Bài giảng tâm lý học và giao tiếp cộng đồng - Nguyễn Bá Phu

pdf 85 trang huongle 5440
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng tâm lý học và giao tiếp cộng đồng - Nguyễn Bá Phu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_tam_ly_hoc_va_giao_tiep_cong_dong_nguyen_ba_phu.pdf

Nội dung text: Bài giảng tâm lý học và giao tiếp cộng đồng - Nguyễn Bá Phu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ DỰ ÁN HỢP TÁC VIỆT NAM – HÀ LAN BÀI GIẢNG TÂM LÝ HỌC VÀ GIAO TIẾP CỘNG ĐỒNG Người biên soạn: Nguyễn Bá Phu Huế, 08/2009
  2. MỤC LỤC Trang Bài 1: SƠ LƯỢC VỀ CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ 1 I. Tâm lý là gì? 1 II. Chức năng của hiện tượng tâm lý 1 III. Đặc điểm chung của hiện tượng tâm lý 2 IV. Phân loại các hiện tượng tâm lý 3 Bài 2: CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ CÁ NHÂN 4 I. Hoạt động nhận thức 4 II. Ngôn ngữ 15 III. Tình cảm và ý chí 16 IV. Nhân cách và các phẩm chất của nhân cách 20 Bài 3: KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP 27 I. Vai trò của giao tiếp 27 II. Khái niệm giao tiếp 27 III. Phân loại giao tiếp 28 IV. Các phương tiện giao tiếp 28 Bài 4: NHỮNG HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ TRONG GIAO TIẾP 32 I. Hoạt động nhận thức trong giao tiếp 32 II. Tình cảm, xúc cảm trong giao tiếp 32 III. Những thuộc tính tâm lý cá nhân trong giao tiếp 32 IV. Ám thị trong giao tiếp 33 V. Kỹ xảo trong giao tiếp 34 Bài 5: VĂN HOÁ GIAO TIẾP VÀ NHỮNG NGUYÊN TẮC CHUNG CỦA SỰ GIAO TIẾP CÓ VĂN HOÁ 35 I. Văn hoá giao tiếp của xã hội 35 II. Trình độ văn hoá giao tiếp của mỗi con người 35 III. Những nguyên tắc chung của sự giao tiếp có văn hoá 36 Bài 6: NHÓM NHỎ VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÂM LÝ - XÃ HỘI CỦA SỰ GIAO TIẾP TRONG NHÓM NHỎ 39 I. Nhóm nhỏ và phân loại nhóm nhỏ 39 II. Một số điểm cần chú ý trong hoạt động giao tiếp ở quy mô nhóm 41 Bài 7: ỨNG DỤNG GIAO TIẾP TRONG CỘNG ĐỒNG 47 I. Phép lịch sự đối với từng loại đối tượng trong giao tiếp 47 II. Phép lịch sự trong những hình thức và hoàn cảnh khác nhau của sự giao tiếp 50 Bài 8: THỰC HÀNH VỀ GIAO TIẾP 55 I. Tự đánh giá khả năng giao tiếp 55 II. Ứng xử một số tình huống nơi làm việc 61 III. Ứng xử một số tình huống nơi đông người 62 TÀI LIỆU THAM KHẢO 63
  3. Bài 1: SƠ LƯỢC VỀ CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ I. Tâm lý là gì? Trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, người ta hay quan niệm tâm lý là sự hiểu biết về ý muốn, nhu cầu, thị hiếu của người khác, là sự cư xử hoặc cách xử lý tình huống của người nào đó. Đôi khi người ta còn dùng từ tâm lý như là khả năng chinh phục đối tượng. Thực tế, tâm lý đâu chỉ là ý muốn, nhu cầu, thị hiếu và cách cư xử của con người, mà nó còn bao hàm vô vàn các hiện tượng khác nữa. Tâm lý con người luôn luôn gắn với hoạt động của họ. Bất cứ một hoạt động nào của con người, từ đơn giản đến phức tạp nhất, cũng đều có tâm lý cả. Tâm lý của con người rất đa dạng, nó tồn tại ở con người cả khi thức lẫn khi ngủ. Ví dụ: mơ, mộng du cũng là những hiện tượng tâm lý. Hằng ngày, để sống và làm việc, để tồn tại và phát triển, chúng ta phải nghe, phải nhìn, quan sát những sự vật và hiện tượng xung quanh mình. Khi nhìn thấy hay nghe thấy một điều gì đó chúng ta phải suy nghĩ, phân tích, đánh giá xem điều đó có ý nghĩa gì, tại sao lại xảy ra hiện tượng đó, nó có ảnh hưởng quan hệ gì đến ta Để nhận biết một cách đầy đủ hơn về sự vật, hiện tượng, để giải quyết tình huống trong điều kiện thiếu thông tin, đôi khi chúng ta phải tưởng tượng thêm những điều mà chúng ta không thể trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy hoặc chưa bao giờ gặp phải. Nhận biết, suy nghĩ, đánh giá về sự vật rồi, chúng ta phải ghi nhớ những điều đã biết để trau dồi kinh nghiệm, tích luỹ kiến thức. Tất cả những hiện tượng nhìn, nghe, quan sát, suy nghĩ, tưởng tượng, ghi nhớ đều là những hiện tượng tâm lý. Chúng hợp thành lĩnh vực hoạt động nhận thức của con người. Khi đã nhận thức được sự vật, hiện tượng xung quanh mình, chúng ta thường tỏ thái độ với chúng. Hiện tượng này làm cho ta buồn rầu, hiện tượng kia làm ta sung sướng, có lúc lại làm chúng ta đau khổ, tức giận Đó chính là đời sống tình cảm của con người. Trong quá trình hoạt động, chúng ta thường gặp phải những khó khăn trở ngại làm hao tổn sức lực, thậm chí có thể bị đau khổ hoặc nguy hiểm đến tính mạng. Lúc đó một hiện tượng tâm lý khác xuất hiện. Đó là hoạt động ý chí, nó giúp chúng ta vượt qua những khó khăn, trở ngại để đạt đến mục đích của hoạt động. Có một loại hiện tượng tâm lý cao cấp khác giúp con người không những phản ánh thế giới bên ngoài mà còn phản ánh được chính mình giúp cho chúng ta nhận biết mình, đánh giá được hành vi, thái độ, đánh giá được tình cảm, đạo đức, tài năng cũng như vị trí, vai trò, trách nhiệm của mình. Đó là ý thức và tự ý thức. Như vậy, thuật ngữ “tâm lý” trong khoa học là rất rộng, đó là tất cả những hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người, gắn liền và điều hành mọi hoạt động, hành động của con người. Theo cách hiểu này thì tâm lý của con người là nhận thức, trí tuệ, cảm xúc, tình cảm, ý chí đến tính cách, ý thức và tự ý thức, là nhu cầu, năng lực của con người, đến các động cơ hành vi, đến các hứng thú và khả 1
  4. năng sáng tạo, khả năng lao động và sức làm việc đến các tâm thế xã hội và những định hướng giá trị của họ. II. Chức năng của hiện tượng tâm lý Mọi hành động, hoạt động của con người đều do tâm lý điều hành. Sự điều hành ấy biểu hiện qua những chức năng sau đây: Trước hết tâm lý giúp con người nhận biết được thế giới khách quan, giúp con người phân tích, đánh giá các sự vật, hiện tượng xảy ra xung quanh họ - đó là chức năng nhận thức của tâm lý. Không có tâm lý thì con người không thể nhận biết được bất kỳ điều gì và do đó không thể tồn tại được. Tâm lý con người giúp định hướng khi bắt đầu hoạt động: trước hết ở con người xuất hiện các nhu cầu và nảy sinh động cơ và mục đích hoạt động. Động cơ, mục đích đó có thể là một lý tưởng, niềm tin, cũng có thể là lương tâm, danh dự, danh vọng, tiền tài mà cũng có thể là một tình cảm, tư tưởng, khái niệm, biểu tượng hoặc một kỷ niệm, thậm chí một ảo tưởng. Tâm lý thực hiện chức năng là động lực thúc đẩy hành động hoạt động: thông thường thì động lực của hoạt động là những tình cảm nhất định (say mê, tình yêu, căm thù ) trong nhiều trường hợp khác cũng có thể là những hiện tượng tâm lý khác có kèm theo cảm xúc như biểu tượng của tưởng tượng, ám thị, sự hụt hẫng, ấm ức Tâm lý điều khiển, kiểm soát quá trình hoạt động bằng những mẫu hình, chương trình, kế hoạch, phương thức hay một cách thức, thao tác. Tâm lý giúp con người điều chỉnh hoạt động của mình. Để thực hiện chức năng này con người có trí nhớ và khả năng phân tích, so sánh. Tâm lý có nhiều chức năng quan trọng như vậy cho nên để giao tiếp với con người, tác động đến con người cần phải nắm vững tâm lý con người, tác động phù hợp với quy luật tâm lý của họ mới có thể đạt hiệu quả cao trong sản xuất, trong hoạt động. III. Đặc điểm chung của các hiện tượng tâm lý Các hiện tượng tâm lý có một số đặc điểm cơ bản chung sau đây: Các hiện tượng tâm lý vô cùng phong phú, phức tạp và đầy bí ẩn. Phong phú và phức tạp đến mức, đã có thời gian người ta qui các hiện tượng tâm lý là hiện tượng thần linh, không giải thích nổi. Chúng bí ẩn không phải vì chúng ta khó tìm hiểu nó, như tục ngữ đã nói:“Dò sông, dò bể dễ dò, lòng người trắc ẩn ai đo cho tường” Mà sự bí ẩn của các hiện tượng tâm lý còn thể hiện ở tính tiềm tàng của chúng. Càng ngày người ta càng phát hiện ra càng nhiều những hiện tượng tâm lý ngoại cảm đặc biệt. Các nhà tâm lý đã chứng minh được sự tồn tại của nhiều hiện tượng siêu tâm lý (như thần giao cách cảm, thấu thị ) nhưng chưa thể giải thích được cơ chế của các hiện tượng đó. Các hiện tượng tâm lý quan hệ với nhau rất chặt chẽ. Các hiện tượng tâm lý tuy phong phú, đa dạng nhưng chúng không tách rời nhau, mà chúng tác động, ảnh 2
  5. hưởng chi phối lẫn nhau. Hiện tượng này có thể làm xuất hiện tượng kia, làm biến đổi hiện tượng kia. Tâm lý là những hiện tượng tinh thần, nó tồn tại trong đầu óc chúng ta, tồn tại trong chủ quan chúng ta. Chúng ta không thể nhìn thấy nó, không thể sờ thấy, không thể cân, đo, đong, đếm một cách trực tiếp như những hiện tượng vật chất khác. Tuy nhiên tâm lý lại thể hiện ra bên ngoài thông qua hoạt động, hành động, hành vi, cử chỉ, nét mặt. Chính vì thế mà chúng ta có thể nghiên cứu được các hiện tượng tâm lý bằng cách quan sát những biểu hiện ra bên ngoài của tâm lý bên trong, nghiên cứu tâm lý con người thông qua các sản phẩm hoạt động. Tâm lý là những hiện tượng rất quen thuộc, gần gũi, gắn bó với con người. Trong trạng thái thức tỉnh, hầu như ở bất kỳ người nào và ở bất kỳ thời điểm nào, đều diễn ra một hiện tượng tâm lý nào đó. Kể cả trong giấc ngủ, ở con người vẫn có thể diễn ra những hiện tượng tâm lý, như hiện tượng mơ, mộng du Các hiện tượng tâm lý có sức mạnh vô cùng to lớn trong đời sống con người. Tâm lý có thể làm tăng hoặc giảm sức mạnh tinh thần và cả sức mạnh vật chất của con người. Nó có thể giúp con người trở nên khoẻ mạnh, tỉnh táo, tươi trẻ, đầy sức sống, cũng có thể làm cho con người mất hết sức lực, trở nên yếu đuối, bạc nhược và con người cũng có thể chết vì tác động tinh thần, tác động tâm lý. IV. Phân loại các hiện tượng tâm lý Thế giới nội tâm của con người vô cùng phong phú. Để thuận lợi cho việc nghiên cứu, học tập, các nhà tâm lý học thường chia các hiện tượng tâm lý ở con người ra làm ba loại, hay ba phạm trù chính. Đó là các quá trình tâm lý, các trạng thái tâm lý và các thuộc tính tâm lý. Quá trình tâm lý là những hiện tượng tâm lý có khởi đầu, diễn biến và kết thúc, nhằm biến những tác động bên ngoài thành hình ảnh tâm lý. Quá trình tâm lý là nguồn gốc của toàn bộ đời sống tinh thần. Nó xuất hiện như là một yếu tố điều chỉnh ban đầu đối với hành vi của con người. Có quá trình tâm lý mới có trạng thái và thuộc tính tâm lý. Các quá trình tâm lý gồm có: quá trình nhận thức, quá trình xúc cảm và quá trình ý chí. Nhận thức, tình cảm, ý chí luôn luôn tác động qua lại lẫn nhau, có khi xung đột nhau nhưng lại thống nhất với nhau, tạo nên đời sống tâm lý toàn vẹn của cá nhân. Sự cân bằng cả 3 mặt nhận thức, tình cảm, ý chí của con người là rất quan trọng. Quá thiên về lý trí thì tâm hồn sẽ khô khan, thiếu sức mạnh thúc đẩy của tình cảm. Chỉ nặng về tình cảm thì dễ mất sáng suốt, dễ hành động theo những cảm xúc chủ quan. Thiếu ý chí thì nhận thức và tình cảm không biến thành hành động được. Trạng thái tâm lý là những hiện tượng tâm lý luôn luôn đi kèm theo các quá trình tâm lý và giữ vai trò như một cái “phông”, cái nền cho các quá trình tâm lý đó. Trạng thái tâm lý không phải là một hiện tượng tâm lý độc lập, nó xuất hiện và tồn tại theo các quá trình tâm lý. Có những trạng thái tâm lý đi kèm theo quá trình nhận thức (như trạng thái chú ý), có trạng thái tâm lý đi kèm theo quá trình cảm xúc (như những tâm trạng, trạng thái căng thẳng ,stress ), có trạng thái đi kèm theo quá trình ý chí (như trạng thái do dự, quả quyết ). Trạng thái tâm lý có ảnh hưởng đến 3
  6. các quá trình tâm lý mà nó kèm theo, đồng thời trạng thái tâm lý lại chịu ảnh hưởng của các hoạt động tâm lý khác. Trạng thái tâm lý luôn luôn được diễn lại thì lâu ngày sẽ trở thành nét tâm lý điển hình của cá nhân. Thuộc tính tâm lý là những hiện tượng tâm lý được thường xuyên lặp đi lặp lại trong những điều kiện sống và hoạt động nhất định của con người và trở thành những đặc điểm tâm lý bền vững, ổn định của nhân cách, cuối cùng trở thành những thuộc tính phức hợp của nhân cách. Thuộc tính tâm lý là những hiện tượng tâm lý đặc trưng, ổn định, làm cho cá nhân này khác với cá nhân kia. Các thuộc tính tâm lý phức hợp của cá nhân gồm có: xu hướng, tính cách, năng lực và khí chất; chúng tạo thành hai mặt đức và tài của mỗi một con người cụ thể. Thuộc tính tâm lý không trực tiếp phản ánh các tác động bên ngoài như các quá trình tâm lý, mà là kết quả của sự thống nhất và khái quát các quá trình và trạng thái tâm lý. Xuất hiện trên cơ sở các quá trình và trạng thái tâm lý, các thuộc tính tâm lý lại có ảnh hưởng sâu sắc đối với các quá trình và trạng thái tâm lý. Sự phân chia trên đây chỉ là tương đối nhằm mục đích làm cho việc học tập và nghiên cứu được dễ dàng. Trong thực tế cuộc sống, các loại hiện tượng tâm lý trên (quá trình, trạng thái, thuộc tính) luôn luôn quyện chặt vào nhau, chi phối lẫn nhau, thể hiện đời sống tâm lý toàn vẹn của một con người. Chúng ta cần chú ý điều đó, nếu không chúng ta sẽ không giải thích được cuộc sống tâm lý phức tạp của con người, hoặc giải thích nó một cách phiến diện, máy móc. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Trình bày chức năng, phân loại các hiện tượng tâm lý người. 2. Phân tích các đặc điểm của hiện tượng tâm lý người. 4
