Bài giảng Thương mại điện tử - Chương 1: Tổng quan về thương mại điện tử (Chuẩn kiến thức)

pdf 40 trang huongle 4450
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Thương mại điện tử - Chương 1: Tổng quan về thương mại điện tử (Chuẩn kiến thức)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_thuong_mai_dien_tu_chuong_1_tong_quan_ve_thuong_ma.pdf

Nội dung text: Bài giảng Thương mại điện tử - Chương 1: Tổng quan về thương mại điện tử (Chuẩn kiến thức)

  1. CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 1.1. Khái niệm TMĐT Sự phát triển và hoàn thiện của kỹ thuật số đã đƣa tới cuộc cách mạng số hoá, thúc đẩy sự ra đời của nền kinh tế số và xã hội thông tin trong đó nổi lên hai nhân tố đi kèm với nhau, đó là vai trò chiếm ƣu thế của thông tin (1) cùng một hình thức thực thi thƣơng mại mới - thƣơng mại điện tử (2). ở một mức chung nhất, ta có thể hiểu thƣơng mại điện tử là một hình thức thƣơng mại mới, khác hẳn với hình thức truyền thống với đặc điểm nổi bật là chủ yếu dựa trên các phƣơng tiện điện tử. Tuy nhiên, hiểu thƣơng mại điện tử là một hình thức mới của thƣơng mại dƣờng nhƣ còn quá chung chung. Để có thể nghiên cứu sâu hơn về thƣơng mại điện tử, ta cần phải đi tìm hiểu những khái niệm cụ thể hơn về nó. Hiện nay, trên thế giới, có nhiều quan điểm khác nhau về thƣơng mại điện tử, nhƣng tựu trung lại có hai quan điểm lớn sau đây: Theo nghĩa rộng: Trong Luật mẫu về Thƣơng mại điện tử của Ủy ban Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL), thuật ngữ thƣơng mại đƣợc diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thƣơng mại dù có hay không có hợp đồng. Theo quan điểm này, thƣơng mại điện tử bao gồm tất cả các quan hệ mang tính thƣơng mại nhƣ các giao dịch liên quan đến việc cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ, thỏa thuận phân phối, đại diện hoặc đại lý thƣơng mại, ủy thác hoa hồng, cho thuê dài hạn, xây dựng các công trình, tƣ vấn, đầu tƣ, cấp vốn, liên doanh ; các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đƣờng biển, đƣờng không, đƣờng sắt hoặc đƣờng bộ. Nhƣ vậy, có thể thấy rằng phạm vi của thƣơng mại điện tử hiểu theo nghĩa này là rất rộng, nó bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế. Việc mua bán hàng hóa và dịch vụ chỉ là một trong hàng ngàn lĩnh vực áp dụng của thƣơng mại điện tử mà thôi. Ủy ban Châu Âu đƣa ra định nghĩa về thƣơng mại điện tử nhƣ sau: thƣơng mại điện tử đƣợc hiểu là việc thực hiện hoạt động kinh doanh qua các phƣơng tiện điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và truyền dữ liệu điện tử dƣới dạng text, âm thanh và hình ảnh. Thƣơng mại điện tử gồm nhiều hành vi, trong đó có các hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ qua phƣơng tiện điện tử, giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng, chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử, đấu giá thƣơng mại, hợp tác thiết kế, mua sắm công cộng, tiếp thị trực tiếp tới ngƣời Bài Giảng TMĐT Page 1
  2. tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng. Thƣơng mại điện tử đƣợc thực hiện đối với cả lĩnh vực kinh doanh hàng hóa hữu hình (ví dụ nhƣ hàng tiêu dùng, các thiết bị y tế chuyên dụng) và kinh doanh dịch vụ (ví dụ nhƣ dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ pháp lý, tài chính); các hoạt động kinh doanh mới (ví dụ nhƣ siêu thị ảo trên mạng) và các hoạt động công ích (nhƣ chăm sóc sức khỏe, giáo dục ). Tóm lại, theo nghĩa rộng thì thương mại điện tử có thể được hiểu là các giao dịch tài chính và thương mại bằng các phương tiện điện tử. Nếu hiểu thƣơng mại điện tử theo phƣơng diện này, thƣơng mại điện tử không phải là một vấn đề mới mẻ với chúng ta. Bởi vì những giao dịch điện tử, đƣợc thực hiện thông qua các phƣơng tiện thông tin liên lạc đã tồn tại hàng vài chục năm nay (fax, telex ) và đã trở nên rất quen thuộc với chúng ta. Quả vậy, trên thực tế, nhiều doanh nghiệp lớn đã áp dụng hình thức thƣơng mại điện tử theo nghĩa này từ giữa những năm 60 của thế kỷ 20. Các giao dịch kinh doanh giữa các doanh nghiệp kiểu B to B (Business to Business) đã đƣợc triển khai trên các phƣơng tiện điện tử nhƣ mạng nội bộ, truyền thông Trong đó, trao đổi dữ liệu điện tử – EDI (viết tắt của Electronic data interchange) trên mạng chuyên dùng là cách giao dịch điển hình. Các ngân hàng thì thƣờng xuyên dùng các mạng chuyên dùng trong việc chuyển khoản điện tử –EFT (viết tắt của Electronic funds transfer)- một dạng dữ liệu điện tử cho biết số tiền hoán đổi giữa các ngân hàng hoặc liên quan đến tài chính. Các mạng chuyên dụng trên là một phƣơng tiện điện tử rất hữu dụng, mặc dù chúng chỉ tồn tại trong sự kết nối giữa các doanh nghiệp lớn. Trên thực tế chỉ có rất ít các doanh nghiệp (chủ yếu là các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực tài chính, ngân hàng) tham gia kết nối để tổ chức các giao dịch kiểu này. Internet ra đời, và ngay sau đó nó phát triển nhanh chóng cả theo nghĩa tăng độ phủ ra toàn cầu và năng lực phục vụ, đồng thời ngày càng trở nên phổ biến, quen dùng hơn trong mọi cộng đồng dân cƣ. Thƣơng mại điện tử đã thực sự thu hút của cả ngƣời tiêu dùng cá thể và mọi doanh nghiệp lớn nhỏ. Internet đã làm thay đổi nhiều cách thức tổ chức kinh doanh. Ngày càng có nhiều doanh nghiệp sử dụng Internet. Hoạt động thƣơng mại giữa các doanh nghiệp trên Internet cũng gia tăng. Chính sự phát triển kỳ diệu này đã làm nảy sinh khái niệm thƣơng mại điện tử theo nghĩa hẹp mà chúng ta sẽ nghiên cứu dƣới đây. Theo nghĩa hẹp Thương mại điện tử, hiểu theo nghĩa hẹp, bao gồm các hoạt động thương mại được thực hiện thông qua mạng internet. Các tổ chức nhƣ Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế (OECD) đƣa ra khái niệm về thƣơng mại điện tử theo hƣớng này. Bài Giảng TMĐT Page 2
