Bài giảng Ngôn ngữ báo chí (Bản đẹp)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Ngôn ngữ báo chí (Bản đẹp)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- bai_giang_ngon_ngu_bao_chi_ban_dep.pdf
Nội dung text: Bài giảng Ngôn ngữ báo chí (Bản đẹp)
- BÀI GIẢNG NGÔN NGỮ BÁO CHÍ TRƯỜNG CAO ĐẲNG PHÁT THANH TRUYỀN HÌNH 2 KHOA BÁO CHÍ BÀI GIẢNG NGÔN NGỮ BÁO CHÍ (Hệ cao đẳng)
- QUAN ĐIỂM CHUNG 1. Hướng tiếp cận: a. Hiện tồn tại nhiều quan điểm tiếp cận, nghiên cứu ngôn ngữ báo chí, trong đó nổi bật hai hướng sau: - Hướng nghiên cứu các vấn đề lớn trong việc sử dụng tiếng Việt trên các phương tiện truyền thông. (Thống nhất về mặt chính tả, phiên âm, phương ngữ, ). Các phong cách tiếng Việt trên báo chí. - Hướng nghiên cứu ngôn ngữ báo chí trong tương quan với đặc trưng lọai hình. Người sọan đề cương bài giảng nhận thấy: - Quan điểm 1 có thể được giải quyết trong học phần về Tiếng Việt thực hành hoặc là Cơ sở ngôn ngữ. - Hướng 2 phù hợp với đặc thù đào tạo của trường PTTH 2 hơn (Thiên về đào tạo kỹ năng và chú trọng vào ngôn ngữ theo lọai hình – cụ thể là PT-TH) Vì thế, đề cương bài giảng đi theo hướng 2. Tài liệu tham khảo mà sinh viên có thể đọc (ngòai bài giảng) là cuốn “Ngôn ngữ báo chí” của Nguyễn Tri Niên, nhà xuất bản tổng hợp Đồng Nai, 2003. b. Cũng với đặc thù đào tạo của trường, đề cương bài giảng của học phần này tập trung vào phần 2 – phần đặc trưng ngôn ngữ của từng lọai hình. Phần 1 – Khái quát
- ngôn ngữ báo chí chỉ đi sâu những đặc điểm chính, lược bỏ những đặc điểm không rõ nét hoặc giao thoa, chồng chéo, hoặc quá trừu tượng. 2. Mục đích yêu cầu: + Cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về chức năng của phương tiện truyền thông tin của từng lọai hình báo chí; Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí nói chung và ngôn ngữ của từng lọai hình: báo viết, báo nói, báo hình + Riêng ngôn ngữ báo trực tuyến đề nghị được dạy chung trong môn báo trực tuyến. Vì bản thân loại hình này mang tính tích hợp cao. + Giúp sinh viên hình thành kỹ năng sử dụng ngôn ngữ phù hợp và hiệu quả trong từng lọai hình báo chí. 3. Bài tập: a. Dạng bài tập phân biệt ngôn ngữ viết của các loại hình b. Dạng bài tập nhận định đánh giá ngôn ngữ báo chí của từng loại hình. b. Dạng bài tập chuyển đổi ngôn ngữ lọai hình này sang ngôn ngữ lọai hình khác 4. Đánh giá - Điểm kiểm tra là điểm của các bài tập thực hành (40%) - Tiểu luận: (60%) TÀI LIỆU THAM KHẢO
- 1. Ngôn ngữ báo chí, Vũ Quang Hào, NXB ĐHQG HN, 2001 2. Báo phát thanh, Phân viện Báo chí Tuyên truyền, Đài TNVN, NXB VH-TT, 2003 3. Ngôn ngữ báo chí – Nguyễn Tri Niên, nhà xuất bản tổng hợp Đồng Nai, 2003 4. Làm tin - phóng sự Truyền hình, Tác giả: Neil Everton - Lê Phong dịch, Quỹ Reuters, xuất bản năm 1999 5. Nhà báo hiện đại – The Missouri Group - Nhà xuất bản trẻ, xuất bản năm 2007. BÀI GIẢNG: CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ NGÔN NGỮ BÁO CHÍ I.1 KHÁI NIỆM 1.1. Ngôn ngữ: a/ Các loại ngôn ngữ tồn tại trong cuộc sống: b/ Khái niệm ngôn ngữ: Là hệ thống tín hiệu được quy ước trong cộng đồng, dùng để giao tiếp, truyền tải
- thông tin. 1.2. Ngôn ngữ báo chí: Là hệ thống tín hiệu được quy ước, dùng để truyền tải thông tin trên các loại hình báo chí. 1.3 Chức năng của báo chí và ngôn ngữ báo chí a/ Thông tin – chính xác – khách quan - Đa dạng – phong phú - Nhanh chóng – kịp thời - Trung thực - Phù hợp với giá trị văn hóa b/ Giáo dục - giải trí (khuôn mẫu – hấp dẫn): - Các chương trình khoa giáo c/ Định hướng (rõ ràng ) + Câu chuyện đội mũ bảo hiểm: từ bắt buộc đến tự nguyện d/ Giám sát – tổ chức – quản lý xã hội (Kiên định - )
- - Từ phóng sự “đường dây chạy án Giám đốc thẩm” đến việc quy định thời hiệu cho giám đốc thẩm (3 năm) I.2 TÍNH CHẤT 2.1. Khách quan (ngôn ngữ sự kiện) - Phản ánh sự kiện nguyên dạng – bám sát sự kiện – ghi nhận sự vận động của sự kiện - Phản ánh sự kiện cụ thể với tính chất – bản chất – khuynh hướng của nó – làm sự kiện thật sự là chính nó 2.2. Đại chúng - Phổ cập (ngôn ngữ dành cho số đông, nhiều thành phần và trình độ - lứa tuổi khác nhau) - Báo chí còn là nơi người đọc – nghe – xem – bày tỏ ý kiến bằng ngôn ngữ của họ. 2.3. Khuôn mẫu - Những hình thức diễn đạt cơ bản lặp đi lặp lại (ngữ pháp – từ vựng - - Cấu trúc tác phẩm, chương trình, trang báo, - Các quy ước trình bày ít khi bị phá vỡ - tạo tập quán tiếp nhận 2.4. Sinh động – linh hoạt - đa phong cách - Báo chí sử dụng nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau phù hợp với từng thể loại – nhóm thể lọai.
