Bài giảng Nghiên cứu văn hóa Việt Nam qua ngôn ngữ - Lý Tùng Hiếu
Bạn đang xem tài liệu "Bài giảng Nghiên cứu văn hóa Việt Nam qua ngôn ngữ - Lý Tùng Hiếu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- nghien_cuu_van_hoa_viet_nam_qua_ngon_ngu_ly_tung_hieu.pdf
Nội dung text: Bài giảng Nghiên cứu văn hóa Việt Nam qua ngôn ngữ - Lý Tùng Hiếu
- Nghiên cứu văn hóa Việt Nam NGHIÊN CỨU VĂN HÓA VIỆT NAM QUA NGÔN NGỮ LÝ TÙNG HIẾU * NGUYỄN VĂN HUỆ Tóm tắt: Từ cuối thế kỷ XIX đến nay, việc nghiên cứu ngôn ngữ các tộc người Việt Nam có những mục đích khác nhau, trong đó có mục đích tìm hiểu văn hóa trong ngôn ngữ. Đây là công việc thường xuyên của các nhà ngôn ngữ học, dân tộc học, Đông Phương học, Việt Nam học, nhân học, văn hóa học. Có thể phân chia lĩnh vực nghiên cứu văn hóa qua ngôn ngữ ở Việt Nam thành năm khuynh hướng: ngôn ngữ học tiếp xúc, dân tộc - ngôn ngữ học, nhân học ngôn ngữ, ngôn ngữ học văn hóa, ngôn ngữ học ứng dụng. Đó là những tiền đề cơ bản để hình thành các môn học hoặc ngành đào tạo, như ngôn ngữ học nhân học, nhân học ngôn ngữ, ngôn ngữ và văn hóa, văn hóa Việt Nam qua ngôn ngữ trong các trường đại học khoa học xã hội và nhân văn hiện nay. Từ khóa: Văn hóa; ngôn ngữ; tộc người; Việt Nam. 1. Đặt vấn đề như ngôn ngữ học nhân học, nhân học Từ cuối thế kỷ XIX đến nay, việc ngôn ngữ, ngôn ngữ và văn hóa, văn hóa nghiên cứu ngôn ngữ các tộc người Việt Việt Nam qua ngôn ngữ trong các Nam là công việc thường xuyên của các trường đại học khoa học xã hội và nhân nhà ngôn ngữ học, dân tộc học, Đông văn hiện nay.(*) Phương học, Việt Nam học, nhân học, Do đây là một lĩnh vực khó, đòi hỏi văn hóa học. Các cơ sở khoa học như phải huy động tri thức của nhiều ngành Trường Viễn Đông Bác cổ của Pháp, khoa học, nên số người kiên trì theo Viện Ngữ học Mùa hè của Mỹ, Viện đuổi nó không phải là nhiều. Tuy nhiên, Đông Phương học của Liên Xô, Viện sau một thế kỷ hình thành các khoa học Ngôn ngữ học, Viện Dân tộc học, Viện xã hội và nhân văn hiện đại ở Việt Nam, Khoa học Xã hội tại Tp. Hồ Chí Minh, số lượng các công trình nghiên cứu đều có công trình nghiên cứu về các thuộc lĩnh vực này cũng khá lớn, khiến ngôn ngữ tộc người ở Việt Nam và cho việc tập hợp và phân loại tài liệu trở Đông Dương, trong đó có những công trình có tính chất liên ngành nghiên cứu (*) Tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và nội dung văn hóa trong ngôn ngữ. Đó Nhân văn, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. ( ) Phó giáo sư, tiến sĩ, Trường Đại học Khoa chính là những tiền đề cơ bản để hình học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Tp. thành các môn học hoặc ngành đào tạo Hồ Chí Minh. 103
- Nghiên cứu văn hóa Việt Nam nên phức tạp. Lịch sử một lĩnh vực nhắc đến khi nói về nguồn gốc tiếng nghiên cứu có thể được mô tả theo Việt trong công trình “Études sur la những lát cắt khác nhau: giai đoạn, phonétique historique de la langue trường phái, khuynh hướng. Vì lịch sử annamite. Les initiales” (BEFEO, Vol. một thế kỷ nghiên cứu văn hóa qua ngôn 12, no. 1, 1912). G. Coedès cũng đề cập ngữ ở Việt Nam, hình thành, phát triển đến tiếp xúc ngôn ngữ khi bàn về các không rõ ràng, và vì ở nước ta cũng ngôn ngữ ở Đông Dương trong bài “Les chưa có những trường phái đúng nghĩa langues de l’Indochine” (Extrait des trong lĩnh vực này, nên chúng tôi chọn conférences de l’Institut de Linguistique lựa cách mô tả lịch sử ấy theo các de l’Université de Paris, T.VIII, année khuynh hướng nghiên cứu đã hình thành 1940 - 1948). Tương tự S.E. Jakhontov trong ngôn ngữ học Việt Nam: ngôn ngữ có bài “Về sự phân loại các ngôn ngữ ở học tiếp xúc, dân tộc - ngôn ngữ học, Đông Nam Châu Á” (tiếng Nga, 1973, nhân học ngôn ngữ, ngôn ngữ học văn bản dịch Nguyễn