  3. Theo Tổ chức Thương mại thế giới, thƣơng mại điện tử đƣợc hiểu bao gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm đƣợc mua bán và thanh toán trên mạng Internet, nhƣng đƣợc giao nhận một cách hữu hình. Khái niệm về thƣơng mại điện tử do Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế của Liên Hợp quốc (OECD) đƣa ra là: thƣơng mại điện tử đƣợc định nghĩa sơ bộ là các giao dịch thƣơng mại dựa trên truyền dữ liệu qua các mạng truyền thông nhƣ Internet. Theo các khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu đƣợc rằng, theo nghĩa hẹp, thƣơng mại điện tử chỉ bao gồm những hoạt động thƣơng mại đƣợc thực hiện thông qua mạng Internet mà không tính đến các phƣơng tiện điện tử khác nhƣ điện thoại, fax, telex Nhƣ vậy, theo nghĩa này thì thƣơng mại điện tử chỉ mới tồn tại trong những năm gần đây nhƣng đã đạt đƣợc những kết quả rất đáng quan tâm. Nếu hiểu thƣơng mại điện tử theo nghĩa này, ta có thể nói rằng thƣơng mại điện tử đang trở thành một cuộc cách mạng làm thay đổi cách thức mua sắm của con ngƣời. Trên thực tế và một cách phổ biến, thƣơng mại điện tử còn đƣợc hiểu một cách đơn giản hơn nữa: nó đƣợc hiểu là việc mua bán hàng hoá và dịch vụ trên internet. Song, theo khái niệm mà ta đã nghiên cứu, thƣơng mại điện tử thực sự phong phú và muôn màu, muôn vẻ hơn. Nó không chỉ bao gồm việc xử lý giao dịch mua bán và chuyển tiền qua mạng mà còn bao gồm cả các hoạt động trƣớc (chào hàng, quảng cáo ) và sau (ý kiến khiếu nại, phàn nàn ) khi bán hàng. Đặc biệt, khi Internet phát triển nhanh, thƣơng mại điện tử còn bao hàm cả việc mua bán một hàng hoá mới, đó là thông tin điện tử. Mặc dù hình thức ban đầu của thƣơng mại điện tử chỉ bao gồm các giao dịch thƣơng mại giữa các doanh nghiệp - B to B (Business to Business – B2B) mà chủ yếu giữa các doanh nghiệp lớn, các ngân hàng và các ngân hàng và các tổ chức tài chính với nhau. Song, sự phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ và lan rộng của Internet đã đƣa thƣơng mại điện tử đến từng khách hàng đơn lẻ và đã kéo theo việc thay đổi quan niệm về nó, B to C (Business to Customers – B2C) xuất hiện. Hiện nay, khách hàng cá thể đang là đối tƣợng hƣớng tới đối với thƣơng mại điện tử. Điều này đòi hỏi cần thiết phải tạo ra các điều kiện liên quan về công nghệ, pháp lý thuận lợi nhất để khuyến khích khách hàng cá thể tham gia thƣơng mại điện tử. Trên thực tế, kiểu thƣơng mại điện tử phổ biến kiểu B to B mới chỉ gồm sự tham gia của các doanh nghiệp lớn và đem lại nhiều lợi ích cho chính các doanh nghiệp đó. Cùng với sự phát triển của Internet, trong nhiều trƣờng hợp, các doanh nghiệp nhỏ cũng phát hiện ra rằng họ cũng có thể tổ chức kinh doanh trực tuyến đƣợc nhƣ các công ty lớn, có thể tận dụng đƣợc các lợi thế của Internet để giảm chi phí kinh doanh. Bài Giảng TMĐT Page 3
  4. Hiện nay, rất nhiều cuốn sách và tài liệu viết về thƣơng mại điện tử theo nghĩa hẹp này. Điều này rất dễ hiểu vì chính các hoạt động thƣơng mại thông qua mạng Internet đã làm phát sinh thuật ngữ thƣơng mại điện tử. Trong tài liệu này, chúng ta hãy tạm thời chấp nhận khái niệm và nghiên cứu về thƣơng mại điện tử theo quan điểm này. 1.2. Quá trình và xu hướng phát triển TMĐT Trong khi máy tính đã trải qua 5 thế hệ trong lịch sử phát triển gần 40 năm qua thì Thƣơng mại điện tử (TMĐT) mới trải qua hai giai đoạn và đang tiến tới thế hệ thứ 3. Nền kinh tế tri thức đang chuẩn bị cho một bƣớc ngoặt lớn mà ở đó sự canh tranh đi vào chiều sâu, nếu không có sự chuẩn bị tốt, bất kỳ một đối thủ nào cũng có thể bị loại ra khỏi cuộc chơi. Vậy thƣơng mại điện tử thế hệ ba sẽ mang những đặc tính gì? 1.2.1. Quá trình phát triển a. Thế hệ thứ nhất Các Công ty tham gia thế hệ TMĐT thứ nhất bằng cách tạo dựng các trang web, tìm cách kết nối chúng với internet để khách hàng có thể truy nhập 24/24. Các trang web này đơn giản là những trang quảng cáo sản phẩm, dịch vụ giới thiệu về Công ty. Một số công ty đã thiết lập hệ thống đơn hàng, giá mua bán hàng hoá, nhƣng những thông tin từ các đơn đặt hàng này đƣợc xử lý một cách thủ công. Chính vì thế, ngƣời ta gọi TMĐT thế hệ thứ nhất là thế hệ "ca - ta - lô" điện tử (electronic brochure). Tuy chƣa mang lại giá trị trao đổi thƣơng mại lớn, nhƣng TMĐT thế hệ thứ nhất đã tạo một bƣớc đột phá đối với thƣơng mại truyền thống, tạo ra các mối liên kết hoàn toàn mới giữa ngƣời bán và ngƣời mua. b. Thế hệ thứ hai TMĐT thế hệ thứ nhất đã đánh vào thị hiếu của khách hàng là muốn có sự giao tiếp hai chiều giữa ngƣời bán, ngƣời mua và thông tin trực tuyến. Những nhu cầu này đã đẩy TMĐT phát triển đến thế hệ thứ hai nơi mà các nhà cung cấp tích hợp các máy chủ Web với hệ thống kinh doanh điện tử để cung cấp dịch vụ internet. Trên rất nhiều Website hiện nay, khách hàng có thể đặt hàng. Thông tin đặt hàng đƣợc tiếp nhận và chuyển xuống cho một hệ thống xử lý đơn đặt hàng. Một số doanh nghiệp sử dụng các công nghệ kinh doanh thông minh để phân tích các thuộc tính mua hàng của khách hàng và lập hồ sơ khách hàng. Ví dụ nhƣ trang Web của nhà sách nổi tiếng thế giới Amazon (www.amazon.com). Nếu bạn đã một lần vào đăng ký mua sách văn học, thì hệ thống dữ liệu Bài Giảng TMĐT Page 4
  5. khách hàng tự động lập hồ sơ bạn và khi họ có một đầu sách văn học mới, chƣơng trình sẽ tự động gửi email chào bán đến cho bạn. Tuy các nhà cung cấp đã tự động hoá thành công hệ thống kinh doanh của mình nhƣng khách hàng thì lại không thể nắm bắt hết những luồng dữ liệu khổng lồ trên mạng. Họ muốn có đƣợc các thông tin thực nhƣng phải là những thông tin mà họ cần. Khách hàng đòi hỏi các nhà cung cấp phải chú ý đến việc đồng bộ các hệ thống kinh doanh điện tử với quá trình xử lý kinh doanh tự động của họ và cho phép họ tập trung vào việc ra các quyết định tối ƣu. Những Công ty có tầm nhìn bắt đầu nghĩ tới việc tạo ra các hệ thống thƣơng mại điện tử thoả mãn nhu cầu khách hàng tốt hơn. Họ đang phát triển các dịch vụ khả dĩ có thể tạo cho khách hàng khả năng đồng bộ thông tin với các ứng dụng dù các ứng dụng này có thể là các hệ thống doanh nghiệp, năng suất cá nhân giao tiếp, hay các công cụ ra quyết định. c. Thế hệ thứ ba Thay vì cung cấp thông tin trên trang web hoặc các máy chủ để mọi ngƣời truy cập khai thác, ngƣời ta trông đợi các nhà cung cấp sẽ trực tiếp chuyển thông tin qua mạng tới từng khách hàng, từng máy tính cá nhân. Nhà bán hàng sẽ phải cung cấp đầy đủ thông tin cho khách hàng của họ bất cứ ở đâu, bất kỳ lúc nào họ muốn thông qua máy tính xách tay, điện thoại di động hoặc từ máy chủ tới máy chủ. Thƣơng mại điện tử thế hệ thứ ba không định hƣớng vào web mà định hƣớng vào khách hàng. Thay vì phải ngồi trƣớc máy tính, mở trình duyệt để tìm kiếm và dịch thông tin trên trang web thì các hệ thống kinh doanh điện tử thế hệ ba sẽ tự động biết khách hàng cần gì để gửi và biên dịch thông tin đó cho khách hàng. Các Công ty sẽ cạnh tranh nhau trên cơ sở hiệu quả của việc đồng bộ thông tin mà họ có với thông tin mà khách hàng muốn để tạo ra lợi ích kinh doanh. Thắng lợi của các Công ty không chỉ quyết định bằng việc tăng tốc độ, tự động hoá, tối ƣu hoá các hệ thống kinh doanh mà còn bằng việc cung cấp thông tin để giúp khách hàng của họ tăng tốc, tự động hoá và tối ƣu hoá quá trình ra quyết định kinh doanh. Trong TMĐT thế hệ ba, thông tin trở thành yếu tố then chốt trong việc ra quyết định, mỗi tầng quyết định sẽ ảnh hƣởng các tầng khác theo một hiệu ứng liên hoàn qua nhiều trung gian khác nhau. Đối với phần lớn các hoạt động kinh doanh điện tử, nhiều nhà cung cấp và bán hàng Bài Giảng TMĐT Page 5
