệp, nguồn vốn tạm thời chiếm bao nhiêu phần. Trị số của chỉ tiêu này càng nhỏ, tính ổn định về nguồn tài trợ của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. Nguồn vốn tạm thời Hệ số tài trợ tạm thời = Tổng nguồn vốn Bên cạnh đó, để đánh giá chính xác hơn cần xem xét mối quan hệ giữa tính tự chủ với tính ổn định của nguồn vốn. Mối quan hệ này thể hiện qua các chỉ tiêu: - Hệ số vốn chủ sở hữu so với nguồn vốn thường xuyên: Chỉ tiêu này cho biết trong tổng nguồn vốn thường xuyên số vốn chủ sở hữu chiếm bao nhiêu phần. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn tính tự chủ và độc lập về tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. Hệ số VCSH so với nguồn Vốn chủ sở hữu = vốn thường xuyên Nguồn vốn thường xuyên - Hệ số giữa nguồn vốn thường xuyên so với tài sản dài hạn: Chỉ tiêu này cho biết mức độ tài trợ tài sản dài hạn bằng nguồn vốn thường xuyên. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn hơn 1, tính ổn định và bền vững về tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. Hệ số giữa nguồn vốn thường Nguồn vốn thường xuyên = xuyên so với tài sản dài hạn Tài sản dài hạn - Hệ số giữa tài sản ngắn hạn so với nợ ngắn hạn: Chỉ tiêu này cho biết mức độ tài trợ tài sản ngắn hạn bằng nợ ngắn hạn cao hay thấp. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn hơn 1, tính ổn định và bền vững về tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. Hệ số giữa tài sản ngắn hạn Tài sản ngắn hạn = so với nợ ngắn hạn Nợ ngắn hạn Bằng các chỉ tiêu phản ánh tính tự chủ và tính ổn định của nguồn vốn, phân tích cấu trúc nguồn vốn có nhiều ý nghĩa trong việc ra quyết định. Về phía nhà tài trợ, những phân tích trên góp phần đảm bảo tín dụng cho khách hàng nhưng vẫn giảm thiểu các rủi ro phát sinh do không thanh toán được nợ. Đối với nhà quản trị doanh nghiệp, việc đối chiếu các tỷ suất liên quan đến nợ của doanh nghiệp với các hạn mức của ngân 35
  37. hàng (nếu có) cho phép doanh nghiệp ước tính khả năng nợ của mình để có quyết định huy động vốn hợp lý. Qua đó, doanh nghiệp có cơ sở xây dựng một cấu trúc nguồn vốn hợp lý, giảm thiểu đến mức thấp nhất có thể chi phí sử dụng vốn, tối đa hoá giá trị của doanh nghiệp. Vấn đề lựa chọn cấu trúc nguồn vốn có thể là: + Lựa chọn một tỷ lệ hợp lý giữa nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời. Mối quan hệ này phụ thuộc rất lớn vào bản chất và lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. Trong những doanh nghiệp mà yêu cầu về đầu tư TSCĐ rất lớn trong toàn bộ tài sản thì tỷ trọng nguồn vốn thường xuyên so với nguồn vốn tạm thời nên có xu hướng gia tăng. Vấn đề này sẽ phân tích kỹ lưỡng khi xem xét cân bằng tài chính của doanh nghiệp. + Lựa chọn một tỷ lệ hợp lý giữa nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn vay nợ nhằm đảm bảo chi phí sử dụng vốn là thấp nhất. Trong mối quan hệ này, chi phí sử dụng vốn chủ sở hữu phụ thuộc vào kết quả hoạt động, trong khi đó chi phí sử dụng vốn vay hoàn toàn độc lập với kết quả hoạt động. Về nguyên tắc, sử dụng vốn chủ sở hữu có chi phí sử dụng vốn cao hơn vốn vay nợ. 2.3. Phân tích cân bằng tài chính 2.3.1. Khái quát chung về cân bằng tài chính doanh nghiệp Cân bằng tài chính là một nội dung trong công tác quản trị tài chính doanh nghiệp nhằm đảm bảo một sự cân đối giữa các yếu tố của nguồn tài trợ với các yếu tố của tài sản. Nghiên cứu cấu trúc của tài sản cho thấy tài sản của doanh nghiệp có hai bộ phận lớn: một bộ phận có thời gian lưu chuyển rất lâu, trên một năm hoặc trên một chu kỳ kinh doanh (còn gọi là TS dài hạn) và một bộ phận có thời gian lưu chuyển nhanh, trong vòng một năm hay một chu kỳ kinh doanh (còn gọi là TSNH). Mỗi yếu tố thuộc TSCĐ hoặc TSNH lại có những đặc trưng riêng về qui mô, về tốc độ lưu chuyển do những thuộc tính vốn có của chúng hay do các quyết định quản lý. Ở một hướng phân tích khác, cấu trúc nguồn vốn không chỉ thể hiện tính tự chủ mà còn thể hiện tính ổn định trong tài trợ. Cấu trúc nguồn vốn cho thấy công tác quản trị tài chính còn liên quan đến trách nhiệm của doanh nghiệp đối với bên ngoài, cụ thể là trách nhiệm thanh 36
  38. toán các khoản vay, nợ. Do vậy, một khi đã huy động vốn cần quan tâm: đầu tư vốn đó cho mục đích gì, lúc nào, với qui mô và chí phí ra sao? Do sự vận động của tài sản tách rời với thời gian sử dụng của nguồn vốn nên nghiên cứu mối quan hệ giữa các yếu tố của tài sản và nguồn vốn sẽ chỉ ra sự an toàn, tính bền vững và cân đối trong tài trợ và sử dụng vốn của doanh nghiệp. Mối quan hệ đó thể hiện cân bằng tài chính của doanh nghiệp. Nghiên cứu cân bằng tài chính nhằm hướng đến mục đích cuối cùng là phát hiện những nhân tố hiện tại hoặc tiềm tàng của sự mất cân bằng tài chính. Nội dung của cân bằng tài chính có thể nhìn nhận theo hai cách khác nhau: + Một là, cân bằng tài chính hướng đến những ràng buộc về pháp lý và những mối quan tâm chủ yếu của các chủ nợ mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải thanh toán thông qua khả năng sử dụng ngay của các yếu tố thuộc tài sản lưu động để có thể đáp ứng các khoản nợ đến hạn trả (nợ ngắn hạn). Mối quan hệ trong trường hợp này thường thể hiện khả năng thanh toán của doanh nghiệp. + Hai là, cân bằng tài chính còn xem xét duy trì cân bằng giữa tài sản với nguồn