- - Bám sát sự kiện – cuộc sống nên ngôn ngữ báo chí cũng linh động da, dạng như chính cuộc sống. - Giọng điệu – phong cách của từng nhà báo tạo nên sự phong phú đa dạng - Các tiến bộ khoa học kỹ thuật làm cho ngôn ngữ báo chí có điều kiện thay đổi không ngừng. I.3. QUY TRÌNH THÔNG TIN 3.1. Giới thiệu khái quát về lý thuyết truyền thông Một cách chung nhất, “truyền thông (communication) là quá trình liên tục trao đổi hoặc chia sẻ thông tin, tình cảm, kỹ năng nhằm tạo ra sự liên kết lẫn nhau để dẫn tới sự thay đổi hành vi và nhận thức” (1). Lý thuyết truyền thông chỉ ra thuộc tính của quá trình của truyền thông và đưa ra mô hình để khái quát quá trình ấy: người phát tin – kênh truyền thông – người nhận tin. Đây được xem là mô hình truyền thông căn bản mà Harol D. Lasswell nêu lên (“Ai nói cái gì, bằng kênh nào, cho ai, và hiệu quả ra ra sao?”) (2). Tuy nhiên, giới hạn của công thức – mô hình này là chỉ hình dung quá trình truyền thông như một đường thẳng, không có tính tương tác. Nhà ngôn ngữ học Roman Jacobson đã đưa ra một mô hình truyền thông mà trong đó, quá trình truyền thông như một chu kỳ, một quá trình trao đổi thông tin, gồm 4 giai đoạn chính: phát tin – truyền tin – nhận tin – phản hồi. 3.2. Ngôn ngữ báo chí - nhìn từ lý thuyết truyền thông: a. Chủ thế phát: E: Hình thành tin – bài: bộc lộ quan điểm
- b. Chủ thể nhận: R: Tiếp nhận thông tin – thái độ - quan điểm của chủ thể phát c. Sản phẩm báo chí: M Quá trình truyền thông tin từ chủ thể phát tới chủ thể nhận d. Kênh truyền tin (tùy lọai hình): K: dạng thức thông tin e. Kênh phản hồi (Phản ứng từ phía người đọc – nghe – xem: R): r f. Mã (khả năng diễn đạt) của chủ thể phát: phương thức diễn đạt: C 3.3. Chức năng của các yếu tố: a. Chủ thế phát: E: Hình thành tin – bài: bộc lộ quan điểm b. Chủ thể nhận: R: Tiếp nhận thông tin – thái độ - quan điểm của chủ thể phát c. Sản phẩm báo chí: M Quá trình truyền thông tin từ chủ thể phát tới chủ thể nhận d. Kênh truyền tin (tùy lọai hình): K: dạng thức thông tin e. Kênh phản hồi (Phản ứng từ phía người đọc – nghe – xem: R) : r f. Mã: khả năng - phương thức diễn đạt – khả năng sử dụng ngôn ngữ của chủ thể phát: C - Chức năng quan trọng nhất của C là tạo ra siêu ngôn ngữ: cách diễn đạt phù hợp với từng hòan cảnh – đối tượng – phù hợp với “ngưỡng”
- - Siêu ngôn ngữ giúp nhà báo phản ánh trung thực chính xác – đảm bảo yêu cầu thông tin. - Muốn có được siêu ngôn ngữ - tức mã thông tin chính xác Vốn kiến thức của nhà báo là yếu tố vô cùng quan trọng: (thời sự chính trị xã hội – lịch sử - văn hóa – văn nghệ - ) + Vốn kiến thức là thước đo độ chính xác của thông tin + Vốn kiến thức có chức năng xác định ngưỡng (thông tin đến đâu – đến mức độ nào?) 4. Các mô hình hiệu ứng truyền tin: Thông tin : P Ngôn ngữ: M Hiệu quả: R a. Mô hình chuẩn mực: P – M – R
- Thông tin cần thông báo – ngôn ngữ phù hợp – hiệu quả thông tin tương ứng với thông tin cần thông báo. (không gây hiểu nhầm – nhiễu - ) b. Mô hình siêu ngôn ngữ: - P khác M – ý lời không khớp – không ăn nhập. - Khá phổ biến: giao tiếp thông thường cũng như giao tiếp thông tin trên báo chí cũng thường rơi vào tình trạng này. + Mô hình siêu ngôn ngữ 1: + Mô hình siêu ngôn ngữ 2: + Mô hình siêu ngôn ngữ 3:
- 5. Vài lưu ý: + Ấn tượng báo chí hình thành trong lòng người đọc qua ngôn ngữ sự kiện. Ngôn ngữ sự kiện tạo ra độ tin cậy – hấp dẫn – tính khách quan khi phản ánh. + Bản lĩnh chính trị - văn hóa nền – quyết định đến vịêc viết như thế nào – mã thông tin như thế nào + Xác định ngưỡng: (cần có năng lực phân tích lý giải – sự nhạy cảm chính trị ) + Mã – vốn kiến thức của nhà báo do bản thân nhà báo tích lũy. I.4. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NGÔN NGỮ BÁO CHÍ CỦA NHÀ BÁO: 4.1. Bản lĩnh chính trị: - Báo chí cách mạng Việt Nam ra đời cách đây 84 năm (21/6/1925 - 21/6/2009), khởi đầu từ báo Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp chỉ đạo, đây là tờ báo đầu tiên của giai cấp vô sản Việt Nam. - Bản lĩnh chính trị của người làm báo được thể hiện ngay trong tác phẩm báo chí. Trong tác phẩm báo chí của mình, nhà báo bày tỏ quan điểm, thái độ với các sự kiện xảy ra; đấu tranh với các quan điểm sai trái và các tư tưởng thù địch; lên án phê phán, các hiện tượng tiêu cực, các thói hư tật xấu; bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của nhân dân. Bản lĩnh chính trị chỉ có được qua học tập, rèn luyện từ trong hoạt động thực tiễn của nhà báo. Đó là cái tâm, là phẩm chất chính trị của
- người làm báo. Cùng với bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp là yêu cầu hết sức quan trọng với người làm báo. Đạo đức nghề nghiệp báo chí được thể hiện trong mối quan hệ giữa những người làm báo với nhau; giữa người làm báo với các tổ chức, cá nhân liên quan đến nghề báo và được biểu hiện qua hoạt động của nhà báo, đó là lương tâm của nhà báo. Bên cạnh đó, lao động sáng tạo của người làm báo là sự tái tạo lại hiện thực khách quan một cách đúng đắn, chân thực nhưng không phản ánh một cách thô thiển, máy móc. Phản ánh như thế nào là tùy vào quan điểm tư tưởng và đạo đức của nhà báo. Trước một sự kiện xảy ra nhà báo phải biết chắt lọc thông tin, tìm ra cái bản chất nhất, mang tính định hướng dư luận, làm cho công chúng hiểu rõ vấn đề. Sự sáng tạo không phải là sự thêm thắt, hư cấu, thêu dệt trong tác phẩm của mình về sự kiện xảy ra nhằm mục đích cá nhân. Ví dụ cho thấy ĐẠO ĐỨC, QUAN ĐIỂM ẢNH HƯỞNG ĐẾN NGÔN NGỮ ( Phải làm tròn đạo lý ! Bà Huỳnh Thị Nga, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai, đã nhấn mạnh như vậy trong cuộc họp chiều 7-9 để bàn việc phục dựng di tích nhà lao, tổ chức tìm kiếm hài cốt tù chính trị > Sẽ tìm kiếm hài cốt liệt sĩ
- > Phục dựng di tích và tìm hài cốt > Nên phục dựng những hạng mục chính > Thương vụ xương máu > Hàng trăm hài cốt chưa được quy tập > Đánh đổi di tích lịch sử vì tiền ? > Bán cả đất nhà lao Chiều 7-9, sau loạt bài “Nhà lao Tân Hiệp: Chứng tích không ai được xóa!” khởi đăng trên Báo NLĐ từ ngày 3-8, lần đầu tiên, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Đồng Nai đã tổ chức buổi làm việc với sự tham dự đầy đủ của đại diện các sở, ngành trong tỉnh, Ban Quản lý dự án của Ngân hàng Công Thương VN, Ban Liên lạc cựu tù chính trị và đại diện Báo NLĐ để bàn việc phục dựng di tích nhà lao, tổ chức tìm kiếm hài cốt các tù chính trị đã chiến đấu, hy sinh tại nhà lao. Ông Nguyễn Văn Thông và bà Trần Thị Hòa, cựu tù chính trị, phát biểu tại cuộc họp. Ảnh: N. Phú Lay động lòng người!
- “Tôi đã mong đợi cuộc họp như thế này từ rất lâu rồi. Khi biết nhà lao Tân Hiệp bị bán, tôi đã rất uất ức tưởng không thể nào thay đổi tình hình”. Tất cả dường như nín lặng khi người đàn ông cao tuổi nhất phòng họp đứng lên phát biểu. Ông là Nguyễn Văn Thông, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Biên Hòa, một trong những người tù chính trị đã tham gia cuộc phá nhà lao Tân Hiệp ngày 2-12-1956. Diễn tiến vụ nhà lao Tân Hiệp Theo đo đạc của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai, tổng diện tích đất nhà lao Tân Hiệp là 53.200 m2. Năm 1993, Thường trực UBND tỉnh Đồng Nai đã đồng ý cho Công an tỉnh Đồng Nai ký hợp đồng bán toàn bộ nhà, mặt bằng trại giam B5 cho Ngân hàng Công Thương VN Chi nhánh Đồng Nai. Ngày 5-4-1993, UBND tỉnh Đồng Nai đã ký quyết định, trong đó ghi rõ: “Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai chấp thuận cho Công an tỉnh được bán toàn bộ nhà cửa và vật kiến trúc của trại giam B5 cho Ngân hàng Công Thương kèm theo quyền sử dụng đất có tổng diện tích 53.200 m2 với giá 3,9 tỉ đồng”. Đến tháng 3-1994, UBND tỉnh ký quyết định thu hồi 1.908 m2 đất đã được bán cho Ngân hàng Công Thương, giao cho Sở VHTT (nay là Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch) quản lý. Phần đất nhỏ này, về sau được Bộ VHTT (cũ) công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia với danh xưng “Nơi diễn ra cuộc nổi dậy phá nhà lao Tân Hiệp”.