  6. sẽ cùng tham gia vào một giao dịch và không một nhà cung cấp đơn lẻ nào có thể nghĩ rằng mình là nhân tố quan trọng nhất. TMĐT thế hệ ba sẽ đòi hỏi các ứng dụng tự động và thông minh ở cả hai đầu giao dịch và phần mềm trung chuyển khả dĩ cho phép các ứng dụng tự tƣơng tác với nhau mà không cần sự tác động của con ngƣời. Một ứng dụng ở một đầu giao dịch có thể tự động truy nhập và trao đổi nhiều nguồn thông tin cùng lúc trên nhiều máy chủ của các công ty qua internet và đồng bộ hoá thông tin. Nếu một khách hàng muốn kiểm tra tình hình phân phối sản phẩm thì anh ta có thể lấy dữ liệu từ xƣởng sản xuất, kho của nhà phân phố, bộ phận giám sát công-ten-nơ của nhà vận chuyển hoặc tại chính phòng tiếp nhận của họ. Một cá nhân có thể dùng một ứng dụng tài chính để lấy thông tin từ 10 hãng môi giới, 4 ngân hàng, 3 công ty bảo hiểm để lập lên một hồ sơ tài chính riêng. Lợi ích từ TMĐT thế hệ ba Thế hệ thứ ba không chỉ tự động hoá việc cung cấp thông tin và xử lý kinh doanh của nhà bán hàng mà còn tự động hoá một phần công việc của khách hàng (hợp nhất thông tin). Lợi ích cho khách hàng đã rõ ràng: bằng việc tự động hoá sự đồng bộ và biên dịch thông tin, khách hàng có nhiều lựa chọn về thông tin hơn để ra các quyết định tối ƣu. TMĐT thế hệ ba sẽ phát huy tối đa hiệu quả của mỗi con ngƣời, mỗi nguồn lực và thúc đẩy tốc độ xử lý và ra quyết định kinh doanh. Do các ứng dụng trong mỗi Công ty có thể làm việc một cách thông minh với nhau, con ngƣời đƣợc rảnh rang để thực hiện những công việc tốt nhất nhƣ phân tích, tính toán, hoàn thiện các quyết định, tìm ra những ngoại tệ trong hệ thống ứng xử chung. Việc quản trị sẽ trở nên đơn giản, tức là vì những thông tin chíng xác, đa nguồn đƣợc cung cấp đúng lúc, đúng ngƣời. Quá trình xử lý thông tin sẽ diễn ra nhanh chóng, hiệu quả hơn bởi dữ liệu đƣợc tập hợp và xử lý đồng bộ với việc ra quyết định. Trên hết, TMĐT thế hệ ba gắn kết với phƣơng thức kinh doanh của một công ty với phƣơng thức mà các đối tác, khách hàng của họ muốn thực hiện. Trong khi nhiều ngƣời vẫn cho rằng chi phí thấp nhất sẽ chiến thắng trong nền kinh tế internet thì phần lớn các chuyên gia lại nhất trí rằng cách dịch vụ khách hàng đặc biệt chiếm một vai trò quan trọng trong việc thu hút và chiếm lĩnh khách hàng trên internet. Các Công ty luôn nỗ lực thực hiện những dịch vụ mà khách hàng mong muốn mới tồn tại đƣợc trong TMĐT thế hệ ba. Thƣơng mại điện tử đang phát triển nhanh trên bình diện toàn cầu. Tuy hiện nay đƣợc áp dụng chủ yếu là ở các nƣớc công nghiệp đang phát triển (riêng Mỹ chiếm khoảng 1/2 tổng doanh số Bài Giảng TMĐT Page 6
  7. thƣơng mại điện tử thế giới), nhƣng các nƣớc đang phát triển cũng đã bắt đầu tham gia. Cách nhìn nhận, đánh giá, cách chuẩn bị, triển khai, và bƣớc đi khác nhau tuỳ theo đặc điểm và ý đồ của từng nƣớc. Kinh nghiệm nƣớc ngoài cho thấy: để có thể tham gia có hiệu quả vào thƣơng mại điện tử và tránh đƣợc các rủi ro khả dĩ, mỗi nƣớc đều phải có chiến lƣợc chung về thƣơng mại điện tử, chƣơng trình tổng thể, phƣơng án hành động từng bƣớc, và phải có tổ chức chuyên trách (gồm 2 loại: tƣ vấn và thực hiện). Sự phát triển của thƣơng mại điện tử một mặt là kết quả của xu hƣớng tất yếu, khách quan của quá trình "số hoá" toàn bộ hoạt động con ngƣời, một mặt khác là kết quả của các nỗ lực chủ quan của từng nƣớc, từng nhóm nƣớc, và toàn thế giới nói chung, đặc biệt là trên bình diện tạo môi trƣờng pháp lý và đƣờng lối chính sách cho kinh tế số hoá nói chung và thƣơng mại điện tử nói riêng. 1.2.2. Xu hướng phát triển của thương mại điện tử Từ khi WWW ra đời năm 1990, các doanh nghiệp đã nhanh chóng nhận ra lợi ích của việc sử dụng WWW để quảng bá thông tin, hỗ trợ việc thực hiện giao dịch thông qua mạng Internet và họ đã triệt để khai thác thế mạnh của WWW vào kinh doanh. Từ đó, khái niệm Thƣơng Mại Điện Tử ra đời. Tuy nhiên, vấn đề thống kê kết quả mà thƣơng mại điện tử mang lại cho nền kinh tế toàn cầu nói chung và từng quốc gia nói riêng thì lại là vấn đề đáng bàn. Có thể do sự phức tạp từ khái niệm cho đến những hoạt động thực tiễn của thƣơng mại điện tử mà rất nhiều tổ chức về thƣơng mại điện tử đã đƣa ra các số liệu thống kê khác nhau. Trong báo cáo mang tên “Thƣơng mại điện tử và kho vận” năm 2001, Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã đƣa ra bảng con số thống kê và dự báo về thƣơng mại điện tử nhƣ sau: BẢNG - DOANH SỐ CỦA THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRÊN THỊ TRƢỜNG TOÀN CẦU (Tỷ USD) Nguồn từ Nguồn từ Nguồn từ Nguồn từ Nguồn từ Deloitte Năm Activmedia Dataquest IDC Emarketer Consulting Bài Giảng TMĐT Page 7
  8. 1997 - - - - 15 1998 - 11,2* 34 - - 1999 58 31,2 68 98,4 - 2000 132 - - - - 2001 283 - - - - 2002 533 - - - 1100 2003 963 380* 1600 1200 - 2005 1965 - - - - (*) Doanh số của thƣơng mại điện tử theo mô hình B to C Riêng với lĩnh vực thƣơng mại điện tử đƣợc thực hiện giữa các doanh nghiệp, con số nghiên cứu đƣợc đƣa ra đầy đủ hơn (xem bảng sau) Bảng - Sự vận động của thị trƣờng thƣơng mại điện tử B to B đến năm 20061 Nguồn 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 IDC 282 516 917 1573 2655 4329 - Gartner 433 919 1929 3632 5950 8530 - Forrester 604 1138 2160 3675 5904 8823 12275 Research ARM 371 704 1375 2261 3350 4739 Research 1 Theo báo cáo „Nhứng con số chính của thƣơng mại điện tử‟, tháng 5 năm 2004 của Trung tâm nghiên cứu thƣơng mại điện tử vùng Nord-Pas de Calais, Pháp Bài Giảng TMĐT Page 8
  9. Emarketer - 474 823 1409 2367 - - Bảng 5- Tỉ trọng thƣơng mại điện tử theo các vùng trên thế giới (tỷ usd)2 Vùng 2000 2002 2004 Toàn Thế 657 2231,2 6789,9 Giới Bắc Mỹ 509,3 1495,2 3456,4 Châu Á Thái 53,7 286,6 1649,8 Bình Dương Tây Âu 87,4 422,1 1533,2 Nam Mỹ 3,6 13,7 81,8 Các Vùng 3,2 13,5 68,6 Khác Qua những số liệu thống kê trên, mặc dầu ta thấy những con số này là không hoàn toàn đồng nhất nhƣ lý do đã đề cập. Tuy nhiên, chúng cùng có đặc điểm chung là chỉ ra xu hƣớng tăng trƣởng rất mạnh mẽ của thƣơng mại điện tử trên toàn cầu cũng nhƣ của từng vùng trên thế giới. Đặc biệt, nhìn cơ cấu thƣơng mại điện tử theo vùng, ta thấy vùng Châu á Thái bình dƣơng đang là vùng có mức độ tăng trƣởng thƣơng mại điện tử rất cao. Trong khối ASEAN, loại trừ Singapore là nƣớc nổi tiếng về phát triển kinh tế và công nghệ, Thái Lan đang là nƣớc tận dụng thế mạnh của Internet, WWW và TMĐT khá tốt. Hầu hết các doanh nghiệp ở đây đều có website riêng, viết bằng tiếng Anh và tiếng Thái, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu và du lịch. Khách hàng từ các nƣớc trên thế giới có thể dễ dàng mua hàng hay đặt dịch vụ du lịch ở Thái thông qua WWW. Nhƣ vậy, ta thấy, thƣơng mại điện tử càng lúc càng phát triển trên thế giới và doanh thu do nó mang lại cũng tăng rất lớn mỗi năm. Đó là lý do tại sao Việt Nam cũng đang ráo riết khuyến khích, thúc đẩy và xây dựng cơ sở cho việc phát triển thƣơng mại điện tử ở Việt Nam Internet xuất hiện ở Việt Nam từ năm 1997 và việc truy cập Internet đã trở nên dễ dàng và rẻ hơn trƣớc nhiều trong vài năm gần đây, ngay cả ở các tỉnh xa xôi. Đây là tín hiệu tốt và có lợi cho việc triển khai thƣơng mại điện tử ở Việt Nam. 2 Theo báo cáo „Thƣơng mại điện tử và kho vận‟ của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế, tháng 5/6 năm 2001 Bài Giảng TMĐT Page 9