tài trợ tương ứng của nó. Mối quan hệ trong trường hợp này thể hiện qua các phương thức, chính sách tài trợ TSCĐ và TSNH. Như vậy, cân bằng tài chính là một đòi hỏi cấp bách thường xuyên và doanh nghiệp cần duy trì tình trạng cân bằng tài chính để việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, đảm bảo một khả năng thanh toán an toàn. Phân tích cân bằng tài chính còn là cơ sở để doanh nghiệp lựa chọn chính sách tài trợ thích hợp. 2.3.2. Phân tích cân bằng tài chính của doanh nghiệp 2.3.2.1 Vốn lưu động ròng và phân tích cân bằng tài chính Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ TSNH tại thời điểm lập bảng cân đối kế toán. Vốn lưu động ròng là phần chênh lệch giữa tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn với nguồn vốn tạm thời. Vốn lưu động ròng có thể tính theo hai cách như sau: Vốn lưu động ròng = nguồn vốn thường xuyên – tài sản dài hạn (b1) Và: 37
  39. Vốn lưu động ròng = tài sản ngắn hạn – nợ ngắn hạn (b2) Cân đối (b1) và (b2) phản ánh cân bằng tài chính của doanh nghiệp trong các trường hợp khác nhau cũng như tính linh hoạt trong việc sử dụng vốn lưu động ròng. Chỉ số cân bằng thứ nhất thể hiện cân bằng giữa nguồn vốn ổn định với những tài sản có thời gian chu chuyển trên một chu kỳ kinh doanh hoặc trên một năm. Chỉ tiêu này thể hiện nguồn gốc của vốn lưu động hay còn gọi là phân tích bên ngoài về vốn lưu động. Ở một khía cạnh khác, vốn lưu động ròng thể hiện phương thức tài trợ TSCĐ, tác động của kỳ đầu tư lên cân bằng tài chính tổng thể. Khác với chỉ số cân bằng thứ nhất, chỉ số cân bằng thứ hai thể hiện một phần tình hình sử dụng vốn lưu động ròng: vốn lưu động được phân bổ vào các khoản phải thu, hàng tồn kho, hay các khoản có tính thanh khoản cao. Nó nhấn mạnh đến tính linh hoạt trong việc sử dụng vốn lưu động ở doanh nghiệp. Chính vì vậy, phân tích cân bằng tài chính qua chỉ tiêu và cách tính này nhấn mạnh đến phân tích bên trong. Phân tích mối quan hệ giữa các yếu tố của TSNH với nguồn vốn tạm thời còn thể hiện khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Với cách xác định như trên, có các trường hợp cân bằng tài chính như sau: Trường hợp vốn lưu động ròng nguồn vốn thường xuyên hay số nợ ngắn hạn > số tài sản ngắn hạn. Khi đó, nguồn vốn thường xuyên của doanh nghiệp không đủ để tài trợ cho tài sản dài hạn nên phần thiếu hụt doanh nghiệp phải sử dụng một phần nợ ngắn hạn để bù đắp. Do vậy, cân bằng tài chính xảy ra trong trường hợp này đặt doanh nghiệp vào tình trạng chịu áp lực nặng nề về thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán mất cân bằng (“cân bằng xấu”). Trường hợp vốn lưu động ròng bằng 0 Vốn lưu động ròng bằng 0 xảy ra khi số tài sản dài hạn bằng nguồn vốn thường xuyên và số nợ ngắn hạn bằng số tài sản ngắn hạn. Khi đó, nguồn vốn thường xuyên của doanh nghiệp vừa đủ để tài trợ cho tài sản dài hạn nên doanh nghiệp không phải sử dụng nợ ngắn hạn để bù đắp. Vì thế, cân bằng tài chính trong trường hợp này đã tương 38
  40. đối bền vững; tuy nhiên, tính ổn định vẫn chưa cao, nguy cơ xảy ra “cân bằng xấu” vẫn tiềm tàng. Trường hợp vốn lưu động ròng > 0 Vốn lưu động ròng > 0 khi số tài sản dài hạn số tài sản ngắn hạn. Trong trường hợp này, nguồn vốn thường xuyên của doanh nghiệp không những được sử dụng để tài trợ cho tài sản dài hạn mà còn tài trợ một phần cho tài sản ngắn hạn. Vì thế, cân bằng tài chính trong trường hợp này được coi là “cân bằng tốt”, an toàn và bền vững. Để có căn cứ đánh giá tính ổn định và bền vững của cân bằng tài chính, khi phân tích các nhà phân tích cần thiết phải xem xét sự biến động của vốn lưu động ròng trong nhiều năm liên tục. Điều này vừa khắc phục được những sai lệch về số liệu do tính thời vụ hay tính chu kỳ trong kinh doanh của doanh nghiệp, lại vừa cho phép dự đoán được tính ổn định và cân bằng tài chính trong tương lai. 2.3.2.2 Nhu cầu vốn lưu động ròng và phân tích cân bằng tài chính Các yếu tố thuộc vốn lưu động có mối liên hệ với chu kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn, số dư các khoản phải thu khách hàng có mối quan hệ tuyến tính với doanh thu bán hàng của doanh nghiệp. Khi doanh số của đơn vị càng tăng thì số dư các khoản khoản phải thu khách hàng cũng gia tăng và ngược lại. Ở những đơn vị mà hoạt động tín dụng bán hàng là yếu tố thúc đẩy tiêu thụ thì mối quan hệ này càng thể hiện rõ. Cũng trong chu trình đó, hoạt động tiêu thụ gia tăng làm tăng dự trữ tồn kho ở doanh nghiệp và hoạt động cung ứng đến lượt nó sẽ làm tăng các khoản nợ và tín dụng từ nhà cung cấp. Do những nhân tố trên tác động qua lại lẫn nhau nên trong chu kỳ kinh doanh sẽ phát sinh nhu cầu về dự trữ hàng tồn kho, các khoản phải thu, nhưng đồng thời những tài sản này cũng được tài trợ một phần bởi các khoản nợ. Vì thế, nhu cầu về vốn lưu động ròng về nguyên thuỷ được tính như sau: Nhu cầu VLĐ ròng = Hàng tồn kho + Nợ phải thu khách hàng – Nợ phải trả người bán Khái niệm nhu cầu vốn lưu động ròng có liên quan đến một dãy các hoạt động có tính tuần hoàn ở đơn vị, như: quá trình cung ứng, sản xuất, và tiêu thụ trong các 39
