Bài giảng Sự tương tác thể loại trong truyện ngắn nguyễn tuân - Trương Hoàng Vinh
Bạn đang xem tài liệu "Bài giảng Sự tương tác thể loại trong truyện ngắn nguyễn tuân - Trương Hoàng Vinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- bai_giang_su_tuong_tac_the_loai_trong_truyen_ngan_nguyen_tua.pdf
Nội dung text: Bài giảng Sự tương tác thể loại trong truyện ngắn nguyễn tuân - Trương Hoàng Vinh
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 8(86) năm 2016 ___ SỰ TƯƠNG TÁC THỂ LOẠI TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN TUÂN TRƯƠNG HOÀNG VINH* TÓM TẮT Truyện ngắn là một bộ phận quan trọng trong văn nghiệp của Nguyễn Tuân. Khảo sát từ góc nhìn tương tác thể loại, chúng tôi nhận thấy, truyện ngắn Nguyễn Tuân là một chỉnh thể nghệ thuật hết sức năng động. Trong từng tác phẩm ở thể này luôn có hiện tượng đối thoại giữa các yếu tố “cộng cư” với thể loại “chủ âm”, tạo nên những “âm vang cộng hưởng”; tác phẩm, vì vậy, hết sức đa thanh với kết cấu mở, luôn “vẫy gọi” sự đồng sáng tạo của người đọc. Từ khóa: truyện ngắn, truyện ngắn Nguyễn Tuân, tương tác thể loại. ABSTRACT The interaction of literary genres in Nguyen Tuan’s short stories Short stories are an important part in the writing career of Nguyen Tuan. From the interaction literary genres, we found that Nguyen Tuan’s short stories are dynamic art bodies. In each work, there is always a phenomenon of dialogue between the “tool elements” and “mainstream” category, creating “ring resonances”; works, therefore, are multi-bars with open structures, and always call the co-creator of readers. Keywords: short stories, Nguyen Tuan’s short stories, interaction of literary genres. 1. Đặt vấn đề truyện ngắn Nguyễn Tuân trước hết, Không chỉ được biết đến như một mang đậm dấu ấn của tùy bút; bên cạnh cây bút hàng đầu với thể tài tùy bút, đó, chúng còn có biểu hiện dung nạp cả Nguyễn Tuân còn đồng thời khẳng định đặc trưng của thể kí sự, thơ ca. Trong vị trí vững vàng của mình ở địa hạt giới hạn bài viết này, chúng tôi không có truyện ngắn. Ngay từ khi Vang bóng một tham vọng kiến giải toàn vẹn đặc điểm thời - tập truyện đầu tay của nhà văn - ra thẩm mĩ truyện ngắn Nguyễn Tuân, mà đời, Nguyễn Tuân đã lập tức tạo được chỉ mong muốn từ góc nhìn tương tác thể chỗ đứng cho mình trên văn đàn. Là loại, chỉ ra một số nét đặc sắc nghệ thuật người quan niệm nghệ thuật là sự sáng làm nên giá trị các sáng tác của nhà văn tạo - sáng tạo những cái mới mẻ, độc đáo, ở thể tài này. Nguyễn Tuân có cách kiến tạo riêng cho 2. Sự tương tác thể loại trong những đứa con tinh thần của mình ở thể truyện ngắn Nguyễn Tuân tài này. Không đậm chất trữ tình như 2.1. Chất tùy bút trong truyện ngắn truyện ngắn Thạch Lam, cũng không giàu Nguyễn Tuân kịch tính như trong các sáng tác của Truyện ngắn Nguyễn Tuân mang Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, đậm dấu ấn của tùy bút. Cội nguồn sâu xa * ThS, Trường Đại học Tiền Giang; Email: hoangvinhsp@yahoo.com 140
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trương Hoàng Vinh ___ của hiện tượng này có lẽ xuất phát từ Ở mức độ nhất định có thể nói, chính cái “tạng” của nhà văn – “cái tạng cách phô bày xúc cảm trực tiếp như thế con người cần được bộc lộ, khẳng định tuy có tạo được nhiều sự đồng cảm ở bản thân; cái nhu cầu bao giờ cũng muốn người đọc, song cũng dễ làm cho độc giả nói lên cảm nghĩ, thẩm định của mình không khỏi có cảm giác như đang đọc tùy ( ), được chia sẻ, trình bày những điều bút hơn là truyện ngắn. Tình hình cũng tích lũy bác cổ thông kim của mình” [4, tương tự như vậy ở các truyện vừa và tiểu tr.35]. Đọc truyện ngắn Nguyễn Tuân, có thuyết của nhà văn này. Nhà nghiên cứu thể thấy rõ sự chi phối của đặc trưng tùy Tôn Thảo Miên nhận thấy Thiếu quê bút, trước hết là ở bình diện giọng điệu. hương của Nguyễn Tuân là một “tiểu Gọi là truyện ngắn, và hầu hết đều được thuyết đậm chất tùy bút”: “Hơn 500 trang kể ở ngôi ba, nhưng có thể nói, hiếm khi tiểu thuyết đậm chất tùy bút, ở đó giãi trong các sáng tác của ông chỉ có duy bày một tâm trạng, một triết lí sống và nhất một giọng tự sự khách quan, mà một lối viết tài hoa chỉ có ở Nguyễn kèm theo đó, giọng bình luận, suy cảm, Tuân” [8, tr.15]. Tác giả Nam Mộc, trong triết lí luôn vang lên ở hầu khắp các sáng một bài viết của mình, còn chỉ rõ: “Trước tác. Dường như ở truyện ngắn nào tác giả Cách mạng, bên