Văn Lợi, Tạp chí hóa, ngôn ngữ học ứng dụng. Ngôn ngữ, số 1/1991). Dĩ nhiên, không phải nhà nghiên cứu Cột mốc đánh dấu việc giới thiệu đầy nào ở Việt Nam khi tiến hành một công đủ và áp dụng một cách có hệ thống lý trình ngôn ngữ học liên quan đến văn thuyết tiếp xúc ngôn ngữ vào việc hóa, dân tộc hay nhân học cũng có ý nghiên cứu nguồn gốc tiếng Việt cũng thức rằng mình hay công trình của mình như các ngôn ngữ ở Đông Nam Á là thuộc về khuynh hướng này hay khuynh công trình Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông hướng nọ. Và trên thực tế cũng không Nam Á của Phan Ngọc và Phạm Đức có ranh giới nghiêm ngặt giữa các Dương (1983). Trong cuốn sách này và khuynh hướng đó ở Việt Nam. Nhưng những công trình tiếp theo, Phạm Đức theo hình dung của chúng tôi thì các Dương (1930-2013) đã vận dụng cách khuynh hướng nghiên cứu nêu trên là có tiếp cận song ngữ luận và các phương thật. Và sự phân loại như vậy là cần pháp, tư liệu liên ngành để nhận diện cội thiết để làm rõ những giá trị đóng góp nguồn, lịch sử phân ly và quy tụ của các cũng như những hạn chế cần bổ khuyết ngôn ngữ ở Việt Nam và Đông Nam Á: của các chuyên ngành khoa học này đối “Dựa trên cách tiếp cận song ngữ luận, với việc nghiên cứu văn hóa qua ngôn ông cho rằng quá trình tiếp xúc sẽ dẫn ngữ ở Việt Nam. đến sự hình thành những ngôn ngữ pha 2. Khuynh hướng ngôn ngữ học trộn (langue mixte). Lí thuyết của ông tiếp xúc (contact linguistics) chính là: từ một ngôn ngữ A tiếp xúc Ở Việt Nam, ý tưởng về một ngôn với ngôn ngữ B, dần dần A bị giải thể ngữ pha trộn đã được Henri Maspéro cấu trúc và các yếu tố của nó được vận 104
- Nghiên cứu văn hóa Việt Nam hành theo cơ chế của B và ta có một đề về chính sách ngôn ngữ, tình hình ngôn ngữ C Những ngôn ngữ pha trộn song ngữ, ngôn ngữ văn hóa các tộc này còn giữ lại trong cơ tầng (Substrat) người thiểu số, trong một loạt bài báo những yếu tố của ngôn ngữ gốc và vận khoa học: “Một vài cứ liệu về song ngữ hành theo cơ chế hay là tái cấu trúc mô và vấn đề nghiên cứu song ngữ ở Việt phỏng của ngôn ngữ tiếp xúc. Và để rồi Nam” (Tạp chí Ngôn ngữ, số 1/1979); cũng chính từ đây, ông xây dựng một “Vấn đề giao tiếp ngôn ngữ trong quá giả thiết về một ngữ hệ Đông Nam Á trình hình thành các dân tộc Việt Nam” tiền sử, dựng lại cái vỏ âm tiết CCVC (Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 5, (Phụ âm - Phụ âm - Nguyên âm - Phụ 2000); “Một vài giả thuyết về các trạng âm) của chúng thời cổ xưa đến mô hình thái biến đổi ngôn ngữ ở khu vực Đông đơn tiết CVC (Phụ âm - Nguyên âm - Dương (vấn đề và triển vọng)” (Những Phụ âm) của các ngôn ngữ lục địa, và vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ mô hình đa tiết CVCVCV (Phụ âm - phương Đông, 1986); “Ngôn ngữ văn Nguyên âm - Phụ âm - Nguyên âm - hóa các dân tộc thiểu số từ góc nhìn Phụ âm - Nguyên âm) của các ngôn ngữ quan hệ ngôn ngữ ở Việt Nam” (Giáo ở hải đảo Đông Nam Á. Trên cơ sở lí dục ngôn ngữ và sự phát triển văn hóa luận về tiếp xúc ngôn ngữ, ông lý giải các dân tộc thiểu số phía nam, 1993); quá trình biến đổi của các ngôn ngữ khu “Problems of language contact in vực Đông Nam Á (cả ở lục địa lẫn hải Vietnam (The main features of language đảo), lí giải sự hình thành các ngôn ngữ change)” (Pan - Asiatic Linguistics - Tai - Kadai, Hmông - Dao, các ngôn Proceeding of 4th ISSL, Bangkok, ngữ nhóm Việt - Mường, các ngôn ngữ 1996); “Từ ngòi bút sắt đến chiếc máy Chamic Theo ông, có nhiều ngôn ngữ, tính và những vấn đề tiếp xúc ngôn ngữ nhóm ngôn ngữ ở khu vực Đông Nam Á ở Việt Nam hiện nay” (Tạp chí Khoa được nảy sinh do sự tiếp xúc. Đó là: học xã hội, số 08, 2006) nhóm ngôn ngữ Việt - Mường có cơ tầng Các tác giả của công trình Tiếp xúc Môn - Khơme và cơ chế Tày Thái; ngôn