  41. doanh nghiệp sản xuất; hay quá trình thu mua, dự trữ và bán hàng ở các doanh nghiệp thương mại. Trong dãy hoạt động có tính tuần hoàn đó, nhu cầu tài trợ ngắn hạn còn tính đến các khoản phải thu khác trong quá trình kinh doanh (tạm ứng, trả trước nhà cung cấp, khoản phải thu nội bộ ) và các nguồn vốn tạm thời khác thay đổi cùng với qui mô hoạt động của doanh nghiệp (nợ lương, nợ thuế, nợ BHXH, nợ phải trả nội bộ ). Chỉ tiêu nhu cầu vốn lưu động ròng một cách tổng quát được tính như sau: Nhu cầu VLĐ ròng = Hàng tồn kho + Nợ phải thu – Nợ ngắn hạn Qua những phân tích trên, chỉ tiêu nhu cầu vốn lưu động ròng thể hiện nhu cầu tài trợ ngắn hạn. Do vậy, phân tích cân bằng tài chính cần xem xét mối quan hệ giữa vốn lưu động ròng với nhu cầu vốn lưu động ròng. Có các trường hợp sau: Nếu vốn lưu động ròng lớn hơn nhu cầu vốn lưu động ròng; phần chênh lệch là các khoản vốn bằng tiền còn lại sau khi đã bù đắp các khoản vay ngắn hạn. Nhiều nhà phân tích còn gọi số chênh lệch này với thuật ngữ là ngân quỹ ròng. Khoản ngân quỹ ròng dương thể hiện một cân bằng tài chính an toàn vì doanh nghiệp không phải vay để bù đắp sự thiếu hụt về nhu cầu vốn lưu động ròng. Ới một góc độ khác, doanh nghiệp không gặp tình trạng khó khăn về thanh toán trong ngắn hạn và số tiền nhàn rỗi có thể đầu tư vào các chứng khoán có tính thanh khoản cao để sinh lời. Nếu vốn lưu động ròng bằng nhu cầu vốn lưu động ròng, hay ngân quỹ ròng bằng 0: điều này có nghĩa vốn lưu động ròng vừa đủ để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động ròng. Cân bằng tài chính kém bền vững hơn so với trường hợp trên. Nếu vốn lưu động ròng nhỏ hơn nhu cầu vốn lưu động ròng, hay ngân quỹ ròng là một số âm. Điều này có nghĩa vốn lưu động ròng không đủ để tài trợ nhu cầu vốn lưu động và doanh nghiệp phải huy động các khoản vay ngắn hạn để bù đắp sự thiếu hụt đó và tài trợ một phần TSCĐ khi vốn lưu động ròng âm. Cân bằng tài chính được xem là kém an toàn và bất lợi đối với doanh nghiệp. Những phân tích trên về cân bằng tài chính khi xem xét mối quan hệ giữa vốn lưu động ròng và nhu cầu vốn lưu động ròng có vai trò quan trọng trong công tác quản trị tài chính doanh nghiệp. Đó là cơ sở để doanh nghiệp huy động các khoản vốn vay 40
  42. tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động thái với chi phí thấp nhất những vẫn đạt một trạng thái tài chính an toàn. Có thể minh hoạ mối quan hệ giữa các yếu tố của tài sản và nguồn vốn dưới góc độ cân bằng tài chính qua sơ đồ sau: TSDH Nguồn vốn thường Vốn lưu xuyên động ròng Phần tài trợ ổn định cho nhu cầu vốn lưu động ròng Hàng tồn Nợ phải NGU kho trả N ỒN VỐN ỒN Ả k.doanh Nhu cầu Nhu cầu Vốn TÀI S Nợ phải vốn lưu VLĐ lưu động thu động ròng ròng ròng N.quỹ R Tiền & Vay ĐTNH ngắn N.quỹ R hạn Phần bù đắp bằng ngân quỹ ròng 41
  43. BÀI TẬP ÔN TẬP Công ty ANZ có tình hình về tài sản và nguồn vốn như sau: Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu N N+1 N+2 A. TS ngắn hạn 47.830 68.965 82.850 1. Tiền 700 35 370 2. Đầu tư ngắn hạn 200 0 20 3. Các khoản phải thu 14.110 23.690 36.710 4. Hàng tồn kho 35.590 44.850 43130 5. TS ngắn hạn khác 230 390 2620 B. TS dài hạn 9.580 23.640 30.030 1. TSCĐ 9.480 23.540 29.920 2. Đầu tư dài hạn 80 80 80 3. TS ngắn hạn khác 20 20 30 Tổng cộng 57.410 92605 112880 Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu N N+1 N+2 1. Nợ phải trả 49.090 81.435 99.840 2. Nguồn vốn chủ sở hữu 8.320 11.170 13.040 3. Nguồn vốn tạm thời 43.570 72.310 83.130 4. Nguồn vốn thường xuyên 13.840 20.295 29.750 5. Tổng nguồn vốn 57.410 92.605 112.880 Yêu cầu: 1. Anh (chị) hãy phân tích cấu trúc tài sản theo hướng thiết kế BCĐKT dạng so sánh? 42
  44. 2. Anh (chị) cho nhận xét về tính tự chủ về tài chính của doanh nghiệp. Hãy phân tích nguyên nhân và đưa ra giải pháp cho vấn đề cấu trúc nguồn vốn của doanh nghiệp. 3. Anh (chị) hãy phân tích cân bằng tài chính của công ty ANZ? 43
  45. CHƯƠNG 3 PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP 3.1. Quan điểm phân tích hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Khi đánh giá hiệu quả kinh doanh, cần phải nghiên cứu một cách toàn diện cả về thời gian, không gian, môi trường kinh doanh và đồng thời đặt nó trong mối quan hệ với hiệu quả chung của toàn xã hội. Về môi trường kinh doanh, doanh nghiệp cần phải phân tích vị thế của mình trong hiện tại và nắm bắt được môi trường bên ngoài, từ đó dự đoán những khả năng có thể xảy ra trong tương lai để có những biện pháp ứng xử kịp thời. Về thời gian, các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh thường là kết quả của một quá trình đạt được trong một khoảng thời gian nhất định. Do vậy, khi phân tích các chỉ tiêu thường gắn với thời gian cụ thể: tháng, quý, năm. Về không gian, các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh gắn với địa điểm cụ thể ở tại doanh nghiệp hay thị trường nào. Mặt khác, hiệu quả kinh doanh cũng thường gắn với các hoạt động thực hiện trong mọi bộ phận kinh doanh của doanh nghiệp: hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, hoạt động đầu tư tài chính từ tổng công ty đến các công ty con và chi nhánh. Đánh giá khái quát hiệu quả kinh doanh nhằm biết được hiệu quả kinh doanh ở mức độ nào, xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp và những nhân tố ảnh hưởng. Thông qua việc đánh giá nhằm đưa ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng khả năng sinh lời đảm bảo hiệu quả kinh tế, xã hội. Do vậy, trước tiên phải xây dựng được hệ thống các chỉ tiêu đánh giá khái quát hiệu quả kinh doanh phù hợp với từng đặc điểm của doanh nghiệp, sau đó phải biết vận dụng phương pháp phân tích thích hợp. Việc đánh giá phải được tiến hành trên cơ sở phân tích từng phần rồi tổng hợp lại. 3.2. Phân tích hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp 3.2.1. Phân tích hiệu quả cá biệt 3.2.1.1. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả cá biệt a. Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản 44