cạnh những tùy bút, cũng có xen vào những cảm nhận, những Nguyễn Tuân cũng đã có thử viết truyện suy ngẫm của mình về con người và cuộc dài, truyện ngắn (như Thiếu quê hương, đời. Những cảm nghiệm mà nói như Nhà bác Nguyễn). Nhưng ( ) tiểu thuyết Trương Chính “đáng lẽ ta cũng có, nhưng của anh vẫn mang nặng tính chất tùy bút: vì thiếu đào sâu ta chưa có được”, và nhờ nhân vật không rõ nét, nhà văn luôn luôn vậy “đọc ông tâm hồn ta như phong phú xen vào để phát biểu cảm nghĩ cá nhân” thêm lên” [2, tr.55]. Chẳng hạn, viết về [9, tr.302]. cuộc sống của những bậc trí thức danh Xét về đặc điểm kết cấu, nhiều gia vọng tộc, Nguyễn Tuân cho họ là truyện ngắn của Nguyễn Tuân còn cho những nhà nho “chọn nhầm thế kỉ với hai thấy rõ khuynh hướng: nhà văn mượn bàn tay không có lợi khí mới”, và theo nhân vật, thông qua cách thức đối thoại nhà văn thì: “Người mệt mỏi còn sống hoặc xây dựng tình huống, để phô bày thêm một ngày là càng chỉ thêm một tất cả sự am hiểu và nhận thức sâu sắc ngày bỡ ngỡ với phong hội mới” (Khoa của mình về các lĩnh vực của đời sống. thi cuối cùng). Nói về cái đẹp, ông cũng Thuộc kiểu này, tiêu biểu là trường hợp có những cảm nhận rất riêng, với một các truyện trong tập Vang bóng một thời. giọng văn già dặn, từng trải: “Cái gì đẹp Người đọc được biết đến một nghệ thuật quá thì lại chóng tàn. Trong cái phút giây uống đẹp qua Những chiếc ấm đất, Chén chớp mắt của mùa lên đường, cánh bích trà sương; một nghệ thuật nhắm đẹp qua đào ngày này năm này đã có đủ cái nhợt Hương cuội; một nghệ thuật chơi đẹp phai của đào năm trước” (Cái cà vạt qua Thả thơ, Đánh thơ, Đèn đêm thu; lại đen). được biết thêm về nghệ thuật ứng xử đẹp 141
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 8(86) năm 2016 ___ qua Ngôi mả cũ; tài nghệ đẹp qua Một độ sau chén thứ nhì đã nhận ra: “Bình trà đám bất đắc chí; hoa tay đẹp qua Trên của ngài có lẫn mùi trấu ở trong. Cho nên đỉnh non Tản; nhân cách đẹp qua Chữ bề dưới chưa được lấy gì làm khoái hoạt người tử tù Nhưng cũng dễ dàng nhận lắm”. Uống xong, hắn “tráng ấm chén, thấy một điểm chung ở hầu hết những lau khay hoàn lại nhà chủ. Lau xong cái truyện ngắn này, đó là: nhà văn đã dành ấm độc ẩm của hắn, hắn thổi cái vòi ấm phần lớn số trang vào việc miêu tả rất kĩ lưỡng cất vào bị ”. Đoạn văn kể những sự việc đạt đến đỉnh cao của nghệ về người ăn mày uống trà với tất cả trình thuật mà rất ít khi nói về tâm lí, tình tự, bằng những “từ ngữ được lựa chọn kĩ cảm, hay những suy tư của nhân vật, và càng: thái độ nâng niu (cẩn thận), tư thế kèm theo đó là lối kết cấu khá tùy hứng, thoải mái (bắt chân chữ ngũ), cung cách hệt như ở tùy bút. Lối kết cấu ấy đương từ tốn (tráng ấm chén, chuyên trà), thời nhà văn Thạch Lam không nhận ra thưởng thức bằng tất cả giác quan (uống đã cảm thấy “lộn xộn” [5, tr.230], bởi trà ngửi có lẫn mùi trấu), kết thúc nhẹ cách viết không theo quy định, chuẩn nhàng cẩn trọng (tráng ấm chén, lau mực của một truyện ngắn (xét ở thời khay, lau ấm, thổi vòi ấm rất kĩ lưỡng)” điểm của Nguyễn Tuân). Dừng lại ở tác [3, tr.59]. Song chưa dừng lại ở đó, để phẩm Những chiếc ấm đất, ta có thể thấy thưởng thức trà một cách hoàn hảo, còn rõ đặc điểm này. phải biết lựa ấm và nấu nước. Ấm uống Những chiếc ấm đất nói về thú vui trà thì “Thứ nhất Thế Đức gan gà; Thứ uống trà. Vì vậy, truyện không phải kể về nhì Lưu Bội; Thứ ba Mạnh Thần”; còn cuộc đời cụ Sáu, mà đã đặc biệt dành nước sôi thì phải ở độ “ngư nhãn”, “giải nhiều trang để nói về nghệ thuật thưởng nhãn”, tức: tăm nước to bằng cái mắt cua trà. Cụ Sáu pha trà phải lựa nước ở chùa thì là sủi vừa, tăm nước sôi bằng mắt cá Đồi Mai vì: “Nước rất ngọt ( ), chỉ có thì là sôi già. Cuộc trò chuyện giữa cụ nước giếng đây là pha trà không bao giờ Sáu và vị khách là công việc hoàn tất của lạc mất hương vị”. Sau đoạn tả cảnh về tác giả nói về nghệ thuật uống trà. Một việc gánh nước và suy tưởng của nhà sư quy trình nhiều thao tác, đòi hỏi phải toàn già về việc uống trà của cụ Sáu, mạch tâm, toàn ý chứ không phải chỉ là một cử văn đứt quãng đột ngột ở đó, tác giả lại chỉ ăn uống đơn thuần. chuyển sang cảnh tiếp khách trà. Câu Như vậy là, từ việc xây dựng nhân chuyện được kể lại từ vị khách thực chất vật đến cách thức tổ chức kết cấu truyện là nói đến nghệ thuật uống trà, qua hình đều không ngoài dụng ý: nói lên tất cả sự ảnh một kẻ ăn mày rất sành sỏi: “Hắn nói am tường vấn đề của chính tác giả. Và xong, dỡ cái bị ăn mày của hắn, cẩn thận nếu tinh ý, người đọc còn có thể nhận ra, lấy ra một cái ấm đất độc ẩm. ( ) Hắn lối kiến tạo tác phẩm theo kiểu tùy bút xin phép đâu đấy rồi ngồi bắt chân chữ tuy có làm cho kết cấu nhiều truyện có vẻ ngũ, tráng ấm chén, chuyên trà từ chén không thống nhất, bởi cách mở đầu có tống sang chén quân ”, và tài nghệ đến khi xa lạ với chủ đề, nhưng thực chất 142