  7. Bài 2: CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ CÁ NHÂN I. Hoạt động nhận thức Nhận thức là một trong ba quá trình tâm lý cơ bản của con người: nhận thức, cảm xúc và ý chí. Nó là tiền đề của hai quá trình kia, đồng thời có quan hệ chặt chẽ với chúng và với các hiện tượng tâm lý khác. Quá trình nhận thức giúp cho chúng ta phản ánh bản thân các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan - những khách thể tác động vào con người trong quá trình hoạt động của họ. Nhờ nhận thức mà con người có xúc cảm, tình cảm, đặt ra được mục đích và dựa vào đó mà hành động. Như vậy, quá trình nhận thức xuất phát từ hành động, làm tiền đề cho các quá trình tâm lý khác. Đồng thời tính chân thực của quá trình nhận thức cũng được kiểm nghiệm qua hành động: hành động có kết quả chứng tỏ chúng ta phản ánh đúng hành động, không có kết quả chứng tỏ ta phản ánh sai. Nhờ quá trình nhận thức, chúng ta không chỉ phản ánh hiện thực xung quanh ta, mà cả hiện thực của bản thân ta nữa, không chỉ phản ánh cái bên ngoài mà cả cái bản chất bên trong, không chỉ phản ánh cái hiện tại mà cả cái đã qua và cả cái sẽ tới, cái quy luật phát triển của hiện thực nữa. Như thế có nghĩa là quá trình nhận thức bao gồm nhiều quá trình khác nhau, ở những mức độ phản ánh khác nhau: cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng. Những quá trình này sẽ cho chúng ta những sản phẩm khác nhau, còn gọi là những cấu tạo tâm lý khác nhau (hình tượng, biểu tượng, khái niệm). Đại thể có thể chia toàn bộ hoạt động nhận thức thành 2 giai đoạn lớn: nhận thức cảm tính (gồm cảm giác và tri giác) và nhận thức lý tính. Trong hoạt động nhận thức của con người, giai đoạn cảm tính và lý tính có quan hệ chặt chẽ và tác động tương hỗ lẫn nhau. V.I.Lênin đã tổng kết quy luật đó của hoạt động nhận thức nói chung như sau: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - Đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”. Chúng ta hãy lần lượt nghiên cứu các quá trình nhận thức riêng (trong thực tế chúng đan kết vào nhau) từ thấp đến cao. 1. Nhận thức cảm tính Nhận thức cảm tính là mức độ nhận thức đầu tiên của con người, trong đó chúng ta chỉ phản ánh được những đặc điểm bên ngoài của những sự vật, hiện tượng riêng lẻ khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan của ta. Nhận thức cảm tính là nhận thức bằng các giác quan và một cách trực tiếp. Nhận thức cảm tính chưa cho ta biết được bản chất, quy luật, những thuộc tính bên trong của các sự vật và hiện tượng, vì vậy mà nó phản ánh còn hời hợt, chưa sâu sắc và còn sai lầm. Nhận thức cảm tính có 2 quá trình cơ bản, đó là cảm giác và tri giác: a. Cảm giác Nếu nghiên cứu sự phát triển của hoạt động nhận thức trong quá trình tiến hóa của thế giới (phát triển chủng loại) và ở một đứa trẻ (phát triển cá thể), chúng ta có thể thấy rằng cảm giác là hình thức định hướng đầu tiên của cơ thể trong thế giới 5
  8. xung quanh. Có những con vật chỉ phản ánh được những thuộc tính riêng lẻ có ý nghĩa sinh học trực tiếp của các sự vật và hiện tượng. Ở trẻ con, trong những tuần lễ đầu, cũng như vậy. Điều đó nói lên rằng: cảm giác là hình thức khởi đầu trong sự phát triển của hoạt động nhận thức. Cảm giác là một quá trình tâm lý phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật và hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan của ta. Như vậy, có thể thấy ở cảm giác mấy đặc điểm sau: - Nó là quá trình tâm lý (chứ không phải là trạng thái hay thuộc tính). - Phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng (chứ không phản ánh được sự vật, hiện tượng một cách trọn vẹn). - Phản ánh sự vật, hiện tượng một cách trực tiếp (khi sự vật, hiện tượng đang tác động vào giác quan ta). Tuy là hình thức phản ánh thấp nhất, nhưng cảm giác giữ vai trò khá quan trọng trong đời sống của con người. - Cảm giác là hình thức định hướng đầu tiên của con người (và con vật), và là nguồn cung cấp những nguyên liệu để con người tiến hành những hình thức nhận thức cao hơn. V.I.Lênin đã từng nói: “Ngoài sự thông qua cảm giác ra, chúng ta không thể nào nhận thức được bất cứ một hình thức nào của vật chất, cũng như bất cứ một hình thức nào của vận động”, “Tiền đồ đầu tiên của lý luận về nhận thức chắc chắn là nói rằng cảm giác là cái nguồn gốc duy nhất của hiểu biết”. - Đặc biệt, đối với những người bị khuyết tật (câm, mù, điếc) thì cảm giác, nhất là xúc giác, là con đường nhận thức quan trọng đối với họ. - Ngoài vai trò về mặt nhận thức trên đây, cảm giác còn là điều kiện quan trọng để bảo đảm trạng thái hoạt động của vỏ não, do đó bảo đảm hoạt động tinh thần bình thường của con người. Có nhiều cách phân loại cảm giác, tuỳ thuộc dựa vào các tiêu chí. Người ta thường phân cảm giác thành 2 loại cơ bản: cảm giác bên ngoài và cảm giác bên trong (dựa vào vị trí của nguồn kích thích gây nên cảm giác) - Các cảm giác bên ngoài + Cảm giác nhìn (thị giác): nảy sinh do tác động của các sóng ánh sáng phát ra từ các sự vật. Cảm giác nhìn cho biết hình thù, khối lượng, độ sáng, độ xa, màu sắc của sự vật. + Cảm giác nghe (thính giác): do những sóng âm, tức là những dao động của không khí gây nên. Cảm giác nghe phản ánh những thuộc tính của âm thanh, tiếng nói: cao độ (tần số dao động), cường độ (biên độ dao động) và âm sắc (hình thức dao động). + Cảm giác ngửi (khứu giác): do các phân tử của các chất bay hơi tác động lên màng ngoài của khoang mũi cùng không khí gây nên. + Cảm giác nếm (vị giác): do tác động của các thuộc tính hoá học của các chất hoà tan trong nước lên các cơ quan thụ cảm vị giác ở lưỡi, họng và vòm họng tạo nên. Cảm giác nếm như: ngọt, mặn, chua, cay, đắng, 6
  9. + Cảm giác da (mạc giác): do những kích thích cơ học và nhiệt độ tác động lên da tạo nên. Cảm giác da gồm 5 loại: đụng chạm, nén, nóng, lạnh, đau. - Các cảm giác bên trong + Cảm giác vận động và cảm giác sờ mó: . Cảm giác vận động là cảm giác phản ánh những biến đổi xảy ra trong các cơ quan vận động, báo hiệu về mức độ co của cơ và về vị trí của các phần của cơ thể. . Sự kết hợp giữa cảm giác vận động và cảm giác đụng chạm tạo thành cảm giác sờ mó. + Cảm giác thăng bằng: là phản ánh vị trí và những chuyển động của đầu. Cơ quan của cảm giác thăng bằng nằm ở tai trong liên quan chặt chẽ với dây thần kinh số 11 (dây thần kinh phế vị). + Cảm giác rung: do các dao động của không khí tác động lên bề mặt thân thể tạo nên. + Cảm giác cơ thể: phản ánh tình trạng hoạt động của các cơ quan nội tạng, bao gồm cả cảm giác đói, no, buồn nôn, đau ở các cơ quan bên trong con người. Cảm giác ở con người diễn ra theo những quy luật nhất định. Việc hiểu biết và tính đến các quy luật cảm giác trong đời sống và công tác hàng ngày là cần thiết và hữu ích. - Quy luật về ngưỡng cảm giác: Muốn có cảm giác thì phải có sự kích thích vào giác quan. Nhưng không phải mọi sự kích thích vào giác quan đều gây cảm giác. Kích thích yếu quá không gây nên cảm giác. Kích thích mạnh quá cũng dẫn đến mất cảm giác. Vậy muốn kích thích gây ra được cảm giác, thì kích thích phải đạt tới một giới hạn nhất định, giới hạn mà ở đó kích thích gây ra được cảm giác thì gọi là ngưỡng cảm giác. Có 2 loại ngưỡng cảm giác: ngưỡng phía dưới và ngưỡng phía trên. Ngưỡng cảm giác phía dưới là cường độ tối thiểu đủ để gây được cảm giác. Ngưỡng cảm giác phía trên là cường độ kích thích tối đa mà ở đó vẫn còn gây được cảm giác. Ví dụ: ngưỡng phía dưới của cảm giác nhìn ở người là những sóng ánh sáng có bước sóng là 390 milimicron và ngưỡng phía trên là 780 milimicron. Trong phạm vi giữa ngưỡng phía dưới và ngưỡng phía trên của mỗi loại cảm giác đều có một vùng phản ánh tốt nhất. Ví dụ: vùng phản ánh tốt nhất của ánh sáng đối với mắt là những sóng ánh sáng có bước sóng là 565 milimicron, của âm thanh đối với tai là 1000 hec. Cảm giác còn phản ánh cả sự khác nhau giữa các kích thích. Nhưng không phải mọi sự khác nhau nào của các kích thích cũng đều được phản ánh cả. Cần phải có một tỷ số chênh lệch tối thiểu về cường độ hoặc một mức độ khác biệt tối thiểu về tính chất thì ta mới cảm thấy có sự khác nhau. Mức độ chênh lệch tối thiểu về cường độ hoặc tính chất của hai kích thích đủ để ta phân biệt được hai kích thích được gọi là ngưỡng sai biệt. Ngưỡng sai biệt của từng cảm giác là một hằng số. Ngưỡng cảm giác phía dưới (còn gọi là ngưỡng tuyệt đối) và ngưỡng sai biệt có quan hệ tỷ lệ nghịch với độ nhạy cảm của cảm giác và với độ nhạy cảm sai biệt. 7
  10. Ngưỡng phía dưới của cảm giác càng nhỏ, thì độ nhạy cảm của cảm giác càng cao; ngưỡng sai biệt càng nhỏ thì độ nhạy cảm sai biệt càng cao. Ngưỡng tuyệt đối và ngưỡng sai biệt của cảm giác là khác nhau ở mỗi cảm giác khác nhau và ở mỗi người khác nhau. - Quy luật về sự thích ứng của cảm giác: Để đảm bảo cho sự phản ánh được tốt nhất và bảo vệ hệ thần kinh khỏi bị hủy hoại, cảm giác của con người có khả năng thích ứng với kích thích. Thích ứng là khả năng thay đổi độ nhạy cảm của cảm giác cho phù hợp với sự thay đổi cường độ của kích thích: khi cường độ kích thích tăng thì giảm độ nhạy cảm. Khi cường độ kích thích giảm thì tăng độ nhạy cảm. Qui luật thích ứng có tất cả mọi cảm giác, nhưng mức độ thích ứng ở cảm giác không giống nhau. Có những cảm giác có khả năng thích ứng cao như thị giác (trong bóng tối tuyệt đối thì độ nhạy cảm với ánh sáng tăng tới gần 200.000 lần sau 40 phút), trong khi đó có những cảm giác có khả năng thích ứng rất kém, và hầu như không thích ứng, như cảm giác đau. Khả năng thích ứng của cảm giác cơ thể được phát triển do hoạt động và rèn luyện (công nhân luyện kim có thể chịu đựng được nhiệt độ cao 500 - 600C trong hàng giờ, thợ lặn có thể chịu được áp suất 2 atm trong vài chục phút hay hàng giờ ) - Quy luật tác động lẫn nhau giữa các cảm giác: Các cảm giác của con người không tồn tại một cách biệt lập, mà chúng tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động qua lại giữa các cảm giác là sự thay đổi tính nhạy cảm của một cảm giác này dưới ảnh hưởng của một cảm giác kia. Cơ sở sinh lý của qui luật này là các mối liên hệ trên vỏ não của các cơ quan phân tích và qui luật cảm ứng đồng thời hoặc nối tiếp. Sự tác động qua lại giữa các cảm giác diễn ra theo qui luật chung như sau: sự kích thích yếu lên một cơ quan phân tích này sẽ làm tăng độ nhạy cảm của một cơ quan phân tích kia, sự kích thích mạnh một cơ quan phân tích này sẽ làm giảm độ nhạy cảm của một cơ quan phân tích kia. Ví dụ: những cảm giác thị giác yếu (chua) sẽ làm tăng độ nhạy cảm thị giác. Cần nói thêm rằng sự tác động giữa các cảm giác có thể diễn ra một cách đồng thời, hoặc nối tiếp, trên những cảm giác cùng loại, hoặc khác loại. - Quy luật tương phản: Tương phản chính là hiện tượng tác động qua lại giữa những cảm giác cùng một loại. Đó là sự thay đổi cường độ và chất lượng của cảm giác dưới ảnh hưởng của một kích thích (cùng loại) xảy ra trước đó hay xảy ra đồng thời. Như vậy, có 2 loại tương phản: tương phản nối tiếp và tương phản đồng thời. Cơ sở sinh lý của 2 loại tương phản này là qui luật cảm ứng đồng thời và nối tiếp của vỏ não. Nếu ta đặt hai tờ giấy màu xám như nhau lên một cái nền trắng và một cái nền đen, thì ta sẽ cảm thấy tờ giấy màu xám đặt trên nền trắng xẫm hơn tờ giấy màu xám đặt trên nền đen - đó là sự tương phản đồng thời. 8
  11. Sau một kích thích lạnh, thì một kích thích hơi nóng hơn - đó là sự tương phản nối tiếp. - Quy luật chuyển cảm giác (hay loạn cảm giác): Hiện tượng chuyển cảm giác là hiện tượng mà khi kích thích một cảm giác này thì lại gây ra một cảm giác khác. Trong tiếng nói của dân tộc nào cũng thường gặp những từ chỉ hiện tượng đó - “giọng chua như dấm”, “giọng êm như nhung”, “giọng ngọt lịm” Hãy thử làm thí nghiệm sau đây: bạn hãy lấy 2 thanh nứa (hay 2 miếng thủy tinh) cọ sát vào nhau, bạn sẽ cảm thấy “ghê người” - như vậy kích thích thính giác đã gây ra cảm giác cơ thể. Có thể xem quy luật này như là một trường hợp đặc biệt của sự tác động qua lại giữa các cảm giác, mà nó được biểu hiện không phải ở sự thay đổi độ nhạy cảm, mà là ở sự thay đổi thể loại cảm giác. Quy luật này được thể hiện một cách khác nhau ở từng người khác nhau: ở người này dễ dàng thấy có hiện tượng chuyển cảm giác, ở người kia hầu như không bao giờ thấy. Những quy luật trên đây nói lên tính cơ động cao của cảm giác, sự phụ thuộc của nó vào cường độ của kích thích, vào trạng thái chức năng của cơ quan phân tích do sự bắt đầu hay ngừng tác động của kích thích, cũng như do kết quả tác động đồng thời của một số kích thích lên cùng một giác quan hay một số giác quan gây nên. b. Tri giác Nhờ có những cảm giác, mà các thuộc tính riêng lẻ của sự vật (màu sắc, âm thanh, độ cứng ) được phản ánh trên vỏ não. Nhưng các sự vật và hiện tượng trong hiện thực xung quanh chúng ta lại mang một phức hợp hoàn chỉnh các phẩm chất và thuộc tính khác nhau. Để phản ánh đúng đắn các sự vật, hiện tượng đó, các cảm giác riêng lẻ, do sự hoạt động của các cơ quan phân tích đem lại, được tổng hợp lại trong vỏ não và đem lại cho con người một hình ảnh trọn vẹn, hoàn chỉnh về các sự vật, hiện tượng. Tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính của sự vật, hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan ta. Khác với cảm giác, tri giác không phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng, mà phản ánh sự vật nói chung, sự vật trong tổng hòa các thuộc tính của nó. Nhưng như thế không có nghĩa tri giác là tổng số các cảm giác riêng lẻ, mà là một mức độ mới của nhận thức cảm tính, với những đặc điểm nhất định của nó: tính trọn vẹn, tính đối tượng, tính kết cấu, tính tích cực. Có 2 cách thông thường được dùng để phân loại tri giác. - Phân loại theo phân tích quan giữ vai trò chủ chốt trong số các phân tích quan tham gia vào quá trình tri giác. - Phân loại theo các hình thức tồn tại của vật chất. Theo cách thứ nhất, ta có các loại tri giác sau: tri giác nhìn, tri giác nghe, tri giác sờ mó 9