  46. Số vòng quay của tài sản Trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp mong muốn tài sản vận động không ngừng, để đẩy mạnh tăng doanh thu, là nhân tố góp phần tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Số vòng quay của tài sản có thể xác định bằng công thức: Tổng doanh thu thuần Số vòng quay của tài sản = Tài sản bình quân Chỉ tiêu này cho biết trong một kỳ phân tích các tài sản quay được bao nhiêu vòng, chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ các tài sản vận động càng nhanh, góp phần tăng doanh thu và là điều kiện nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nếu chỉ tiêu này thấp chứng tỏ các tài sản vận động chậm làm cho doanh thu của doanh nghiệp giảm. Tuy nhiên, chỉ tiêu này phụ thuộc vào đặc điểm ngành nghề kinh doanh, đặc điểm cụ thể tài sản trong các doanh nghiệp. Sức sinh lời của tài sản Lợi nhuận sau thuế TNDN Sức sinh lời của tài sản = Tài sản bình quân Chỉ tiêu này cho biết trong một kỳ phân tích doanh nghiệp đầu tư 1 đồng tài sản thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp tốt, góp phần nâng cao khả năng đầu tư của chủ doanh nghiệp. Suất hao phí của tài sản so với doanh thu thuần Khả năng tạo ra doanh thu thuần của tài sản là một chỉ tiêu kinh tế cơ bản để dự kiến vốn đầu tư khi doanh nghiệp muốn một mức doanh thu thuần như dự kiến, chỉ tiêu này thường được xác định như sau: Suất hao phí của tài sản Tài sản bình quân = so với doanh thu thuần Doanh thu thuần Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích, doanh nghiệp thu được một đồng doanh thu thuần thì cần bao nhiêu đồng tài sản đầu tư, chỉ tiêu này càng thấp hiệu quả 45
  47. sử dụng tài sản càng tốt, góp phần tiết kiệm tài sản và nâng cao doanh thu thuần trong kỳ của doanh nghiệp. Suất hao phí của tài sản so với lợi nhuận sau thuế Khả năng tạo ra lợi nhuận sau thuế của các tài sản mà doanh nghiệp đang sử dụng cho hoạt động kinh doanh, chỉ tiêu được xác định như sau: Suất hao phí của tài sản Tài sản bình quân = so với lợi nhuận sau thuế Lợi nhuận sau thuế TNDN Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích, doanh nghiệp thu được một đồng lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp thì cần bao nhiêu đồng tài sản, chỉ tiêu này càng thấp hiệu quả sử dụng các tài sản càng cao, hấp dẫn các cổ đông đầu tư. b. Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp Hiệu quả sử dụng tài sản cố định cũng chịu ảnh hưởng bởi tình hình trang bị tài sản cố định trong doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp trang bị hiện đại, đúng mục đích sử dụng thúc đẩy các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh. Để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định, khi phân tích thường sử dụng hệ thống các chỉ tiêu sau: Sức sản xuất của tài sản cố định Doanh thu thuần trong kỳ Sức sản xuất của TSCĐ = Giá trị TSCĐ bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng giá trị TSCĐ đầu tư trong kỳ thì thu được bao nhiêu đồng doanh thu thuần, chỉ tiêu này thể hiện sức sản xuất của TSCĐ, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ TSCĐ hoạt động tốt, đó là nhân tố góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Số liệu để tính chỉ tiêu này phụ thuộc vào kỳ phân tích của doanh nghiệp, có thể tính theo tháng, quý, năm. Để thuận tiện cho việc tính toán và đảm bảo chính xác của các chỉ tiêu cần xác định giá trị TSCĐ bình quân như sau: Giá trị TSCĐBQ Giá trị TSCĐ đầu tháng + giá trị TSCĐ cuối tháng = của tháng 2 Giá trị TSCĐBQ Tổng giá trị TSCĐ 3 tháng = của quý 3 46
  48. Giá trị TSCĐBQ Tổng giá trị TSCĐ của 4 quý = của năm 4 Giá trị còn lại của TSCĐ = nguyên giá TSCĐ – hao mòn luỹ kế TSCĐ Suất hao phí của tài sản cố định Suất hao phí của Giá trị TSCĐ bình quân = TSCĐ Doanh thu thuần Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp muốn có một đồng doanh thu thuần trong kỳ thì cần bao nhiêu đồng giá trị TSCĐ, đó là căn cứ để đầu tư TSCĐ cho phù hợp. Suất sinh lời của tài sản cố định Lợi nhuận sau thuế Sức sinh lời của TSCĐ = Giá trị TSCĐ bình quân Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng giá trị TSCĐ sử dụng trong kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp là tốt. c. Phân tích tốc độ luân chuyển hàng tồn kho hàng tồn kho của doanh nghiệp thường bao gồm hàng hoá, hàng gửi bán, thành phẩm Khi phân tích hiệu quả của hàng tồn kho ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau: Số vòng quay của hàng tồn kho Giá vốn hàng bán Số vòng luân chuyển HTK = Hàng tồn kho bình quân Chỉ tiêu này cho biết, trong kỳ phân tích, hàng tồn kho quay được bao nhiêu vòng, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ vốn đầu tư hàng tồn kho vận động không ngừng đó là nhân tố để tăng doanh thu, góp phần tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hàng tồn kho bình quân được tính như sau: Hàng tồn kho đầu kỳ + hàng tồn kho cuối kỳ Hàng tồn kho bình quân = 2 Hệ số đảm nhiệm hàng tồn kho Chỉ tiêu này được xác định như sau: 47