- Ông Thông tay run run lật từng trang tài liệu đã cũ, trưng ra những tấm hình và nói rành rọt: “Đây là thi thể của mấy chục chị em bị pháo địch bắn chết năm 1974 được chôn phía sau nhà lao Tân Hiệp. Và đây là tấm hình tôi chụp hai bia mộ của tù chính trị chôn phía sau nhà lao Tân Hiệp. Như vậy, không thể nói xung quanh đất nhà lao không có hài cốt liệt sĩ ”. Do nỗi đau chưa tìm ra hài cốt của đồng đội đã cùng mình tham gia cuộc phá khám năm xưa, ông Thông đã từng gửi văn bản đề nghị chính quyền tỉnh chấp thuận để ông tổ chức tìm kiếm hài cốt của 22 đồng đội. Nhưng đến nay, ông vẫn chưa nhận được phúc đáp. Ông từng khẳng định sẽ sẵn sàng bán đất, bỏ tiền túi để tìm hài cốt đồng đội. Ông kể: Sau khi biết tin đất nhà lao Tân Hiệp bị bán, ông đã đi gặp cơ quan chức năng của tỉnh mong làm thay đổi tình hình thì một vị lãnh đạo chất vấn ông bằng một câu rất lạnh lùng: “Đất đó bán chứ để làm gì”. Cùng sự phẫn uất như ông Thông, bà Trần Thị Hòa, hiện là Trưởng Ban Liên lạc cựu tù chính trị, kể lại: Một thành viên của Thường trực Tỉnh ủy đã trả lời: “Đất đó không bán thì cũng để trâu nằm!”. Tuy nhiên, theo ông Thông và bà Hòa, mọi chuyện đã qua, hiện nay, mong muốn lớn nhất của họ là tìm được hài cốt đồng đội, mở rộng di tích hiện hữu để làm nơi giáo dục truyền thống yêu nước cho con cháu. Bà Hòa khẳng định nhà lao Tân Hiệp là một trong những nhà tù lớn nhất VN. Quan trọng nhất, nhiều hạng mục của nhà lao này có giá trị lịch sử vì còn giữ được nguyên trạng như tháp canh, lô cốt, tường rào. Bà Hòa nói nếu được mở rộng, nhà lao Tân Hiệp sẽ là một địa chỉ cuốn hút nhiều đoàn khách vào tham quan, tìm hiểu lịch sử.
- Khẩn trương trùng tu, tìm kiếm Trước những lời tâm huyết lay động lòng người của hai cựu tù chính trị, bà Huỳnh Thị Nga, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai, chia sẻ: “Tôi là bậc hậu sinh. Tôi rất khâm phục và ngưỡng mộ những người như chú Hai Thông, luôn trăn trở và đau đáu tìm hài cốt đồng đội. Vì vậy, khó khăn mấy chính quyền cũng phải làm tròn đạo lý”. Về việc trùng tu, tôn tạo di tích “nơi diễn ra cuộc nổi dậy phá nhà lao Tân Hiệp”, bà Nga yêu cầu Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch khẩn trương phục dựng nhà lao Tân Hiệp theo hướng khai thác giá trị truyền thống lịch sử. Ông Huỳnh Văn Tới, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai, cho biết mặc dù đã bán toàn bộ đất cho Ngân hàng Công Thương nhưng ý thức được giá trị lịch sử của nhà lao Tân Hiệp, đến nay, UBND tỉnh đã hai lần thu hồi đất của ngân hàng để xây dựng và mở rộng di tích. Hiện nay, UBND tỉnh đã có kế hoạch trùng tu mở rộng di tích “nơi diễn ra cuộc nổi dậy phá nhà lao Tân Hiệp” rộng gấp 3 lần diện tích hiện hữu. Về việc tìm kiếm hài cốt liệt sĩ, bà Huỳnh Thị Nga nhất trí phải tìm kiếm quy tập. Tuy nhiên, bà tỏ ra phân vân vì hiện nay, vẫn chưa có một hồ sơ tài liệu nào xác định vị trí có hài cốt. Tại cuộc họp, rất nhiều giải pháp như tìm hài cốt theo trí nhớ của người tù chính trị còn sống, tìm hài cốt căn cứ vào lời kể của những người sống gần nhà lao năm xưa
- Ông Trần Quang Toại, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Đồng Nai, đề xuất trước mắt cho ngành văn hóa vào cuộc để liên hệ với các cựu tù xác định từ 1-3 địa điểm quanh khu vực nhà lao để khai quật. Có mặt tại cuộc họp, đại diện Ngân hàng Công Thương VN cho biết hiện nay, đã hoàn thành khâu san lấp mặt bằng để xây dựng trường nghiệp vụ ngân hàng trên khuôn viên đất nhà lao Tân Hiệp mà mình mua được. Dự kiến, đầu tháng 10 sẽ khởi công xây dựng tòa nhà. Vì vậy, ông Huỳnh Văn Tới cho rằng phải tổ chức tìm kiếm hài cốt trong tháng 9 để không ảnh hưởng đến tiến độ thi công của Ngân hàng Công Thương. Theo đó, căn cứ vào sự xác định của những nhân chứng sống, sẽ khai quật vài hố trên phần đất của Ngân hàng Công Thương. Ông Tới khẳng định khi khai quật sẽ có sự tham gia và giám sát của nhiều bên như các sở, ngành liên quan, Ban Liên lạc cựu tù chính trị, báo chí “Đây là vấn đề đạo lý nếu không làm thì rất ray rứt”- ông Tới cương quyết. Ông Huỳnh Văn Tới, Trưởng Ban tuyên giáo Tỉnh Ủy Đồng Nai: Bảo đảm an toàn cho khu di tích Tôi kiến nghị UBND tỉnh khẩn trương nâng cấp, trùng tu nhà lao Tân Hiệp, chủ đầu tư cần có giải pháp bảo đảm an toàn cho khu vực đất di tích, phối hợp với Bảo tàng Đồng Nai, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch giám sát quá trình thi công, nếu phát hiện hài cốt phải báo với cơ quan chức năng để xử lý. Đồng thời, trước khi triển khai phương án xây dựng, chủ đầu tư là Ngân hàng Công Thương VN cần hoàn thiện báo cáo đánh giá tác động môi trường, thăm dò hài cốt, di vật lịch sử. Bảo đảm khi triển khai dự án thì dưới nền đất xây dựng phải là “đất sạch”.
- Nhà báo Đình Xê, đại diện Báo Người Lao Động: Phản ánh tâm hồn, lẽ sống của chúng ta Loạt bài “Nhà lao Tân Hiệp: Chứng tích không ai được xóa!” thể hiện nỗi lo và ý nguyện của đông đảo bạn đọc về giá trị chiều sâu của di tích mang tính lịch sử này. Là cầu nối giữa tâm tư, ý nguyện người dân với các nỗ lực của chính quyền các cấp, những người làm báo chúng tôi vui mừng nhận ra phản ánh của mình đã nhận được sự hưởng ứng của đông đảo bạn đọc và phần nào lay động, thức tỉnh một số cơ quan trước yêu cầu bức thiết bảo vệ, tôn tạo di tích này, biến nó thành di sản tinh thần vô giá. Chúng tôi nghĩ rằng thái độ của chúng ta đối với di tích này phản ánh phần nào cách nghĩ của mình đối với sự hy sinh của các thế hệ đi trước. Con cháu sẽ nhìn vào cách đối xử ấy để hiểu thêm tâm hồn, phẩm hạnh và lẽ sống của thế hệ hôm nay. Công việc của các cơ quan chức năng, vì thế, không thể dừng lại ở những lời hứa hẹn.