  10. Bƣớc qua thế kỷ XXI, dịch vụ xây dựng website cho doanh nghiệp cũng đƣợc “bung” ra. Ngoài các “đại gia” nhƣ FPT, VASC, VDC v.v còn có vô số các doanh nghiệp nhỏ làm dịch vụ xây dựng website. Tuy nhiên, giá cả cho dịch vụ này còn rất phức tạp và tƣơng đối cao. Do đó, doanh nghiệp cũng gặp khó khăn trong việc chọn lựa một nhà cung cấp dịch vụ với chi phí và chất lƣợng hợp lý. Gần đây, đã xuất hiện một số doanh nghiệp mở siêu thị điện tử để bán hàng qua mạng cho đối tƣợng ngƣời Việt Nam và ngƣời nƣớc ngoài. Ngoài ra, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực có liên quan đến xuất khẩu cũng đã và đang xây dựng website cho mình. Tất cả đều là tín hiệu tốt cho việc phát triển thƣơng mại điện tử ở Việt Nam. Thế nhƣng, do cả phía ngƣời bán và ngƣời mua (qua mạng Internet) đều chƣa sẵn sàng, việc sử dụng thẻ chƣa thành thói quen trong thanh toán nên các nỗ lực khai thác Internet đang dừng lại ở mức tiếp thị và quảng cáo cho thƣơng mại truyền thống. Tại Việt Nam, chƣa có ngân hàng hoặc tổ chức nào cung cấp dịch vụ merchant account mặc dù nhu cầu sử dụng dịch vụ này của các website Việt Nam đang tăng nhanh. Để khắc phục hạn chế này, các website Việt Nam chỉ có thể sử dụng dịch vụ của một số ngân hàng hoặc tổ chức nƣớc ngoài dù rằng chi phí khá cao. Hoặc làm theo cách của chipchip.com hay bancanbiet.com: cho khách hàng tạo một tài khoản theo kiểu "trả tiền trƣớc" ngay trên website, sau khi khách hàng nạp tiền vào tài khoản này, bên bán sẽ trừ dần tiền trong tài khoản ấy khi khách đăng ký mua hàng.  Cơ sở pháp lý cho thƣơng mại điện tử vẫn đang trong quá trình soạn thảo Có thể nói rằng các văn bản pháp luật sẽ thiết lập hành lang pháp lý an toàn cho các giao dịch thƣơng mại điện tử, đặc biệt có ý nghĩa trong việc thúc đẩy sự phát triển của thƣơng mại điện tử. Có 3 vấn đề rất quan trọng đối với thƣơng mại điện tử ở Việt Nam, đó là việc công nhận chữ ký điện tử, chứng từ điện tử; vấn đề thanh toán điện tử và vấn đề bảo mật, an toàn trong thƣơng mại điện tử. Nếu không có hành lang pháp lý, nhiều trang Web thƣơng mại điện tử không cam kết cũng nhƣ chẳng yêu cầu khách hàng cam kết về trách nhiệm với đơn hàng đã đặt.  Bên cạnh các vấn đề đã đề cập, cũng phải nhấn mạnh thêm rằng các doanh nghiệp nhỏ ở Việt Nam vẫn chƣa quan tâm nhiều đến việc khai thác lợi ích từ thƣơng mại điện tử. Mặc dầu rằng nếu khai thác thƣơng mại điện tử, họ sẽ đƣợc hƣởng lợi rất nhiều từ nó (nhƣ đã đã phân tích). Đồng thời, ở nƣớc ta cũng chƣa có nhiều doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xúc tiến thƣơng mại điện tử một cách chuyên nghiệp và hiệu quả cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bài Giảng TMĐT Page 10
  11. Tuy nhiên, với tốc độ phát triển về công nghệ thông tin nói chung và công nghệ web/Internet nói riêng ở Việt Nam, và với tốc độ phát triển và hòa nhập kinh tế của Việt Nam với các nƣớc trên thế giới, thƣơng mại điện tử ở Việt Nam sẽ nhanh chóng phát triển trong vài năm tới. Thật vậy, mặc dầu còn nhiều khó khăn và hạn chế nhƣng chúng ta cũng không thể phủ nhận những cố gắng của Chính phủ Viêt Nam trong việc khuyến khích và thúc đẩy sự phát triển thƣơng mại điện tử ở Viêt Nam bằng cách đang xây dựng các bộ luật cho thƣơng mại điện tử, có chính sách ƣu đãi những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNTT, và các ngân hàng cũng đang nỗ lực xây dựng các hệ thống thanh toán qua mạng Do đó, đây có thể đƣợc coi là thời điểm tốt cho doanh nghiệp để thực hiện ngay những bƣớc đi đầu tiên của mình trên con đƣờng ứng dụng thƣơng mại điện tử để tạo nền tảng cho những phát triển tiếp theo. Phần thắng sẽ thuộc về ai có tầm nhìn chiến lƣợc và có sự chuẩn bị nội lực cho mình ngay từ bây giờ. 1.3. Đặc trưng của thương mại điện tử Với khái niệm nhƣ trên về thƣơng mại điện tử, ta thấy, so với thƣơng mại truyền thống, thƣơng mại điện tử có những đặc trƣng sau đây: 1.3.1. Không trực tiếp tiếp xúc Các bên tiến hành giao dịch trong thƣơng mại điện tử không cần phải tiếp xúc với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trƣớc. Trong thƣơng mại truyền thống, các bên thƣờng gặp gỡ nhau trực tiếp để tiến hành giao dịch. Và nơi diễn ra các giao dịch theo kiểu truyền thống này thƣờng là chợ: từ các chợ truyền thống đến các cửa hàng, siêu thị, trung tâm thƣơng mại. Các đối tác kinh doanh tham gia giao dịch thƣờng phải gặp gỡ nhau và tiếp xúc với nhau để tìm hiểu về thông tin, khảo hàng và thƣơng lƣợng thậm chí họ còn là những ngƣời đã quen biết nhau từ trƣớc. Họ thƣờng gặp nhau tại một địa điểm nhất định (có thể là địa điểm của ngƣời bán, ngƣời mua hoặc một địa điểm nào khác mà hai bên cùng thống nhất) để tiến hành các giao dịch này. Các giao dịch đƣợc thực hiện chủ yếu theo nguyên tắc vật lý nhƣ chuyển tiền, séc, hoá đơn, vận đơn, gửi báo cáo. Sự ra đời của các phƣơng tiện viễn thông nhƣ fax, telex đã làm giảm thiểu đƣợc những cuộc tiếp xúc đôi khi không cần thiết và gây lãng phí giữa các đối tác kinh doanh nhƣ trong thƣơng mại truyền thống. Tuy nhiên, việc sử dụng các phƣơng tiện điện tử trong thƣơng mại truyền thống thƣờng chỉ đƣợc sử dụng để trao đổi số liệu kinh doanh. Từ khi xuất hiện mạng máy tính mở toàn cầu Internet thì việc trao đổi thông tin đã đƣợc Bài Giảng TMĐT Page 11