  12. Theo cách thứ hai, ta có các loại: tri giác không gian, tri giác thời gian, tri giác vận động. + Tri giác không gian: là sự phản ánh khoảng không gian tồn tại khách quan (hình dáng, độ lớn, vị trí các vật với nhau ). + Tri giác thời gian: là sự phản ánh độ dài lâu, tốc độ và tính kế tục khách quan của các hiện tượng trong hiện thực. + Tri giác vận động: là sự phản ánh những biến đổi về vị trí của các sự vật trong không gian. + Tri giác con người: là quá trình nhận thức lẫn nhau giữa con người trong những điều kiện giao lưu trực tiếp. Đây là loại tri giác đặc biệt vì đối tượng của tri giác cũng là con người. Quá trình tri giác ở con người có những quy luật sau đây: - Tính lựa chọn của tri giác: Các sự vật, hiện tượng tác động vào con người đa dạng đến mức con người không thể tri giác và phản ứng với tất cả những kích thích đó một cách đồng thời được. Chúng ta chỉ tách ra một cách rõ ràng và tự giác từ trong vô số những tác động đó một vài tác động mà thôi. Đặc điểm này nói lên tính lựa chọn của tri giác. Trong tính lựa chọn chứa đựng tính tích cực của quá trình tri giác: tri giác là quá trình tách đối tượng ra khỏi bối cảnh. Khi ta tri giác một vật nào đó tức là ta tách sự vật đó (đối tượng của tri giác) ra khỏi các sự vật xung quanh (bối cảnh). Vì vậy, những sự vật (hay thuộc tính của sự vật) nào càng phân biệt với bối cảnh thì càng được ta tri giác dễ dàng, đầy đủ. Sự lựa chọn trong tri giác không có tính chất cố định, vai trò của đối tượng và bối cảnh có thể giao hoán cho nhau: khi ta tri giác vật này thì các vật khác còn lại trở thành bối cảnh, khi ta chuyển sang tri giác vật khác, thì vật vừa là đối tượng tri giác trước đây lại trở thành bối cảnh Tính lựa chọn của tri giác phụ thuộc vào hứng thú, tâm thế, nhu cầu của cá nhân. Quan hệ, thái độ của con người đối với cái được tri giác sẽ quyết định sự tổ chức và diễn biến của quá trình tri giác. Trong việc lựa chọn này, ngôn ngữ có tác dụng rất quan trọng. Quy luật về tính lựa chọn của tri giác có nhiều ứng dụng trong thực tế: khi muốn làm cho đối tượng tri giác được phản ánh tốt nhất, người ta tìm cách làm cho đối tượng phân biệt hẳn với bối cảnh (dùng phấn trắng trên bảng đen, gạch bằng mực đỏ dưới những từ cần nhấn mạnh ); khi ta làm cho sự tri giác đối tượng trở nên khó khăn thì người ta lại tìm cách làm cho đối tượng hòa lẫn vào bối cảnh (ngụy trang). - Tính có ý nghĩa của tri giác: Mặc dù tri giác nảy sinh do sự tác động trực tiếp của vật kích thích vào cơ quan nhận cảm, nhưng những hình ảnh tri giác luôn luôn có một ý nghĩa xác định. Tri giác ở con người được gắn chặt với tư duy, với sự hiểu biết về bản chất của sự vật. Tri giác sự vật một cách có ý thức - điều đó có nghĩa là gọi được tên của sự vật đó ở trong óc, và có nghĩa là xếp được sự vật đang tri giác vào một nhóm, một lớp các sự vật xác định, khái quát nó trong một từ ngữ nhất định. Ngay cả khi tri giác một vật không quen thuộc chúng ta cũng cố thu nhận trong nó một sự giống nhau nào đó với những đối tượng mà mình đã biết, xếp nó vào một phạm trù nào đó. Sự tri giác không phải do một “bộ” kích thích giản đơn, cùng tác 10
  13. động vào cơ quan cảm giác, qui định, mà nó đòi hỏi một sự tìm kiếm cơ động cách tổng hợp những tài liệu đã có. Những bức tranh hai nghĩa đã chỉ rõ điều đó. Trong những bức tranh đó, việc tách đối tượng của tri giác được gắn liền với việc hiểu được ý nghĩa và tên gọi của nó. - Tính ổn định của tri giác: Sự vật xung quanh ta nằm ở nhiều vị trí khác nhau đối với chủ thể tri giác và những điều kiện xuất hiện của chúng (độ chiếu sáng, vị trí trong không gian, khoảng cách của người quan sát) cũng rất đa dạng. Vì vậy, bộ mặt của nó luôn luôn thay đổi, xoay chuyển theo những hướng khác nhau. Trong tình hình đó, các quá trình tri giác của con người cũng được thay đổi một cách tương ứng. Nhưng nhờ tính ổn định, thể hiện ở khả năng bù trừ của hệ thống tri giác (tức là toàn bộ những cơ quan phân tích tham gia vào một hành động tri giác nào đó) đối với những biến đổi đó mà chúng ta vẫn tri giác các sự vật xung quanh như là những sự vật ổn định về hình dáng, kích thước, màu sắc Tính ổn định của tri giác là khả năng phản ánh sự vật một cách không thay đổi khi điều kiện tri giác bị thay đổi. Ví dụ: trước mặt ta là một cháu bé, đằng xa sau nó là một ông cụ. Trên võng mạc của ta, hình ảnh của đứa bé lớn hơn hình ảnh của ông cụ. Nhưng ta vẫn tri giác ông cụ lớn hơn đứa trẻ. Tính ổn định của tri giác có thể thấy cả về màu sắc và hình dáng của sự vật. - Tổng giác: Ngoài những kích thích gây ra nó, tri giác còn bị quy định bởi một loạt các nhân tố nằm trong bản thân chủ thể tri giác. Không phải con mắt tách rời, không phải bản thân cái tự nó tri giác, mà là một con người cụ thể sống động tri giác. Bởi vậy, những đặc điểm nhân cách của người tri giác, thái độ của họ đối với cái được tri giác, nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng, sở thích và tình cảm của họ luôn luôn được thể hiện ở mức độ nhất định trong sự tri giác của họ. Sự phụ thuộc của tri giác vào nội dung của đời sống tâm lý con người, vào đặc điểm nhân cách của họ, được gọi là hiện tượng tổng giác. - Ảo ảnh tri giác: Ảo ảnh tri giác là sự phản ánh sai lệch các sự vật hiện tượng một cách khách quan của con người. Đây là một hiện tượng có qui luật, xảy ra ở tất cả mọi người bình thường. Cần phải phân biệt với hiện tượng ảo giác, là một hiện tượng bệnh lý, không bình thường. 2. Nhận thức lý tính Là giai đoạn nhận thức cao hơn so với nhận thức cảm tính, nó cho ta biết cái bên trong, cái bản chất, cái quy luật của sự vật và hiện tượng. Nhận thức lý tính bao gồm hai quá trình là tư duy và tưởng tượng. a. Tư duy Tư duy là một quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và quan hệ bên trong, có tính chất qui luật của sự vật và hiện tượng trong hiện thực khách quan, mà trước đó ta chưa biết. Tư duy là một mức độ nhận thức mới về chất so với cảm giác, tri giác. Nếu cảm giác, tri giác chỉ phản ánh những thuộc tính bên ngoài, những mối quan hệ 11
  14. ngoài của sự vật và hiện tượng, thì tư duy phản ánh những thuộc tính bên trong, bản chất, những quan hệ có tính qui luật của sự vật và hiện tượng. Tư duy, với tư cách là một mức độ cao của hoạt động nhận thức (nhận thức lý tính), có những đặc điểm cơ bản sau đây: - Tính “có vấn đề” của tư duy: Không phải bất cứ tác động nào của hoàn cảnh cũng đều gây ra tư duy. Bình thường mà nói, người ta không phải lúc nào cũng chịu tư duy, vì quả thật tư duy mệt óc và tốn nhiều năng lượng. Trên thực tế, tư duy chỉ nảy sinh khi gặp những hoàn cảnh, những tình huống mà vốn hiểu biết cũ, con người không đủ để giải quyết, để nhận thức, con người phải vượt qua những hiểu biết cũ đi tìm cái mới. Những tình huống, hoàn cảnh có tính chất như vậy gọi là tình huống có vấn đề. Không phải tình huống có vấn đề nào cũng kích thích được hoạt động tư duy. Muốn làm nảy sinh quá trình tư duy thì tình huống có vấn đề đó phải được chủ thể nhận thức được một cách đầy đủ, được chuyển thành nhiệm vụ tư duy của chủ thể, nghĩa là xác định cái gì đã biết, cái gì đã cho và cái gì chưa biết cần phải tìm và có nhu cầu tìm kiếm nó. Dĩ nhiên những dữ kiện đó nằm ngoài phạm vi hiểu biết của chủ thể thì tư duy cũng không xuất hiện. - Tính gián tiếp của tư duy: Khác với nhận thức cảm tính là phản ánh thế giới một cách trực tiếp, tư duy có khả năng nhận thức một cách gián tiếp nhờ ngôn ngữ. Thông qua ngôn ngữ con người sử dụng vốn kinh nghiệm, những phát minh, kết quả tư duy của người khác để thực hiện quá trình tư duy. Dựa trên những quy luật về giữa các mối liên hệ giữa các hiện tượng xảy ra trong thiên nhiên mà con người có thể hiểu biết được, khám phá được những hiện tượng xảy ra trên mặt trăng, mặt trời mà chúng ta không thể trực tiếp nghiên cứu được, dựa vào một vài hoá thạch nhà khảo cổ biết được sự sống trên trái đất hàng vạn năm về trước. Trên cơ sở nắm được các quy luật của thế giới mà con người đã sáng tạo ra nhiều công cụ từ đơn giản đến phức tạp (như nhiệt kế, vôn kế, ampe kế ) giúp cho con người nhận thức hiện thực một cách gián tiếp. Nhờ sự phản ánh gián tiếp, tư duy giúp con người nhận thức được sâu sắc về thế giới xung quanh, mở rộng khả năng hiểu biết của con người đến vô tận. - Tính trừu tượng và khái quát của tư duy: Khác với nhận thức cảm tính, tư duy không phản ánh sự vật, hiện tượng một cách cụ thể và cá lẻ. Tư duy có khả năng trừu xuất khỏi sự vật, hiện tượng những thuộc tính, những dấu hiệu cụ thể, cá biệt, chỉ giữ lại những thuộc tính bản chất nhất, chung cho nhiều sự vật và hiện tượng riêng lẻ khác nhau, nhưng có chung những thuộc tính bản chất thành một nhóm, một loại hay một phạm trù. Nói cách khác, tư duy mang tính chất trừu tượng và khái quát.Ví dụ khi nghĩ tới “cái bảng” là cái bảng nói chung, chứ không chỉ một cái bảng cá lẻ, cụ thể nào cả. Tính trừu tượng và khái quát của tư duy cho phép con người không chỉ giải quyết những nhiệm vụ hiện tại, mà còn nhìn xa vào tương lai nữa, nghĩa là giải quyết ở trong đầu những nhiệm vụ đề ra cho họ sau này. Ví dụ: do nắm được qui 12
  15. luật đàn hồi của kim loại dưới tác động của nhiệt, người kỹ sư đã thiết kế những khoảng cách nhỏ giữa các đoạn đường này. Nhớ có tính khái quát của tư duy mà trong khi giải quyết một nhiệm vụ cụ thể nào đó, con người không xem nó như là một cái gì hoàn toàn khác thường, mà có thể xem nó vào một phạm trù, một nhóm nhất định, có thể lựa chọn những khái niệm, những quy tắc, phương pháp tương ứng cần sử dụng trong trường hợp ấy. - Tư duy quan hệ chặt chẽ với ngôn ngữ: Sở dĩ tư duy ở người có những đặc điểm trên đây (tính có vấn đề, tính gián tiếp, tính trừu tượng và khái quát) là vì tư duy của con người gắn liền với ngôn ngữ. Mối quan hệ này cho đến nay vẫn còn được các trường phái, các xu hướng tâm lý học khác nhau xem xét một cách khác nhau. Những người theo xu hướng duy tâm thì cho rằng tư duy không phụ thuộc vào ngôn ngữ, mà ngôn ngữ cũng chẳng phụ thuộc vào tư duy. Họ lập luận rằng chính vì vậy nên con người mới suy nghĩ thầm được, đồng thời lại có thể suy nghĩ về người khác trong khi nói chuyện với một người thứ hai; hoặc một ý nghĩ có thể được biểu hiện bằng nhiều thứ tiếng khác nhau nghĩa là tư duy và ngôn ngữ có thể cùng tồn tại mà không hề phụ thuộc vào nhau. Những người theo xu hướng hành vi chủ nghĩa lại ngược hẳn lại, cho rằng tư duy và ngôn ngữ là một, chúng đồng nhất với nhau. Cả 2 quan điểm trên đều sai, đều là phản biện chứng trong việc xem xét mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ. Quan điểm duy vật biện chứng xem tư duy có quan hệ mật thiết với ngôn ngữ, chúng thống nhất với nhau, nhưng không đồng nhất, cũng không tách rời nhau được: tư duy không thể tồn tại ngoài ngôn ngữ được, ngược lại ngôn ngữ cũng không thể có nếu không dựa vào tư duy. Quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. Thật vậy, nếu không có ngôn ngữ (với công cụ là từ ngữ) thì các sản phẩm của tư duy sẽ không được chủ thể và người khác tiếp nhận, cũng như chính bản thân quá trình tư duy cũng không diễn ra được. Ngược lại, nếu không có tư duy (với những sản phẩm của nó) thì ngôn ngữ chỉ là những chuỗi âm thanh vô nghĩa, không có nội dung, chẳng khác nào những tín hiệu âm thanh trong giới động vật. Nhưng tư duy không phải là ngôn ngữ, vì 3 lý do sau đây: tư duy và ngôn ngữ là những quá trình tâm lý có chức năng khác nhau, chúng cho những sản phẩm khác nhau và tuân theo những quy luật khác nhau. - Tư duy quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính: Tư duy là mức độ nhận thức cao hơn hẳn so với nhận thức cảm tính, nhưng tư duy không tách rời khỏi nhận thức cảm tính. Dù tư duy có trừu tượng, khái quát đến mấy cũng phải dựa vào các tài liệu trực quan mà cảm giác và tri giác đưa lại. Hơn nữa, muốn tư duy được trước hết phải tri giác được hoàn cảnh có vấn đề, tri giác được các dữ kiện. Như vậy, tri giác là một khâu, là thành phần của quá trình tư duy. Kết quả của qua trình tư duy đòi hỏi phải được kiểm tra bằng thực tiễn thông qua các quá trình nhận thức cảm tính. Tư duy cũng ảnh hưởng đến hoạt động nhận thức cảm tính. Nhờ có tư duy mà 13