ngữ ở Việt Nam (2005) cũng vận nhóm Chàm (Chăm) có cơ tầng Mã Lai dụng lý thuyết tiếp xúc ngôn ngữ để và cơ chế Môn - Khơme; nhóm Lê có cơ khảo sát việc sử dụng ngôn ngữ ở Việt tầng Mã Lai và cơ chế Thái; nhóm Mèo - Nam. Đây là công trình nâng cao từ một Dao có cơ tầng Nam Á và cơ chế Tạng - đề tài nghiên cứu của Viện Khoa học xã Miến; nhóm Karen có cơ tầng Môn và hội vùng Nam Bộ, tập hợp các bài: “Lý cơ chế Tạng - Miến thuyết tiếp xúc ngôn ngữ và vấn đề tiếp Tiếp xúc ngôn ngữ cũng là chỗ dựa lý xúc ngôn ngữ ở Việt Nam (trường hợp thuyết để Bùi Khánh Thế bàn về các vấn Tp. Hồ Chí Minh)” của Bùi Khánh Thế; 105
- Nghiên cứu văn hóa Việt Nam “Từ ngữ tiếng Pháp trong cách phát âm tiếng Chăm ở Việt Nam đã được người của người Việt (trước Cách mạng Tháng Pháp nghiên cứu, xây dựng chữ viết Tám 1945)” của Cao Xuân Hạo; “Vấn đề hoặc biên soạn từ điển. Trong thời kỳ “tiếng Anh vừa là cơ hội, vừa là thách chiến tranh cũng như sau ngày thống thức” - tiếp cận từ lý thuyết tiếp xúc nhất đất nước, các công trình nghiên ngôn ngữ” của Nguyễn Thị Mỹ Trang; cứu, lý luận và các chính sách đối với “Việt hóa từ tiếng Pháp, tiếng Anh trên các ngôn ngữ thiểu số ra đời ngày càng báo chí tiếng Việt hiện nay” của Trần Thị nhiều. Trong quá trình đó, việc nghiên Tính; “Sự hình thành các phụ tố cấu tạo cứu các tộc người trên hai bình diện dân từ gốc Hán - Việt trong tiếng Việt hiện tộc học và ngôn ngữ học thường liên đại” của Lý Tùng Hiếu; “Tiếp xúc ngôn quan mật thiết với nhau. Các nghiên cứu ngữ và việc vận dụng tiêu chuẩn về đặc dân tộc học thường dành một tỷ lệ thích trưng ngôn ngữ trong khi nghiên cứu các đáng để mô tả ngôn ngữ của tộc người vấn đề dân tộc ở Việt Nam” của Bùi liên quan. Các công trình nghiên cứu Khánh Thế; “Một khía cạnh của tiếp xúc ngôn ngữ tộc người cũng thường sử ngôn ngữ: song ngữ và giáo dục song dụng hoặc cung cấp những thông tin dân ngữ” của Tô Đình Nghĩa; tộc học liên quan. Do đó, khuynh hướng Nhìn chung, mặc dù ra đời đã một thế nghiên cứu liên ngành dân tộc - ngôn kỷ và có khả năng mở ra những khám ngữ học đã dần dần được hình thành. phá mới về nguồn gốc ngôn ngữ, về Năm 1945, R.F. Spencer đã công bố những thay đổi của ngôn ngữ, về tình bài “The Annamese kinship system” hình song ngữ và song văn hóa (SJA, 1.284 - 310, Southwestern Journal (biculturalism), nhưng những công trình of Anthropology, Albuquerque N.N). nghiên cứu về ngôn ngữ, văn hóa theo Năm 1972, John D. Miller thuộc Viện hướng tiếp cận của lý thuyết tiếp xúc Ngữ học Mùa hè đã có bài “Bru ngôn ngữ ở Việt Nam còn tản mạn. Đặc kinship” (Southeast Asia, số 2/1972). biệt, việc nghiên cứu về sự hình thành Năm 1973, Ján Mucka công bố bài và cách thức sử dụng của các ngôn ngữ “Kinship system and terminology in pha trộn (mixed languages), về mối liên Vietnam” (AASB, 7: 33-9). Năm 1978, hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa trong môi nhà dân tộc học người Pháp Georges trường xã hội đơn ngữ và song ngữ ở Condominas xuất bản công trình Việt Nam hầu như chưa được tiến hành L’Espace social. A propos de l’Asie du một cách có bài bản. Sud-Est (bản tiếng Việt: Không gian xã 3. Khuynh hướng dân tộc - ngôn hội vùng Đông Nam Á, 1997), tập hợp ngữ học (ethnolinguistics) các bài biên khảo do ông thực hiện ở Ngay từ thế kỷ XIX, tiếng Bahnar, Việt Nam và Đông Nam Á từ năm 1953 106