  49. Hàng tồn kho bình quân Hệ số đảm nhiệm HTK = Tổng doanh thu thuần Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp muốn có một đồng doanh thu thuần thì cần bao nhiêu đồng vốn đầu tư cho hàng tồn kho, chỉ tiêu này càng thấp thì hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho hàng tồn kho càng cao. Thông qua chỉ tiêu này các nhà quản trị kinh doanh xây dựng kế hoạch về dự trữ, thu mua, sử dụng hàng hoá, thành phẩm một cách hợp lý, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh. Thời gian 1 vòng quay của hàng tồn kho Thời gian 1 vòng quay của Thời gian kỳ phân tích = HTK Số vòng quay của hàng tồn kho Chỉ tiêu này cho biết một vòng quay của hàng tồn kho mất bao nhiêu ngày, chỉ tiêu càng thấp chứng tỏ hàng tồn kho vận động nhanh đó là nhân tố góp phần tăng doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Thời gian của kỳ phân tích có thể là tháng, quý, năm tuỳ theo mục tiêu của việc phân tích. d. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu Các nhà đầu tư thường coi trọng đến chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu vì họ quan tâm đến khả năng thu được lợi nhuận so với vốn mà họ bỏ ra để đầu tư, với mục đích tăng cường kiểm soát và bảo toàn vốn phát triển. Khi phân tích hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau: Sức sinh lời của vốn chủ sở hữu Lợi nhuận sau thuế Sức sinh lời của vốn chủ sở hữu = Vốn chủ sở hữu bình quân Chỉ tiêu này cho biết, cứ một đồng vốn của chủ sở hữu tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao càng biểu hiện xu hướng tích cực. Chỉ tiêu này cao thường giúp cho các nhà quản trị có thể huy động vốn mới trên thị trường tài chính để tài trợ cho sự tăng trưởng của doanh nghiệp. 48
  50. Ngược lại, nếu chỉ tiêu này nhỏ và vốn chủ sở hữu dưới mức vốn điều lệ thì hiệu quả kinh doanh thấp, doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc thu hút vốn. Số vòng quay của vốn chủ sở hữu Số vòng quay của vốn chủ Doanh thu thuần = sở hữu Vốn chủ sở hữu bình quân Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích, vốn chủ sở hữu quay được bao nhiêu vòng, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ sự vận động của vốn chủ sở hữu nhanh, góp phần nâng cao lợi nhuận và hiệu quả của hoạt động kinh doanh. Suất hao phí của vốn chủ sở hữu so với doanh thu thuần Suất hao phí của vốn chủ sở Vốn chủ sở hữu bình quân = hữu so với doanh thu thuần Doanh thu thuần Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp có một đồng doanh thu thuần thì mất bao nhiêu đồng vốn chủ sở hữu, chỉ tiêu này càng thấp hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu càng cao. Suất hao phí của vốn chủ sở hữu so với lợi nhuận sau thuế Suất hao phí của vốn chủ sở Vốn chủ sở hữu bình quân = hữu so với lợi nhuận sau thuế Lợi nhuận sau thuế Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp có một đồng lợi nhuận sau thuế thì mất bao nhiêu đồng vốn chủ sở hữu, chỉ tiêu này càng thấp hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu càng cao, đó là nhân tố hấp dẫn các nhà đầu tư. Hiệu suất sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp Trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vốn lưu động không ngừng vận động. Nó là một bộ phận vốn có tốc độ lưu chuyển nhanh so với TSCĐ. Vốn lưu động sẽ lần lượt mang các hình thái khác nhau trong quá trình dự trữ, sản xuất, lưu thông phân phối. Việc quay nhanh VLĐ có ý nghĩa không chỉ tiết kiệm vốn mà còn nâng cao khả năng sinh ra tiền, nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp. Hiệu suất sử dụng vốn lưu động được xem xét qua nhiều chỉ tiêu thể hiện tốc độ luân chuyển vốn lưu động như số 49
  51. vòng quay bình quân của vốn lưu động hoặc hệ số đảm nhiệm vốn lưu động, số ngày bình quân của một vòng quay vốn lưu động. Số vòng quay bình quân của Doanh thu thuần = vốn lưu động VLĐ bình quân Chỉ tiêu này cho thấy số vòng quay của VLĐ trong kỳ phân tích hay một đồng VLĐ bỏ ra thì đảm nhiệm bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Trị giá của chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ VLĐ quay càng nhanh. Đó là kết quả của việc quản lý vốn hợp lý trong các khâu dự trữ, tiêu thụ và thanh toán, tạo tiền đề cho tình hình tài chính lành mạnh. Hiệu suất sử dụng vốn lưu động có thể được tính cho từng loại tài sản, từng giai đoạn công việc. Hiệu suất này thay đổi không những phụ thuộc vào doanh thu mà còn phụ thuộc nhiều vào sự tăng giảm từng loại tài sản lưu động của doanh nghiệp. Số ngày bình quân của một Vốn lưu động bình quân = x 360 (ngày/vòng) vòng quay VLĐ Doanh thu thuần Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết để VLĐ quay được một vòng. Hệ số này càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển vốn lưu động càng lớn và chứng tỏ hiệu suất sử dụng vốn lưu động càng cao. Để đơn giản trong tính toán, ta có thể quy ước thời gian tháng là 30 ngày, quý là 90 ngày và năm là 360 ngày. Thông thường, kỳ phân tích là năm và vốn lưu động bình quân của một năm được tính toán như sau: V1 Vn 1 V2 Vn V 2 2 n Trong đó: V1, V2 , Vn là số dư VLĐ vào đầu kỳ thứ 1, thứ 2, , thứ n Vn+1 là số dư VLĐ vào cuối kỳ thứ n hay đầu kỳ thứ n+1 Tuy nhiên, trong trường hợp chỉ có số liệu về vốn lưu động tại 2 thời điểm, để việc so sánh và phân tích có ý nghĩa, có thể không cần sử dụng số bình quân mà phải sử dụng giá trị tài sản tại từng thời điểm. 3.2.1.2. Phương pháp phân tích 50