- Như Phú- Kim Cương 4.2. Trí tuệ - vốn kiến thức: - Bác Hồ đã từng căn dặn các nhà báo: "Nhiệm vụ của người làm báo là quan trọng và vẻ vang. Muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ ấy thì phải cố gắng học tập chính trị, nâng cao tư tưởng; phải nâng cao trình độ văn hoá, phải đi sâu vào nghiệp vụ của mình". Như vậy, để đưa sự nghiệp báo chí cách mạng vững bước tiến về phía trước, phải hết sức coi trọng nhân tố con người, trong đó có công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, phóng viên các cơ quan báo chí. Cũng cần khẳng định rằng, đặc thù của nghề báo ngoài năng khiếu thì cần phải có được một vốn kiến thức phong phú, đa dạng, phải là những người nắm được những cái mới nhất, có trình độ hiểu biết về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, ngoại ngữ (3) - Tri thức là nền tảng của nhà báo. - Với nhà báo, không có thông tin cũng giống như không có nguyên liệu, nhưng thiếu hiểu biết sẽ giống như thiếu đi phương pháp. Đôi khi 90% sức hút của bài viết nằm ở cách thức diễn đạt và những kiến thức bổ trợ đi kèm. - Xu hướng truyền thông: đi đôi với chỉ dẫn, bổ sung kiến thức, giải trí (mở nhiều cửa sổ), không có kiến thức nhà báo sẽ không thể phát hiện đề tài, phát triển đề tài.
- - Những kiến thức bổ trợ sẽ giúp rất nhiều cho công việc của nhà báo từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng của quá trình sáng tạo tác phẩm. + Ví dụ câu chuyện em bé chết lâm sàng + Ví dụ câu chuyện bắn máy bay - Đời sống báo chí luôn biến đổi muôn hình vạn trạng. Biển học vốn mênh mông, vậy thì bao nhiêu kiến thức và kiến thức nào sẽ là cần thiết cho nhà báo? Câu trả lời nằm trong một câu hỏi: Học có bao giờ là đủ? - Thực tế báo chí không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới đã cho thấy có hai kiểu nhà báo: nhà báo là cử nhân báo chí và nhà báo chưa từng qua một trường lớp đào tạo về báo chí. Họ đã – đang cùng làm việc dưới vai trò những thư kí của công luận. Vậy đâu là sự khác biệt, điểm yếu, điểm mạnh của họ? - Đối với một nhà báo – cử nhân báo chí, điểm mạnh lớn nhất của họ có lẽ là nền tảng lý luận chính trị, những kiến thức chính thống và có hệ thống về ngành báo, nghề báo; những kĩ năng khai thác thông tin, triển khai thông tin, kĩ năng phỏng vấn . Tóm lại, đó là những kiến thức để trở thành một nhà báo chuyên nghiệp. - Đối với những nhà báo chưa từng được đào tạo báo chí, chuyên ngành họ theo học rất đa dạng: ngoại ngữ, ngoại thương, kinh tế, tin học, nông nghiệp, kĩ thuật Thế mạnh của đội ngũ này chính là kiến thức chuyên ngành mà họ đã học. Đôi khi, chính sự thiếu hụt về lý luận của họ lại khiến cho họ có cái nhìn thoải mái hơn, góc nhìn không hạn chế và có thể đưa những đánh giá mạnh dạn trước mỗi
- vấn đề. Tuy nhiên đối với những vấn đề nhạy cảm liên quan đến chính trị, ngoại giao hay các vấn đề dân tộc, tôn giáo, sắc tộc một bản lĩnh chính trị vững vàng là điều cần thiết. Nó sẽ giúp nhà báo có cách hành xử thông minh, tránh được những rắc rối không đáng có không chỉ cho mình và cho cả công luận. (4) 4.3. Văn hóa nền - Tâm hồn: - Văn hóa nền và sự nhạy cảm quyết định nhà báo xúc động – rung động trước hiện tượng gì? Nhìn nhận hiện tượng đó như thế nào? Miêu tả nó bằng ngôn ngữ nào. CHƯƠNG II: NGÔN NGỮ BÁO IN II.1 ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ BÁO IN: 1.1. Ngôn ngữ viết là chính văn: - Ngôn ngữ viết giữ vai trò chủ đạo. (trang 71) - Các yếu tố phụ: + Ảnh + Trình bày. 1.2. Được tiếp nhận bằng thị giác: 1.3. Chủ động thời điểm và không gian tiếp nhận. II.2 CÁC YẾU TỐ NGÔN NGỮ BÁO IN:
- 2.1. Ngôn ngữ viết: - Tính biểu cảm – bình giá - Khác biệt trong giọng điệu, cách diễn dạt - Vai trò của cái tôi tác giả + Hiện tượng vượt chuẩn của ngôn ngữ báo viết + Một số lỗi thường mắc phải trong ngôn ngữ báo chí + Chuẩn ngôn ngữ và hiện tượng vượt chuẩn Ví dụ: sử dụng thành ngữ tục ngữ trong báo chí: Giáo viên mầm non: lương một đồng, công vô kể! 2.2. Hình ảnh minh họa: a. Giá trị nội dung – trong tương quan với bài viết: - Làm sinh động trang báo do thay đổi ngôn ngữ. - Có thông tin nhất định. - Sự phù hợp
- Chiều 7-9, sau loạt bài “Nhà lao Tân Hiệp: Chứng tích không ai được xóa!” khởi đăng trên Báo NLĐ từ ngày 3-8, lần đầu tiên, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Đồng Nai đã tổ chức buổi làm việc với sự tham dự đầy đủ của đại diện các sở, ngành trong tỉnh, Ban Quản lý dự án của Ngân hàng Công Thương VN, Ban Liên lạc cựu tù chính trị và đại diện Báo NLĐ để bàn việc phục dựng di tích nhà lao, tổ chức tìm kiếm hài cốt các tù chính trị đã chiến đấu, hy sinh tại nhà lao. Ông Nguyễn Văn Thông và bà Trần Thị Hòa, cựu tù chính trị, phát biểu tại cuộc họp ( Cận cảnh cái đói Nam Trà Mi (tintuc.timnhanh.com/xa-hoi ) Ảnh về nạn đói năm 45 của Võ An Ninh
- Khủng hoảng lương thực đe dọa đến 20 triệu trẻ em ở các nước nghèo trên thế giới. (Ảnh: AFP) b. Số lượng hình và kích cỡ hình c. Chú thích hình Vai trò của hình ảnh - Ảnh chính là mức độ đọc đầu tiên, nó thu hút sự chú ý của độc giả. Nó có thể khiến người ta đọc bài báo. - Hình ảnh làm cho trang báo thông thoáng và sáng sủa, giúp cho mắt nghỉ ngơi. - Tiếp cận hình ảnh thì dễ dàng và nhanh chóng hơn với bài báo. Không cần phải biết đọc cũng như có trình độ học vấn cao vẫn có thể hiểu được một bức ảnh. - Hình ảnh chuyển tải thông tin. Một bức ảnh được chọn cần phải có ý nghĩa, phải mang lại nhiều thông tin, phải thể hiện được điều mà bài báo không thể miêu tả. - Một bức ảnh kèm chú thích có tác dụng phản chiếu. Độc giả mua báo để thấy mình hoặc không gian của mình trong đó.