  16. chúng ta tri giác được nhanh hơn, chính xác hơn. Tư duy ảnh hưởng đến tính lựa chọn, tính có ý nghĩa của tri giác. b. Tưởng tượng Tư duy là một hoạt động nhận thức cao cấp, nó giúp cho con người giải quyết những nhiệm vụ, những vấn đề do thực tiễn đề ra. Tư duy chỉ nảy sinh khi con người bị đặt trước một hoàn cảnh có vấn đề. Tư duy phản ánh cái mới mà con người chưa biết. Tuy nhiên, không phải trong bất cứ trường hợp nào thì các nhiệm vụ, vấn đề của thực tiễn đề ra đều được giải quyết bằng tư duy cả. Có nhiều trường hợp, khi đứng trước một hoàn cảnh có vấn đề con người không thể dùng tư duy để giải quyết vấn đề, mà phải dùng một quá trình nhận thức cao cấp khác, gọi là tưởng tượng. Tưởng tượng là một quá trình tâm lý phản ánh những cái chưa từng có trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng đã có. Tưởng tượng cần thiết cho bất kỳ một loại hoạt động nào của con người. Sự khác nhau căn bản giữa lao động của con người với hành vi bản năng của con vật chính là ở cái biểu tượng về kết quả mong đợi do tưởng tượng tạo nên. Ý nghĩa quan trọng nhất của tưởng tượng là nó cho phép ta hình dung được kết quả của lao động trước khi bắt đầu lao động, hình dung được không phải chỉ cái kết quả cuối cùng, mà cả những kết quả trung gian của lao động nữa. Cho nên, tưởng tượng giúp con người định hướng trong quá trình hoạt động bằng cách tạo ra một mô hình tâm lý về những sản phẩm cuối cùng hoặc trung gian của lao động, điều đó hỗ trợ cho sự thể hiện thành hiện vật của những sản phẩm đó. Chính vì vậy, V.I.Lênin đã viết: “Thật là sai lầm nếu nghĩ rằng chỉ có nhà thơ mới cần tưởng tượng. Đó là một định kiến ngu xuẩn! Ngay cả trong toán học cũng cần có tưởng tượng, không có nó thì không thể tìm ra phép tính vi phân và tích phân được. Tưởng tượng là một phẩm chất vô cùng quí báu”. Thật vậy, tưởng tượng cần thiết đối với nhà khoa học trong việc xây dựng giả thuyết, đề ra giả thuyết về nguyên nhân của các hiện tượng, dự kiến các biến cố Nhà văn phải tạo ra trong trí tưởng tượng của mình hình ảnh các nhân vật để sau đó đưa vào các tác phẩm văn học; nhà họa sĩ phải nhìn thấy bức tranh mình định vẽ ở trong đầu trước đã. Khi chuẩn bị bài giảng, người thầy giáo phải hình dung trước tiến trình của bài giảng, phải dự kiến phản ứng có thể có của học sinh, những câu hỏi và câu trả lời của các em Khi tiến hành công tác giáo dục, nhà giáo dục phải tạo ra trong đầu cái hình ảnh của con người mà mình muốn giáo dục ở học sinh, với tất cả các phẩm chất tâm lý xác định của con người ấy. Nếu không có sự phát triển đầy đủ của tưởng tượng, thì học sinh không thể học tập có kết quả được. Khi đọc hay kể lại một tác phẩm văn học, học sinh phải hình dung đúng được ở trong đầu về cái mà tác giả nói đến. Học địa lý, học sinh phải gợi lên trong trí tưởng tượng của mình cảnh tượng của cái thiên nhiên mà mình chưa hề biết. Đôi khi, học sinh không thể lĩnh hội được tài liệu học tập chỉ vì các em không thể hình dung được cái mà thầy giáo nói đến hoặc được viết ở trong sách 14
  17. giáo khoa. Trong việc tập làm văn của học sinh, tưởng tượng giữ vai trò rất quan trọng, đặc biệt với những chủ đề tự do. Tưởng tượng có 2 đặc điểm đặc trưng là tính tích cực và tính hiệu lực. Căn cứ vào hai dấu hiệu đó, người ta phân loại tưởng tượng. - Tưởng tượng tiêu cực và tích cực, tái tạo và sáng tạo. Như trên đã nói, tưởng tượng là một điều kiện của hoạt động sáng tạo cá nhân, hướng vào sự cải tổ thế giới xung quanh. Nhưng trong một số hoàn cảnh nhất định, nó có thể xuất hiện như là một vật thay thế cho hoạt động. Trong trường hợp đó, con người tạm thời “biến thân” sâu vào địa hạt của những biểu tượng hoang đường, xa rời thực tế để núp vào đó mà trốn tránh những nhiệm vụ không giải quyết được, những điều kiện nặng nề của đời sống, những hậu quả của những sai lầm của mình Ở đây, tưởng tượng tạo ra những hình ảnh không được thể hiện trong đời sống, vạch ra những chương trình hành vi không được thực hiện và luôn luôn không thể thực hiện được. Nó là loại tưởng tượng tiêu cực. Tưởng tượng tiêu cực có thể xảy ra một cách có chủ định, nhưng không gắn liền với ý chí thể hiện những hình ảnh tưởng tượng đó ở trong đời sống, đó là loại tưởng tượng tiêu cực gọi là mơ mộng. Mơ mộng về cái gì đó vui sướng, dễ chịu, hấp dẫn là một hiện tượng vốn có ở mọi người. Trong những hình ảnh mơ mộng dễ dàng phát hiện được mối liên hệ của các sản phẩm tưởng tượng với những nhu cầu của cá nhân. Nhưng nếu tưởng tượng ở con người chủ yếu chỉ là mơ mộng, thì đó lại là một thiếu sót của sự phát triển nhân cách, nó nói lên tính tiêu cực của nhân cách đó. Nếu con người ươn hèn, không tranh đấu cho một tương lai tốt đẹp hơn, mà cuộc sống hiện tại lại khó khăn, sầu thảm, thì họ thường tạo ra cho mình một cuộc sống hão huyền, tưởng tượng, trong đó mọi nhu cầu của họ đều được thỏa mãn hoàn toàn, ở đó, họ giữ cái vị trí mà trong hiện tại họ không thể nào hy vọng có được. Tưởng tượng tiêu cực cũng có thể nảy sinh một cách không chủ định. Chủ yếu điều này xảy ra khi hoạt động của ý thức, của hệ thống tín hiệu thứ hai bị suy yếu, khi con người ở tình trạng không hoạt động, trong giấc ngủ (chiêm bao), trong trạng thái nửa thức nửa ngủ, trong trạng thái xúc động, trong những rối loạn bệnh lý của ý thức (ảo giác) Khi tưởng tượng tạo ra những hình ảnh nhằm đáp ứng những nhu cầu kích thích tính tích cực thực tế của con người, thì gọi là tưởng tượng tích cực. Tưởng tượng tích cực gồm hai loại: tái tạo và sáng tạo. Khi tưởng tượng tạo ra những hình ảnh chỉ là mới với cá nhân người tưởng tượng, và dựa trên cơ sở của một sự mô tả của người khác, thì gọi là tưởng tượng tái tạo. Ví dụ tưởng tượng của học sinh về những điều được mô tả trong sách giáo khoa địa lý, sử học, văn học Tưởng tượng sáng tạo là quá trình xây dựng hình ảnh mới một cách độc lập, những hình ảnh này là mới với cá nhân, lẫn xã hội, chúng được thực hiện trong các sản phẩm vật chất độc đáo và có giá trị. Nảy sinh trong lao động, tưởng tượng sáng 15
  18. tạo là một mặt không thể thiếu được của mọi sự sáng tạo: sáng tạo kỹ thuật, sáng tạo nghệ thuật - Ước mơ, lý tưởng là một loại tưởng tượng đặc biệt được hướng về tương lai, nó biểu hiện những ước ao, mong muốn của con người. Ước mơ có điểm giống với tưởng tượng sáng tạo ở chỗ nó cũng là một quá trình tạo ra những hình ảnh mới một cách độc lập. Nhưng nó khác ở chỗ: ước mơ không hướng trực tiếp vào hoạt động trong hiện tại. Xét về mặt ý nghĩa thì có 2 loại ước mơ có lợi và ước mơ có hại. Ước mơ chỉ có lợi khi nó thúc đẩy cá nhân vươn lên, biến ước mơ thành hiện thực. Còn khi ước mơ không dựa trên cơ sở của những khả năng thực tế, thì nó trở thành hiện thực được, do đó nó có thể làm cho cá nhân thất vọng, chán nản. Tất nhiên, ngoài ý nghĩa của ước mơ đối với cá nhân, ta còn phải tính đến ý nghĩa xã hội của nó. Lý tưởng có tính tích cực và hiện thực cao hơn ước mơ. Lý tưởng là hình ảnh chói lọi, rực sáng, cụ thể của cái tương lai mong muốn. Nó là một động cơ mạnh mẽ thúc đẩy chúng ta vươn lên giành lấy tương lai. 3. Trí nhớ Kết quả của quá trình nhận thức, những xúc cảm tình cảm của con người về một đối tượng nào đó, những hành động và kết quả của nó đều được ghi lại trong bộ não với mức độ đậm nhạt khác nhau, khi cần thiết nó lại được xuất hiện. Sự ghi lại trong đầu và sự xuất hiện lại những dấu hiệu ấy được gọi là trí nhớ. a. Khái niệm về trí nhớ Trí nhớ là một quá trình tâm lý phản ánh những kinh nghiệm đã có của cá nhân dưới hình thức biểu tượng, bao gồm sự ghi nhớ, giữ gìn và tái tạo lại sau đó ở trong óc cái mà con người đã cảm giác, tri giác, xúc cảm, hành động hay suy nghĩ trước đây. - Quá trình tâm lý này không phải tự nhiên mà có, không diễn ra một cách tự động mà nó chỉ xảy ra trong hoạt động của cá nhân tốt hay xấu. Trí nhớ của mỗi người không phụ thuộc vào bản thân trí nhớ mà phụ thuộc vào nội dung, tính chất và phương pháp hoạt động của người ấy. - Nét đặc trưng nhất của trí nhớ là trung thành với tất cả những gì cá nhân đã trải qua, tức nó hành động máy móc. - Nếu cảm giác, tri giác chỉ phản ánh được sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào giác quan, thì trí nhớ phản ánh các sự vật hiện tượng đã tác động vào ta trước đây mà không cần sự tác động của chúng trong hiện tại. - Sản phẩm của trí nhớ là biểu tượng. Đó là những hình ảnh của sự vật, hiện tượng nảy sinh trong óc chúng ta khi không có sự tác động trực tiếp của chúng vào giác quan ta. Biểu tượng khác với hình ảnh của tri giác ở chỗ: nó phản ánh sự vật, hiện tượng một cách khái quát hơn. Tuy nhiên tính khái quát và trừu tượng của biểu tượng trí nhớ ít hơn biểu tượng của tưởng tượng. b. Vai trò của trí nhớ Trí nhớ là quá trình tâm lý có liên quan chặt chẽ với toàn bộ đời sống tâm lý con người. Không có trí nhớ thì không có kinh nghiệm, không có kinh nghiệm thì 16
  19. không thể có một hoạt động nào, không thể tự ý thức, do đó cũng không thể hình thành nhân cách được. “Nếu không có trí nhớ thì con người mãi mãi ở tình trạng của một đứa trẻ sơ sinh” ( I.M. Xêsênôv). - Trí nhớ là điều kiện không thể thiếu được để con người có đời sống tâm lý bình thường. - Đối với nhận thức, trí nhớ có vai trò đặc biệt to lớn. Nó giữ lại các kết quả của quá trình nhận thức, nhờ đó con người có thể học tập và phát triển trí tuệ của mình. - Đối với đời sống tình cảm con người: không có trí nhớ thì không thể có tình cảm kể cả những tình cảm thiêng liêng nhất. - Đối với hành động: không có trí nhớ thì không thể định hướng được hành động, không nắm được thứ tự các bước hành động. Việc rèn luyện trí nhớ cho học sinh là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác trí dục lẫn đức dục trong nhà trường. Vì vậy, V.I. Lê nin đã nói: “Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”. c. Các quá trình cơ bản của trí nhớ Trí nhớ diễn ra theo nhiều quá trình khác nhau và có quan hệ chặt chẽ với nhau. - Quá trình ghi nhớ Đây là quá trình diễn ra đầu tiên của trí nhớ. Quá trình tạo nên dấu vết (ấn tượng) của đối tượng trên não, đồng thời hình thành mối liên hệ giữa tri thức của tài liệu mới với tri thức cũ đã có, cũng như sự liên hệ giữa các bộ phận trong tài liệu mới với nhau để nhớ. Quá trình ghi nhớ rất cần thiết để tiếp thu tri thức, tích luỹ kinh nghiệm. Hiệu quả của việc ghi nhớ phụ thuộc không chỉ vào nội dung tính chất của tài liệu nhớ mà còn phụ thuộc chủ yếu vào động cơ, mục đích, phương thức hành động của cá nhân. Để ghi nhớ tốt, người ta đã phối hợp nhiều loại ghi nhớ khác nhau để nhớ đó là: ghi nhớ không chủ định và ghi nhớ có chủ định. + Ghi nhớ không chủ định Đó là sự ghi nhớ không có mục đích đặt ra từ trước, không đòi hỏi phải nỗ lực ý chí hoặc không dùng một thủ thuật nào để ghi nhớ, tài liệu được ghi nhớ một cách tự nhiên. Loại ghi nhớ này đặc biệt có hiệu quả khi nó gắn liền với cảm xúc mạnh mẽ, khi con người có hứng thú. Độ bền vững và lâu dài phụ thuộc vào đặc điểm của đối tượng như màu sắc, âm thanh, tính di động. + Ghi nhớ có chủ định Đó là một loại ghi nhớ có mục đích đặt ra từ trước, nó đòi hỏi sự nỗ lực ý chí nhất định và cần có những thủ thuật và phương pháp nhất định. Hiệu quả của ghi nhớ có chủ định phụ thuộc rất nhiều vào động cơ, mục đích ghi nhớ. Việc sử dụng phương pháp hợp lý là một điều kiện rất quan trọng để đạt 17
  20. hiệu quả cao. Ghi nhớ có chủ định được thực hiện bằng 2 phương pháp: ghi nhớ máy móc và ghi nhớ ý nghĩa. . Ghi nhớ máy móc: là loại ghi nhớ dựa trên sự lặp đi lặp lại nhiều lần một cách giản đơn, tạo ra mối liên hệ bề ngoài giữa các phần của tài liệu ghi nhớ, không cần thông hiểu nội dung tài liệu. Học vẹt là một loại biểu hiện của ghi nhớ này. . Ghi nhớ ý nghĩa (ghi nhớ lôgic): là loại ghi nhớ dựa trên sự thông hiểu nội dung của tài liệu, trên sự nhận thức được mối quan hệ logic giữa các bộ phận của tài liệu đó, loại ghi nhớ này nó gắn liền với quá trình tư duy, tưởng tượng. - Quá trình giữ gìn + Là quá trình củng cố vững chắc những dấu vết hình thành trên vỏ não trong quá trình ghi nhớ. Có 2 hình thức giữa gìn: tích cực và tiêu cực. . Giữ gìn tiêu cực là sự giữ gìn được dựa trên sự tri giác đi, tri giác lại nhiều lần đối với tài liệu một cách giản đơn. . Giữ gìn tích cực là sự giữ gìn được thực hiện bằng cách nhớ lại trong óc tài liệu đã được ghi nhớ mà không phải tri giác lại tài liệu đó. - Quá trình tái hiện + Là quá trình trí nhớ làm sống lại những nội dung đã ghi nhớ và giữ gìn. + Các mức độ tái hiện: . Nhận lại: là sự nhớ lại một đối tượng nào đó trong điều kiện tri giác lại đối tượng đó, hoặc tri giác lại cái gần giống với đối tượng trước đây đã được tri giác. . Nhớ lại: là hình thức nhớ lại không diễn ra sự tri giác lại đối tượng. Nhớ lại không diễn ra tự nó, mà bao giờ cũng có nguyên nhân, theo quy luật liên tưởng, mang tính lôgic chặt chẽ và có chủ định. Nhớ lại không chủ định là sự nhớ lại một cách tự nhiên một điều gì đó, khi gặp một hoàn cảnh cụ thể, không cần phải xác định nhiệm vụ cần nhớ lại. Nhớ lại có chủ định là nhớ lại một cách tự giác, đòi hỏi phải có một sự cố gắng nhất định, chịu sự chi phối của nhiệm vụ nhớ lại. . Hồi tưởng: là hình thức tái hiện đòi hỏi sự cố gắng rất nhiều của trí tuệ. - Sự quên + Quên là không tái hiện lại được nội dung đã ghi nhớ trước đây vào thời điểm nhất định. + Sự quên cũng có nhiều mức độ: . Quên hoàn toàn (không nhớ lại, cũng không nhận lại được). . Quên cục bộ (không nhớ lại nhưng nhận lại được). Phát hiện của PenField cho thấy rằng: Không có sự quên hoàn toàn tuyệt đối, dù ta có không bao giờ nhận lại và nhớ lại một điều gì đó đã gặp trước đây, thì nó vẫn còn để lại dấu vết nhất định trên vỏ não chúng ta. Ngoài trường hợp quên “vĩnh viễn” còn có trường hợp quên tạm thời. Nghĩa là một thời gian dài không thể nhớ lại được, nhưng trong một lúc nào đó lại đột nhiên nhớ lại được. Đó là hiện tượng “sực nhớ”. + Sự quên diễn ra theo những quy luật nhất định: 18