  52. Khi phân tích tình hình thực hiện kế hoạch, tình hình tăng (giảm) hiệu quả cá biệt, cần so sánh các chỉ tiêu nghiên cứu ở kỳ thực tế với kỳ kế hoạch, hoặc với thực tế kỳ trước, hoặc với số liệu trung bình ngành; qua đó có kết luận cụ thể về hiệu quả sử dụng từng loại nguồn lực, từng loại tài sản Để đánh giá sâu hơn, cần đi sâu phân tích mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến hiệu quả sử dụng các loại tài sản, nguồn lực của doanh nghiệp bằng phương pháp thay thế liên hoàn hoặc phương pháp số chênh lệch, sau đó phân tích các nguyên nhân ảnh hưởng và dự đoán các biện pháp để tăng hiệu quả cá biệt. Chẳng hạn, để phân tích tốc độ luân chuyển vốn lưu động qua chỉ tiêu số vòng quay vốn lưu động (VQVLĐ), ta so sánh số vòng quay VLĐ giữa kỳ phân tích với kỳ gốc HVLĐ = HVLĐ1 – HVLĐ0 Trong đó : HVLĐ1: là số vòng quay vốn lưu động kỳ phân tích HVLĐ0: là số vòng quay vốn lưu động kỳ gốc Áp dụng phương pháp thay thế liên hoàn để làm rõ ảnh hưởng của từng nhân tố đối với tốc độ lưu chuyển vốn qua công thức: HVLĐ = ADT + AVLĐ ADT: Mức độ ảnh hưởng của thay đổi doanh thu thuần đến sự tăng giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động và được tính: Doanh thu thuần kỳ phân tích Doanh thu thuần kỳ gốc A = - DT VLĐ bình quân kỳ gốc VLĐ bình quân kỳ gốc AVLĐ: mức độ ảnh hưởng của thay đổi vốn lưu động đến sự tăng giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động và được tính: Doanh thu thuần kỳ phân tích Doanh thu thuần kỳ phân tích A = - DT VLĐ bình quân kỳ phân tích VLĐ bình quân kỳ gốc Việc phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động cũng cần phải làm rõ số vốn tiết kiệm (-) hay lãng phí (+) do thay đổi tốc độ luân chuyển bằng công thức: 1 1 DT N N  V DT hoặc V 1 1 0 1 H VLĐ1 H VLĐ 0 360 51
  53. Trong đó: DT1: doanh thu thuần kỳ phân tích N1, N0: số ngày một vòng quay vốn lưu động kỳ phân tích, kỳ gốc. 3.2.2. Phân tích hiệu quả kinh doanh tổng hợp Ngoài việc xem xét hiệu quả cá biệt của từng loại nguồn lực, ta cần phân tích hiệu quả tổng hợp. Đó chính là khả năng sử dụng một cách tổng hợp các nguồn lực để tạo ra kết quả trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Để nhận định tổng quát và xem xét hiệu quả tổng hợp, nhà phân tích dựa vào các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời của doanh nghiệp. 3.2.2.1. Phân tích khả năng sinh lời từ các hoạt động của doanh nghiệp Chỉ tiêu khả năng sinh lời được đo lường bằng tỷ số giữa lợi nhuận với các chỉ tiêu kết quả hoặc giữa lợi nhuận với phương tiện của doanh nghiệp. Trong phần này, chúng ta đề cập đến hai chỉ tiêu phổ biến: a) Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu thuần Chỉ tiêu này thể hiện mối quan hệ giữa các chỉ tiêu kết quả của doanh nghiệp, một bên là lợi nhuận, một bên là khối lượng cung cấp cho xã hội như giá trị sản xuất, doanh thu. Trị giá của chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả của doanh nghiệp càng lớn, đồng thời còn cho biết ngành hàng có tỷ suất lợi nhuận cao. Khi sử dụng số liệu từ báo cáo tài chính, chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận được xác định Tỷ suất lợi nhuận Lợi nhuận trước thuế = x100 trên doanh thu DTT + DT hoạt động tài chính + thu nhập khác Lợi nhuận trong công thức này có thể là lợi nhuận trước thuế, lợi nhuận sau thuế hoặc lợi nhuận trước thuế và lãi vay. Tuy nhiên vì tỷ suất thuế thu nhập là không giống nhau đối với từng mặt hàng, từng loại kinh doanh nên để phản ánh đúng thành tích, khả năng sinh lời của doanh nghiệp, cần sử dụng lợi nhuận trước thuế. Lợi nhuận trong công thức trên là tổng hợp lợi nhuận của tất cả các hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm lợi nhuận của hoạt động kinh doanh, lợi nhuận của hoạt động tài chính và hoạt động khác. Tuy nhiên, cách tính trên thường không chính xác vì sức sinh lợi của mỗi hoạt động không như nhau và hoạt động SXKD thường là hoạt 52
  54. động chủ yếu của doanh nghiệp nên cần thiết tính riêng chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lợi từ hoạt động SXKD. b. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu thuần sản xuất kinh doanh Tỷ suất lợi nhuận Lợi nhuận thuần sản xuất kinh doanh = x100 trên DTT Doanh thu thuần Doanh thu thuần trong công thức này là doanh thu thuần của hoạt động chủ yếu, hoạt động kinh doanh và lợi nhuận phân tích ở đây cũng chỉ là lợi nhuận của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tỷ lệ này phản ánh mức sinh lãi của một đồng doanh thu khi tiêu thụ sản phẩm hàng hoá. Khi sử dụng chỉ tiêu này người ta cần phân biệt tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu thuần trong toàn doanh nghiệp và tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu của từng loại sản phẩm. Khi đánh giá tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu thuần phải xem xét đến đặc điểm ngành nghề kinh doanh, chiến lược hoạt động và cả chính sách định giá