- - Hình ảnh có thể minh chứng cho một điều tra và làm tăng độ tin cậy của bài báo. - Một số ảnh và tranh còn có tác dụng giải trí. Sáu đặc trưng của một hình ảnh tốt - Sống động: nếu có thể thì nên chụp người hoặc con vật đang hoạt động. Bố cục chặt chẽ, nét mặt biểu cảm, động tác. - Phù hợp với phong cách tờ báo. - Thông tin phong phú: một hình ảnh mang thêm thông tin cho bài báo chứ không chỉ đơn thuần mang tính minh họa sẽ giúp bài báo hay hơn. - Chất lượng thẩm mỹ. - Chất lượng kỹ thuật: ảnh phải nét, cắt cúp hợp lý, ánh sáng tốt. Kỹ thuật giúp sửa chữa một số sai sót nhưng không phải tất cả. Chú ý độ phân giải đối với ảnh kỹ thuật số. - Tính độc quyền: hình ảnh phải mang tính tìm tòi, ngay cả với những chủ đề thông thường nhất. Chú thích: Có thể coi chú thích là bài viết ngắn đi kèm hình ảnh, giải thích hình ảnh, bình luận
- nó hoặc hoàn chỉnh nó. Tất cả ảnh đều phải có chú thích. Chỉ chấp nhận không có chú thích khi tít hoặc tít phụ bao trùm bài báo và bức ảnh đóng luôn vai trò chú thích. Nhất thiết phải tránh thừa từ giữa ảnh và bài báo hoặc ngược nghĩa. Phải làm cho hình ảnh có nghĩa, tránh cho độc giả phải đặt câu hỏi mà không tìm thấy câu trả lời. Đừng quên rằng chú thích ảnh là một yếu tố đọc nhanh và có lựa chọn. Nó thuộc mức độ đọc thứ hai và là một cách tiếp cận vấn đề. Chú thích có thể là: - một câu trả lời cho những câu hỏi mà người ta đặt ra cho hình ảnh: Ai? Ở đâu? Khi nào? - một chi tiết rõ ràng: một thông tin bổ sung không nhất thiết phải có trong bài báo. - một tóm tắt: đặc biệt là tóm tắt thông điệp chính. - một lời giải thích: chú thích khẳng định một nghĩa cho một bức ảnh đa nghĩa. - một lời trích dẫn trong trường hợp ảnh chụp nhân vật. - một gợi ý: làm cho độc giả phải suy nghĩ, gợi trí tò mò. Bức ảnh nên có bố cục rõ ràng. Bức ảnh cần trình bày thông tin rõ ràng và không gây hiểu lầm cho độc giả. Mỗi bức ảnh phải có trọng tâm để tất cả các thành phần
- quan trọng của nó hiện lên trước mắt độc giả ngay khi họ nhìn thấy. Có thể gọi phần trọng tâm này là điểm nhìn. Bức ảnh nên trông tự nhiên và có thần. Đối với những bức ảnh chụp theo kiểu nghiệp dư, các nhân vật thường cười giả tạo trước ống kính. Còn đối với các bức ảnh chuyên nghiệp, nhân vật tự nhiên, thoải mái tham gia các hoạt động. Bất cứ khi nào có thể hãy chụp người thật làm việc thật, chứ đừng bắt nhân vật phải nhìn chằm chằm vô cảm vào không gian hay vờ bận rộn. Tuy nhiên, khi nhân vật đã hòa với bối cảnh thì phóng viên cần phải bắt được "khoảnh khắc vàng." Tại đó, cái thần của nhân vật thực sự được bộc lộ. Bức ảnh nên có chú thích rõ ràng. Thật ngạc nhiên khi các biên tập viên thường nghĩ rằng: Ồ tất cả mọi người đều biết đó là ai. Bill Clinton chứ ai! Đừng bao giờ cho rằng độc giả thông minh như bạn hoặc tất cả các độc giả sẽ đọc bài viết đó. Hãy chú thích rõ mọi thứ: nhân vật là ai, đang làm gì, như thế nào, tại đâu và khi nào. Bức ảnh nên được phân định rõ ràng. Điều này nghĩa là không để các bức ảnh có nền màu sáng chìm trên các trang báo nền trắng. Hãy phân định các bức ảnh này bằng một đường khung mỏng, chạy dọc mép bức ảnh (border thường dày 1 point). Ảnh phải có nội dung. Độc giả không có thời gian cho các câu chuyện tầm phào, họ cũng không muốn thấy những điều vô nghĩa trong các bức ảnh. Hãy cho độc giả thấy các hình ảnh minh họa trực tiếp cho bản tin của ngày hôm nay (nhân vật đang hoạt động, những người thắng, thua chứ không phải con sóc đang chơi trong công viên). Các bức ảnh phải cung cấp thông tin chứ không phải để trang trí.
- Khuôn mặt của nhân vật chính trong bức ảnh phải có kích thước có-thể-nhìn-thấy. Các bức ảnh hiếm khi được trình bày cỡ lớn trên báo nhưng lại thường xuyên bị để kích thước quá nhỏ. Nhiều khi, các nhân vật quan trọng lại cùng cỡ với một con kiến. Nếu muốn có hình ảnh ấn tượng, hãy tập trung vào những nhân vật đơn lẻ chứ không phải đám đông, hãy chọn kích cỡ các bức ảnh với kích thước to tới mức độ cho phép và khuôn mặt của nhân vật chính phải thực sự nổi bật và sáng giữa đám đông. 2.3. Kỹ thuật trình bày 2.3.1. Điểm mạnh của trang báo – tờ báo - Nguyên tắc trên mạnh – dưới giảm dần - Nguyên tắc phải mạnh – trái giảm dần - Góc chết trong trang báo - Các kết quả nghiên cứu về đặc điểm lướt báo của độc giả 2.3.2. Tít và lời dẫn. a. Tít Chú ý: - Cỡ chữ - font chữ -
- - Dung lượng: nhỏ - ngắn gọn - - Sự hấp dẫn – gợi mở - Tít báo tập trung toàn bộ chủ đề của bài báo, nên rút tít được xem như một nghệ thuật trong sáng tạo tác phẩm báo chí. Tít (đầu đề) cho độc giả biết chuyện gì xảy ra và vì sao độc giả phải quan tâm tới nó. Tít là phần độc giả đọc trước tiên. Nếu bạn viết hay, độc giả có thể sẽ tiếp tục đọc bài báo. Nếu bạn viết hỏng, toàn bộ bài báo công phu của bạn sẽ bị bỏ qua. Tít (đầu đề) cho độc giả biết chuyện gì xảy ra và vì sao độc giả phải quan tâm tới nó. Tít là phần độc giả đọc trước tiên. Nếu bạn viết hay, độc giả có thể sẽ tiếp tục đọc bài báo. Nếu bạn viết hỏng, toàn bộ bài báo công phu của bạn sẽ bị bỏ qua. 1. Dùng tên tác phẩm văn học: Tên tác phẩm là sự cô đúc sâu sắc nhất chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Người làm báo thường dựa trên cơ sở đó tạo ra nét nghĩa phù hợp với thông tin mà bài báo sẽ đưa ra. • Dựa trên liên tưởng tương đồng đặt nguyên tên tác phẩm vào trong tít báo, tạo ra nét nghĩa xuôi chiều: Em như chiếc lá “Cuốn theo chiều gió” (Thu Thương, Thế giới Phụ nữ, số 30/1, 1/11/2001). Mượn tên tác phẩm của nhà văn Mỹ Margaret Mitchell để diễn tả một
- cách hình tượng số phận cô gái thông minh nhưng trong tình trường cũng chỉ như chiếc lá bị “cuốn theo chiều gió” mà thôi. Người “đi tìm thời gian đã mất” (tr. 15 , Văn nghệ, số 31, 3/8/2002). Phóng viên Xuân Ba mượn tên tác phẩm Đi tìm thời gian đã mất của nhà văn Pháp Marcel Proust, để diễn tả ý tưởng của GS. Văn Như Cương: “Có một thời chúng ta đã dạy thật học thật Công việc của tôi bây giờ là đi tìm lại cái đã mất ấy”. Capello và “Ba chàng ngự lâm pháo thủ” (tr.11, Bóng đá, 28/11/2005). Capello - huấn luyện viên Juventus, đã ví bộ ba lãnh đạo câu lạc bộ này như ba chàng lính ngự lâm trong tiểu thuyết cùng tên của Alêchxăng Đuyma. Mục: Ước mơ của “những người khốn khổ” (Nằm trong phóng sự "Xóm chạy thận" của Phạm Nguyễn Toan, Văn hoá số 833, 10-13/11/2002). Mượn nhan đề một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn V. Hugo để rút tít phụ, bài báo viết về những mảnh đời bất hạnh khi mắc bệnh suy thận mãn tính. Rút tít như vậy tác giả ngầm liên hệ: "Những người khốn khổ" trong tác phẩm của V. Hugo với những người khốn cùng trong bài báo. • Mượn khung hình thức cũ, hoặc cải biên một vài yếu tố nhằm tạo ra điểm nhấn, để chuyển một thông tin mới lạ, hàm nghĩa trái chiều hoặc đi quá xa nghĩa gốc: Cái tên tiểu thuyết đầy chất nhân văn của Hugo còn được phóng viên Trần Hạo Nam cho xuất hiện trong “không gian kỹ thuật số” của các trò chi Game huyền ảo, với nét nghĩa rất mới: Chơi game trực tuyến: Để không trở thành “những người khốn khổ” (tr.9, Thanh niên, số 227, 15/8/2005). Với hàm ý châm biếm nhẹ nhàng, phóng viên Trần Nhật Giáp dùng tên một tập