  21. . Người ta thường quên những cái gì không liên quan hoặc ít liên quan đến đời sống, không phù hợp với hứng thú, sở thích, nhu cầu của cá nhân. . Những cái gì không được sử dụng thường xuyên trong hoạt động hàng ngày của cá nhân. . Người ta hay quên khi gặp những kích thích mới lạ hay những kích thích mạnh. . Sự quên diễn ra theo một trình tự xác định: quên cái chi tiết, vụn vặt trước, quên cái cụ thể, chính yếu sau. Hiểu được các quy luật quên (nguyên nhân quên) giúp ta biết cách giữ gìn tốt tri thức trong trí nhớ. Trong học tập, để nhớ tốt tri thức là phải thường xuyên ôn luyện và thực hành. Thực tế cho thấy, nội dung tài liệu có ý nghĩa và liên quan với nhu cầu, hứng thú và mục đích hoạt động của cá nhân thì được trí nhớ giữ gìn tốt và còn tạo ra cho nó một chất lượng mới. II. Ngôn ngữ 1. Ngữ ngôn là một hệ thống các dấu hiệu có chức năng như là một phương tiện của sự tiếp xúc, một công cụ của tư duy. Nó là một hiện tượng tồn tại khách quan trong đời sống tinh thần của xã hội, là một hiện tượng của nền văn hóa tinh thần. Ngữ ngôn là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của Ngôn ngữ học, khoa học nghiên cứu về một thứ tiếng nói. Ngữ ngôn gồm 2 bộ phận: - Từ ngữ và các ý nghĩa của từ - Cú pháp là 1 hệ thống những qui tắc qui định sự ghép các từ thành câu. Trong Ngữ ngôn có 2 phạm trù: Ngữ pháp - là 1 hệ thống các qui tắc qui định việc thành lập từ và câu. Phạm trù này đặc trưng riêng cho từng thứ tiếng. Lôgíc - là qui luật, phương pháp tư duy đúng đắn của con người. Hai phạm trù đó (ngữ pháp và lôgíc) kết hợp chặt chẽ trong ngữ ngôn. Ngữ ngôn có 2 loại: tiếng nói và chữ viết - Đơn vị tạo nên tiếng nói là âm vị. Đơn vị tạo nên chữ viết là tự vị. Âm vị và tự vị tạo thành từ. Từ trở thành vật mang kinh nghiệm của loài người. 2. Ngôn ngữ là qúa trình mỗi cá nhân sử dụng một thứ ngữ ngôn giao lưu tư tưởng, tình cảm, trao đổi kinh nghiệm. Nói cách khác, ngôn ngữ là sự giao tiếp bằng tiếng nói (ngữ ngôn). Ngôn ngữ là một quá trình tâm lý, nó là đối tượng của tâm lý học. Trong đời sống của con người, ngôn ngữ có 3 chức năng cơ bản sau đây: - Chức năng ngữ nghĩa (chức năng tín hiệu), chức năng này làm cho ngôn ngữ của con người khác với sự thông tin ở con vật. Con người dùng quá trình ngôn ngữ để chỉ chính bản thân sự vật hiện tượng (bởi vì từ mà ta dùng trong quá trình ngôn ngữ được gắn chặt với biểu tượng về sự vật, hiện tượng mà từ đó chỉ). - Chức năng khái quát hóa: biểu hiện mối quan hệ giữa ngôn ngữ với tư duy. Ngôn ngữ là hình thức tồn tại của tư tưởng và nó phù hợp nhất đối với sự tư duy trừu tượng - lôgic. 19
  22. - Chức năng giao tế: nếu hai chức năng trên nói lên mặt bên trong của ngôn ngữ, thì chức năng này nói lên mặt bên ngoài của ngôn ngữ. Trong chức năng giao tế lại gồm 3 chức năng nhỏ: thông tin, biểu cảm và thúc đẩy hành động. * Tóm lại, ngữ ngôn và ngôn ngữ khác nhau như sau: ngữ ngôn là hiện tượng chung, khách quan trong đời sống xã hội, được hình thành trong những điều kiện xã hội, lịch sử nhất định, là công cụ để tiếp xúc và tư duy; ngôn ngữ là quá trình cá nhân sử dụng ngữ ngôn để giao tiếp. Ngôn ngữ được hình thành trong đời sống của cá nhân. - Ngữ ngôn là chung cho cả 1 dân tộc, một cộng đồng. Còn ngôn ngữ mang tính chất chủ thể rõ ràng. - Ngữ ngôn không bị mất đi bởi những thương tổn bệnh lý. Còn ngôn ngữ bị rối loạn hay bị mất do những tổn thương. Tuy khác nhau, nhưng ngôn ngữ và ngữ ngôn có tác động qua lại và liên hệ mật thiết với nhau: không có một thứ tiếng nói nào (ngữ ngôn) lại tồn tại bên ngoài ngôn ngữ cả. Ngược lại, ngôn ngữ cũng không thể có được nếu không dựa vào ngữ ngôn. III. Tình cảm và ý chí 1. Đời sống tình cảm của con người Trong khi phản ánh thế giới khách quan, con người không chỉ nhận thức thế giới mà còn tỏ thái độ đối với nó nữa. Xem những bức tranh đẹp, nghe những bản nhạc hay chúng ta không chỉ tri giác (nghe, nhìn) mà còn có những “rung động”, những “rạo rực”, những “xao xuyến” kèm theo nữa. Những hiện tượng tâm lý biểu thị thái độ của con người đối với những cái mà họ nhận thức hoặc làm ra được gọi là xúc cảm, tình cảm của con người. Đời sống tình cảm của con người vô cùng phong phú và phức tạp, nó được thể hiện dưới nhiều hình thức, ở nhiều mức độ khác nhau. Nó có ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ các quá trình và hiện tượng tâm lý khác của con người và là một đặc trưng của tâm lý người. Xúc cảm, tình cảm là những hiện tượng tâm lý phản ánh những mối quan hệ của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan với nhu cầu của con người dưới hình thức những rung cảm. Như vậy, đến hoạt động tình cảm của con người chúng ta lại bắt gặp một dạng phản ánh mới - phản ánh tình cảm. Sự phản ánh tình cảm, ngoài những điểm giống với sự phản ánh nhận thức - đều là phản ánh hiện thực khách quan, đều mang tính chủ thể và có bản chất xã hội lịch sử - lại có những điểm khác về căn bản với sự phản ánh nhận thức. Thứ nhất, xét về đối tượng phản ánh, quá trình nhận thức phản ánh bản thân sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan; còn xúc cảm, tình cảm lại phản ánh mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan với nhu cầu của con người, chứ không phải phản ánh bản thân các sự vật, hiện tượng. Thứ hai, xét về mặt phạm vi phản ánh thì nói chung, những sự vật, hiện tượng nào tác động vào giác quan ta thì đều được phản ánh với những mức độ sáng tỏ, đầy đủ khác nhau; trong khi đó không phải tất cả những cái gì tác động vào giác quan ta 20
  23. đều được ta tỏ thái độ - nghĩa là đều gây nên xúc cảm, tình cảm mà chỉ có những sự vật, hiện tượng nào có liên quan đến sự thỏa mãn hay không thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người thì mới gây nên cảm xúc mà thôi. Thứ ba, xét về phương thức phản ánh, nhận thức phản ánh hiện thực khách quan dưới hình thức những hình ảnh, biểu tượng, khái niệm; còn xúc cảm, tình cảm thì phản ánh hiện thực khách quan dưới hình thức những rung động, thể nghiệm. Thứ tư, mức độ thể hiện tính chủ thể của xúc cảm, tình cảm cao hơn nhiều so với nhận thức. Thứ năm, quá trình hình thành của xúc cảm, tình cảm lâu dài hơn nhiều so với quá trình hình thành các tri thức, con đường hình thành các xúc cảm, tình cảm cũng phức tạp hơn và nó được diễn ra theo một qui luật khác với qui luật hình thành tri thức. Xúc cảm, tình cảm có vai trò vô cùng to lớn trong đời sống và hoạt động của con người. Xúc cảm, tình cảm thúc đẩy con người hoạt động, giúp con người khắc phục những khó khăn, trở ngại gặp phải trong quá trình hoạt động. Sự thành công của bất kỳ một loại công việc nào phần lớn cũng đều phụ thuộc vào thái độ của con người đối với công việc đó. Tình cảm có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng việc sáng tạo. Cái trạng thái dâng trào, cảm hứng mà nhà thơ, nhà họa sĩ, nhà bác học, nhà phát minh thể nghiệm thấy trong quá trình làm việc của mình đều có liên quan chặt chẽ với những tình cảm của họ. Tình cảm thường xác định hành vi của con người, xác định việc xây dựng các mục đích này kia trong cuộc sống. Một con người khô khan, dửng dưng, thờ ơ với tất cả mọi việc thì không có khả năng đạt tới những thắng lợi và thành tích chân chính. Tình cảm của con người đa dạng cả về nội dung lẫn hình thức biểu hiện. Xét từ thấp đến cao, đời sống tình cảm của con người có những mức độ sau: a. Màu sắc xúc cảm của cảm giác Đây là mức độ thấp nhất của tình cảm. Nó là một sắc thái cảm xúc đi kèm theo quá trình cảm giác nào đó. Ví dụ: cảm giác về màu xanh da trời gây cho ta một cảm xúc khoan khoái, nhẹ nhõm, dễ chịu. Cảm giác về màu đỏ gây cho ta một cảm xúc rạo rực, nhức nhối Màu sắc xúc cảm của cảm giác mang tính chất cụ thể, nhất thời, không mạnh mẽ, gắn liền với một cảm giác nhất định, và không được chủ thể ý thức một cách rõ ràng, đầy đủ. b. Xúc cảm Đó là những rung cảm xảy ra nhanh chóng, nhưng mạnh mẽ và rõ rệt hơn so với màu sắc xúc cảm của cảm giác. Nó mang tính chất khái quát hơn và được chủ thể ý thức ít nhiều rõ rệt hơn so với màu sắc xúc cảm của cảm giác. Con người có 10 xúc cảm nền tảng: hứng thú hồi hộp, vui sướng, ngạc nhiên, đau khổ, căm giận, ghê tởm, khinh bỉ, khiếp sợ, xấu hổ, tội lỗi. Tuỳ theo cường độ, thời gian tồn tại và tính ý thức mà người ta chia xúc cảm thành 2 loại: * Xúc động 21
  24. - Là xúc cảm có cường độ rất mạnh, xảy ra trong một thời gian ngắn và khi xảy ra xúc động, con người thường không làm chủ được bản thân mình (cả giận mất khôn). - Xúc động diễn ra dưới hình thức những quá trình ngắn, theo từng “cơn”, ví dụ, ta thường nói “cơn giận, cơn ghen” là vậy. - Nguyên nhân gây ra xúc động mạnh là do những kích thích quá mạnh làm cho các trung khu ở vỏ não bị hưng phấn hay ức chế vượt ngưỡng, lan toả rất nhanh, mất khả năng phân tích tổng hợp, dẫn đến những thay đổi đột ngột về sinh lý của cơ thể. * Tâm trạng - Là một dạng xúc cảm có cường độ vừa phải hoặc tương đối yếu, tồn tại trong thời gian lâu dài, vì vậy, nó ảnh hưởng lớn đến toàn bộ hoạt động của con người. - Tâm trạng có 2 loại: + Tâm trạng tích cực: tạo cho con người tâm trạng hào hứng, phấn khởi, lạc quan, tin tưởng, + Tâm trạng tiêu cực: làm cho con người bi quan, chán chường, ảnh hưởng đến sức khoẻ, đến năng suất lao động, hiệu quả công tác. Các nhà tâm lý học Nhật Bản đã xác nhận rằng: một người thợ cả có tâm trạng bình thường, mỗi cá nhân làm việc trung bình được 100% khối lượng công việc theo định mức. Nếu người công nhân mang tâm trạng căng thẳng nào đó thì chỉ làm được 90% định mức và số sản phẩm làm ra bị phế phẩm tăng lên 5 lần. Tâm trạng của người đó lan truyền sang từ 8 - 10 người công nhân khác xung quanh khiến số phế phẩm của cả kíp thợ tăng lên, năng suất lao động giảm đi. c. Tình cảm Đó là thuộc tính tâm lý ổn định bền vững của nhân cách, nói lên thái độ của cá nhân. So với các mức độ nêu trên, tình cảm có tính khái quát hơn, ổn định hơn và được chủ thể ý thức một cách rõ ràng hơn. Trong tình cảm có một loại đặc biệt, có cường độ rất mạnh, thời gian tồn tại lâu dài và được ý thức rõ ràng - Đó là sự say mê. Có những say mê tích cực (say mê học tập, nghiên cứu), có những say mê tiêu cực (còn gọi là đam mê: đam mê cờ bạc, rượu chè, ). Đời sống tình cảm của con người như ta đã thấy, vô cùng phức tạp và đa dạng. Các quy luật diễn biến và biểu hiện của nó cũng rất phong phú, phức tạp. Sự hiểu biết những quy luật đó có một ý nghĩa to lớn trong việc giải thích những sự kiện phức tạp trong tình cảm con người, cũng như trong việc điều khiển hoạt động tình cảm của người và của bản thân. * Quy luật “lây lan”: Xúc cảm, tình cảm của người này có thể truyền, “lây” sang người kia. Trong đời sống hàng ngày ta thường thấy các hiện tượng “vui lây”, “buồn lây”, “cảm thông”, “đồng cảm” Một hiện tượng tâm lý xã hội biểu hiện rất rõ quy luật “lây lan” của tình cảm là hiện tượng “hoảng loạn” 22