  12. mở rộng nhanh chóng trên phạm vi toàn thế giới với số lƣợng ngƣời tham gia ngày tăng. Những ngƣời tham gia có thể là các cá nhân hoặc doanh nghiệp, có thể đã biết hoặc hoàn toàn chƣa biết bao giờ. Họ gặp gỡ nhau qua những chợ ảo trên mạng để thực hiện khảo hàng và mua bán. Hình: Quá trình mua bán so sánh giữa TMTT - TMĐT 1.3.2. Khái niệm biên giới dần được xoá mờ Các giao dịch thƣơng mại truyền thống đƣợc thực hiện với sự tồn tại rõ nét của khái niệm biên giới quốc gia, còn trong thƣơng mại điện tử, khái niệm biên giới dần đƣợc xoá mờ. Có thể nói rằng khái niệm biên giới là một cản trở lớn đối với thƣơng mại truyền thống. Đề cập tới khái niệm biên giới trong thƣơng mại truyền thống, ngƣời ta thƣờng hay nghĩ tới sự gia tăng của chi phí giao dịch, những rào cản thuế quan và phi thuế quan- những điều có thể cản trở một doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh của mình trên những thị trƣờng nƣớc ngoài. Tiến tới thế kỷ 21, bất kỳ ngƣời dân nào dù là ngƣời tiêu dùng, ngƣời kinh doanh nhỏ hay là những công ty lớn đều có thể mở rộng việc giao dịch của mình tới những nơi xa xôi nhất của hành tinh. Toàn cầu hoá, tự do hoá mậu dịch và phát triển là con đƣờng nhanh chóng đƣa các quốc gia và các doanh nghiệp thay đổi theo hƣớng cạnh tranh quốc tế trên phạm vi toàn cầu, kể cả việc dành lấy thị trƣờng nƣớc ngoài, thu hút các nhà đầu tƣ và các đối tác thƣơng mại nƣớc ngoài. Theo xu hƣớng này các nƣớc đã và đang dần từng bƣớc cố gắng loại bỏ những rào cản thuế quan và phi thuế quan để tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch thƣơng mại quốc tế. Bài Giảng TMĐT Page 12
  13. Song, ngay cả trong điều kiện đó thì vấn đề chi phí giao dịch kinh doanh ngoài biên giới vẫn là một rào cản to lớn đối với các doanh nghiệp muốn vƣơn tới những thị trƣờng mới. Tuy nhiên, rào cản về chi phí lại có thể đƣợc xoá bỏ bởi sự phát triển của thƣơng mại điện tử. Thật vậy, thƣơng mại điện tử phát triển càng nhanh thì máy tính cá nhân càng trở thành một công cụ hữu dụng cho doanh nghiệp hƣớng ra thị trƣờng trên khắp thế giới. Không chỉ có các công ty hàng đầu thế giới mới có thể tiếp cận đƣợc những thị trƣờng mới, mà ngay cả một công ty vừa mới khởi sự cũng có một mạng lƣới tiêu thụ và phân phối không biên giới ngay nhờ đầu ngón tay của mình. Với thƣơng mại điện tử, một doanh nhân dù mới bắt đầu công việc kinh doanh cũng hoàn toàn có thể kinh doanh ở Nhật Bản, Đức hay Mỹ mà không hề phải bƣớc chân ra khỏi nhà- một công việc mà trƣớc kia phải mất nhiều năm. 1.3.3. Mạng lưới thông tin chính là thị trường Đối với thƣơng mại truyền thống thì mạng lƣới thông tin chỉ là phƣơng tiện để trao đổi dữ liệu, còn đối với thƣơng mại điện tử thì mạng lƣới thông tin cũng chính là thị trƣờng. Trong thƣơng mại truyền thống, mạng lƣới thông tin chỉ là phƣơng tiện để các bên tham gia giao dịch có thể trao đổi dữ liệu tiến tới việc thực hiện giao dịch, còn nơi gặp gỡ, tiếp xúc của họ để tiến hành giao dịch kinh doanh là hoàn toàn độc lập. Còn trong thƣơng mại điện tử, mạng lƣới thông tin cũng chính là thị trƣờng –nơi gặp gỡ giữa ngƣời bán và ngƣời mua. Trên Internet đã xuất hiện những khu chợ ảo khổng lồ, tại đó ngƣời bán và ngƣời mua có thể gặp gỡ nhau, trao đổi dữ liệu, thƣơng lƣợng và tiến hành giao dịch. Các trang Web khá nổi tiếng nhƣ Yahoo! America Online thực sự đã trở thành những khu chợ sầm uất trên Internet. Với mỗi lần nhấn chuột, khách hàng có thể truy cập vào hàng ngàn cửa hàng ảo khác nhau và tỷ lệ khách hàng vào cũng nhƣ mua hàng tại các cửa hàng ảo này là rất cao. Thông qua thƣơng mại điện tử, nhiều loại hình kinh doanh mới đƣợc hình thành, ví dụ các siêu thị ảo đƣợc hình thành để cung cấp hàng hoá và dịch vụ trên mạng máy tính. Theo một số chuyên gia về kinh doanh trên mạng, chính những tính năng dễ sử dụng, dễ hiểu của các trang Web dành cho thƣơng mại điện tử là những yếu tố quyết định trong việc thu hút khách hàng. Ngƣời tiêu dùng đã bắt đầu mua trên mạng một số loại hàng trƣớc đây đƣợc coi là khó bán trên mạng. Con ngƣời ngày càng trở nên lƣời biếng và họ cho rằng thà phải trả thêm một chút tiền còn hơn là phải đến tận của hàng. Một số công ty đã mời khách hàng may đo quần áo trên mạng, tức là khách hàng chọn kiểu, gửi số đo theo hƣớng dẫn của cửa hàng (qua Internet) rồi sau một thời gian nhất định sẽ nhận đƣợc bộ quần áo theo đúng yêu cầu của mình. Điều tƣởng nhƣ không thể thực hiện đƣợc này cuối cùng cũng đƣợc rất nhiều ngƣời hƣởng ứng. Các chủ cửa Bài Giảng TMĐT Page 13
  14. hàng thông thƣờng ngày nay cũng đua nhau đƣa thông tin lên Web để tiến tới khai thác mạng thị trƣờng rộng lơn trên Web bằng cách mở cửa hàng ảo. Nhƣ vậy, trong thƣơng mại điện tử, bản chất của thông tin không thay đổi. Thƣơng mại điện tử chỉ biến đổi cách thức khởi thảo, trao đổi, bảo quản và xử lý thông tin mà hoàn toàn không thay đổi những chức năng cơ bản của thông tin đối vớI các bên tham gia truyền thống của hợp đồng. 1.3.4. Có sự tham gia của ít nhất ba chủ thể Trong hoạt động thƣơng mại điện tử đều có sự tham gia của ít nhất ba chủ thể, trong đó có một bên không thể thiếu đƣợc là ngƣời cung cấp mạng. Trong thƣơng mại điện tử, ngoài các chủ thể tham gia giao dịch giống nhƣ trong giao dịch thƣơng mại truyền thống (ngƣời mua và ngƣời bán) đã xuất hiện thêm một bên thứ ba đó là nhà cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực Đây là những ngƣời tạo môi trƣờng cho các giao dịch thƣơng mại điện tử. Nhà cung cấp dịch vụ mạng có nhiệm vụ chuyển, lƣu giữ các thông tin giữa các bên tham gia giao dịch thƣơng mại điện tử, đồng thời, họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong giao dịch thƣơng mại điện tử. 1.3.5. Độ lớn và vị trí của các doanh nghiệp trở nên không quan trọng Trong thƣơng mại điện tử, độ lớn và vị trí của các doanh nghiệp trở nên không quan trọng Nếu nhƣ trong thƣơng mại truyền thống, độ lớn và vị trí có ảnh hƣởng quan trọng với sự thành công trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thì trong thƣơng mại điện tử, điều này không còn đúng nữa. Thật vậy, trong thƣơng mại điện tử, bất kỳ là lớn hay nhỏ, doanh nghiệp đều có thể dễ dàng truy nhập đến các khách hàng tiềm năng. Internet không giống nhƣ thế giới hiện thực mà trong đó vị trí và độ lớn của doanh nghiệp có thể ảnh hƣởng đến khả năng tiếp cận với khách hàng. Thành công này đã đƣợc chứng tỏ bởi các doanh nghiệp mới đƣợc thành lập nhƣ Amazon.com, e-trade và e-toys, tất cả đã xác định lại các thị trƣờng tƣơng ứng của mình và hiện nay chiếm thị phần lớn trên Internet. Các công ty này chƣa tồn tại trƣớc khi có Internet. Ngày nay, họ đã có thể cạnh tranh với các công ty tồn tại lâu đời, có cơ sở hạ tầng vững mạnh và quyền lực mua bán lớn bằng cách sử dụng sự hiểu biết và linh hoạt để tận dụng ƣu thế của môi trƣờng mới. Một ƣu thế của sự hiện diện trên Web là nó không có vị trí xác định, kể cả múi giờ và biên giới lãnh thổ. Thông qua Web, doanh nghiệp có thể tiếp cận với các khách hàng ở các vùng địa lý mà trƣớc đây họ không thể vƣơn tới đƣợc. Nhiều ngƣời tham quan website của doanh nghiệp Bài Giảng TMĐT Page 14