- truyện cổ Ả Rập nổi tiếng để đặt cho tiêu đề bài báo của mình: “Nghìn lẻ một đêm” (Làng cười, số 45, 9/11/2005). Dùng “bình cũ rượu mới”, bài báo đề cập đến những vấn đề còn tồn tại trong xã hội hiện thời cũng nhiều như số truyện mà nàng Sêhêrazát kể cho vua Saria trong “nghìn lẻ một đêm”. Không phải lúc nào tên tác phẩm văn học cũng được bê nguyên vào trong đầu đề bài báo. Trường hợp sau chẳng hạn: “Aladin và cây bàn đèn” (tr. 24, An ninh thế giới cuối tháng, số 49, 8/2005), dựa vào tên một truyện cổ Ả - rập (Aladin và cây đèn thần), phóng viên Đinh Hiền đã vận dụng sáng tạo, tạo ra nét nghĩa mới đầy thú vị phù hợp với thông tin hiện tại. Rút bớt các yếu tố, giữ lại những từ thần thái là trường hợp các tiêu đề: Chuyện “Ba chàng ngự lâm” vượt thượng nguồn sông Lam đưa báo (Văn Huyền, An ninh Văn hóa, số 489, 24/9/2005); “Ba chàng ngự lâm” (tr.13, Nguyễn Thị Mai, Tri thức trẻ, số 158, 9/2005) 2. Dùng tên nhân vật văn học: Người làm báo thường lấy đặc điểm tính cách của nhân vật làm gốc, từ đó mượn một hay nhiều nét tương đồng, hoặc tạo ra một nét tính cách mới, có thể khác xa với nét tính cách ban đầu. • Mượn nét tưng đồng trong đặc điểm tính cách của nhân vật là dạng thức rất phổ biến: - Chỉ một cầu thủ bóng đá tài năng xuất chúng: Ronaldinho chuyện về một "Pele mới"; Sự tỏa sáng của một "Pele mới"! (Quang Dũng, Thể thao Văn hoá, số 74,
- 14/9/2004). - Chỉ sức quyến rũ mê hồn của một diễn viên điện nhí: “Nữ thần Xiren” ở kinh đô Hollywood (Hồng Sâm, Văn hoá, số 708, 29/8-2/9/2001). - Lột tả tính hay đa nghi của phụ nữ: “Hậu duệ của Tào Tháo” ( tr. 10, Kiến thức gia đình, 29/5/2005); “Tào Tháo Bà Bà” ( tr.52, Sinh viên, số 57, 1/12/2005). - Diễn tả sức mạnh thể chất phi thường của diễn viên xiếc Valentin Dicul: “Thần Hercules” thời hiện đại (tr. 17, An ninh thế giới, số 456, 1/6/2005). - Chỉ việc tìm người tài giỏi: Xứ Thanh tìm “Khổng Minh” ( tr. 5, Bóng đá, số 239, 11/ 10/ 2005). - Diễn tả một con người bị coi là lỗi thời,ảo tưởng: Có một "Đông Kisốt" ở thế kỷ 21 và sự thật kho báu của vua Hàm Nghi (Văn Hòa, Văn hoá số 908, 29- 31/7/2003). - Chỉ những con người đầy mạo hiểm và sáng tạo: Trung "Rôbinsơn" và giấc mộng tỷ phú đô la (Phùng Kông Sưởng, Tiền phong xuân ất Dậu, số 25/2005); Phóng sự: Vợ chồng “Robinson” trên Hòn Gùi (tr. 3, Kiên Giang, số 1877, 30/9/2005); Vợ chồng “Robinson” trên quần đảo Hải tặc (Hồng Lĩnh, Tiền phong, số 239, 1/12/2005), v.v Tiêu đề các bài báo trên đều mượn tên các nhân vật văn học gắn liền với một nét tính cách điển hình của họ. • Mượn tên nhân vật văn học diễn tả tính cách đối lập, hoặc khác xa tính cách ban đầu ở họ: Nhạc sĩ Phó Đức Phương, Giám đốc trung tâm bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt
- Nam: “Tôi không phải là Don Quixote!”(Toàn Nguyễn, Công an nhân dân, số 302, 3/12/2005), nhằm tỏ rõ quan điểm ông không là người dễ “ảo tưởng, điên rồ” như Đông Ki sốt. Mục bình luận trong tuần: “Nếu bạn là Robinson?” (Phạm Văn Tình, Văn hóa Thông tin, số 43, 4/11/2004) là sự mượn tên gọi của nhân vật để tạo ra nét nghĩa hoàn toàn khác: thế hệ trẻ hiện nay đừng tự biến mình thành một Robinson “đời mới” thu mình bên máy tính, thui chột óc sáng tạo, mà kiến thức thu được chẳng là bao. Nhiều khi, người làm báo còn mượn cả bối cảnh hoạt động của nhân vật để tạo ra nghĩa mới phù hợp với thông tin thời sự trong bài. Chẳng hạn như: “Ngộ Không - Đại náo thiên cung” ( tr.15, Làng cười, số 42, 19/10/2005). Màn “Đại náo thiên cung” được cải biên bởi một linh hồn mới nóng hổi, cập nhật - vấn đề xin việc thời nay, ngụ ý hài hước nhẹ nhàng. 3. Dùng hình ảnh – hình tượng văn học: Người làm báo thường dùng hình ảnh văn học để cách diễn đạt thêm sinh động, thổi hồn vào tít báo của mình. Có thể dùng nghĩa gốc của hình ảnh văn học đó hoặc giữ nguyên, hoặc để tái sinh nghĩa mới. Hình ảnh “Cái máng lợn mẻ ” trong truyện “Ông lão đánh cá và con cá vàng” của A. Puskin, đã trở thành tít phụ trong phóng sự: “Những người nông dân và giấc mơ tỉ phú” của Nguyễn Quang Thiều (tr. 22, Gia đình và xã hội, số 12, năm 2004), để nói về một hiện thực đau lòng ở nhiều miền quê Việt Nam nơi con “cá vàng” dự án nổi lên.
- “Trái tim Đancô” của rừng già Giăng mơ pho! (Phóng sự của Hoàng Hà Duy, An ninh thế giới cuối tháng số 39, 10-2004). Hình ảnh "Trái tim Đancô" trong truyện ngắn của M. Gorki, tượng trưng cho sự dâng hiến. Đây là lối mượn một hình ảnh điển hình để diễn tả nét nghĩa tưng đồng trong hoàn cảnh mới. “Cối xay gió” là hình ảnh văn học quen thuộc xuất phát từ một cuốn tiểu thuyết của nhà văn Xécvantex, vật cản trên bước đường chinh chiến của chàng Đông Ki sốt thực hiện lý tưởng hiệp sĩ của mình, được phóng viên Phúc Tiến vận dụng vào rút tít: “Hai cối xay gió khổng lồ, chàng Phù Đổng ra trận” (tr. 53, Tuổi trẻ, Xuân Ất Dậu 2005). Việt Nam đang phi di chuyển nhanh trong hai cuộc hội nhập lớn: Kinh tế thị trường hiện đại và Hợp tác quốc tế qui mô toàn cầu hóa. Đó là những thách thức lớn giống như “hai cối xay gió khổng lồ” đòi hỏi Việt Nam phi có những cái vươn vai của “chàng Phù Đổng” mới đáp ứng nổi. "Vòng nguyệt quế" trong thần thoại Hy Lạp là hình ảnh tượng trưng cho vinh quang và chiến thắng, được dùng xuôi chiều trong tít báo: Sự tưng ngộ của những vòng nguyệt quế văn học (Trinh Bảo,Văn nghệ, số 42, 19/10/2002). Thuật lại cuộc đối thoại văn học giữa Cao Hành Kiện - Nobel 2000 và Derek Walcott - Nobel 1992, diễn ra vào ngày 1/10/2000 tại Đài Loan. Hình ảnh văn học còn được sử dụng ngược chiều với nghĩa gốc: Văn Quyến - Những chiếc gai của vòng nguyệt quế (Như Bình, An ninh thế giới cuối tháng, số 42, 1/2005). Bằng cách sử dụng hình ảnh tương phản, tác giả bài báo đã thu hút độc giả vào chân dung cầu thủ bóng đá: “một Văn Quyến tài hoa và yếu đuối bị “những chiếc gai của vòng nguyệt quế ” làm cho chảy máu”.