của doanh nghiệp. Các mục tiêu về thị phần, về lợi nhuận với chính sách định giá cao, định giá cạnh tranh (giá thấp) đều có thể ảnh hưởng đến tỷ suất trên. Trường hợp doanh nghiệp kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, và có nhiều đơn vị thành viên thì cần tính toán chỉ tiêu này theo từng nhóm ngành nghề kinh doanh, từng đơn vị để đánh giá toàn diện hơn khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Trong một số trường hợp, do chính sách khấu hao khác biệt dẫn đến chỉ tiêu lợi nhuận thuần bị tính toán sai lệch. Do vậy, để loại trừ sự khác biệt về chính sách khấu hao, chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận có thể được tính toán lại như sau: Tỷ suất lợi nhuận Lợi nhuận thuần SXKD + khấu hao TSCĐ = x100% trên DTT Doanh thu thuần Chỉ tiêu hiệu quả này cho phép đánh giá hiệu quả doanh thu, nó đo lường hiệu quả đạt được từ 100 đồng doanh thu. Sự tiến triển của chỉ tiêu này qua thời gian chỉ ra khả năng mà doanh nghiệp phải duy trì để tái đầu tư. Nó cũng chỉ ra khả năng phát 53
  55. triển của doanh nghiệp. Để hiểu khả năng này cần phân tích chi tiết chi phí và kết quả của doanh nghiệp. 3.2.2.2. Phân tích khả năng sinh lời tài sản Cũng tương tự như phân tích trên, các chỉ tiêu nghiên cứu có thể riêng cho từng loại hoạt động cũng có thể tính chung cho tất cả các hoạt động của doanh nghiệp. a. Tỷ suất sinh lợi của tài sản (ROA) Tỷ suất sinh lợi của tài sản biểu hiện mối quan hệ giữa lợi nhuận so với tài sản. Tỷ suất sinh lợi của Lợi nhuận trước thuế = x100% tài sản (ROA) Tổng tài sản bình quân Chỉ tiêu này phản ánh, cứ 100 đồng tài sản đầu tư tại doanh nghiệp sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế. Chỉ tiêu ROA càng cao phản ánh khả năng sinh lời tài sản càng lớn. Cũng tương tự như trên, lợi nhuận xem xét ở đây cũng gồm cả lợi nhuận từ ba hoạt động, do vậy số liệu về tài sản xem xét ở đây cũng chính là số liệu tài sản tổng cộng trên bảng CĐKT. Trong trường hợp doanh nghiệp có nhiều đơn vị thành viên, tỷ suất này tính cho từng đơn vị để đánh giá sức sinh lời từng bộ phận tại doanh nghiệp. Nếu những đơn vị thành viên kinh doanh trên nhiều lĩnh vực khác nhau thì cần phân tích sức sinh lợi tài sản theo từng ngành kinh doanh. Tuy nhiên việc tách riêng từng loại tài sản phục vụ cho từng lĩnh vực hoạt động rất khó khăn. Trong các chỉ tiêu kể trên thì chỉ tiêu tỷ suất sinh lợi của tài sản là chỉ tiêu phản ánh tổng hợp nhất. Nó thể hiện ảnh hưởng một cách tổng hợp kết quả của các chỉ tiêu đã nghiên cứu. Để làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu tỷ suất sinh lợi tài sản, chỉ tiêu ROA còn được chi tiết qua phương trình Dupont : Lợi nhuận Doanh thu Tỷ suất sinh lợi của = x tài sản (ROA) Doanh thu Tổng tài sản bình quân ROA = HLN/DT x HDT/TS Trong chỉ tiêu trên, tỷ suất sinh lời của tài sản là kết quả tổng hợp của những nỗ lực nhằm nâng cao hiệu quả cá biệt của các yếu tố sử dụng cho quá trình kinh doanh, là 54
  56. kết quả của những nỗ lực mở rộng thị trường, tăng doanh số, tiết kiệm chi phí. Để làm rõ ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu ROA có thể áp dụng phương pháp số chênh lệch. Cách phân tích này còn chỉ ra phương hướng nâng cao sức sinh lời tài sản của doanh nghiệp. Cụ thể: chênh lệch về hiệu quả kinh doanh giữa kỳ phân tích với kỳ gốc là kết quả tổng hợp ảnh hưởng của tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và hiệu suất sử dụng tài sản. ROA = AH LN/DT + AH DT/TS AHLN/DT : ảnh hưởng của sự thay đổi của tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu. Thực chất đây là ảnh hưởng của hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp sau khi đã trừ đi các chi phí. Nó chỉ liên quan chủ yếu đến vấn đề tiêu thụ, vấn đề bán hàng tại doanh nghiệp và được tính theo công thức sau : AHLN/DT = HDT/TS1 x (HLN/DT1 - HLN/DT0) AHDT/TS ảnh hưởng của sự thay đổi của tỷ suất doanh thu trên tài sản. Đây chính là hiệu quả của quá trình quản lý và sản xuất của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp tổ chức tốt việc sản xuất, tiết kiệm vốn thì số vòng quay vốn tăng, hiệu quả này sẽ tăng lên. AHLN/DT = H LN/DT0 x (HDT/TS1 – HDT/TS0) Trong đó : H LN/DT0, HLN/DT1 : tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu của kỳ gốc, kỳ phân tích. HDT/TS0, HDT/TS1 : tỷ suất của doanh thu trên tài sản của kỳ gốc, kỳ phân tích Trên cơ sở số liệu tính toán được ta có thể xác định được các nhân tố chủ yếu dẫn đến sự tăng giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó mới phương hướng đề ra các biện pháp tăng hiệu quả của doanh nghiệp. b. Tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản (RE) Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của tài sản đã phản ánh một cách tổng hợp hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên kết quả về lợi nhuận còn chịu tác động bởi cấu trúc nguồn vốn của doanh nghiệp. Nếu hai doanh nghiệp kinh doanh trong cùng một ngành có các điều kiện tương tự như nhau nhưng áp dụng chính sách tài trợ khác nhau sẽ dẫn 55