  15. không ý thức đƣợc về độ lớn cũng nhƣ vị trí của doanh nghiệp. Với một website, doanh nghiệp có thể dễ dàng hỗ trợ khách hàng ở bất kỳ đâu trên thế giới. Múi giờ không còn trở nên quan trọng nữa. Internet có thể truy cập 24 giờ trong ngày và 7 ngày trong tuần (gọi là sự hiện diện web 24/7). Các cơ sở dữ liệu và e-mail cũng giúp các doanh nghiệp nhiều trong việc cung cấp cho khách hàng các yêu cầu về thông tin hay dịch vụ. Doanh nghiệp có thể duy trì hay giảm số lƣợng nhân viên hiện tại mà vẫn có thể cung cấp cho các khách hàng hiện tại và tƣơng lai nhiều thời gian hỗ trợ và phục vụ hơn. Không có khoảng thời gian trễ giữa việc công bố thông tin trên website và việc khách hàng truy nhập đến các thông tin này. Doanh nghiệp có thể theo dõi các sản phẩm mới và các chiến dịch marketing ngay lập tức. Các thông điệp, sự sắp xếp và trọng tâm của các chiến dịch marketing trực tuyến có thể đƣợc phân nhỏ với chi phí rất ít và không có thời gian trễ. 1.4. Lợi ích của TMDT Để có thể thấy rõ hơn về lợi ích của thƣơng mại điện tử đối với doanh nghiệp, ta hãy đi khảo sát về thƣơng mại truyền thống. Nhằm đáp ứng nhu cầu thị trƣờng, các doanh nghiệp thiết kế và sản xuất sản phẩm mới, tiếp thị sản phẩm, phân phối chúng và cung cấp các hỗ trợ cho khách hàng, và trên cơ sở đó, tạo ra doanh thu cho chính họ. Đầu tiên, khách hàng phải mô tả nhu cầu về một mặt hàng nào đó, có thể về một sản phẩm, một dịch vụ hoặc một thông tin. Sau đó, họ tìm kiếm thông tin về bản thân mặt hàng đó, về nơi bán và lựa chọn (trên cơ sở so sánh chúng với nhau về giá cả, dịch vụ, uy tín ) trƣớc khi quyết định mua hàng. Quá trình mua bán cũng có thể bao gồm việc thƣơng lƣợng về giá cả, chất lƣợng, điều kiện phân phối, thậm chí một số vấn đề liên quan đến pháp lý. Chu kỳ bán hàng chƣa kết thúc ở việc phân phối sản phẩm hoặc dịch vụ. Trong mua bán còn diễn ra công tác hỗ trợ khách hàng mà chúng ta vẫn thƣờng gọi là dịch vụ khách hàng, công tác này mang lại quyền lợi cho cả hai phía: khách hàng (sự hài lòng cao hơn) và doanh nghiệp (hiểu hơn về nhu cầu thị trƣờng và có những khách hàng trung thành). Tham gia vào quá trình mua bán này còn có cả các ngân hàng, tổ chức tài chính, tín dụng- những ngƣời giải quyết thanh toán giữa ngƣời mua và ngƣời bán. Nhƣ vậy, thƣơng mại truyền thống không chỉ đơn giản là những hoạt động mua và bán sản phẩm, mà nó là một tiến trình mang nghĩa rộng hơn, nhiều tác vụ hơn. Tƣơng tự, cũng xin nhắc lại là ngƣời ta cũng sẽ không chấp nhận một định nghĩa đơn giản hoá về thƣơng mại điện tử là nó chỉ là các hoạt động giao dịch kinh doanh trên các mạng điện tử thay vì dùng giấy, điện thoại, ngƣời đƣa thƣ, ôtô, máy bay và các phƣơng tiện khác để chuyển hàng hoá và thông tin. Bài Giảng TMĐT Page 15
  16. Nhƣ đã đề cập, thƣơng mại điện tử là một hệ thống không chỉ bao gồm các giao dịch trực tiếp sinh lợi xoay quanh hoạt động mua bán hàng và dịch vụ mà cả các giao dịch gián tiếp hỗ trợ sinh lợi nhƣ kích thích một nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ, cung cấp các dịch vụ khách hàng và hỗ trợ bán hàng, tạo một môi trƣờng truyền thông thuận lợi giữa các bên kinh doanh. So với thƣơng mại truyền thống, thƣơng mại điện tử là một hình thức thƣơng mại mới làm thay đổi theo chiều hƣớng tích cực môi trƣờng nội bộ của một doanh nghiệp, cải thiện mối quan hệ khách hàng và loại bỏ các trở ngại về mặt thời gian và không gian. Thƣơng mại điện tử tận dụng ƣu điểm của thƣơng mại truyền thống, đồng thời bổ sung đƣợc tính linh hoạt mềm dẻo đƣợc đƣa ra bởi các mạng điện tử. Sau đây là một số lợi ích cơ bản của thƣơng mại điện tử: 1.4.1. Đối với các doanh nghiệp a. TMĐT đơn giản hoá hoạt động truyền thông và góp phần thay đổi các mối quan hệ của doanh nghiệp và tổ chức Để thấy đƣợc lợi ích này, ta hãy xem xét một ví dụ thực tế các công đoạn mà một doanh nghiệp phải thực hiện khi nhân viên của họ muốn mua 1 sản phẩm hoặc tƣ liệu nào đó, chẳng hạn là 1 tủ hồ sơ. Ta sẽ xem xét doanh nghiệp này phải làm gì nếu họ thực hiện việc mua theo phƣơng thức thƣơng mại truyền thống và những gì họ phải làm trong thƣơng mại điện tử. Trong thƣơng mại truyền thống, khi muốn mua 1 tủ hồ sơ, đầu tiên nhân viên đó phải đƣa yêu cầu mua tủ hồ sơ (trong đó mô tả một vài đặc trƣng của nó: số ngăn, kiểu khoá ), sau đó trình phê duyệt (thƣờng là phải trải qua một hoặc hai cấp quản lý tuỳ theo giá trị cuả chiếc tủ đó). Yêu cầu này sau đó sẽ đƣợc chuyển tới bộ phận mua sắm vật tƣ mà ở đó một ngƣời có trách nhiệm sẽ phải kiểm tra và dựa vào các catelogue để chọn sản phẩm và nhà cung cấp phù hợp. Giả sử doanh nghiệp đó không biết nơi cung cấp tin cậy, nhân viên mua sắm vật tƣ phải kiểm tra rất nhiều catelogue và gọi điện cho nhà cung cấp để xác định rõ loại tủ cần mua. Khi một nhà cung cấp đã đƣợc chọn, nhân viên có thể soạn một đơn đặt hàng, sau đó fax hoặc gửi thƣ đến nhà cung cấp (đặt hàng qua điện thoại có thể không đƣợc chấp nhận do thiếu tƣ cách pháp nhân là dấu và chữ ký, một yêu cầu quan trọng trong giao dịch dựa trên giấy). Sau khi nhận đƣợc đơn đặt hàng, nhà cung cấp tiến hành xác định khả năng thanh toán của bên đặt hàng, kiểm kê số lƣợng hàng trong kho, kiểm tra và lên kế hoạch vận chuyển từ một kho thích hợp với bên mua. Để có thể trả hàng theo đúng thời gian yêu cầu, nhà cung cấp viết phiếu vận chuyển, thông báo cho kho hàng và viết hoá đơn xuất hàng. Hoá đơn đƣợc gửi đi theo đƣờng bƣu điện hoặc giao tận tay ngƣời mua và hàng đƣợc xuất đi. Sau đó, bên mua sẽ thanh toán hoá đơn mua hàng cho bên bán. Bài Giảng TMĐT Page 16
  17. Bây giờ, ta sẽ thử xem quá trình mua tủ hồ sơ sẽ đƣợc tiến hành nhƣ thế nào trong thƣơng mại điện tử. Nhân viên mua sắm vật tƣ sau khi nhận đƣợc chấp nhận yêu cầu mua tủ đã đƣợc duyệt của lãnh đạo sẽ duyệt các trang web của các nhà cung cấp, chọn một mẫu tủ hồ sơ thích hợp với các dữ liệu đã có sẵn trong catelogue trực tuyến. Sau đó, anh ta sẽ dùng thƣ điện tử gửi yêu cầu số hoá (có thể có sẵn trên các website của sản phẩm đƣợc chọn) tới ngƣời quản lý cấp trên để trình duyệt. Sau khi duyệt, ngƣời quản lý đó sẽ dùng e-mail chuyển tiếp yêu cầu tới bộ phận mua sắm vật tƣ; bộ phận này có thể sao chép các thông tin cần thiết vào trong cơ sở dữ liệu đơn đặt hàng của họ, đồng thời gửi một đơn đặt hàng điện tử tới nhà cung cấp thông qua EDI hoặc một dạng tƣơng tự và cũng có thể dùng e-mail. Khi nhà cung cấp nhận đƣợc đơn đặt hàng, chƣơng trình máy tính có thể tự động bổ sung vào cơ sở dữ liệu của mình đơn chờ giải quyết, kiểm hàng trong kho, kiểm tra tình hình tín dụng của doanh nghiệp đặt hàng, đánh dấu các hạng mục có thể phân phát. Cũng chính chƣơng trình này có thể tự động chuyển phiếu vận chuyển điện tử tới kho hàng gần nhất và viết hoá đơn. Nếu phải thuê vận chuyển