- Nghiên cứu văn hóa Việt Nam đến năm 1976, theo hướng tiếp cận liên Về phía các nhà ngôn ngữ học, kể từ ngành dân tộc học, xã hội học và ngôn thập niên 1970, Phạm Đức Dương đã ngữ học. Năm 1980, E. Fuller công bố chọn hướng tiếp cận liên ngành để khảo bài “Cross - cousin marriage and Chru sát các vấn đề ngôn ngữ, văn hóa, lịch kinship terminology” (Notes from Indochina sử của các tộc người Việt Nam và Đông on ethnic minority cultures, ed. by Marilyn Nam Á. Hướng tiếp cận này được thể Gregerson and Dorothy Thomas, 113-23, hiện qua các công trình: Tiếp xúc ngôn Publication 6. Dallas: Summer Institute of ngữ ở Đông Nam Á (cùng với Phan Linguistics, Museum of Anthropology). Ngọc, 1983); Văn hóa Việt Nam trong Sau ngày thống nhất đất nước, công bối cảnh Đông Nam Á (2000); Bức tác điều tra cơ bản các tộc người thiểu tranh ngôn ngữ - văn hóa tộc người ở số Việt Nam có điều kiện thuận lợi hơn. Việt Nam và Đông Nam Á (2007); Việt Và đến năm 1978 và năm 1984, lần lượt Nam - Đông Nam Á - ngôn ngữ và văn hai công trình Các dân tộc ít người ở hóa (2007); và hàng chục bài báo khoa Việt Nam (các tỉnh phía bắc) và Các học về các nhóm Tạng Miến, Việt dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh Mường, Tiền - Việt Mường, Mèo - Dao, phía nam) của Viện Dân tộc học đã ra quan hệ Việt Mường - Tày Thái Đặc đời. Trong hai công trình đó, một số nhà biệt, nhờ sử dụng phương pháp tiếp cận dân tộc học đã chú ý thu thập và khai liên ngành dân tộc - ngôn ngữ học, phối thác thông tin liên quan đến văn hóa, hợp với những tư liệu khảo cổ và thư lịch sử tiềm tàng trong các ngôn ngữ tộc tịch cổ Việt Nam mà vào năm 1978, người. Từ đó, hướng tiếp cận liên ngành Phạm Đức Dương cùng với Hà Văn Tấn dân tộc - ngôn ngữ học vẫn tiếp tục trong bài “Về ngôn ngữ Tiền - Việt được một số nhà dân tộc học vận dụng Mường” (Tạp chí Dân tộc học, số 1/1978) khi khảo sát những vấn đề đòi hỏi đã xác lập được một giả thiết có tính những tri thức và phương pháp liên thuyết phục cao về nguồn gốc hình ngành. Chẳng hạn, đó là các công trình thành dân tộc Việt và tiếng Việt trên địa của Đặng Nghiêm Vạn: “Tên gọi các tộc bàn trung du và đồng bằng Bắc Bộ. người ở Việt Nam - một phản ánh xã hội” Theo đó, khối Tiền - Việt Mường là một (Những vấn đề ngôn ngữ học về các trong những nhóm Môn - Khơme cổ ngôn ngữ phương Đông, 1986); của nằm ngoài biên của dòng này đã di Mạc Đường: Dân tộc học và vấn đề xác chuyển xuống đồng bằng Bắc Bộ và tiếp định thành phần dân tộc (1997); của Tạ xúc với nhóm Tày cổ, một nhóm ngoài Đức: Nguồn gốc và sự phát triển của biên về phía nam của dòng Đồng Thái kiến trúc - biểu tượng và ngôn ngữ lúc đó đã phân bố ở quanh vịnh Hà Nội. Đông Sơn (1999), Quá trình này bắt đầu từ 2.000 năm 107
- Nghiên cứu văn hóa Việt Nam trước Công nguyên, tương ứng với giai đều được vận hành theo một cơ chế mới: đoạn mở đầu của thời đại Hùng Vương rơi rụng phụ tố, rơi rụng âm tiết phụ, trong truyền thuyết của dân tộc Việt. biến đổi phụ âm cuối, hình thành thanh Giả thuyết này sau đó được Phạm Đức điệu. Ở mức độ yếu hơn, trong các ngôn Dương chi tiết hóa trong cuốn sách đầu ngữ Mường, Nguồn, Sách, Mày, Rục, tay Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á Mã Liềng, Aream, Poọng cũng diễn ra (viết chung với Phan Ngọc, 1983), và những biến đổi này, khiến cho chúng trong cuốn Bức tranh ngôn ngữ - văn hợp cùng tiếng Việt lập thành một hóa tộc người ở Việt Nam và Đông Nam nhánh riêng; đại chi Việt - Mường (hay Á (2007). Việt - Chứt, Vietic) tách khỏi đại chi Giả thuyết của Hà Văn Tấn - Phạm Môn - Khơme và nhóm Việt - Katu. Đức Dương ngày càng được nhiều nhà Như vậy, bằng cách vận dụng phối hợp khoa học tán thành và tiếp tục đào sâu, các tri thức ngôn ngữ học với các tri bổ sung thêm nhiều chứng lý. Phối hợp thức liên ngành để nhận diện cội nguồn, giả thuyết đó với kết quả nghiên cứu của lịch sử phân ly và quy tụ của các tộc H. Maspéro, A.G. Haudricourt, M. Ferlus, người và văn hóa tộc người ở Việt Nam Nguyễn Tài Cẩn , ngày nay người ta đã và Đông Nam Á, Phạm Đức Dương và có thể bàn luận, giảng giải về lịch sử các những nhà khoa học vừa nêu đã có một ngôn ngữ Việt - Mường, Chứt - Poọng đóng góp khoa học vượt khỏi phạm vi một cách thuyết phục, tự tin. Viết về ngôn ngữ học để tham gia vào công tiếng Việt, người ta đã có thể mạnh dạn cuộc nghiên cứu phục hiện văn hóa - khẳng định ngôn ngữ mẹ của nó là một lịch sử của các cộng đồng người thuộc ngôn ngữ Môn - Khơme có phụ tố tạo thời kỳ tiền văn tự ở Việt Nam. từ, có âm tiết phụ, không thanh điệu. Do Trong thập niên 1990, có thêm một chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ Tày cổ, số nhà ngôn ngữ học tham gia hướng nó chuyển biến thành tiếng Việt - nghiên cứu này như: Nguyễn Văn Lợi Mường chung. Tiếp đó, chịu ảnh hưởng với bài “Tộc danh của một số dân tộc ở của ngôn ngữ Hán cổ đại ở trung du và Nam Trung Quốc và Đông Nam Á. Vấn đồng bằng, tiếng Việt - Mường chung đề tên gọi Giao Chỉ” (Việt Nam - những tách dần thành tiếng Mường, tiếng Việt vấn đề ngôn ngữ và văn hóa, 1993). Lý (thế kỷ VIII-X). Chính do tiếp xúc ngôn Tùng Hiếu cũng có các công trình: ngữ và văn hóa sâu đậm với Tày và “Ngôn ngữ học văn hóa với nhiệm vụ Hán, từ thời kỳ trung đại, tiếng Việt chỉ tìm hiểu và phát huy bản sắc văn hóa còn giữ lại cơ tầng từ vựng cơ bản Môn - dân tộc” (Bảo tồn và phát huy bản sắc Khơme, còn từ vựng văn hóa thì vay văn hóa dân tộc - vai trò của nghiên cứu mượn Tày và Hán rất nhiều. Và tất cả và giáo dục, 1999); “Vấn đề ý thức họ 108
- Nghiên cứu văn hóa Việt Nam tộc, họ - thị tộc danh và họ - nhân danh việc tìm hiểu văn hóa, lịch sử của các ở các dân tộc Sedang, Bahnar, Brũ, tộc người. Việt - tiếp cận từ nhân loại - ngôn ngữ 4. Khuynh hướng nhân học ngôn ngữ học” (Tiếng Việt trong nhà trường phổ (linguistic anthropology) hay ngôn ngữ thông và các ngôn ngữ dân tộc, 2002); học nhân học (anthropological linguistics) “Nhân học ngôn ngữ học ở Việt Nam - Khuynh hướng này được nhen nhóm quá trình hình thành, đối tượng và ở Việt Nam từ thập niên 1960, trong phương pháp” (Những thành tựu khoa thời kỳ 1954-1975, khi khoa nhân chủng học xã hội và nhân văn ở các tỉnh phía học (anthropology) được giới thiệu ở hai nam trong thời kỳ Đổi mới, 2003); miền Nam và Bắc Việt Nam. Người có “Hình thức tổ chức cộng đồng cơ sở của công giới thiệu ngành khoa học này ở các dân tộc Môn - Khơme, từ góc nhìn miền Nam là Giáo sư Bửu Lịch với các ngôn ngữ học nhân học” (Tập san Ngoại công trình xuất bản ở Sài Gòn như Vấn ngữ - Tin học và Giáo dục, Trường Đại đề thân tộc (1966), Nhân chủng học và học Ngoại ngữ - Tin học Tp. Hồ Chí Lược khảo thân tộc học (1970). Từ năm Minh, số 9 bộ mới, 2007); Đặc điểm về 1968, nhân chủng học đã được đưa vào cấu tạo từ và về văn hóa Brũ và Việt giảng dạy tại Đại học Văn khoa Sài Gòn qua sự so sánh từ vựng của hai ngôn và Phân khoa Khoa học xã hội của Viện ngữ này (Luận án tiến sĩ ngữ văn, Viện Đại học Vạn Hạnh. Trong công trình Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ, 2007); Nhân chủng học và Lược khảo thân tộc Ngôn ngữ - văn hóa vùng đất Sài Gòn học (1970), Bửu Lịch đã trình bày chi và Nam Bộ (2012); “Nguồn gốc những tiết không những về đối tượng, phương khái niệm chỉ hình thức quần cư của pháp của nhân chủng học, mà cả về các tộc người thuộc ngữ hệ Nam Á qua ngôn ngữ và ngôn ngữ học, nhằm “mục cứ liệu dân tộc - ngôn ngữ học” (Tạp - đích giải - thích thêm vị - trí đặc - biệt chí Khoa học Đại học Sư phạm Tp. Hồ của Ngữ - học đối với Nhân - chủng - Chí Minh, số 55, 2014) học, nhất là theo quan - điểm của Sapir Các công trình nghiên cứu có tính và Lévi - Strauss”. Tính chất liên ngành chất liên ngành của các nhà dân tộc học trong phương pháp tiếp cận của công và ngôn ngữ học đã tạo ra được nền trình này rất rõ, và đây có thể xem là móng ban đầu cho chuyên ngành dân công trình mở đường về phương pháp tộc - ngôn ngữ học Việt Nam. Và riêng luận của nhân học ngôn ngữ Việt Nam. về phía các nhà ngôn ngữ học thì sự Ở miền Bắc, thành tựu nhân chủng tham gia của họ đã bước đầu đem lại học trong thời kỳ này tương đối phong cho ngành ngôn ngữ học Việt Nam một phú. Nổi bật là các công trình nghiên tiếng nói độc lập và có căn cứ đối với cứu của Nguyễn Đình Khoa: “Giới thiệu 109