  57. đến hiệu quả khác nhau. Vì vậy, để thấy rõ thật sự hiệu quả của hoạt động thuần kinh tế ở doanh nghiệp, ta sử dụng chỉ tiêu tỷ suất sinh lời kinh tế. Chỉ tiêu này được xác định như sau: Tỷ suất sinh lời kinh Lợi nhuận trước thuế + chi phí lãi vay = x100% tế của tài sản (RE) Tổng tài sản bình quân Gọi là tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản vì lợi nhuận ở tử số của chỉ tiêu này không quan tâm đến cấu trúc nguồn vốn, nghĩa là không tính đến chi phí lãi vay. Tỷ suất này đánh giá khả năng sinh lợi của vốn đầu tư so với các chi phí cơ hội khác. Áp dụng tỷ suất này, doanh nghiệp sẽ có quyết định nên huy động từ vốn chủ sở hữu hay huy động vốn vay. Nếu tỷ suất sinh lời kinh tế của doanh nghiệp lớn hơn lãi suất vay thì doanh nghiệp nên tiếp nhận các khoản vay và tạo ra phần tích luỹ cho người chủ sở hữu. Về phía các nhà đầu tư, chỉ tiêu này là căn cứ để xem xét đầu tư vào đâu là có hiệu quả nhất. 3.3. Phân tích hiệu quả tài chính của doanh nghiệp Hiệu quả tài chính thường được các nhà đầu tư quan tâm, đó là thái độ gìn giữ và phát triển nguồn vốn chủ sở hữu. Một doanh nghiệp có hiệu quả tài chính cao chính là điều kiện cho doanh nghiệp tăng trưởng. Để phát triển, doanh nghiệp phải đầu tư và sự đầu tư luôn cần các nguồn vốn. Vấn đề này đặt ra một câu hỏi lớn: doanh nghiệp nên gia tăng vốn chủ sở hữu hay nên huy động vốn vay? Việc huy động vốn sẽ dễ dàng nếu có những chứng cớ về khả năng tạo ra các khoản lãi cao. Hơn nữa nếu tỷ lệ này cao, người chủ sở hữu dễ dàng chấp nhận để lại phần lớn lợi nhuận vào việc đầu tư, và như vậy, doanh nghiệp có điều kiện để bổ sung thêm các phương tiện kinh doanh. Do vậy, hiệu quả tài chính là mục tiêu chủ yếu của các nhà quản trị, các nhà lãnh đạo, nhất là trong trường hợp họ cũng là người chủ và có vốn đầu tư. Ngoài ra, sự tồn tại hiệu quả tài chính sẽ đảm bảo an toàn trong một môi trường tài chính, đặc biệt đối với người cho vay vì lợi nhuận đối với họ là một giao ước, một đảm bảo đối với sự thay đổi của những điều kiện hiệu quả. 56
  58. Nghiên cứu hiệu quả tài chính nhằm đánh giá sự tăng trưởng của tài sản cho doanh nghiệp so với tổng số vốn mà doanh nghiệp thực có, đó là khả năng sinh lời vốn chủ sở hữu. 3.3.1. Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu (ROE) Khả năng sinh lợi vốn chủ sở hữu thể hiện qua mối quan hệ giữa lợi nhuận của doanh nghiệp với vốn chủ sở hữu, vốn thực có của doanh nghiệp: Lợi nhuận sau thuế Tỷ suất sinh = x100% lợi VCSH Nguồn vốn CSH bình quân Chỉ tiêu này thể hiện một trăm đồng vốn đầu tư của chủ sở hữu sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận cuối cùng, lợi nhuận sau thuế. Hiệu quả của toàn bộ các nguồn lực tài chính suy cho cùng thể hiện qua chỉ tiêu khả năng sinh lời vốn chủ sở hữu . Trong điều kiện doanh nghiệp huy động vốn từ nhiều nguồn, nhất là thông qua thị trường tài chính, chỉ tiêu này càng cao thì doanh nghiệp càng có cơ hội tìm được nguồn vốn mới. Ngược lại, tỷ lệ này càng thấp dưới mức sinh lời cần thiết của thị trường thì khả năng thu hút vốn chủ sở hữu, khả năng đầu tư vào doanh nghiệp càng khó. 3.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính Có thể nhận thấy rằng, chỉ tiêu ROE chịu sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố. Nó phụ thuộc trực tiếp vào các quyết định của các nhà quản lý thông qua nhiều chính sách, như: chính sách tiêu thụ, chính sách sản xuất và chính sách tài chính. Chúng ta sẽ xem xét các nhân tố sau: 3.3.2.1 Hiệu quả kinh doanh Ảnh hưởng trước tiên đến hiệu quả tài chính là hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Ảnh hưởng này có thể nhận diện qua phân tích chỉ tiêu ROE: Tổng tài sản Lợi nhuận sau thuế Doanh thu bình quân ROE = x x Tổng tài sản Doanh thu Vốn chủ sở hữu bình quân 57
  59. Trong mối quan hệ trên, ROE có mối liên hệ với chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và hiệu suất sử dụng tài sản. Rõ ràng, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp cao sẽ dẫn đến khả năng sinh lời vốn chủ sở hữu lớn và ngược lại. Hiệu quả kinh doanh là nguồn gốc chủ yếu tạo nên hiệu quả tài chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên không phải lúc nào hiệu quả kinh doanh tăng sẽ dẫn đến hiệu quả tài chính tăng, điều đó còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác. 3.3.2.2. Khả năng tự chủ về tài chính Khả năng tự chủ tài chính được thể hiện qua chỉ tiêu tỷ suất tự tài trợ. Có thể thấy rằng, ứng với hiệu quả kinh doanh cho trước nếu tỷ suất tự tài trợ càng lớn thì hiệu quả tài chính của doanh nghiệp sẽ càng nhỏ. Có thể xem xét qua công thức sau: Tỷ suất sinh lời Lợi nhuận trước thuế Tổng tài sản = x (1 - T) x VCSH Tổng tài sản VCSH hay HTC = HKD x (1 - T) x (1 / HTTT) Trong đó: HTC: hiệu quả tài chính HKD: hiệu quả kinh doanh HTTT: khả năng tự tài trợ của doanh nghiệp 3.3.2.3. Độ lớn đòn bẩy tài chính. Đòn bẩy tài chính được định nghĩa là tỷ lệ nợ phải trả trên tổng giá trị vốn hoá của một công ty. Thực chất nó thể hiện cấu trúc nguồn vốn của doanh nghiệp ở thời điểm hiện tại. Ở đây chúng ta chấp nhận một khái niệm cấu trúc nguồn vốn theo nghĩa rộng trong đó các khoản nợ phải trả cho các đối tác như nhà cung cấp, khoản ứng trước của người mua cũng được tính trong khoản này. Cấu trúc tài chính như thế nào là do chính sách tài chính của doanh nghiệp. Liên quan đến đòn bẩy tài chính, công thức của hiệu quả tài chính có thể được viết lại như sau: Tỷ suất sinh lời Tỷ suất sinh lời = x(1 – T) x(1 + ĐBTC) VCSH tài sản HTC = HKD x (1 - T) x (1 + ĐBTC) 58