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trương Hoàng Vinh ___ chính cái xa lạ ấy lại góp phần làm nên ý tàng trong tác phẩm, đúng như có nhà tưởng mà tác giả muốn gửi gắm. Đèn nghiên cứu đã nhận xét [4, tr.35]. đêm thu mở đầu bàn về thế sự xã hội 2.2. Chất thơ trong truyện ngắn đương thời chỉ làm tiền đề cho chiếc đèn Nguyễn Tuân xẻ rãnh đón Trung Thu; Hương cuội phần Truyện ngắn Nguyễn Tuân cũng có đầu nói về thái độ, tấm lòng của con nhiều nét gần với thơ. Chất trữ tình, chất người hướng đến Tết cổ truyền cũng thơ trong các sáng tác của nhà văn ở thể nhằm bộc lộ tấm lòng của cụ Kép đối với tài này được tạo sinh bởi nhiều yếu tố. hoa Lan Sự mạch lạc, như vậy, nằm ở Không tìm vào nội tâm, cảm giác như bề sâu mạch cảm hứng chủ đạo của tác Thạch Lam để cho ra đời những truyện phẩm. Cách dựng tình huống của Nguyễn ngắn chứa chan xúc cảm trữ tình, cảm Tuân cũng khá lí thú. Tác giả thường quan thơ, dư vị trữ tình trong truyện xuyên tạo những sự việc bất ngờ: người ngắn Nguyễn Tuân trước hết, lắng kết ở sành trà sẽ gặp người sành hơn (Những những phiến đoạn miêu tả thiên nhiên. chiếc ấm đất), người giỏi phóng mai sẽ Nhà văn thường làm say lòng người đọc thấy người phóng mai giỏi hơn (Một đám bởi những trang thơ đẹp về tạo vật, song bấc đắc chí), người chơi thơ tài sẽ đụng thường không phải với những bối cảnh độ với người chơi tài hơn (Đánh thơ) thiên nhiên rộng lớn, hoành tráng, mà chủ Cách trần thuật như vậy vừa làm cho câu yếu ở những cảnh vật bình thường. Đó có chuyện trở nên hấp dẫn, vừa giúp người thể là những hình ảnh quen thuộc, ta vẫn đọc nhận ra được đỉnh điểm tuyệt mĩ của gặp ở mọi nơi: một khu vườn, một dòng nghệ thuật. Tài hoa của Nguyễn Tuân, sông, một con đường làng, một buổi sớm còn là ở chỗ đó. mai, một tiết thu muộn nhưng điều Đặc trưng tùy bút, như vậy, đã quán quan trọng là, giác quan nhạy cảm của xuyến và chi phối toàn diện truyện ngắn nhà nghệ sĩ này đã phát hiện ra ở đó của Nguyễn Tuân, từ giọng điệu, kết cấu những ý nghĩa có chất thơ của đời sống. tác phẩm đến nghệ thuật phô bày cái tôi Vì vậy, có khi chỉ là một cảnh chiều nắng nghệ sĩ của tác giả. Nhìn từ chiều tương thu hẹp trong không gian một khoảnh sân tác này có thể thấy, dưới ảnh hưởng của thôi, nhưng vào trang viết của Nguyễn tư duy tùy bút, thể truyện ngắn đến Tuân, cũng đã gợi lên được trong ta cả Nguyễn Tuân đã thật sự trở thành một bức tranh nên thơ về quê hương, đất “Thánh địa của cái Tôi” (từ dùng của nước, con người Việt Nam rất đỗi bình dị Trần Thanh Hà) mà nhìn vào đó, dù ở mà xinh đẹp: “Giàn bầu nậm ở ngoài sân, góc độ nào ta cũng thấy chỉ có duy nhất dây leo và lá chằng chịt lấp chật ô giàn mỗi Nguyễn và riêng Nguyễn. Chất men nứa, đã làm dịu hẳn cái nắng tháng tư ở tùy bút ảnh hưởng sâu sắc đến truyện trước mặt nhà. Ánh nắng đổ xuống giàn, ngắn Nguyễn Tuân, và đó cũng chính là khi lọt xuống sàn bị cái cốt xanh ngắt của “chất Nguyễn”, là cái “tạng Nguyễn” ẩn cây lá lọt qua một lượt, rồi đổ dồn và vờn vào áo dài trắng cậu Chiêu đang ngửng 143
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 8(86) năm 2016 ___ đầu ngắm những quả bầu nậm buông của cô Dó trong Xác Ngọc lam, thanh âm thõng xuống ngang mặt. Cái áo vải trắng của chốn non cao rừng thẳm mà ở đó, ta cậu Chiêu đã biến thành một áo lụa màu cảm nhận được cả cái hoang vu, thê xanh của một người phong lưu và đa tình. lương lẫn náo nức, rộn rã: “Điệu hát cô Đấy là cái màu dịu mát của chất ngọc Dó mang máng như lối trong giáo bích; đấy là cái màu xanh ở những cánh phường đọc phú và nhiều khúc thì lại có đồng lúa non ngút ngàn của những xứ cái âm luật xốc vác của thơ cổ phong yên ổn không bao giờ có nạn binh lửa” năm chữ ngâm bằng giọng bi tráng khê (Ngôi mả cũ). nồng của người hiệp khách gặp đường Nhà văn cũng thường nhân hóa cùng. Đến một đoạn sau thì dài hơn, thiên nhiên, tạo nên thế bình đẳng giữa trong trẻo như pha lê và vui như tiếng tự nhiên với con người. Đặc biệt, bằng