  25. Quy luật này có ý nghĩa rất lớn trong các hoạt động tập thể của con người như: lao động, học tập, chiến đấu Phong trào xây dựng các tổ, đội, tập thể lao động xã hội chủ nghĩa hiện nay trong các ngành chứng tỏ điều đó. * Quy luật thích ứng: Tương tự như trong quá trình cảm giác, trong tình cảm, xúc cảm có hiện tượng thích ứng - nghĩa là một xúc cảm nào đó được nhắc đi nhắc lại, lặp đi lặp lại nhiều lần một cách không thay đổi, thì cuối cùng xúc cảm đó sẽ bị suy yếu và lắng xuống. Đó là hiện tượng mà người ta hay gọi là sự “chai sạn” của tình cảm. Trong đời sống và hoạt động hàng ngày, quy luật này được ứng dụng một cách có kết quả. Ví dụ: người ta thường dùng qui luật này như là một phương pháp “lấy độc trị độc” để giáo dục tình cảm cho học sinh: chẳng hạn, để làm học sinh mất tính nhút nhát, sợ bị gọi lên bảng, thì giáo viên lại thường xuyên “ưu tiên” gọi học sinh đó lên bảng với những câu hỏi vừa sức và một thái độ khuyến khích, động viên, nhằm tăng cường và củng cố lòng tự tin của em đó. Quy luật này cũng giúp ta hiểu được cơ sở của sự “củng cố âm tính”, “gần thường, xa thương”. * Quy luật tương phản (hay cảm ứng): Đó là sự tác động qua lại giữa những xúc cảm, tình cảm âm tính và dương tính, tích cực và tiêu cực thuộc cùng một loại (cũng tương tự như hiện tượng tương phản trong cảm giác vậy). Cụ thể là: một thể nghiệm này có thể làm tăng cường độ của một thể nghiệm khác đối với nó, xảy ra đồng thời hoặc nối tiếp đối với nó. Ví dụ: khi chấm bài, sau một loạt bài kém, lúc gặp một bài khá thì chúng ta thấy hài lòng hơn nhiều so với trường hợp bài khá đó nằm trong một loạt bài khá mà ta đã gặp trước đó. Trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật thì quy luật này được chú ý nhiều khi xây dựng các tình tiết, các tính cách và hành động của nhân vật, nhằm đánh “trúng” vào tâm lý độc giả hay khán giả, làm thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ, đạo đức của họ. Trong lĩnh vực giáo dục tư tưởng, tình cảm, quy luật này cũng được sử dụng tích cực: biện pháp “ôn nghèo, nhớ khổ”, “ôn cố, tri tân” là một biểu hiện của quy luật này. Phương pháp “bùng nổ” cũng dựa trên quy luật này. * Quy luật di chuyền: Xúc cảm, tình cảm của con người có thể di chuyển từ một đối tượng này sang một đối tượng khác.Văn học đã ghi nhận nhiều biểu hiện cụ thể của quy luật này trong đời sống con người: “Thiếp như con én lạc đàn, Phải cung rày đã sợ làm cây cong” Hoặc: “Giận cá chém thớt”, “Qua đình ngả nón trông đình, đình bao nhiêu ngói thương tình bấy nhiêu” Quy luật này nhắc nhở chúng ta phải chú ý kiểm soát thái độ xúc cảm của mình trong cuộc sống hàng ngày, làm cho thái độ đó mang tính có chọn lọc tích cực, tránh tình trạng “vơ đũa cả nắm”, “giận cá chém thớt” hoặc tình cảm “tràn lan”, “không biên giới”. * Quy luật pha trộn: Tình cảm pha trộn là tình cảm mà màu sắc âm tính của biểu tượng được kết hợp với màu sắc dương tính của nó, hơn nữa màu sắc âm tính còn là nguồn gốc và là điều kiện để nảy sinh màu sắc dương tính. Tính pha trộn cho 23
  26. phép 2 tình cảm đối lập có thể cùng tồn tại ở một con người, chúng không loại trừ nhau, mà qui định lẫn nhau. Ví dụ: sự pha trộn giữa tình cảm lo âu và tự hào ở những vận động viên đấu bò tót, vận động viên leo núi, thám hiểm Nỗi lo âu càng lớn thì niềm tự hào càng cao. Không có lo âu, thì chẳng thấy tự hào. Sự ghen tuông trong tình yêu cũng là một loại tình cảm pha trộn giữa yêu và ghét. Quy luật này cho chúng ta thấy rõ được tính chất phức tạp, nhiều khi mâu thuẫn của tình cảm con người. Sự thật những mâu thuẫn đó đều là phản ánh tính phức tạp, đa dạng và mâu thuẫn có thực trong thực tế khách quan mà thôi. 2. Ý chí và hành động ý chí Ý chí là mặt năng động của ý thức, biểu hiện ở năng lực thực hiện những hành động có mục đích, đòi hỏi phải có sự nỗ lực khắc phục khó khăn. Ý chí là điểm hội tụ của nhận thức và tình cảm hướng vào hoạt động của con người. Khi nhận thức càng sâu sắc, tình cảm càng mãnh liệt thì ý chí càng cao. Ý chí là một phẩm chất quan trọng của nhân cách, là một yếu tố cần thiết để tạo nên tài năng của con người. Ý chí thể hiện qua những phẩm chất như tính mục đích, tính độc lập, tính quyết đoán, sự dũng cảm, kiên trì, tính tự chủ Khí đánh giá ý chí một con người, ta phải xem xét ý chí của người đó ở mức độ nào (cao hay thấp) và phải xem ý chí đó hướng vào cái gì (mặt đạo đức của ý chí). Có những người có ý chí cao, nhưng không tốt, ý chí đó không phục vụ lợi ích xã hội, mà đi ngược lại lợi ích của xã hội, của tập thể. Trong hoạt động của con người, ý chí có vai trò vô cùng to lớn. Trước hết nhờ ý chí mà con người có thể tổ chức mọi hoạt động của mình một cách có ích và hợp lý. Nhờ ý chí mà con người vượt qua những khó khăn trở ngại đi đến được những mục đích cao đẹp. Nhờ có ý chí mà các hoạt động tâm lý của con người mang một nội dung hoàn toàn mới. Ý chí của con người luôn thể hiện ra trong hành động, chứ không tồn tại một cách độc lập. Hành động ý chí là hành động có tham gia, điều chỉnh của ý chí. Đó là hành động có mục đích, có kế hoạch, có sự nỗ lực ý chí vượt qua khó khăn. Để đánh giá mức độ nỗ lực của ý chí và qua đó có thể xác định được các phẩm chất của ý chí, các nét nhân cách, cần phải căn cứ vào mục đích mà chủ thể chấp nhận, căn cứ vào sự đấu tranh của bản thân, vào sự lựa chọn phương tiện, phương pháp hành động và quá trình khắc phục các khó khăn trong khi thực hiện hoạt động. Và cuối cùng là dựa vào sự kiểm tra, đánh giá kết quả hành động và sự khắc phục những ảnh hưởng xấu có thể có từ phía kết quả hành động. Một dạng đặc biệt của hành động ý chí là hành động tự động hoá. Đó là những hành động nguyên là hành động ý chí, nhưng do lặp đi lặp lại nhiều lần hay do tập luyện mà trở thành tự động, lúc này ý chí không còn thể hiện rõ nữa. Chẳng hạn, hành động đi xe đạp của người lớn, hành động đan len của các thợ đan áo Có hai loại hành động tự động hoá: Kỹ xảo và thói quen Kỹ xảo là loại hành động tự động hoá một cách có ý thức, tức là hình thành chủ yếu do luyện tập. Đó là sự điêu luyện, sự thành thục trong hành động. Khi hành động đã trở nên kỹ xảo thì không cần sự kiểm soát thường xuyên của ý thức, không 24
  27. cần sự kiểm tra của thị giác và ít tốn năng lượng thần kinh và bắp thịt. Một kỹ xảo đã được hình thành, nhưng nếu không được sử dụng thường xuyên thì có thể bị suy yếu và mất hẳn. Thói quen là loại hành động tự động hoá được hình thành một cách tự nhiên đã trở thành nhu cầu của con ngừời. Thói quen có tính bền vững hơn kỹ xảo, nó bắt rễ vào hoạt động và hành vi của con người sâu hơn kỹ xảo, cho nên khi đã hình thành thì thói quen rất khó bỏ. Khác với kỹ xảo, thói quen được đánh giá về mặt đạo đức: có thói quen tốt (như quen làm việc đúng giờ, quen lịch sự văn minh, quen nói điều thật ) và có những thói quen xấu (quen đi làm trễ giờ, quen nói tục, quen ăn cắp vặt ) và có cả những thói quen vô hại. Vì vậy chúng ta cần chú ý đến việc hình thành những thói quen tốt và loại bỏ những thói quen xấu, tránh những thói quen vô hại mà có thể ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của mình. IV. Nhân cách và các phẩm chất của nhân cách 1. Khái niệm về con người Con người bao giờ cũng cụ thể, họ là một mắt xích trong hệ thống của các quan hệ xã hội. Con người là sự chồng chất của nhiều cấu trúc, trong đó đặc biệt quan trọng là cấu trúc sinh vật, cấu trúc xã hội và cấu trúc tâm lý. - Về cấu trúc sinh vật: con người là một sinh vật phát triển cao nhất trong thế giới động vật, là một thực thể tồn tại trong không gian và thời gian, chịu sự tác động của các quy luật tự nhiên, sinh học, vật lý, tâm lý Nhờ có bộ não phát triển, con người có đặc trưng nổi bật là có khả năng hoạt động lao động có mục đích, có khả năng biến đổi và cải tạo thiên nhiên, xã hội. - Về mặt xã hội: con người là “tổng hoà các mối quan hệ xã hội”, với những vị trí, trách nhiệm, quyền lợi nhất định trong tập thể, cộng đồng xã hội. Con người đồng thời vừa là chủ thể vừa là khách thể của các mối quan hệ xã hội đó. Nó chịu sự tác động của các quy luật xã hội, kinh tế, tâm lý và trong một chừng mực nào đó nó lại mang tính lịch sử. - Về mặt tâm lý: con người nhờ có hoạt động xã hội, nhờ có ngôn ngữ, tâm lý được phát triển một cách đa dạng và phong phú. Khi nghiên cứu một con người, đồng thời phải xem xét cả ba mặt trên, chúng có mối quan hệ chặt chẽ nhau nhưng mỗi mặt lại có tính độc lập tương đối. Nếu chỉ hiểu con người như một thực thể tự nhiên phủ nhận hoặc coi thường mặt xã hội và tâm lý thì quan niệm sống là lối sống thiên về bản năng sinh học, khuyến khích và cổ vũ con người thoả mãn những nhu cầu nhất thời, kích thích tối đa các giác quan sinh học để trở về với lối sống hoang dã. Nếu nhìn thấy mặt sinh học không thôi thì dẫn tới chỗ sùng bái hoá vật chất và quên đi giá trị tinh thần, coi thường đạo lý. Tuy nhiên, quan tâm quá mức tới mặt tinh thần mà bỏ quên đi mặt sinh học thì dễ dẫn đến chỗ coi thường cuộc sống vật chất, lý tưởng hoá con người nên sẽ bị ngỡ ngàng, hụt hẫng trước những sai lầm, những bản năng tầm thường của con người 2. Khái niệm về nhân cách 25
  28. Nhân cách trước hết được hiểu là mặt xã hội của con người, là bộ mặt tinh thần, là tính người của con người. Nhân cách cũng là con người, nhưng mà là con người có ý thức, có khả năng ý thức được chính mình, điều khiển, điều chỉnh được hành vi của mình. Với ý nghĩa đó có thể hiểu nhân cách là một thực thể xã hội có ý thức. Nhân cách là toàn bộ những đặc điểm tâm lý đã ổn định, bền vững của cá nhân tạo nên giá trị, phẩm giá của cá nhân đó. Nhân cách bao gồm những cái riêng và cái chung của con người, bao gồm cái chung từ xã hội, dân tộc, lịch sử và những cái đó đã biến thành cái riêng của mỗi người tạo nên nét độc đáo của mỗi cá nhân. 3. Các phẩm chất của nhân cách Nhân cách bao gồm bốn nhóm phẩm chất cơ bản sau đây: a. Xu hướng Đặc điểm tâm lý quan trọng nhất của cá nhân là xu hướng. Xu hướng xác định mục tiêu mà con người đặt ra, xác định những ý muốn của con người, các động cơ, các lợi ích mà con người tuân theo. Xu hướng thúc đẩy con người hành động và thể hiện những thái độ nhất định với thế giới xung quanh. Xu hướng là sự hướng tới một mục tiêu, một đối tượng nào đó là một hệ thống những nhân tố thúc đẩy bên trong quy định tính tích cực của con người rong hoạt động của họ. Xu hướng biểu hiện qua các nhu cầu, hứng thú, niềm tin, lý tưởng của con người mà nếu tập hợp chúng lại sẽ xác định mục đích cuộc sống của con người. * Nhu cầu Nhu cầu là biểu hiện của xu hướng về mặt nguyện vọng của cá nhân, là những gì mà cá nhân cần được thoả mãn để sống, để hoạt động. Có nhiều cách phân loại nhu cầu, nhưng người ta có thể phân biệt hai loại nhu cầu lớn đó là nhu cầu tự nhiên và nhu cầu xã hội. Nhu cầu tự nhiên ở con người cũng đã được xã hội hoá, khác về chất so với nhu cầu theo bản năng của động vật. Nhu cầu của con người rất phong phú và đa dạng, luôn phát triển theo sự phát triển của xã hội, nó được quy định bởi phương thức thoả mãn nhu cầu và các mối quan hệ xã hội mà con người sống. Nhu cầu có tính chu kỳ phát triển không giới hạn. * Hứng thú Là biểu hiện của xu hướng về mặt nhận thức của cá nhân đối với sự vật và hiện tượng xung quanh. Hứng thú là sự ham thích của con người muốn hướng sự chú ý vào một cái gì đó, muốn nhận thức một sự vật, hiện tượng nào đó. Hứng thú có loại bền vững, ổn định. Ví dụ: hứng thú về nghề nghiệp được phát triển trên cơ sở nhận thức sâu sắc về ý nghĩa, giá trị của một loại nghề nghiệp nào đó đối với bản thân cũng như đối với xã hội, được cuộc sống kích thích và xã hội nuôi dưỡng. Cũng có loại hứng thú tạm thời, không ổn định do những kích thích bên ngoài tạo nên. Ví dụ: hứng thú khi làm một công việc đột xuất nào đó, đó không do nhu cầu của bản thân mà do tác động của một lực bên ngoài ngẫu nhiên hay hứng thú trong sinh hoạt do một lối sống thời thựơng làm nảy sinh. 26
  29. Hứng thú là điều kiện hết sức quan trọng của sự phát triển về thể chất và tinh thần của con người. Nó thúc đẩy con người mở rộng tầm hiểu biết, tiếp thu kiến thức. Hứng thú giúp cho hoạt động của con người được nhẹ nhàng hơn, đạt tới kết quả cao hơn. * Lý tưởng Lý tưởng là biểu hiện của xu hướng ở mức độ cao nhất. “Lý tưởng là cái mà vì nó mà con người sống, dưới ánh sáng của nó người ta hiểu được ý nghĩa của cuộc đời mình” (Ivanov P.I) Lý tưởng được hình thành trên cơ sở thế giới quan của con người tức là hệ thống các quan điểm về tự nhiên, về xã hội và về tư duy của cá nhân. Đồng thời lý tưởng cũng được hình thành thông qua sự phản ánh hiện thức gián tiếp, tức là thông qua quá trình học tập và giáo dục của xã hội. Như vậy lý tưởng bắt nguồn từ hiện thực, nhưng cũng là hình ảnh đi trước hiện thực. Trong lý tưởng cái tốt đẹp của hiện thực hoà lẫn với cái tương lai. b. Tính cách Tính cách là sự kết hợp các thuộc tính tâm lý cơ bản và bền vững của con người, mà những thuộc tính ấy biểu thị thái độ của con người đối với hiện thực và biểu hiện trong hành vi của con người. Sống và hoạt động trong xã hội, với tính cách của mình, con người thể hiện thái độ với thế giới xung quanh, với mọi người, với công việc và với chính bản thân mình. Tính giản dị trong sinh hoạt, tính khiêm tốn đối với mọi người, tính thực thà trung thực trong ứng xử, tính cần cù chăm chỉ, sáng tạo trong lao động, tính kiên trì, lòng vượt khó đấy là những nét tính cách của con người. Ở một con người, bên cạnh những tính cách tốt, cũng có thể có những tính cách xấu như: tự mãn, kiêu ngạo, lười biếng, tham lam, hèn nhát Trong thực tế ít có những người chỉ gồm toàn những tính cách tốt hoặc toàn những tính cách xấu. Vì vậy khi đánh giá một con người xấu hay tốt không thể chỉ căn cứ vào tương quan công việc, lĩnh vực hoạt động hay tính chất trầm trọng và mức độ ảnh hưởng của những tính cách đó tới xã hội và những người xung quanh như thế nào. Mặt khác, con người đôi khi lại thể hiện thái độ của mình mang tính ngẫu nhiên, ngoại lệ. Một người lịch lãm, trầm tĩnh, trong một hoàn cảnh nào đó có thể nổi nóng và có những hành động, lời nói thô bạo, hiện tượng đó không phải là điển hình đối với anh ta, không thuộc về tính cách của anh ta. Vì vậy tính cách phải là những thái độ được biểu hiện qua hành vi và có tính chất bền vững, lặp đi lặp lại nhiều lần và tạo nên bản chất của người đó. Tính cách không phải là một cái gì bẩm sinh, mà nó được hình thành, phát triển trong quá trình cuộc sống và môi trường hoạt động. Nó phụ thuộc vào quá trình rèn luyện, giáo dục và thường mang tính chất nghề nghiệp rõ rệt. Tính cách không phải là bất biến mà nó có thể thay đổi theo thời gian, tuổi tác, phụ thuộc vào nghị lực, ý chí rèn luyện của bản thân. Vì vậy một tính cách này có thể mất đi và một tính cách mới có thể nảy sinh. 27