- Nghiên cứu văn hóa Việt Nam đại thể ngành nhân học” (Tin tức Hoạt nghiên cứu nhân học (2006) của nhiều động Khoa học, Ủy ban Khoa học và Kỹ tác giả, do Vũ Thị Phương Anh, Phan thuật Nhà nước, số 7/1964); Các dân tộc Ngọc Chiến, Hoàng Trọng dịch từ ở miền Bắc Việt Nam - Dẫn liệu nhân nguyên bản tiếng Anh Cùng với việc chủng học (1976), Đặc biệt, công trình nghiên cứu, biên dịch, việc giảng dạy Nhân chủng học Đông Nam Á (1983) nhân học ngôn ngữ và ngôn ngữ học cung cấp cho người đọc những kiến thức nhân học đã được triển khai tại Đại học cơ bản về đối tượng, phạm vi nghiên Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia cứu các cứ liệu, phương pháp tiếp cận, Tp. Hồ Chí Minh. Người đóng góp đáng và những kiến giải mới về mặt nhân kể vào quá trình này là GS. Lương Văn chủng học, góp phần vào việc nghiên Hy, Chủ nhiệm Khoa Nhân học Đại học cứu cội nguồn lịch sử cư dân và các tộc Toronto, Canada. Không chỉ mang về người ở Đông Nam Á. Hạn chế trong Việt Nam nhiều tài liệu khoa học giá trị, công trình này cũng như các công trình vào năm 2000 Lương Văn Hy còn chủ khác của Nguyễn Đình Khoa là không biên và xuất bản cuốn Ngôn từ, giới và phối hợp các tri thức nhân chủng học, nhóm xã hội từ thực tiễn tiếng Việt, một khảo cổ học với các tri thức ngôn ngữ công trình nghiên cứu thực địa ngôn ngữ học để giải quyết các vấn đề theo hướng học xã hội khảo sát vị trí của ngôn ngữ tiếp cận liên ngành. trong đời sống của các cộng đồng người. Sau khi thống nhất đất nước, vào cuối Là một chuyên ngành khoa học tương thập niên 1990, với việc thành lập các đối mới ở Việt Nam, hướng nghiên cứu khoa và bộ môn nhân học ở Đại học nhân học ngôn ngữ và ngôn ngữ học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia nhân học đang gặp khó khăn do những Tp. Hồ Chí Minh, hướng nghiên cứu người học tập, theo đuổi hướng nghiên nhân học ngôn ngữ và ngôn ngữ học cứu này vốn không được trang bị những nhân học đã được chú ý trở lại. Một số kiến thức chính quy về ngôn ngữ và công trình nghiên cứu liên quan của ngôn ngữ học, nên khó tiếp thu, vận nước ngoài đã được biên dịch và giới dụng các tri thức của ngôn ngữ học. thiệu, như bài “Giới thiệu giả thuyết 5. Khuynh hướng ngôn ngữ học văn “Tính tương đối ngôn ngữ” của Sapir- hóa (cultural linguistics) hay văn hóa - Whorf” (Tạp chí Ngôn ngữ, số 4/1999) ngôn ngữ học (culturolinguistics) của Lý Toàn Thắng, cuốn Ngôn ngữ văn Khuynh hướng này hình thành trong hóa và xã hội. Một cách tiếp cận liên thập niên 1990 và bước đầu đã tạo lập ngành (2006) do Vũ Thị Thanh Hương được một số cơ sở về mặt phương pháp và Hoàng Tử Quân biên dịch, cuốn Một luận. Người đề xuất thành lập môn học số vấn đề về lý thuyết và phương pháp mới với tên gọi “văn hóa - ngôn ngữ học” 110
- Nghiên cứu văn hóa Việt Nam (hay “ngôn ngữ học văn hóa”) là Trần 15/2002); Tiến tới xác lập vốn từ vựng Ngọc Thêm trong các công trình: “Đi văn hóa Việt (Nghiên cứu ngôn ngữ và tìm ngôn ngữ của văn hóa và đặc trưng văn hóa) (2004) văn hóa của ngôn ngữ” (Việt Nam - 6. Khuynh hướng ngôn ngữ học những vấn đề ngôn ngữ và văn hóa, ứng dụng (applied linguistics) 1993), “Ngữ dụng học và văn hóa - Ngoài các công trình nêu trên, vẫn ngôn ngữ học” (Tạp chí Ngôn ngữ, số còn rất nhiều công trình khác không 4/1999). Theo ông, đây là một môn học thuộc hẳn vào một khuynh hướng nhất nằm ở ranh giới giữa ngôn ngữ học với định, nhưng cũng là những công trình