ở ngoài, bên cung cấp có thể thông báo cho bên trung gian vận chuyển qua e-mail. Khi hàng đã đƣợc bên mua nhận đầy đủ, nhân viên kế toán của bên mua sẽ thông báo cho ngân hàng (bằng e-mail) chuyển trả số tiền thanh toán thích hợp cho bên bán. So sánh các bƣớc thực thi thƣơng mại truyền thống và thƣơng mại điện tử đƣợc chỉ ra một cách cụ thể trên bảng 1. Trong chu trình mua bán theo 2 phƣơng thức này có nhiều bƣớc giống nhau nhƣng cách mà thông tin đƣợc nhận và đƣợc truyền trong chu trình là khác nhau. Nhiều phƣơng tiện khác nhau đƣợc dùng trong thƣơng mại truyền thống làm cho khả năng hợp tác giữa ngƣời bán và ngƣời mua trở nên khó khăn hơn và tăng thời gian xử lý đơn đặt hàng. Với thƣơng mại điện tử, mọi cái bắt đầu và phụ thuộc vào các con số, chỉ có các chƣơng trình ứng dụng khác nhau đƣợc truyền và truy cập dữ liệu. Bảng 1. So sánh giữa 2 cách mua hàng cũ và mới Các bƣớc của chu trình bán Thƣơng mại truyền Bên thực hiện Thƣơng mại điện tử hàng thống Thu thập thông tin về sản Ngƣời mua Tạp chí, tờ rơi Trang web phẩm Viết phiếu yêu cầu mua Các biểu mẫu in sẵn, Ngƣời mua E-mail hàng và trình cấp trên duyệt thƣ Kiểm tra khả năng cung cấp Ngƣời mua Điện thoại, fax Trang web hàng và tìm thông tin về giá Tạo đơn đặt hàng Ngƣời mua Biểu mẫu có sẵn E-mail, trang web Gửi đơn đặt hàng Ngƣời mua Fax, thƣ thƣờng, gặp E-mail, EDI Nhận đơn đặt hàng Ngƣời bán trực tiếp Sắp xếp ƣu tiên các đơn đặt Ngƣời bán Cơ sở dữ liệu trực Bài Giảng TMĐT Page 17
  18. hàng tuyến Kiểm kê hàng hoá trong Dạng mẫu in sẵn, Cơ sở dữ liệu trực Ngƣời bán kho điện thoại, fax tuyến Cơ sở dữ liệu trực Lập lịch xuất hàng Ngƣời bán Dạng mẫu in sẵn tuyến, e-mail Phƣơng tiện vận Nhận hàng Ngƣời mua chuyển Thông báo đã nhận hàng Ngƣời mua Dạng mẫu in sẵn Email EDI hoặc cơ sở dữ Định lịch thanh toán Ngƣời mua Điện thoại, thƣ, fax liệu trực tuyến Gửi thanh toán Ngƣời mua Thƣ EDI, EFT Nhận thanh toán Ngƣời bán So sánh cách thức của thƣơng mại truyền thống và thƣơng mại điện tử trong việc đặt mua hàng thông qua ví dụ đơn giản trên tuy không đầy đủ nhƣng đã giúp chúng ta thấy phần nào sự đơn giản hoá các hoạt động giao dịch truyền thông của các doanh nghiệp khi sử dụng thƣơng mại điện tử. Rõ ràng, với thƣơng mại điện tử, doanh nghiệp dù dƣới góc độ là ngƣời mua hàng hay nhà cung cấp đều có thể tiết kiệm đƣợc rất nhiều thời gian và cả tiền bạc cho hoạt động giao dịch, kinh doanh của mình. b. TMĐT giúp doanh nghiệp thu thập được nhiều thông tin Thƣơng mại điện tử giúp các doanh nghiệp thu thập đƣợc nhiều thông tin về thị trường, đối tác kinh doanh. Các doanh nghiệp nắm đƣợc những thông tin phong phú về thị trƣờng, nhờ đó có thể xây dựng đƣợc chiến lƣợc sản xuất và kinh doanh thích hợp với xu thế phát triển của thị trƣờng trong nƣớc, khu vực và quốc tế. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hiện nay đang đƣợc nhiều nƣớc quan tâm, coi là một trong những động lực phát triển kinh tế. Ngoài ra, thƣơng mại điện tử còn giúp doanh nghiệp thu thập đƣợc nhiều thông tin theo nghĩa nó giúp doanh nghiệp tăng cƣờng nhận đƣợc sự phản hồi từ phía khách hàng. Ngày nay, các doanh nghiệp rất quan tâm đến thông tin phản hồi từ phía khách hàng và càng ngày họ càng xem các thông tin phản hồi từ phía khách hàng là nền tảng cho sự thay đổi, cải tiến nhằm phục vụ khách hàng tốt hơn. Trong thƣơng mại truyền thống, quá trình thu thập thông tin phản hồi từ phía khách hàng thƣờng phiền hà và diễn ra lâu hơn trong thƣơng mại điện tử. Trong thƣơng mại truyền thống, các doanh nghiệp phải cố gắng thu thập những thông tin này từ các đợt nghiên cứu, thăm dò ý kiến khách hàng hay qua những phiếu góp ý Còn trong thƣơng mại điện tử, các tính chất tƣơng tác và việc dễ dàng truy nhập của Internet giúp cho các doanh nghiệp nhận đƣợc nhiều hơn các thông tin trực tiếp từ phía khách hàng. Một ví dụ đơn giản nhƣ nút “contact us” Bài Giảng TMĐT Page 18
  19. (Xin hãy liên lạc với chúng tôi) trên website của các doanh nghiệp cho phép khách hàng dễ dàng cung cấp cho họ những thông tin phản hồi. Ngoài ra, các nhóm tin và các nhóm thảo luận trên website cho phép doanh nghiệp có một sự hiểu biết về thị trƣờng nói chung, một sản phẩm cụ thể nào đó hay ý kiến của khách hàng. c. TMĐT giúp doanh nghiệp có thể quảng bá thông tin và tiếp thị cho một thị trường toàn cầu Chỉ với một khoản tiền nhất định mỗi tháng, doanh nghiệp đã có thể đƣa thông tin quảng cáo của mình đến với vài trăm triệu ngƣời xem từ các nơi trên thế giới. Đây là điều mà chỉ có thƣơng mại điện tử làm đƣợc cho doanh nghiệp. Thử so sánh với một quảng cáo trên báo Tuổi Trẻ với vài triệu độc giả, mỗi lần quảng cáo doanh nghiệp phải trả ít nhất 50 đô-la Mỹ, còn nếu doanh nghiệp có một website của mình, doanh nghiệp có thể quảng cáo thông tin 24 giờ mỗi ngày, 7 ngày mỗi tuần, và lƣợng độc giả của website của doanh nghiệp là hàng trăm triệu ngƣời từ mọi nơi trên thế giới. Chi phí cho website của doanh nghiệp mỗi tháng ƣớc tính (kinh tế nhất) là 10 đô-la Mỹ chi phí lƣu trữ trực tuyến (hosting), 10 đến 20 đô-la Mỹ trả cho chi phí quảng cáo (liệt kê địa chỉ web của doanh nghiệp trên một dạng danh bạ doanh nghiệp điện tử). Dĩ nhiên, đây chỉ là chi phí tối thiểu cho website của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có khả năng tài chính, doanh nghiệp còn có thể thuê quảng cáo với chi phí cao hơn để mong quảng cáo tốt hơn. d. Thương mại điện tử giúp doanh nghiệp có thể giảm chi phí Thƣơng mại điện tử giúp doanh nghiệp làm giảm chi phí trƣớc hết là chi phí văn phòng. Chi phí văn phòng là một bộ phận cấu thành quan trọng trong chi phí sản xuất của sản phẩm, dịch vụ. Việc giảm chi phí văn phòng theo nghĩa giảm thiểu các khâu in ấn giấy tờ, giảm thiểu số nhân viên văn phòng cũng có nghiã là giảm chi phí sản xuất sản phẩm, dịch vụ. Thực vậy, trong thƣơng mại điện tử, ngƣời ta chỉ cần dùng các văn phòng, các cửa hàng ảo và không có giấy tờ (các website). Các văn phòng không giấy tờ này chiếm diện tích nhỏ hơn rất nhiều so với các văn phòng truyền thống, chi phí tìm kiếm chuyển giao tài liệu giảm nhiều lần (trong đó khâu in ấn hầu nhƣ đƣợc bỏ hẳn); theo số liệu của hãng General Electricity của Mỹ, tiết kiệm trên hƣớng này đạt tới 30%. Điều quan trọng hơn, với góc độ chiến lƣợc, là các nhân viên của doanh nghiệp đƣợc giải phóng khỏi nhiều công đoạn sự vụ có thể tập trung vào nghiên cứu phát triển, sẽ đƣa đến những lợi ích to lớn lâu dài. Thêm vào đó, sự phát triển của thƣơng mại điện tử cũng dẫn theo những thay đổi về hệ thống và chi phí phân phối của doanh nghiệp. Với đặc trƣng thúc đẩy mối liên hệ trực tiếp giữa khách hàng và các nhà cung cấp qua mạng Internet, thƣơng mại điện tử đã phần nào xoá bỏ đƣợc vai trò của các trung gian trong các kênh phân phối truyền thống. Điều này đã làm giảm rất nhiều Bài Giảng TMĐT Page 19