thông reo giữa trời nổi gió. Có rờn rợn cách thường xuyên đặt hình tượng nghệ chăng thì là cái đoạn chót của bài hát. Nó thuật trong bối cảnh giao hòa với thiên lơ lớ ấm ế, ôi a như cái lối ma hời đưa nhiên, Nguyễn Tuân đã dựng lên được võng ru con ”. nhiều “ý cảnh thơ” (từ dùng của Lưu Với thiên nhiên là thế. Tất nhiên Thu Hương) đẹp trong các sáng tác; qua Nguyễn Tuân không quên vẻ đẹp của con đó, ta cũng thấy được một cái nhìn rất người, của những công trình do con nhân văn của nhà văn: “Trong cái vườn người sáng tạo ra. Cái thứ giấy Chu Hồ cây nhỏ, trong đám cỏ cây xanh rờn, những trong Xác Ngọc Lam là một công trình buổi sớm tinh mơ và những buổi chiều tàn như thế. Chúng được nhà văn miêu tả nắng, người ta thường thấy một ông già không chỉ như một sản phẩm lao động, lông mày bạc, tóc bạc, râu bạc, mặc áo mà còn như một nghệ phẩm tài hoa. Đó lông trắng, lom khom tỉa những lá úa trong là những tờ giấy “nghiêng ( ) ra ánh đám lá xanh. Cụ Kép nguyện đem cái sáng mà nhìn chất gió cát thì nó như làn quãng đời xế chiều của một nhà nho để da má trinh nữ phẳng đượm chất tuyết phụng sự lũ hoa thơm cỏ quý” (Hương của lớp lông măng ( ). Đưa lên mũi tờ cuội). giấy đượm hơi thơm của một thứ thảo Song, không chỉ phát hiện ra nhiều mộc còn tươi sống”. Theo Phan Ngọc, vẻ đẹp, chất thơ ở đời thực, niềm say mê “Nguyễn Tuân là người đầu tiên nêu lên săn tìm cảm giác mới lạ còn đưa nhà được cái đẹp ở khía cạnh kĩ thuật”, đã nghệ sĩ này lạc vào thế giới của diệu “mĩ hóa kĩ thuật” [10, tr.202]. Cũng với huyền. Để rồi từ đó, Nguyễn Tuân lại cái nhìn ấy, hẳn độc giả còn nhớ nhà văn đem đến cho độc giả cả một nguồn cảm có lần đã tả hoa muối – sản phẩm của hứng mới qua những trang lấp lánh chất diêm dân – cũng “đẹp như một sự trinh thơ huyền bí. Bút pháp kì ảo đã giúp nhà tiết của xúc cảm, như một sự thuần khiết văn dựng thành công nhiều không gian của tâm hồn, như một sự trắng lành của thiên nhiên vừa tràn đầy nhạc tính, vừa màu vị” (Trang hoa). giàu chất họa, chất thơ. Đó là tiếng hát 144
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trương Hoàng Vinh ___ Xin được bàn thêm về vai trò của thống phương Đông hay tiếp thu từ chủ yếu tố kì ảo trong việc tạo nên chất thơ, nghĩa hiện thực huyền ảo phương Tây? chất trữ tình trong một số truyện ngắn Câu trả lời là: theo chúng tôi, cả hai đều của nhà văn này. Trở lên, ta đã thấy đặc có khả năng, bởi Nguyễn Tuân còn là tính kì ảo mang lại nhiều vẻ thơ lấp lánh một nhà văn hóa lớn. Sáng tác của ông cho các bức họa thiên nhiên của Nguyễn thể hiện rõ năng lực tầm cỡ ấy. Tìm về Tuân. Đến đây ta lại thấy, sự hiện diện một nét đẹp của giá trị truyền thống, và của yếu tố này còn góp phần gợi lên cả cũng là của nhân loại, Nguyễn Tuân đã âm hưởng thơ chung cho toàn tác phẩm. thật sự làm một cuộc vượt thoát trong Có một chất thơ buồn ảo não như vây cách tân sáng tạo truyện ngắn, mà ý phủ toàn truyện Khoa thi cuối cùng. Nhà nghĩa của việc làm ấy mãi về sau này, văn dựng lại không gian khoa cử xưa, ngày càng được nhiều thế hệ nhà văn ta nhưng cảnh trường thi Nam Định đâu còn kế thừa, phát huy. là chốn uy nghiêm đầy văn hóa để các sĩ Trở lại với vẻ đẹp của chất liệu và tử thi tài. Trong cảnh âm u, âm dương các biện pháp nghệ thuật làm nên chất không chia biệt ấy, trường thi đã trở thơ trong các đoản thiên tự sự của nhà thành pháp trường mà các âm hồn – các văn này. Thật thú vị! Ta có thể gặp trong loại ma lành, ma báo oán – có chỗ ngồi truyện ngắn Nguyễn Tuân đầy những liên danh dự, bởi được quan chủ tế mời vào tưởng, so sánh, hoán dụ, tượng trưng trước: giàu mĩ cảm hệt như trong thơ (hiện “Báo oán giả tiên nhập; tượng này đã thấy ở tùy bút; có lẽ vì thế Báo ân giả thứ nhập; mà có người đã ngợi ca ông là “nhà thơ Sĩ tử thứ thứ nhập” bị đóng đinh trên cây thập giá của văn (Những hồn báo oán vào trước; xuôi” [7, tr.203]). Từ những ví von chính Những hồn báo ân vào sau; xác, mới lạ: “Ông thử roi vào mặt trống, Các thầy khóa vào sau rốt) rồi uốn hai đầu xuống; thân roi ưỡn ngửa Và chính vì được mời vào trước, có mãi lên như lúc người đàn bà tránh một quyền báo ân báo oán, nên hồn ma của cái hôn bạo” (Đới roi), đến những liên “người đàn bà xõa tóc, ẵm con” đã phá tưởng đầy bất ngờ, sáng tạo: “Trong hoàn bằng được bài thi của hai anh em ông cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, Đầu Xứ, biến những sĩ tử thành kẻ hỏng bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng thi. Tất cả hiện thực ảo hóa ấy được bút biết giá người, biết trọng người ngay của pháp huyền kì tái hiện đầy sức gợi. Ghê viên quan coi ngục này là một âm thanh rợn có, mà cũng chạnh lòng người trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà Đưa yếu tố kì ảo vào tác phẩm để từ nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ” (Chữ đó tạo nên chất thơ hư huyền mang nhiều người tử tù) Các thủ pháp nhìn chung, ý nghĩa nghệ thuật trong truyện ngắn, đều có giá trị riêng, nhưng ý nghĩa quan Nguyễn Tuân đã tìm về với một nét đặc trọng nhất của những “phép thơ” ấy là: trưng nghệ thuật của thi pháp truyền đã giúp nhà văn nói lên được những 145
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 8(86) năm 2016 ___ trạng thái đa sắc màu của cuộc sống, và khước từ được, nhưng ông Kinh Lịch những cung bậc cảm xúc đa dạng bên cũng chỉ xin cho mỗi tên tiểu bộc của trong tâm hồn con người. mình, “cố nhân gia ân cho mà không Truyện ngắn Nguyễn Tuân còn đặc nhận thì thật là lỗi với đạo bằng hữu”. biệt gần với thơ ở chỗ: mỗi sáng tác của Chiều sâu ý vị của truyện là đề cao một ông như một ẩn dụ, một ẩn dụ kết đọng ý lối sống đẹp, lối sống ân nghĩa có trước thơ gắn liền với những nghiệm sinh sâu có sau. Tất cả được chuyển tải bằng một sắc, những giá trị nhân sinh được nhà giọng trữ tình nhẹ nhàng mà lắng sâu văn tổng kết, đúc rút lại gửi vào trang vào lòng người đọc. Giá trị nhân văn ấy viết. Tác phẩm của ông, nhờ đó, không cũng là một nét đẹp nhân bản muôn thuở những đạt tính “kinh tế thể loại”, mà còn của con người. lắng kết nhiều ý nghĩa ở bề sâu. Chẳng Tìm đến thế mạnh của thơ để kiến hạn trong Loạn âm, vấn đề mà tác giả đặt tạo nên những trang viết giàu hình ảnh, ra là mối quan hệ giữa con người với con nhạc điệu, đầy ấn tượng và gợi cảm, để người trong gia ân – thụ ân. Ông Kinh tạo dựng nên những tác phẩm vừa đạt Lịch và vị quan ôn họ Lương dưới cõi âm tính “kinh tế thể loại”, vừa lắng kết là bạn học cũ. Khi còn trên cõi dương nhiều ý nghĩa ở bề sâu, là một nỗ lực lớn gian, quan ôn họ Lương chính là anh trong cách tân, sáng tạo truyện ngắn của khóa Lương, học trò của cụ Đắc – cha Nguyễn Tuân. Trong số nhiều nhà văn ông Kinh Lịch. Lúc còn nhỏ vẫn hay điếu sau này, ta thấy Nguyễn Minh Châu cũng đóm cho thầy, được thầy hết mực thương tìm đến con đường ấy. Những truyện yêu như con đẻ. Nhưng chẳng may ra đi ngắn của ông cũng rất giàu chiều sâu triết mà chưa làm rạng danh thầy. Nay cái ân lí, kết đọng qua các biểu tượng thiên tình ấy quan ôn họ Lương muốn đền đáp nhiên, biểu tượng con người, với nhiều cho người bạn học, cũng là con trai của giá trị nhân bản sâu sắc. Nhưng vẫn cần ân nhân dưỡng dục mình, nên đã tiết lộ phải ghi nhận rằng, từ những năm 30 của danh sách nạn nhân bị bắt làm phu đinh ở nửa đầu thế kỉ XX, có một nhà văn đã đi cõi âm, để ông Kinh Lịch cứu vớt họ tiên phong trong việc ấy - đó là “nhà thơ hàng thân thích và những ai đã giúp đỡ lớn” - Nguyễn Tuân. mình. Ông Kinh Lịch đã một mực từ chối 2.3. Yếu tố kí sự trong truyện ngắn vì cho rằng đó là việc của giời, việc số Nguyễn Tuân mệnh, khiến quan ôn họ Lương thực sự Bên cạnh chất thơ, chất tùy bút, giận dỗi: “Thế thực huynh phụ bụng tôi truyện ngắn Nguyễn Tuân còn dung nạp nhiều quá. Lòng cố nhân ngay thẳng quá, vào chúng cả đặc trưng của thể kí sự. Cội điều đó thực là đáng quý. Nhưng từ sau nguồn của hiện tượng này có lẽ ít nhiều phút này chia tay, lộn về dưới âm, bụng có liên quan đến câu chuyện nghề nghiệp, tôi không đành chút nào. Và như thế này và đặc biệt là vấn đề ý thức trong sáng tức là huynh không muốn cho tôi lui tới tạo nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Cần cửa nhà thầy nữa đây”. Biết khó mà nhớ ông từng là nhà báo, và ông cũng là 146