  30. Cấu trúc của tính cách bao gồm 2 mặt: nội dung và hình thức - Nội dung của tính cách: Là hệ thống thái độ của cá nhân đối với hiện thực, bao gồm: + Thái độ đối với xã hội: Là thái độ trách nhiệm đối với sự ổn định phát triển của xã hội. Nó phản ánh mối quan hệ giữa cá nhân với tập thể, với cơ quan, xí nghiệp và với mọi người xung quanh. Thái độ này có thể là tình yêu thương, sự tôn trọng, lòng tận tuỵ, cảm phục hay sự ghét bỏ, thù hằn, khinh miệt Mức độ cao nhất của thái độ đối với xã hội chính là thái độ đối với Tổ quốc, với nhân dân và nhân loại, là tinh thần hy sinh vì mọi người, vì lợi ích chung của cộng đồng, tập thể. + Thái độ đối với lao động: Trước hết thể hiện ở ý thức tổ chức, kỷ luật, tình yêu lao động, cần cù, sáng tạo, tận tâm với công việc, thái độ lao động là một trong những phẩm chất, thước đo quan trọng nhất bao trùm lên tất cả các phẩm chất khác của con người. + Thái độ đối với bản thân: Là những đánh giá, suy xét về bản thân mình, những yêu cầu, mục đích đặt ra để thực hiện trong cuộc sống hàng ngày. Những phẩm chất thể hiện thái độ cá nhân như: lòng tự trọng, tính khiêm tốn, tính tự hào, sự trung thực, sự can đảm + Thái độ đối với tài sản: Nói lên tính cẩn thận hay cẩu thả, tính hoang phí hay tiết kiệm của cá nhân đối với các giá trị của cải, cho dù đó là của mình, của người khác hay của xã hội. Hệ thống thái độ của cá nhân đối với hiện thực khách quan là mặt bên trong của tính cách. Ta thường nói đó là đạo đức của con người. Tất cả những nét tính cách của con người liên quan chặt chẽ với nhau, vì vậy tính cách có tính toàn vẹn nhất định. - Hình thức của tính cách: Là sự biểu hiện ra bên ngoài của tính cách cá nhân, là sự cư xử của cá nhân đối với xã hội, đối với hiện thực khách quan thông qua hệ thống các hành vi, cử chỉ, lời nói của cá nhân được lặp đi lặp lại, có tính ổn định tương đối và mang tính đặc thù của cá nhân đó. Các hành vi, cử chỉ, lời nói của cá nhân được biểu hiện rất đa dạng và phong phú nhưng suy cho cùng chúng đều được hình thành, chi phối bởi thái độ. Giữa hành vi, cử chỉ, cách nói năng thường phải tương đương với hệ thống thái độ hay nói cách khác, một hệ thống thái độ phải được thể hiện bằng những hành vi, cử chỉ, lời nói nhất định. c. Khí chất Là thuộc tính tâm lý phức hợp của cá nhân, biểu hiện cường độ, tốc độ, nhịp độ của các hoạt động tâm lý, thể hiện sắc thái hành vi, cử chỉ, cách nói năng của cá nhân. Các kiểu khí chất của cá nhân : I.P.Pavlov đã chứng minh rằng sự kết hợp 3 thuộc tính (cường độ, tính cân bằng và tính linh hoạt) của hai quá trình thần kinh cơ bản là hưng phấn và ức chế tạo ra 4 kiểu thần kinh cơ bản là cơ sở cho 4 kiểu khí chất 28
  31. 4 kiểu thần kinh cơ bản 4 kiểu khí chất tương ứng - Kiểu mạnh mẽ, cân bằng, linh hoạt - Hăng hái - Kiểu mạnh mẽ, cân bằng, không linh hoạt - Bình thản - Kiểu mạnh mẽ, không cân bằng, hưng phấn - Nóng nảy mạnh hơn ức chế - Kiểu yếu - Ưu tư Đặc điểm chủ yếu của mỗi loại khí chất - “Hăng hái”: Người thuộc kiểu người này thường hoạt bát, vui vẻ, yêu đời, sống động, ham hiểu biết, cảm xúc không sâu, dễ hình thành và dễ thay đổi, nhận thức nhanh nhưng cũng hay quên, tâm hồn hướng ngoại, cởi mở, dễ thích nghi với môi trường mới. - “Bình thản”: Người thuộc kiểu này thường là người chậm chạp, điềm tĩnh, chắc chắn, kiên trì, ưa sự ngăn nắp, trật tự, khả năng kiềm chế tốt, nhận thức chậm nhưng chắc, tình cảm khó hình thành nhưng sâu sắc, - “Nóng nảy”: Người thuộc kiểu này thường hành động nhanh, mạnh, hào hứng, nhiệt tình, hay có tính gay gắt, nóng nảy, mệnh lệnh, quyết đoán, dễ bị kích động, thẳng thắn, chân tình, - “Ưu tư”: Người có kiểu này thường hành động chậm chạp, chóng mệt mỏi, luôn hoài nghi, thiếu tự tin, hay ưu sầu, xúc cảm khó nảy sinh nhưng rất sâu sắc, Tóm lại, sự phân biệt các loại khí chất trên đây chỉ là tương đối, khó mà định được ranh giới rạch ròi giữa từng loại mà luôn luôn có sự pha trộn giữa loại này và loại kia. Trong suốt cuộc đời, con người cũng có thể có sự chuyển hoá từ khí chất này sang khí chất kia do các nguyên nhân về tuổi tác, sinh học, bệnh lý, do sự giáo dục, rèn luyện và giao tiếp trong lao động, trong cuộc sống và trong xã hội. d. Năng lực Năng lực là tổ hợp những thuộc tính độc đáo của cá nhân, phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định đảm bảo cho hoạt động đó có kết quả. Năng lực được hình thành, thể hiện và phát triển trong hoạt động. Nó chỉ tồn tại trong mối quan hệ với một hoạt động nhất định. Con người không phải ngay từ mới sinh ra đã có thể có những năng lực đối với một hoạt động nhất định. Nó chỉ được phát triển và nâng cao trong những hoàn cảnh sống thuận lợi. Năng lực của một người biểu hiện ở vốn tri thức của người đó về một công việc đang làm và về một số những công việc khác có liên quan khi tiến hành việc làm đó. Năng lực biểu hiện ở kinh nghiệm về kế hoạch, về phương pháp hoạt động, ở kỹ năng, kỹ xảo của người đó trong thực hành công việc, ở năng khiếu, tài năng của cá nhân về một loại hoạt động nào đó. Mức độ và trình độ phát triển năng lực của con người biểu hiện ở khái niệm tài năng và thiên tài. Tài năng là toàn bộ những năng lực cho phép con người thu được sản phẩm hoạt động có đặc điểm độc đáo và mới mẻ, có sự hoàn chỉnh cao và có ý nghĩa xã hội lớn. Đặc điểm của tài năng là trình độ sáng tạo cao khi thực hiện một hoạt động nào đó. 29
  32. Tài năng ở mức độ cao nhất gọi là thiên tài, nó cho phép thực hiện một cái gì mới mẻ về nguyên tắc trong một lĩnh vực hoạt động nào đó. Sự sáng tạo của người thiên tài bao giờ cũng bắt buộc có một ý nghĩa tích cực và ý nghĩa lịch sử đối với toàn bộ xã hội. Thiên tài và tài năng khác nhau ở chỗ thiên tài sẽ tạo ra một thời đại mới trong lĩnh vực hoạt động của mình. Cả hai phẩm chất này bao giờ cũng gắn liền với hoạt động sáng tạo. Trong thực tiễn, năng lực không hạn chế ở kỹ năng, kỹ xảo, kiến thức, mặc dù nó thể hiện và phát triển trên cơ sở những cái đó. Năng lực được phát hiện ra trong quá trình lĩnh hội chúng như thế nào. Vì vậy cần hết sức thận trọng và tế nhị khi nhận định năng lực của con người để khỏi nhầm lẫn sự kém hiểu biết với sự thiếu năng lực. Năng lực cũng khác kinh nghiệm. Nó bao gồm nhiều phẩm chất như vốn tri thức, khả năng tư duy và hoạt động trí tuệ, những kỹ xảo, những đặc điểm thuận lợi của cơ thể Kinh nghiệm chỉ mới là một yếu tố tạo nên năng lực. Trong thực tế nhiều khi kinh nghiệm không phản ánh một năng lực. Vì vậy khi đánh giá năng lực của một con người, không chỉ dựa vào kết quả công việc mà còn phải dựa vào những yếu tố khác nữa. Người ta phân chia năng lực của con người thành nhiều loại: Năng lực sáng tạo và năng lực tái tạo; năng lực chung và năng lực riêng; năng lực tổ chức và năng lực chuyên môn Năng lực của con người gắn liền với sở thích của người đó. Vì vậy sự hứng thú đối với một loại công việc nào đấy thường nói lên người ấy có năng lực về mặt hoạt động đó. Năng lực không chỉ được thể hiện trong những hoạt động trí óc mà ngay cả trong hoạt động lao động chân tay. Năng lực cá nhân chỉ có thể hình thành và phát triển trong sự hoạt động lao động, rèn luyện, bồi dưỡng của cá nhân và khuyến khích của xã hội. Yếu tố bẩm sinh, di truyền chỉ là những phần nhỏ. Quan điểm cho rằng năng lực chỉ là sở hữu bẩm sinh, định mệnh của một người nào đó theo thuốc nguồn gốc sinh học thuần tuý và duy nhất là sai lầm. 4. Sự hình thành và phát triển nhân cách a. Các yếu tố chi phối sự hình thành nhân cách V.Lênin đã khẳng định: “Cùng với dòng sữa mẹ, con người hấp thụ tâm lý, đạo đức của xã hội mà nó là thành viên”. Nhà tâm lý học A.N.Lêônchiev thì cho rằng: “Nhân cách cụ thể là nhân cách của con người sinh thành và phát triển theo con đường từ bên ngoài chuyển vào nội tâm, từ các quan hệ với thế giới tự nhiên, thế giới đồ vật, nền văn hoá xã hội do các thế hệ trước tạo ra, các quan hệ xã hội mà nó gắn bó”. - Giáo dục và nhân cách Giáo dục là một hiện tượng xã hội, là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch, ảnh hưởng tự giác, chủ động đến con người, đưa đến sự hình thành và phát triển tâm lý, ý thức, nhân cách. 30
  33. Trong sự hình thành và phát triển nhân cách thì giáo dục giữ vai trò chủ đạo, điều đó được thể hiện như sau: + Giáo dục vạch ra phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách (vì giáo dục là quá trình tác động có mục tiêu xác định). + Thông qua giáo dục, thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau lĩnh hội, tiếp thu nền văn hoá xã hội - lịch sử để tạo nên nhân cách của mình. + Giáo dục đưa con người, đưa thế hệ trẻ vào “vùng phát triển gần”, vươn tới những cái mà thế hệ trẻ sẽ có. + Giáo dục có thể phát huy tối đa các mặt mạnh của các yếu tố khác chi phối sự hình thành nhân cách (yếu tố thể chất, yếu tố hoàn cảnh sống, yếu tố xã hội), đồng thời bù đắp cho những thiếu hụt, hạn chế do các yếu tố trên sinh ra. + Giáo dục uốn nắn những sai lệch về một mặt nào đó so với các chuẩn mực do tác động tự phát của môi trường gây nên và làm cho nó phát triển theo hướng mong muốn của xã hội (giáo dục lại). - Hoạt động và nhân cách + Hoạt động là phương thức tồn tại của con người, là nhân tố quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách. + Thông qua hai quá trình đối tượng hoá và chủ thể hoá trong hoạt động mà nhân cách được bộc lộ và hình thành. + Sự hình thành và phát triển nhân cách mỗi người phụ thuộc vào hoạt động chủ đạo ở mỗi thời kì nhất định. Muốn hình thành nhân cách, con người cần phải tham gia vào các dạng hoạt động khác nhau, trong đó đặc biệt chú ý đến vai trò của hoạt động chủ đạo. Mỗi loại hoạt động đều đề ra cho con người những năng lực nhất định, những phẩm chất tâm lý nhất định. Quá trình tham gia hoạt động làm cho con người hình thành, phát triển những phẩm chất tâm lý và năng lực để tạo điều kiện cho nhân cách phát triển. - Giao tiếp và nhân cách + C.Mác đã chỉ ra rằng: “Sự phát triển của một cá nhân được quy định bởi sự phát triển của tất cả các cá nhân khác mà nó giao tiếp một cách trực tiếp và gián tiếp với họ”. Giao tiếp là điều kiện tồn tại của các cá nhân và xã hội loài người. + Chính trong giao tiếp đã diễn ra sự hình thành nhân cách con người. Con người học được cách đánh giá hành vi, thái độ, lĩnh hội được nền văn hoá xã hội, những tiêu chuẩn đạo đức trực tiếp từ cuộc sống, kiểm tra và vận dụng những tiêu chuẩn, những tri thức đó vào thực tiễn. + Trong quá trình giao tiếp, con người không chỉ nhận thức người khác, mà còn nhận thức chính bản thân mình. Đây là cơ sở để hình thành nhân cách. - Tập thể và nhân cách + Tập thể là một nhóm người, một bộ phận xã hội được thống nhất lại theo những mục đích chung, phục tùng các mục đích của xã hội. 31
  34. + Nhân cách con người được hình thành và phát triển trong môi trường xã hội, mà môi trường xã hội cụ thể: gia đình, làng xóm, quê hương, khu phố, là các nhóm, cộng đồng và tập thể mà nó là thành viên. + Nhóm và tập thể có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách. Tác động của tập thể đến nhân cách thông qua hoạt động cùng nhau, qua dư luận tập thể, truyền thống tập thể, bầu không khí tâm lý tập thể. b. Sự hoàn thiện nhân cách Dưới tác động chủ đạo của giáo dục sẽ hình thành một cấu trúc nhân cách trương đối ổn định và đạt tới một trình độ phát triển nhất định. Thế nhưng, trong cuộc sống nhân cách tiếp tục biến đổi và hoàn thiện dần thông qua việc cá nhân tự ý thức, tự rèn luyện, tự giáo dục, tự hoàn thiện nhân cách của mình ở trình độ phát triển cao hơn, đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống, của xã hội. Mặt khác, trong một thời điểm nào đó, có thể bị phân ly hoặc bị suy thoái, cá nhân vẫn có khả năng tự điều chỉnh, tự rèn luyện nhân cách phù hợp với chuẩn mực xã hội. Để tự hoàn thiện nhân cách, mỗi cá nhân phải tự nhận thức được bản thân, có viễn cảnh về cuộc sống tương lai, phải có các phẩm chất ý chí (kiên trì, dũng cảm, ) và cần được sự giúp đỡ của tập thể, được dư luận tập thể ủng hộ. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Cảm giác và tri giác giống nhau và khác nhau như thế nào? Chúng có vai trò như thế nào trong đời sống?. 2. Các loại cảm giác, tri giác và ý nghĩa của chúng đối với đời sống và hoạt động lao động? 3. Trình bày các quy lật của cảm giác, tri giác và nêu lên những ứng dụng của nó trong đời sống và hoạt động lao động? 4. Tại sao tư duy lại xếp vào mức độ nhận thức lý tính? 5. Trình bày các đặc điểm của tư duy và rút ra những kết luận cần thiết. 6. Hãy chứng minh ý kiến của A.M. Goorki cho rằng: “Về bản chất của mình, tưởng tượng cũng là tư duy mà thôi, nhưng mà tính toán chủ yếu bằng hình ảnh” 7. Trí nhớ là gì? Trình bày các loại trí nhớ và nêu ý nghĩa của chúng đối với việc học tập? 8. Làm rõ ghi nhớ có chủ định và ghi nhớ không chủ định. Nêu các biện pháp ghi nhớ logic. 9. Ngôn ngữ là gì? Các chức năng cơ bản của ngôn ngữ? 10. Tình cảm là gì? Tình cảm có gì giống và khác nhau với nhận thức. Nêu vai trò và các mức độ của đời sống tình cảm. 11. Tại sao nói tình cảm là mặt cốt lõi, mặt tập trung của nhân cách? Tình cảm có những quy luật nào? 12. Ý chí là gì? Phân tích các phẩm chất của ý chí. 32