- Sử dụng chất liệu văn học trong rút tít báo là một vấn đề thú vị, đòi hỏi sự vận dụng phù hợp và sáng tạo của mỗi nhà báo, không có một khuôn mẫu định sẵn. Việc sử dụng chất liệu văn học nước ngoài làm cho các tít báo trở nên ấn tượng, sinh động và hấp dẫn độc gi. Nó làm cho mối quan hệ giữa văn học và báo chí chuyển sang một bước phát triển mới, sâu sắc và hiệu qu hn. Tít báo như một tín hiệu nghệ thuật, giàu tính thẩm mỹ, thu hút độc giả ngay từ phút đầu. Vì thế, hiệu quả giao tiếp của một bài báo phụ thuộc không nhỏ ở cách rút tít của người viết báo. Rút tít như thế nào: - Bỏ những từ thừa - Bỏ những từ “có cũng như không” như “của”, “về”, “được”, - Bỏ “các”, “những” nếu có thể; - “Chặt” chữ trong từ nếu được: “thành lập”, “sang thăm”, “phòng chống”, “tham dự”, - Tránh câu bị động; - Không nhất thiết lúc nào cũng phải nói là Việt Nam. - Hãy mạnh dạn cầm kéo và tự ép mình vào cái chuẩn thật ngắn. Yêu cầu của tít:
- + Ngắn gọn + Ấn tượng + Gợi mở - tạo sự liên tưởng + Có nhịp điệu – quen thuộc 3. Boxtext: a. Số lượng: vừa phải – giữ được ấn tượng, độc đáo – là sự nhấn mạnh b. Phân bố: phân bố ở những góc không nhiều lợi thế - làm nổi bật, nhấn mạnh và xóa góc chết c. Nội dung: Ngắn gọn – giàu thông tin - 4. Trình bày trang báo: - Các khối trong toàn trang - Màu sắc: - Nhịp điệu
- - Hiệu quả tiếp nhận bằng mắt CHƯƠNG 3: NGÔN NGỮ BÁO NÓI III.1. Đặc điểm ngôn ngữ báo phát thanh: 1. Có tính hình tuyến Trình tự, cấu trúc ổn định 2. Tiếp nhận bằng 1 giác quan (thính giác) – chỉ truyền 1 lần - Dễ gây nhàm chán 3. Tính phối âm: Sự kết hợp của các lọai âm thanh. a. Lời bình (chính văn) - Dấu ấn cá nhân – độc thọai - Ngôn ngữ nói - Mang tính hình tượng (bút pháp miêu tả) b. Ngôn ngữ nhân vật (âm thanh của nhân vật):
- - Thông tin cá nhân về nhân vật - Khẳng định tính chân thật của thông tin - Biểu cảm c. Âm thanh phụ: hiện trường và nhân tạo - Sinh động - Tạo sự tin tưởng cao. - Có tính cảm xúc III.2 Những lưu ý khi sử dụng ngôn ngữ phát thanh 2.1. Những quy tắc chung: a. Coi trọng tất cả các loại âm thanh b. Phối hợp hợp lý các loại âm thanh c. Giá trị của khỏang lặng - Thư giãn - Khoảng lặng là tất yếu – là nền cho một bức tranh d. Tạo ra bức tranh âm thanh
- 2. Những quy tắc riêng cho từng lọai âm thanh: a. Lời bình - Hạn chế sử dụng phương ngữ - Không lạm dụng vay mượn từ ngữ từ tiếng nước ngoài. - Diễn đạt một cách dễ hiểu các thuật ngữ - Tránh những câu dài – mơ hồ - Sử dụng biện pháp tu từ ngữ âm: + Hòa phối thanh điệu: lựa chọn và kết hợp các yếu tố âm thanh cho câu trở nên dễ đọc, mềm mại. + Lặp số lượng âm tiết: + Sử dụng các âm tiết có khuôn vần giống nhau + Tạo nhịp điệu: b. Ngôn ngữ nhân vật (Âm thanh của nhân vật): - Đảm bảo về mặt kỹ thuật
- - Thời lượng vừa phải (20 – 30’’) - Có giá trị nội dung trong tương quan với lời bình c. Âm thanh phụ: - Có ý nghĩ hỗ trợ cho nội dung của bài - Tạo cảm xúc - Làm bước chuyển CHƯƠNG IV: NGÔN NGỮ BÁO HÌNH - Ra đời muộn dựa trên nền tảng kỹ thuật cao. - Ngôn ngữ gồm nhiều hệ thống tín hiệu IV.1 Ngôn ngữ hình ảnh 1.1. Hình ảnh (chính văn của báo hình) – ngữ pháp hình: a. Cỡ cảnh cơ bản: (Cỡ cảnh phải được xét trong tương quan với đối tượng)
- 1- Cảnh rất rộng (ELS – Extremme long shot) Diễn tả bối cảnh, không gian, thời gian của sự kiện 2- Toàn cảnh rộng (VLS – Very long shot) Mô tả bối cảnh và đối tượng 3- Toàn cảnh (LS - Long shot) Cỡ cảnh miêu tả trực tiếp đối tượng trong không gian sự kiện 4- Trung toàn cảnh (MLS – Medium Long shot) Cỡ cảnh miêu tả các hành vi, đối thoại, cảm xúc của đối tượng 5- Trung cảnh MS – Medium shot) Cỡ cảnh miêu tả diễn biến sự kiện trong mối tương quan của các nhân vật 6- TRung cận cảnh (MCU - Medium Close up ) Cỡ cảnh miêu tả thái độ, tình cảm của nhân vật 7- Cận cảnh (CU – Close up) Cỡ cảnh miêu tả điểm nhấn, nét đặc trưng của nhân vật
- 8. Ngoài ra, còn các cỡ cảnh Đại cận cảnh (Big Close Up), 9. Đặc tả (Extremme Close Up) b. Ngữ pháp hình: Khi quay về mật nhân vật: - Trung cảnh lấy toàn thân để giới thiệu nhân vật - Cắt ngang đùi - Cận cảnh chỉ lấy khuôn mặt – cắt hình quãng nút cravat. Khi quay sự kiện: - Cảnh rộng mô tả cốt lõi sự kiện - Đại cảnh: cho thấy khung cảnh diễn ra sự kiện - Cận cảnh mô tả các chi tiết quan trọng + Các góc quay: - Từ trên xuống: Máy quay đặt cao – góc nhìn từ trên xuống: làm giảm giá trị
- người bị quay - Từ dưới lên: Máy đặt thấp, hướng ống kính từ dưới lên: nhấn mạnh mức độ trầm trọng của sự việc, nâng giá trị của người được quay c. Các động tác máy: - Lia - pan Camera quay xung quanh một trục: từ trên xuống dưới – dưới lên trên - trái qua phải – phải qua trái. - Travelling: Camera chuyển động theo chiều ngang tiến về trước, lùi về sau hoặc chuyển động theo phương vuông góc với ống kính. (động tác máy này khó thực hiện và ít được thực hiện trong khi làm thời sự) - Zoom: tác dụng giống nhu travelling nhưng phương pháp là thay đổi tiêu cư ống kính Tất cả các động tác máy chỉ áp dụng khi quay một cảnh dài. Nên tránh động tác máy khi làm tin ngắn. Chú ý: phải chú ý đến ngữ pháp hình ngay khi quay để khi dựng phim không gặp khó khăn: chú ý những cảnh nghịch hướng, hướng nhìn của người được quay, chuyển động của đối tượng tiến vào hoặc ra khỏi khuôn hình