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trương Hoàng Vinh ___ người hết sức đề cao nguyên tắc trọng sự “Giữa quãng cuối đời vua Thành thật trong sáng tạo văn học. Trong Thái và đầu đời Hoằng Tôn Tuyên hoàng “Chuyện nghề”, nhà văn từng nhấn đế, đất Thuận Hóa có ba người con gái mạnh: nghệ thuật trước hết phải “phản đẹp và rất lẳng lơ. ánh trung thực hiện thực”, vì “cái đáng Bằng cái sắc, bằng tiếng ca, bằng quý trong nghệ thuật, chính ở chỗ nó cái tiểu xảo, bằng cái duyên lúc kín đáo, không cho phép ta gian dối” [15, tr.566], lúc lộ liễu, ba người đàn bà đẹp ấy đã nghệ thuật phải thực sự bao gồm được thừa tô điểm cho xứ Huế một thời. “cái hương bao la của tất cả những cái gì Cái thời ấy là thời của Nhà nước của cuộc đời” [12, tr.96]. Bảo hộ tạm gọi là yên trong cuộc bình Cũng cần nói rõ thêm, sự thâm định ” (Đánh thơ) nhập yếu tố kí sự trong truyện ngắn Có thể nói, với lối trần thuật như Nguyễn Tuân thực chất không là một vậy, truyện ngắn Nguyễn Tuân ngay từ hiện tượng phổ biến; các yếu tố này chỉ đầu đã khước từ người đọc cách hiểu có mặt trong một bộ phận sáng tác của thuần túy truyện kể là hư cấu. Ông đã ông – các truyện viết về đề tài “Vang buộc độc giả phải lưu ý đến thông tin sự bóng một thời”. Tuy vậy, để có một cái việc như một phương cách duy nhất để nhìn toàn vẹn về diện mạo và giá trị của bắt được vào mạch truyện. Tuy nhiên, truyện ngắn Nguyễn Tuân từ góc nhìn đó mới chỉ là những gợi dẫn. Tính chất tương tác thể loại, chúng tôi đặc biệt lưu “người thật, việc thật” còn được gợi lên tâm đến biểu hiện trên. sinh động hơn qua hệ thống nhân vật Một điểm nổi bật trong nhiều trong tác phẩm. Cần nhớ, trước 1945, truyện ngắn viết về đề tài quá khứ của Nguyễn Tuân cơ bản là một nhà văn Nguyễn Tuân là sự hiện diện của các yếu lãng mạn. Loạt truyện hướng về quá khứ tố mang thông tin “người thật, việc thật”. “một thời vang bóng” là biểu hiện cụ thể Độc giả có thể dễ dàng nhận ra biểu hiện của khuynh hướng sáng tác đó. Song, này, trước hết là ở lối kể. Kiểu trần thuật nhìn lại hệ thống nhân vật của ông ở cụ thể, chính xác sự kiện – thời gian – địa mảng đề tài này, ta lại thấy có một điểm điểm theo kiểu kí sự xuất hiện phổ biến khác biệt. Đó là “toàn những người trong nhiều sáng tác. Lối kể này cũng đã những việc ông nghe kể lại. Có chuyện có mặt trong Vườn xuân lan tạ chủ - tác gần, có chuyện xa ” [1, tr.238]. Trong phẩm truyện ngắn đầu tay của nhà văn: truyện Chữ người tử tù, nguyên mẫu “ Năm Ất Dậu, đời vua Đồng Khánh, nhân vật Huấn Cao ngoài đời không ai vùng Hoan Ái phải qua cơn binh lửa gây khác, chính là Cao Bá Quát, một danh sĩ nên bởi loạn Văn Thân ”. Đáng lưu ý đất Bắc Hà nổi tiếng về thư pháp với văn hơn, kiểu trần thuật trên có khi còn xuất chương “vô tiền Hán”, và nhân cách thì hiện ngay từ mở đầu truyện, gây nhiều sự “Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”, ông chú ý ở người đọc: cũng là người đã cầm đầu cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương khi đang giữ chức giáo 147
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 8(86) năm 2016 ___ thụ phủ Quốc Oai (Tây Sơn). Còn cụ Hồ của triều đình nhà Nguyễn với những Viễn, nhân vật trong truyện Ngôi mả cũ, cuộc khởi nghĩa yêu nước xảy ra liên chính là hình ảnh tướng Lưu Vĩnh Phúc, miên. Không khí một thời loạn li “trong chỉ huy đội quân cờ Đen mưu trí, dũng buổi giao thời trắng đen không tỏ rõ” ấy cảm đã khiến cho quân Pháp phải bao còn được nhà văn nhắc đến trong Bữa phen thất điên bát đảo. Lịch sử ghi nhận rượu máu. Cây bút truyện ngắn Nguyễn rằng: tại ô Cầu Giấy ngày 21 tháng 12 Tuân lúc này đã trở thành một cây bút kí năm 1873, quân Cờ Đen đã đánh tan một sự, tái hiện lại âm vang bi tráng về một đội quân đông 550 tên có đại bác yểm thời kì lịch sử “khổ nhục nhưng vĩ đại” trợ, tổng chỉ huy Rivie cùng 5 sĩ quan và của dân tộc. Người ta sẽ còn nhớ mãi 28 tên lính bỏ xác tại Cầu Giấy. Viết về cảnh pháp trường đỏ rực trong ánh cặp tài tử vợ chồng Phó Sứ Lăng và cô hoàng hôn sắp tắt của buổi xử tử mười Mộng Liên trong truyện Đánh thơ, nhà hai tên phản nghịch đã tham gia cuộc văn tuy có đổi chức thay tên, nhưng khởi nghĩa Bãi Sậy, người ta càng không nhân vật Phó Sứ Lăng ấy “là một người thể quên được hình ảnh tên quan Công hoàng phái Tôn Thất, biệt hiệu Tam sứ - một kẻ dã man muốn tận mắt chứng Xuyên, có làm án sát tỉnh Thanh Hóa, kiến cảnh xương tan máu chảy, và đặc sau về làm tả lí bộ Lễ, cuối cùng bị bãi biệt, qua chi tiết nói về cái tài chém đầu chức, tước hết phẩm hàm rồi sống cuộc người một cách gọn ghẽ, không đến hai đời lang thang thơ rượu và cũng mất ở nhát của tên đao phủ Bát Lê, nếu tinh ý, Quảng Bình, y như nhà văn kể” [1, người đọc sẽ nhận thấy Nguyễn Tuân tr.240]. Hoặc như trong truyện Một đám đang nói đến những vụ hành hình đẫm bất đắc chí, khi đề cập những nhân vật máu của chế độ thuộc địa đương thời đối có hành tung bí mật với những tuyệt với những người yêu nước Việt Nam thế chiêu sát thủ như “tài phóng con dao hai