  35. 13. Xu hướng và các mặt biểu hiện của xu hướng? 14. Tính cách là gì? Phân tích cấu trúc của tính cách. 15. Năng lực là gì? Trình bày các mức độ của năng lực. 16. Phân tích các yếu tố chi phối sự hình thành và phát triển nhân cách. 33
  36. Bài 3: KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP I. Vai trò của giao tiếp Hằng ngày chúng ta phải giao tiếp với bạn bè, người thân, đồng nghiệp trong những hoàn cảnh và tình huống rất khác nhau, vì những mục đích cũng rất khác nhau (trao đổi thông tin, giải quyết vấn đề, thuyết phục họ ) Trong quá trình giao tiếp này một lời nói, một cử chỉ có thể tạo ra một ấn tượng tốt đẹp, một sự tin cậy, một cảm xúc tích cực, cũng có thể làm mất lòng nhau, làm tổn hại đến sức khoẻ và khả năng hoạt động của con người. Ông bà ta thương nói: “học ăn, học nói, học gói, học mở”, nghĩa là phải học những điều thật cơ bản trong cuộc sống, mà ta tưởng là đơn giản và dễ dàng. Đã bao lần chúng ta tự hỏi mình: Ta ăn như vậy có đúng không? Ta nói như vậy đã được chưa? Ta có biết lắng nghe người khác nói hay không? Học cách thức giao tiếp chính là một trong những môn học để làm người, mà ai ai cũng cần phải học, học mãi đến khi nằm xuống kết thúc một đời người. Trong tâm lý học, giao tiếp là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn rất lớn, bởi vì giao tiếp đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của con người. Đồng thời giao tiếp còn là phương tiện thể hiện nhân cách. Tâm lý của con người được hình thành và phát triển trong giao tiếp với những người xung quanh. Ngoài ra hoạt động giao tiếp còn là mặt quan trọng, là điều kiện để thực hiện tốt các hoạt động khác, thậm chí cả trong trường hợp, khi mà ý nghĩa của hoạt động không phải là giao tiếp, mà là lĩnh hội và tiếp thu kiến thức, bán hàng, quản lý, ký kết hợp đồng, kinh doanh Giao tiếp chính là một công cụ sắc bén để tạo ra các mối quan hệ trong quản lý, trong kinh doanh và để tạo ra hạnh phúc trong gia đình. Trong quản lý, nếu người lãnh đạo có kỹ năng giao tiếp tốt sẽ đoàn kết được các cộng sự, tạo ra được một bầu không khí tâm lý thuận lợi trong tổ chức, tạo ra được các mối quan hệ gần gũi, thân mật giữa cấp trên với cấp dưới, trên cơ sở đó có thể tác động mạnh tới từng cá nhân trong tổ chức, nâng cao uy tín của mình. Tóm lại, giao tiếp là điều quan trọng đối với bất cứ mối quan hệ nào trong xã hội. Hoạt động giao tiếp cho phép chúng ta phát triển xã hội văn minh, truyền kiến thức từ thế hệ này sang thế hệ khác. Quá trình giao tiếp hữu hiệu rất quan trọng đối với sự thành công và mãn nguyện của chúng ta. II. Khái niệm giao tiếp Hiện nay vẫn chưa cho có sự thống nhất cao trong các nhà nghiên cứu khi bàn về giao tiếp, tuy nhiên, hiểu khái quát có thể nêu lên một khái niệm về giao tiếp như sau: Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người và người thông qua ngôn ngữ, cử chỉ, điệu bộ. Giao tiếp là sự xác lập và vận hành các mối quan hệ giữa người và người, hoặc giữa người và các yếu tố xã hội nhằm thoả mãn những nhu cầu nhất định. 34
  37. Giao tiếp bao gồm hàng loạt yếu tố, như trao đổi thông tin, xây dựng chiến lược hoạt động phối hợp, tri giác và tìm hiểu người khác. Tương ứng với các yếu tố trên thì giao tiếp có 3 khía cạnh chính: giao lưu, tác động qua lại và tri giác. Khía cạnh giao lưu của giao tiếp gắn liền với việc tìm hiểu những đặc điểm đặc thù của quá trình trao đổi thông tin giữa hai bên giao tiếp với nhau có tính đến cả mục đích, tâm thế và ý định của nhau. Quá trình giao lưu sẽ làm giàu thêm về kiến thức, kinh nghiệm của những người tham gia giao tiếp. Một khía cạnh quan trọng khác của giao tiếp đó là tác động qua lại giữa hai bên. Trong trường hợp này, ngôn ngữ thống nhất và cùng hiểu biết về tình huống, hoàn cảnh giao tiếp là điều kiện cần thiết bảo đảm sự tác động qua lại đạt hiệu quả. Có nhiều kiểu tác động qua lại lẫn nhau, trước hết đó là sự hợp tác và sự cạnh tranh, tương ứng ứng với chúng là sự đồng tình hay sự xung đột. Khía cạnh tri giác của giao tiếp bao hàm quá trình hình thành hình ảnh về người khác, xác định được các phẩm chất tâm lý và đặc điểm hành vi của người đó (thông qua các biểu hiện bên ngoài). Trong khi tri giác người khác cần chú ý tới các hiện tượng như: ấn tượng ban đầu, hiệu ứng cái mới, sự điển hình hoá III. Phân loại giao tiếp Có nhiều cách phân loại giao tiếp theo những căn cứ khác nhau: 1. Dựa vào nội dung tâm lý của giao tiếp, người ta phân ra: - Giao tiếp nhằm thông báo những thông tin mới. - Giao tiếp nhằm thay đổi hệ thống động cơ và giá trị. - Giao tiếp nhằm động viên, kích thích hành động. 2. Dựa vào đối tượng hoạt động giao tiếp, người ta chia ra: - Giao tiếp liên nhân cách (giữa 2 - 3 người với nhau). - Giao tiếp xã hội: là giao tiếp giữa một người với một nhóm người (như lớp học, hội nghị ) - Giao tiếp nhóm: đây là loại hình giao tiếp đặc trưng cho một tập thể nhỏ liên kết với nhau bởi hoạt động chung và nó phục vụ cho hoạt động này. 3. Dựa vào tính chất tiếp xúc, ta có thể chia ra làm 2 loại: - Giao tiếp trực tiếp: là loại hình giao tiếp thông dụng nhất trong mọi hoạt động của con người, trong đó các đối tượng của giao tiếp trực tiếp gặp gỡ nhau và thường dùng ngôn ngữ nói và biểu cảm để truyền cho nhau những ý nghĩ và tình cảm của mình. - Giao tiếp gián tiếp: là hình thức thông qua một phương tiện trung gian khác như thư từ, sách báo, điện thoại 4. Dựa vào hình thức của giao tiếp, chúng ta có: - Giao tiếp chính thức: là giao tiếp có sự ấn định theo pháp luật, theo một qui trình được các tổ chức thừa nhận như hội họp, mítting, đàm phán - Giao tiếp không chính thức: là loại giao tiếp không theo sự qui định nào cả, mang nặng tính cá nhân. Ví dụ: giao tiếp giữa bạn bè với nhau, thủ trưởng trò chuyện riêng tư với nhân viên 35
  38. 5. Dựa vào thế tâm lý giữa hai bên trong giao tiếp, chúng ta có thể chia giao tiếp ra thành 3 kiểu: giao tiếp ở thế mạnh, giao tiếp ở thế yếu và giao tiếp ở thế cân bằng. Thế tâm lý tức là vị thế tâm lý giữa hai người trong quan hệ giao tiếp, nó nói lên ai mạnh hơn ai về mặt tâm lý. Thế tâm lý của một người đối với một người khác chi phối những hành vi trong giao tiếp của họ. Chẳng hạn, khi chúng ta giao tiếp với bạn bè trong lớp (là ở thế cân bằng) sẽ có những hành vi, cử chỉ, tư thế khác so với khi chúng ta giao tiếp với một người giám đốc trong cuộc phỏng vấn xin việc làm (khi mà chúng ta ở thế yếu). IV. Các phương tiện giao tiếp Trong quá trình giao tiếp chúng ta phải sử dụng những phương tiện giao tiếp. Phương tiện giao tiếp là tất cả những yếu tố mà chúng ta dùng để thể hiện thái độ, tình cảm, mối quan hệ và những tâm lý khác của mình trong một cuộc giao tiếp. Phương tiện giao tiếp hết sức phong phú và đa dạng, nhưng chúng ta có thể chia chúng ra làm 2 nhóm chính: giao tiếp ngôn ngữ và giao tiếp phi ngôn ngữ. Việc phân chia này mang tính tương đối, trong thực tế chúng bổ sung, hoà lẫn vào nhau. 1. Phương tiện giao tiếp ngôn ngữ Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người. Bằng ngôn ngữ, con người có thể truyền đi bất cứ một loại thông tin nào, như diễn tả tình cảm, ám chỉ, miêu tả sự vật Ở phương tiện này, sự giao tiếp thường dựa vào những yếu tố sau đây: a. Nội dung ngôn ngữ: Tức là ý nghĩa của lời nói, của từ. Ở đây chúng ta cần lưu ý đến vai trò ý cá nhân của ngôn ngữ trong giao tiếp. Một từ hay một tập hợp từ đều có một hay vài ý nghĩa nhất định. Ý nghĩa của ngôn ngữ có hai hình thức tồn tại: khách quan và chủ quan. Khách quan bởi nó không phụ thuộc vào sở thích, ý muốn của một cá nhân nào. Chẳng hạn, không ai dùng từ “cái tủ” để chỉ “cái cây” và ngược lại. Tính chủ quan thể hiện ở chỗ, có những từ vô thưởng vô phạt, nhưng trong quá trình sử dụng gây ra những phản ứng, những cảm xúc tích cực hay tiêu cực nào đó. Đây chính là ý cá nhân của ngôn ngữ. Ví dụ: từ “ma tuý” đối với người nghiện hút không gợi lên cảm giác tiêu cực như những người chay tịnh, ngăn nắp. Ngay trong một nhóm người, đôi khi cũng có những qui định ý nghĩa riêng cho một số tập hợp từ. Tiếng “lóng” là một ví dụ. Mỗi cá nhân, mỗi nhóm người từ cộng đồng địa phương đến đẳng cấp dân tộc đều có những sắc thái riêng trong cách sử dụng ngôn ngữ. Hiểu được ý cá nhân là cơ sở tạo nên sự đồng điệu trong giao tiếp, còn được gọi là khả năng đồng cảm. b. Tính chất của ngôn ngữ: Trong giao tiếpnhững tính chất của ngôn ngữ như nhịp điệu, âm điệu, ngữ điệu cũng đóng vai trò rất quan trọng. Có người mới trông vào “cái gì trông cũng được” nhưng khi họ thốt ra những tiếng chát chúa hay the thé làm ta “cụt hứng” ngay. Cũng có người nhờ tiếng nói ấm áp, dịu dàng, 36
  39. quyến rũ làm cho người nghe cảm tình ngay, mặc dù dung mạo không lấy gì làm khả ái. Trong khi nói, chúng ta cần chú ý tới ngữ điệu. Lời nói có được rõ ràng, khúc chiết hay không, phụ thuộc nhiều vào cách nhấn giọng. Nhờ cách nhấn giọng, người nói có thể làm cho người nghe chú ý đến những lời nói của mình. Muốn nhấn giọng cho đúng phải hiểu rõ mình nói những gì và suy nghĩ, đắn đo từng lời một. Biết nhấn mạnh những lời quan trọng và để những lời nói phụ lướt đi. Hai yếu tố khác có thể làm thay đổi ý nghĩa lời nói là cách uốn giọng và ngữ điệu. Trong lúc nói phải có lúc lên giọng, xuống giọng, lúc nhặt, lúc khoan, lúc nói nhẹ, lúc gằn từng tiếng thì lời nói mới nổi bật lên c. Điệu bộ khi nói: Điệu bộ là những cử chỉ của tay chân và vẻ mặt. Có khi vừa nói vừa chỉ, vừa nói vừa nhìn chằm chằm, vừa nói vừa liếc Thường điệu bộ phụ hoạ theo lời nói để giúp thêm ý nghĩa cho nó. Tuy nhiên, việc sử dụng điệu bộ khi nói cũng phải phù hợp với phong tục, tập quán, nền văn hoá Những cử chỉ, điệu bộ tự nhiên là đáng yêu nhất, đừng gò ép mình bắt chước điệu bộ của người này hay người khác. 2. Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ a. Nét mặt: Trong giao tiếp, nét mặt biểu lộ thái độ, cảm xúc của con người. Các công trình nghiên cứu thống nhất rằng nét mặt của con người biểu lộ sáu cảm xúc: Vui mừng, buồn, ngạc nhiên, sợ hãi, tưc giận và ghê tởm. Ngoài tính biểu cảm, nét mặt còn cho ta biết ít nhiều về cá tính con người. Người có nét mặt căng thẳng thường là người dứt khoát, trực tính; người có nét mặt mềm mại ở vùng miệng thì hoà nhã, thân mật, biết vui đùa và dễ thích nghi trong giao tiếp. b. Nụ cười: Trong giao tiếp người ta có thể dùng nụ cười để biểu lộ tình cảm, thái độ của mình. Con người có bao nhiêu kiểu cười thì có bấy nhiêu cá tính. Có cái cười tươi tắn, hồn nhiên, đôn hậu, có cái cười chua chát, miễn cưỡng, có cái cười đồng tình, thông cảm, nhưng cũng có cái cười chế giễu, cười khinh bỉ Mỗi điệu cười đều biểu hiện một thái độ nào đó, cho nên trong giao tiếp, chúng ta phải tinh nhạy quan sát nụ cười của đối tượng giao tiếp để biết được lòng dạ của họ. c. Ánh mắt: Dân gian có câu “đôi mắt là cửa sổ tâm hồn”, bởi lẽ cặp mắt là điểm khởi đầu cho tất cả mọi nghiên cứu, quan sát, tìm hiểu, qua ánh mắt con người có thể nói lên nhiều thứ. Ánh mắt phản ánh trạng thái cảm xúc, bộc lộ tình cảm, tâm trạng và ước nguyện của con người ra bên ngoài. Trong giao tiếp, ánh mắt còn đóng vai trò “đồng bộ hoá” câu chuyện, biểu hiện sự chú ý, tôn trọng, sự đồng tình hay là phản đối. Ánh mắt trong giao tiếp cũng phụ thuộc vào vị trí xã hội của mỗi bên. Người có địa vị xã hội cao hơn thường nhìn vào mắt của người kia nhiều hơn, kể cả khi nói lẫn khi nghe. Ánh mắt của một người còn phản ánh cá tính của người đó: Người có óc thực tế thường có cái nhìn lạnh lùng, người ngay thẳng nhân hậu có cái nhìn thẳng và trực diện, người nham hiểm, đa nghi có cái nhìn soi mói, lục lọi d. Các cử chỉ: Các cử chỉ gồm các chuyển động của đầu (gật đầu, lắc đầu ), của bàn tay (vẫy chào, khua tay ), của cánh tay Vận động của chúng có ý nghĩa 37