- Mức độ động tác máy: - Dài - Ngắn - Nhanh - Chậm d. Các cảnh thường sử dụng: Cảnh chen (insert shot). Một cảnh chi tiết chen vào một phân đoạn chính liên quan đến hành động hoặc tâm trạng của nhân vật. Nó có thể được dùng như một cảnh chen xa (cutaway shot) để làm tăng hiệu quả đặc trưng của một phân đoạn hoặc thêm những tình tiết kịch tính cần thiết, chẳng hạn, chen một dòng chữ trong một bức thư, một con số trong bảng số xe, một tin quan trọng trên trang báo, một khuôn mặt trong tấm ảnh chụp nhiều người v.v Cảnh chen gần (cut in). Cảnh phụ, chi tiết nhỏ có liên quan được ghép vào với cảnh chính để bổ sung ý nghĩa, kịch tính. Cảnh chen phải được ghi hình với cỡ cảnh và góc máy sao cho phù hợp với bố cục tổng thể của cảnh chính về vị trí, thời gian, động tác. Cảnh chen gần thường là cảnh cận, đầy khung (để không bị lộ những chi tiết không ăn khớp với cảnh chính). Cần chú ý kỹ khung hình để không rộng quá làm lộ bối cảnh, hoặc chặt quá sẽ bị cắt một phần khi chiếu lên màn ảnh. Cảnh chen xa (cutaway). Cảnh ngắn xuất hiện thoáng qua dùng để chen vào cảnh chính rồi chấm dứt để cảnh chính được tiếp tục diễn tiến. Nó chứa hình ảnh không trực tiếp thuộc tình tiết của cảnh chính mà có thể là hình ảnh phụ khác ở gần đâu đó hoặc có thể là hình ảnh ở thật xa chỉ liên quan đến cảnh chính về ý nghĩa nội
- dung. Nó cũng có thể là hình ảnh của ý nghĩ, ký ức hoặc cảnh tượng trưng, là dấu hiệu thay đổi địa điểm, không gian, thời gian khác v.v Cảnh chi tiết (detail shots). Cảnh cận đặc tả hoặc một đại cảnh mặt của nhân vật, vật thể và mô tả một cách chi tiết từng phần của chúng. Ví dụ, từ cảnh đầy đủ của một phụ nữ đang khâu nón, sau đó khung hình cắt một cảnh cận đặc tả mũi kim của cô ta đang luồn những sợi chỉ thêu vào lá cọ; tiếp theo một khung hình quay cận đặc tả đôi mắt cô gái đang tập trung thị lực vào đường thêu. Hai cảnh cận đặc tả đó có thể gọi là những cảnh chi tiết. Với những đặc trưng như thế, chúng luôn được hiểu như những cảnh chen xa hoặc tùy cách sử dụng mà có thể gọi là cảnh chen. Những cảnh mô tả đồng hồ trên cổ tay nhìn rõ kim, số giờ; chiếc khuyên trên tai người có mặt đá đỏ hình bầu dục v.v đều thuộc loại cảnh chi tiết. Cảnh cực cao (extreme hight-angle shot, EHS). Cảnh quay từ máy bay, khí cầu, nóc cao ốc, đỉnh núi v.v giống như mắt chim nhìn xuống, rất thường được sử dụng làm cảnh dạo đầu của một bộ phim hoặc một trường đoạn phim. Cảnh cực cận (extreme close-up, ECU). Một loại cỡ cảnh mà chủ đề lớn gấp nhiều lần khung hình, đặc tả nhiều chi tiết hình ảnh hơn một cảnh cận. Nó là một loại đại cảnh nhưng vào sâu hơn, cho phép mô tả được từng chi tiết nhỏ những phần trên mặt (tight head shot), thân thể người. Loại cỡ cảnh này thỉnh thoảng mới được dùng trong phim truyện nhưng rất thường dùng để đặc tả trong thể loại phim tài liệu khoa học. Cảnh cực cận mặt (tigh head shot). Một loại cỡ cảnh cận mặt người nhưng chỉ đặc tả một phần trên mặt.
- Cảnh cực nét (deepfocus shot). Cảnh nét từ tiền cảnh đến hậu cảnh, còn được gọi là cảnh nét sâu. Cảnh này có liên quan đến các yếu tố: khẩu độ nhỏ, tiêu cự ống kính ngắn, khoảng cách từ ống kính đến đối tượng xa và ánh sáng phải chan hoà. Cảnh cực thấp (extreme low shot). Cảnh tạo ra bởi máy quay phim đặt thấp hơn đối tượng, thấp hơn tầm mắt. Ví dụ: một cảnh hướng nhìn (P.O.V shot) của một người đang lặn dưới nước nhìn lên chân và bụng con trâu đang bơi trong phim Mùa len trâu của Nguyễn Võ Nghiêm Minh. Cảnh cực viễn (extreme long shot - ELS). Cảnh được ghi hình từ vị trí đặt camera một khoảng cách rất xa chủ đề nhằm thu hút thị giác người xem mà không mô tả chi tiết. Cảnh này thường được sử dụng làm cảnh dạo đầu hoặc kết thúc. Cảnh dạo đầu (establishing shot). Cảnh mở đầu (to establish: thiết lập) để người xem hình dung vị trí, địa hình, thời gian v.v câu chuyện phim sẽ diễn ra. Cỡ cảnh thường là một cảnh viễn (long shot) hoặc cảnh cực viễn (extreme long shot) quay từ góc máy cao, hoặc không cảnh (aero shot),. Nó là mắt xích đầu tiên trong tổng thể tác phẩm. Đôi khi vào lúc kết thúc cảnh hoặc đoạn phim, cảnh này có thể được nhắc lại (re-establishing shot) để tái thiết lập, hoặc nhấn mạnh, báo hiệu một cảnh hoặc đoạn khác kế tiếp. Một cảnh dạo đầu có thể dừng khung hình ở một cảnh trung, đánh dấu tình tiết quan trọng là nguyên nhân để câu chuyện xảy ra. Cảnh khám phá (discovery shot). Cảnh mô phỏng tia nhìn mang tính tìm tòi của nhân vật. Cảnh được thực hiện bằng những động tác như: lia máy, đô ly để người, vật, vật thể đang ẩn khuất bất ngờ hiện ra một cách không mong đợi. Cảnh lia máy (pan, panning shot). Cảnh được tạo bởi động tác máy quét khung
- hình theo chiều ngang một cung từ trái qua phải hoặc ngược lại. Nó thường sử dụng để ghi hình một cảnh hoặc quét theo đối tượng là người hoặc vật đang di động. Việc chọn khung hình đầu, cuối, tốc độ quét nhanh chậm tùy theo nội dung, nhịp hành động của chủ đề trong cảnh do đạo diễn, nhà quay phim ấn định. Cảnh lia máy khác với cảnh đô ly hoặc cảnh máy theo chủ đề (follow shot, tracking shot). Cảnh máy cầm tay (hand held). Cảnh được ghi hình bằng động tác cầm camera trên tay thay vì gá trên chân máy, đô ly hoặc cần cẩu. Vì vậy, tuỳ kỹ năng giữ chắc máy của từng nhà quay phim mà máy bị rung nhiều hay ít. Động tác máy này thường được sử dụng quay phóng sự tài liệu. Cảnh máy theo chủ đề (tracking shot). Cảnh do máy quay di chuyển theo bên cạnh chủ đề. Đôi khi được dùng thay thế với cảnh “đô ly” hoặc cảnh “zoom”. Cảnh nền (scenery). Hình ảnh ở phía sau chủ đề. Nó có thể là phông vẽ hoặc cảnh thật ngoài thiên nhiên. Ví dụ: cảnh từ trong phòng nhìn qua cửa sổ, cảnh phía sau hành động phim. Cảnh nghịch hướng (reverse shot). Cảnh quay thay đổi từ hai hướng ngược nhau. Tuy gọi là hướng ngược lại nhưng thường chỉ là hai cảnh đối xứng về hướng thu hình, chứ không phải là vượt trục diễn xuất, sai phương hướng. Ví dụ, một đôi nam nữ đang đi từ xa tới gần. Cảnh đầu cho thấy trực diện họ từ trái sang phải, cảnh tiếp theo cho thấy hai người đó từ gần đi ra xa, thấy phía sau họ cũng từ trái sang phải đối xứng lại. Cảnh ngoại (exterio). Bối cảnh thật ngoài thiên nhiên được chọn làm điểm quay
- Cảnh nội (interior). Cảnh quay hành động diễn ra ở trong không gian nội thất. Trong kịch bản,