kỉ XX; xa hơn nữa, nhà văn nhắc cho lưỡi đến mức tạo ra huyền sử” của Cai người đọc nhớ lấy tội ác của những tên Xanh, ngón “bút chì” chuẩn xác của Lý bán nước như Lê Hoan, Hoàng Cao Khải Văn, Phó Kình , Nguyễn Tuân đã nói – tác giả của những sản phẩm “nghệ đến “có mấy lần, Cai Xanh hay bàn với thuật” chém đầu man rợ và tàn bạo đó. những người thân tín về việc ông Thám Song, hiện thực lịch sử được ngoài Yên Thế” và họ là những người Nguyễn Tuân nhắc đến trong loạt truyện “nghèo, cực, khái”, chủ trương “lấy chỗ hướng về quá khứ không chỉ là thời kì tiền bạc của bọn bất nghĩa, đem chia cho diễn ra những xung đột, bạo động, mà anh em khác nghèo như mình”. Với còn là thời kì chuyển giao văn hóa, những hình tượng nhân vật chân thực và chuyển giao thế hệ. Người đọc dễ dàng những chi tiết có vẻ như tình cờ lướt qua nhận ra, “Vang bóng một thời” thực chất ấy, Nguyễn Tuân đã gợi lên bóng dáng là viết về một đoạn quá khứ chưa xa lắm của một thời đại đầy biến động trong so với thời nhà văn đang sống. Truy lịch sử nước ta – thời suy tàn thối nát nguyên về lịch sử, đó chính là thời điểm 148
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trương Hoàng Vinh ___ thực dân Pháp đặt chân vào Đông Dương cổ văn bình lại cả bài Trà ca của Lư và nước ta đã trở thành thuộc địa của Đồng” (Chén trà sương); một “cụ Kép Pháp, cũng là thời điểm mà nhiều biến nguyện đem cái quãng đời xế chiều của đổi sâu sắc, toàn diện đã diễn ra trên mình để phụng sự lũ hoa thơm cỏ quý, mảnh đất từ nghìn đời thuần nông này. gọi là kiếm một công việc nhàn nhã cho Chuyển từ hình thái kinh tế phong kiến quãng chót một kiếp dư sinh” (Hương sang hình thái kinh tế tư bản, xã hội Việt cuội) Họ là những gì còn sót lại giữa Nam đồng thời có sự chuyển đổi đồng bộ thời đại mới, “lạc loài vào giữa phong hội trên nhiều lĩnh vực, nhiều phạm trù. mới để làm một người đại biểu xoàng Trước đây, trong xã hội phong kiến, nhân xĩnh cho cái thế hệ đã sắp chấm dấu hết” vật trung tâm của đời sống văn hóa là [14, tr.137]. Có thể thấy, bao nhiêu nhân tầng lớp trí thức nho học, những con vật, bao nhiêu hình ảnh được nhắc đến, là người mang khí tiết thanh cao, ôm ấp bấy nhiêu dư ảnh của một thời tàn trong mình lí tưởng trí quân - trạch dân, Ở truyện Khoa thi cuối cùng (còn hăm hở, nhiệt tình đem hết tài đức của có tên khác là Báo oán), nhà văn tuy có mình để phò vua, giúp nước. Đến thời kì sử dụng bút pháp kì ảo để dựng lên một này, lịch sử đã đặt trọng trách lên vai của khung cảnh đậm màu sắc Liêu trai, thế tầng lớp trí thức Tây học, bởi vậy, lớp nhưng chất biên niên đã được gợi lên nhà Nho bỗng trở nên bơ vơ, ngơ ngác; chính xác qua từng sự kiện được miêu tả họ nhận thấy mình đã trở thành con trong tác phẩm. Đó là kì thi được tổ chức người thừa trong xã hội và ôm mối mặc tại trường thi Hà Nam, năm Mậu Ngọ cảm của “những kẻ sinh nhầm thế kỉ”. (Duy Tân thập niên), khoa thi cuối cùng Bằng nhiều chi tiết tái hiện chân thực, mà trong tâm thức của người đương thời loạt truyện hướng về quá khứ của ai cũng biết rõ: Nguyễn Tuân đã dựng lên được những “Ở vào buổi giao thời, nếu con bức kí họa sinh động về chân dung các người ta còn có cái lòng công danh thì nhà nho Việt Nam sống trong buổi giao khoa thi Mậu Ngọ là cơ hội cuối cùng. thời. Ở đó, ta bắt gặp gia đình của cụ Án Từ Mậu Ngọ về sau, sẽ mở ra một thời đã đến kì sa sút, chị em cô Tú cậu Chiêu khác, chữ Hán chỉ còn là thứ xa xỉ phẩm sống vất vưởng nuôi nhau, một viên trong cõi học vấn của một lớp người. Từ tướng cờ đen thuở xưa oai phong lẫm liệt sau cái khóa này, cái lều cái chõng chỉ giờ sống bằng nghề địa lí (Ngôi mả cũ); còn là những vật cổ tích mỗi khi nhắc một cụ Thượng Nam Ninh đã thôi chức nhỏm tới lại gợi một chút nhớ tiếc trong Tổng Đốc vùng xuôi để về trí sĩ (Đèn lòng một đám người mệt mỏi còn sống đêm thu); một ông Phủ già góa vợ chết thêm một ngày là càng chỉ thêm một con, cáo lão về hưu làm nghề thả thơ ngày bỡ ngỡ với phong hội mới.” (Thả thơ); và còn có một cụ Ấm với thú Nhắc lại cụ thể, rành rọt không uống trà trong sương sớm, mỗi lúc uống gian, thời gian, sự kiện như một nhà chép xong lại bắt người trưởng nam “giở tập sử, Nguyễn Tuân đã cho người đọc thấy 149