văn hóa học, và có thể chia thành hai bộ nghiên cứu có giá trị về mặt lý thuyết và phận: văn hóa - ngôn ngữ học trong đặc biệt là về mặt ứng dụng đối với việc phạm vi một dân tộc, và văn hóa - ngôn nghiên cứu các ngôn ngữ và các nền văn ngữ học trong phạm vi nhiều dân tộc. hóa ở Việt Nam từ góc độ liên ngành. Vì Năm 2000, Đỗ Hữu Châu trong bài vậy, chúng tôi tạm xếp những công trình “Tìm hiểu văn hóa qua ngôn ngữ” (Tạp này vào khuynh hướng ngôn ngữ học chí Ngôn ngữ, số 10/2000), cũng vạch ra ứng dụng. Xét theo nội dung, các công “một đề cương phương pháp luận” chưa trình nghiên cứu loại này có thể chia đầy đủ cho việc nghiên cứu “ngôn ngữ - thành ba nhóm: văn hóa học”. Theo ông, mỗi từ ngữ cố 6.1. Nghiên cứu mối quan hệ giữa định của ngôn ngữ, là một tên gọi của ngôn ngữ với văn hóa, đặc trưng văn một yếu tố của văn hóa. Mỗi từ, mỗi hóa tộc người trong các ngôn ngữ cụ ngữ cố định tự mình là một yếu tố của thể. Nhóm này có các công trình như: văn hóa. Và ông cũng phác thảo các Hoàng Anh Thi (1995), “Một số đặc phương pháp giúp phát hiện ra các hiểu điểm văn hóa Nhật - Việt qua việc khảo biết văn hóa trong ngữ nghĩa của các sát hệ thống từ xưng hô” (Tạp chí Ngôn đơn vị ngôn ngữ. ngữ, số 1/1995); Hoàng Tuệ (1996), Nguyễn Văn Chiến cũng tự nhận Ngôn ngữ và đời sống xã hội - văn hóa; thuộc khuynh hướng này với các công Nguyễn Văn Khang chủ biên (1996), trình như: “Danh từ thân tộc Việt trong Ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp gia hai loại hình ngôn ngữ đối chiếu: đình người Việt; Hữu Đạt (2000), Văn Khơme, Lào và Nga, Tiệp, Anh” (Tạp hóa và ngôn ngữ giao tiếp của người chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 3/1992); Việt; Đỗ Thị Bích Lài (2000), “Ngữ “Nước - một biểu tượng văn hóa đặc thù cảnh, bối cảnh giao tiếp và vấn đề ngôi, trong tâm thức người Việt và từ nước số trong tiếng Việt (khảo sát qua lớp từ trong tiếng Việt (Nghiên cứu Ngôn ngữ - xưng hô)” (Kỷ yếu tập II Hội nghị quốc Văn hóa học)” (Tạp chí Ngôn ngữ, số tế lần thứ năm về ngôn ngữ học và ngôn 111
- Nghiên cứu văn hóa Việt Nam ngữ học liên Á, Trường Đại học Khoa giả, một công trình đánh dấu bước phát học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc triển mới của các khuynh hướng tiếp gia Tp. Hồ Chí Minh, 2000); Trần Trí cận văn hóa bằng con đường ngôn ngữ Dõi (2001), Ngôn ngữ và sự phát triển học ở Việt Nam; Tìm hiểu đặc trưng văn hóa xã hội; Nguyễn Tài Cẩn (2001), văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự duy ở người Việt (trong sự so sánh với và văn hóa; Trịnh Thị Kim Ngọc những dân tộc khác) và Đặc trưng văn (2002), “Tiềm năng ngôn ngữ trong hóa dân tộc của ngôn ngữ và tư duy của nghiên cứu con người và văn hóa” (Tạp Nguyễn Đức Tồn. chí Ngôn ngữ, số 14/2002); Nguyễn 6.2. Nghiên cứu địa danh và nhân Thanh Tùng (2003), Tìm hiểu đặc trưng danh. Nhóm này có các công trình, như: ngôn ngữ - văn hóa của nhóm từ chỉ Lê Trung Hoa (1991, 2003), Nguyên tắc động thực vật tiếng Việt (so sánh với và phương pháp nghiên cứu địa danh tiếng Anh), luận án tiến sĩ, Trường Đại (Địa danh ở Thành phố Hồ Chí Minh); học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại Nguyễn Kiên Trường (1996), Những học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh; Nguyễn đặc điểm chính của địa danh Hải Phòng Văn Độ (2004), Tìm hiểu mối liên hệ (sơ bộ so sánh với địa danh một số vùng ngôn ngữ - văn hóa; Nguyễn Kiên khác), luận án phó tiến sĩ, Đại học Quốc Trường chủ biên (2004), Quảng cáo và gia Hà Nội; Bùi Đức Tịnh (1999), Lược ngôn ngữ quảng cáo; Trần Thị Ngọc khảo nguồn gốc địa danh Nam Bộ; Lang chủ biên (2005), Một số vấn đề về Nguyễn Văn Âu (2000), Một số vấn đề phương ngữ xã hội; nhiều tác giả về địa danh học Việt Nam; Lê Trung (2010), Hà