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 8(86) năm 2016 ___ được cái thời của cả một thế hệ con cái tôi” mà ở đó, sự tài hoa, uyên bác của người - thời của những nhà Nho, của chữ nhà văn được thể hiện rõ nhất, làm nên Hán, đang dần qua và cả một phong hội tính độc đáo lẫn sức hấp dẫn riêng ở từng mới đang bắt đầu. Thiên truyện do đó, tác phẩm. Chất thơ cũng đem lại nhiều tuy ngắn mà đầy sức nặng, bởi trong nó giá trị thẩm mĩ cho truyện ngắn Nguyễn còn hàm chứa cả “buổi bàn giao văn hóa Tuân. Với việc học tập cách tạo nên mang tầm thế kỷ” [6, tr.73]. “chất thơ của thơ”, và đặc biệt là việc Như vậy, tuy không là một hiện khai thác, phát huy tận độ vai trò của yếu tượng phổ biến nhưng sự có mặt của yếu tố huyền kì, Nguyễn Tuân đã tìm ra được tố kí sự cũng đã chứng minh được sự tồn một con đường riêng để tạo nên chất thơ tại hữu lí của nó, khi giúp nhà văn thành trong truyện ngắn của mình mà không công trong việc khơi lại âm vang về một dẫm lên chân bất kì ai, cũng như không thời kì lịch sử đã một đi không trở lại của tự lặp lại mình. Điều đó càng cho thấy dân tộc. Và, không phải là chất thơ hay bản lĩnh và cá tính sáng tạo mạnh mẽ của chất tùy bút, mà chính các yếu tố này đã nhà văn. Chất kí sự cũng góp phần quan mở rộng trường phản ánh, làm nên tính trọng làm nên sức nặng cho một bộ phận chân thực cho nội dung miêu tả trong loạt truyện ngắn của Nguyễn Tuân – các sáng truyện hướng về quá khứ của Nguyễn tác viết về đề tài quá khứ. Sự hiện diện Tuân. của đặc tính “người thật – việc thật” 3. Kết luận trong truyện ngắn có lẽ cũng là câu trả lời Là bộ phận văn xuôi đặc sắc nhất thuyết phục nhất cho nghi vấn: “Nguyễn sau tùy bút, cũng là mảng sáng tác sớm Tuân trước 1945 thuần túy duy mĩ theo nhất đã khẳng định tên tuổi, vị trí của nhà kiểu phương Tây?”. Sự thật là, tâm hồn văn trên văn đàn, truyện ngắn Nguyễn ấy chưa bao giờ đóng kín với thế giới bên Tuân, vì vậy, ngay từ buổi đầu đã thu hút ngoài trong suốt hành trình hướng đến nhiều sự quan tâm từ phía các nhà nghiên cái Mĩ – Chân – Thiện. Đằng sau bức cứu. Từ góc nhìn tương tác, chúng tôi màn hiện thực ở từng truyện ngắn, ta vẫn nhận thấy, truyện ngắn Nguyễn Tuân là thấy rõ trong đó, một Nguyễn Tuân luôn một chỉnh thể phức hợp mà nhìn vào đó, khao khát tìm về với những giá trị truyền ở phương diện nào ta cũng thấy có sự tỏa thống của văn hóa dân tộc, luôn thiết tha sáng nghệ thuật. Mở đường cho các yếu gắn bó với quê hương, đất nước, với cuộc tố tùy bút “cộng cư”, Nguyễn Tuân đã sống con người Việt Nam. biến truyện ngắn thành “Thánh địa của 150
- TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trương Hoàng Vinh ___ TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trương Chính (1999), “Nguyễn Tuân và Vang bóng một thời”, Nguyễn Tuân – về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.237-243. 2. Trương Chính (1999), “Vài nét về con người và tác phẩm Nguyễn Tuân”, Nguyễn Tuân – về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.53-56. 3. Trần Thanh Hà (2007), Tam diện tùy bút, Nxb Tri thức, Hà Nội. 4. Nguyễn Thị Hồng Hà (2010), Đặc trưng tùy bút Nguyễn Tuân, Nxb Văn học, TPHCM. 5. Thạch Lam (1999), “Đọc Vang bóng một thời”, Nguyễn Tuân – về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.229-231. 6. Lê Thị Lan (2004), Những nét đặc sắc của truyện ngắn lãng mạn Việt Nam 1932 – 1945, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế, Huế. 7. Mai Quốc Liên (1999), “Nguyễn Tuân – Bậc thầy của nghệ thuật ngôn từ Việt Nam”, Nguyễn Tuân – về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.203-207. 8. Tôn Thảo Miên (2009), “Nguyễn Tuân – Vang bóng mọi thời”, Nguyễn Tuân – tác phẩm chọn lọc, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, tr.9-24. 9. Nam Mộc (1999), “Nguyễn Tuân và Sông Đà”, Nguyễn Tuân – về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.284-303. 10. Phan Ngọc (2000), Thử xét văn hóa - văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb Thanh Niên, Hà Nội. 11. Nguyễn Thành Thi (2010), Văn học – Thế giới mở, Nxb Trẻ, TPHCM. 12. Nguyễn Tuân (1999), Nguyễn Tuân bàn về văn học nghệ thuật, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 13. Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân toàn tập, tập I, Nxb Văn học, Hà Nội. 14. Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân toàn tập, tập II, Nxb Văn học, Hà Nội. 15. Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân toàn tập, tập V, Nxb Văn học, Hà Nội. (Ngày Tòa soạn nhận được bài: 16-3-2016; ngày phản biện đánh giá: 03-5-2016; ngày chấp nhận đăng: 27-8-2016) 151