Nội những vấn đề ngôn ngữ Hoa (2002, 2005), Họ tên người Việt và văn hóa Nam; Lê Trung Hoa (2002, 2005, 2011), Một số công trình thuộc loại này cũng Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam Bộ đã đặt dấu mốc cho quá trình nghiên cứu và tiếng Việt văn học; Từ Thu Mai văn hóa qua ngôn ngữ ở Việt Nam. Đó (2004), Nghiên cứu địa danh Quảng Trị, là: “Tiếng Việt với những cơ sở của nền luận án tiến sĩ ngữ văn, Trường Đại học văn hóa truyền thống Việt Nam” (Tập Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học san Thông báo Khoa học. Phần khoa Quốc gia Hà Nội; Trần Văn Dũng học xã hội, Trường Đại học Tổng hợp (2004), Những đặc điểm chính của địa Tp. Hồ Chí Minh, số 1/1983) của Hồng danh ở Dak Lăk, luận án tiến sĩ ngữ văn, Dân, một công trình vận dụng tri thức Trường Đại học Vinh; Tôn Nguyệt Hoa ngôn ngữ học để nghiên cứu văn hóa (2005), Tên hay kèm điều tốt; Lê Trung Việt; Việt Nam – những vấn đề ngôn Hoa (2006, 2010, 2011), Địa danh học ngữ và văn hóa (1993) của nhiều tác Việt Nam 112
- Nghiên cứu văn hóa Việt Nam 6.3. Nghiên cứu ứng dụng các tri nguồn sử liệu quý báu để nghiên cứu thức về đặc trưng văn hóa tộc người văn hóa, lịch sử các tộc người và các trong ngôn ngữ vào lĩnh vực dạy tiếng. cộng đồng người, Vì vậy, trong khi Nhóm này có các công trình như: Bùi theo đuổi một khuynh hướng nhất định, Khánh Thế (1999), “Bản sắc văn hóa – người ta vẫn có thể tiếp thu những tinh tiếp cận từ ngôn ngữ học” (Bảo tồn và hoa của các khuynh hướng tương cận phát huy bản sắc văn hóa dân tộc – vai để bổ sung, phát triển hướng nghiên trò của nghiên cứu và giáo dục); Trịnh cứu của mình. Thị Kim Ngọc (1999), Ngôn ngữ và văn hóa: Tri thức nền và việc giảng dạy Tài liệu tham khảo tiếng nước ngoài; Đinh Hồng Vân 1. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên) (2005), (2005), “Vị trí của văn hóa trong dạy - Lược sử Việt ngữ học, t.1, Nxb Giáo dục Việt học ngoại ngữ” (Tạp chí Ngôn ngữ và Nam, Hà Nội. Đời sống, số 3/ 2005); Phạm Thị Hòa 2. Lý Tùng Hiếu (2003), “Nhân học ngôn (2008), “Dạy thành tố văn hóa trong dạy - ngữ học ở Việt Nam – quá trình hình thành, đối học ngoại ngữ” (Tạp chí Ngôn ngữ và tượng và phương pháp”, Những thành tựu khoa Đời sống, số 3, 2008) học xã hội và nhân văn ở các tỉnh phía Nam 7. Kết luận trong thời kỳ Đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Căn cứ vào những tư liệu thu thập Hà Nội. được, có thể phân chia lĩnh vực nghiên 3. Lý Tùng Hiếu (2007), Đặc điểm về cấu cứu văn hóa qua ngôn ngữ ở Việt Nam tạo từ và về văn hóa Brũ và Việt qua sự so sánh thành năm khuynh hướng như trên. từ vựng của hai ngôn ngữ này, Luận án tiến sĩ Việc phân giới giữa các khuynh hướng ngữ văn, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ. nói trên chỉ là tương đối, tùy thuộc 4. Lý Tùng Hiếu chủ nhiệm (2008), Ngôn quan điểm, mục đích phân loại của nhà ngữ học nhân học – phác thảo lịch sử, đối nghiên cứu. Cho dù nguồn gốc, đối tượng, phương pháp, giá trị ứng dụng, Đề tài tượng, phương pháp, thuật ngữ có chỗ nghiên cứu cấp viện, Viện Khoa học xã hội khác biệt, song giữa các nhà khoa học vùng Nam Bộ. liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu văn 5. Lý Tùng Hiếu – Nguyễn Văn Huệ hóa qua ngôn ngữ ở nước ta vẫn có (2008), “Lịch sử hình thành ngôn ngữ học nhân những điểm chung cơ bản. Chẳng hạn, học ở Việt Nam: Cái nhìn tổng quan”, Tạp chí quan niệm xem ngôn ngữ vừa là một Khoa học xã hội, số 07 (119). thành tố văn hóa vừa là một phương 6. Đoàn Văn Phúc (2013), “Chân dung tiện chuyển tải bản sắc văn hóa của nhà khoa học: GS.TS. Phạm Đức Dương”, cộng đồng nói ngôn ngữ ấy; trên cơ sở www.vienngonnguhoc.gov.vn, ngày 2 tháng 5 đó, ngôn ngữ mới được xem là một năm 2013. 113
- Nghiên cứu văn hóa Việt Nam 114