  20. chi phí phân phối của doanh nghiệp. Ngoài ra, nhƣ ta đã đề cập, thƣơng mại điện tử giúp giảm thấp chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị. Trong thƣơng mại điện tử, một nhân viên bán hàng có thể giao dịch đƣợc với rất nhiều khách hàng. Catalogue điện tử trên Web thì phong phú hơn nhiều và thƣờng xuyên đƣợc cập nhật so với catalogue in ấn chỉ có khuôn khổ giới hạn và luôn luôn lỗi thời. Theo số liệu của hãng Boeing (Mỹ), đã có tới 50% khách hàng đặt mua 9% phụ tùng qua Internet, mỗi ngày hãng giảm đƣợc 600 cuộc điện thoại. Thƣơng mại điện tử cũng giúp người tiêu thụ và các doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch (giao dịch đƣợc hiểu là từ quá trình quảng cáo, tiếp xúc ban đầu, giao dịch đặt hàng, giao dịch thanh toán). Thời gian giao dịch qua Internet chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua Fax, và bằng khoảng 0.5 phần nghìn thời gian giao dịch qua bƣu điện chuyển phát nhanh, chi phí thanh toán điện tử qua Internet chỉ bằng từ 10% đến 20% chi phí thanh toán theo lối thông thƣờng. Bảng 2 chỉ ra một số so sánh cho việc vân chuyển một tài liệu 40 trang3: Bảng 2: So sánh chi phí và tốc độ truyền theo một số phương thức Đƣờng truyền Thời gian Chi phí (usd) Từ New Yord đi Tokyo Chuyển bƣu phẩm thƣờng 5 ngày 7,4 Chuyển phát nhanh 24 giờ 26,25 Qua máy fax 31 phút 28,83 Qua Internet 2 phút 0,1 Từ New Yord đi Los Angeles Chuyển bƣu phẩm thƣờng 2-3 ngày 3 Chuyển phát nhanh 24 giờ 15,5 Qua máy fax 31 phút 9,36 Qua Internet 2 phút 0,1 Trong những yếu tố cắt giảm, yếu tố thời gian là đáng kể nhất, vì việc nhanh chóng làm cho thông tin hàng hóa tiếp cận ngƣời tiêu thụ (mà không phải qua trung gian) có ý nghĩa sống còn đối với buôn bán và cạnh tranh buôn bán. Ngoài ra, việc giao dịch đƣợc thực hiện nhanh chóng, sớm nắm bắt đƣợc nhu cầu của thị trƣờng. Tổng hợp tất cả các lợi ích trên, chu trình sản xuất đƣợc rút ngắn, nhờ đó sản phẩm, dịch vụ mới xuất hiện nhanh và hoàn thiện hơn. 3 Học viện hành chính quốc gia, Thƣơng mại điện tử, Nhà xuất bản lao động-2003, trang 34 Bài Giảng TMĐT Page 20
  21. e. Thương mại điện tử giúp doanh nghiệp mang lại dịch vụ tốt hơn cho khách hàng Dịch vụ khách hàng có thể đƣợc hiểu theo nghĩa rộng là tất cả những gì doanh nghiệp có thể và cần thiết làm để đáp ứng những nhu cầu và mong muốn của khách hàng. Trong môi trƣờng cạnh tranh ngày càng ác liệt, khách hàng ngày càng trở nên khó tính và tinh tế, do đó dịch vụ khách hàng thực sự trở thành yếu tố quan trọng đối với doanh nghiệp trong việc tìm và giữ khách hàng. Hiện nay, các doanh nghiệp đang tìm mọi cách để cung cấp dịch vụ khách hàng tốt nhất. Với những đặc trƣng và lợi thế nổi bật của mình, thƣơng mại điện tử mang lại cho doanh nghiệp các công cụ để làm hài lòng khách hàng. Thực vậy, với thƣơng mại điện tử, doanh nghiệp có thể cung cấp catalogue, thông tin, bảng báo giá cho đối tƣợng khách hàng một cách cực kỳ nhanh chóng, doanh nghiệp có thể tạo điều kiện cho khách hàng mua hàng trực tiếp từ trên mạng Đây là điều trở nên ngày càng quan trọng, bởi trong thời đại ngày nay, yếu tố thời gian thực sự là vàng bạc, không ai có đủ kiên nhẫn phải chờ đợi thông tin trong vài ngày. Ngoài ra, với thƣơng mại điện tử, mọi thông tin về doanh nghiệp, sản phẩm, dịch vụ đều đƣợc thƣờng xuyên cập nhật tạo điều kiện cho khách hàng có thể nắm đƣợc những thông tin mới nhất. Đồng thời, nhƣ đã đề cập, trong thƣơng mại điện tử việc trao đổi, liên lạc giữa khách hàng và doanh nghiệp là rất tiện lợi và nhanh chóng. Đặc biệt các thông tin phản hồi của khách hàng dễ dàng đến với doanh nghiệp hơn. Điều này làm cho khách hàng trở nên „gần gũi‟ hơn với doanh nghiệp và nhờ vậy họ sẽ hài lòng hơn. f. Thương mại điện tử giúp doanh nghiệp có thể tăng doanh thu Với thƣơng mại điện tử, đối tƣợng khách hàng của doanh nghiệp giờ đây đã không còn bị giới hạn về mặt địa lý, hay thời gian làm việc. Các doanh nghiệp không ngồi chờ khách hàng tự tìm đến với mình mà họ đang tích cực và chủ động đi tìm khách hàng cho mình. Vì thế, chắc chắn rằng số lƣợng khách hàng của doanh nghiệp sẽ tăng lên đáng kể dẫn đến tăng doanh thu. Đó là điều mà doanh nghiệp nào cũng mơ ƣớc. Tuy nhiên, cũng phải nhấn mạnh rằng muốn doanh thu tăng thì chất lƣợng và giá cả sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp phải tốt, nếu không, thƣơng mại điện tử cũng không giúp gì đƣợc cho doanh nghiệp. g. Thương mại điện tử giúp doanh nghiệp có thể tăng được lợi thế cạnh tranh Có thể nói rằng việc kinh doanh trên mạng là một “sân chơi” cho sự sáng tạo, nơi đây, doanh nghiệp tha hồ áp dụng những ý tƣởng hay nhất, mới nhất về dịch vụ hỗ trợ, chiến lƣợc tiếp thị v.v Và một khi tất cả các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp đều áp dụng thƣơng mại điện tử thì phần thắng sẽ thuộc về ai sáng tạo hay nhất để tạo ra nét đặc trƣng cho doanh nghiệp, sản phẩm, dịch vụ của mình để có thể thu hút và giữ đƣợc khách hàng. Bài Giảng TMĐT Page 21
  22. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thƣơng mại điện tử còn giúp họ có thêm cơ hội để cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn. Bởi vì thƣơng mại điện tử cung cấp cho các doanh nghiệp một môi trƣờng bình đẳng cho phép các doanh nghiệp dễ dàng cung cấp cho khách hàng sự hiện diện toàn cầu: Internet có xu thế tạo lợi nhuận cho cả công ty lớn và nhỏ. Một sự hiện diện Internet có thể dễ dàng thiết lập đối với cả các công ty lớn cũng nhƣ công ty nhỏ. Vì sân chơi bình đẳng hơn nên tính theo tỷ lệ thì Internet thuận lợi hơn với các công ty nhỏ. Cách quản lý sáng tạo và linh hoạt của các doanh nghiệp nhỏ là ƣu thế cạnh tranh trong thế giới Internet luôn thay đổi. Cũng do sân chơi bình đẳng hơn trên Web nên các doanh nghiệp nhỏ có website có thể tạo ra một lƣợng doanh thu nhƣ ở các doanh nghiệp lớn hơn. Nói một cách tƣơng đối, một lƣợng doanh thu trị giá 1 triệu usd có thể làm tăng gấp đôi lợi nhuận của một doanh nghiệp nhỏ nhƣng đối với một doanh nghiệp lớn thì lại có thể coi là không đáng kể. Các doanh nghiệp nhỏ đã chấp nhận mô hình thƣơng mại điện tử đã đƣợc hƣởng lợi với thị phần tăng lên. Các doanh nghiệp lớn thông thƣờng chỉ tìm kiếm lợi ích từ một site thƣơng mại điện tử khi là một công ty nhỏ và thông thƣờng là vô danh đã dành mất thị phần. Trên Internet, việc xây dựng và duy trì một site có tính chất chuyên nghiệp không phải là điều khó khăn. Một công ty nhỏ sử dụng Internet nhƣ là kênh phân phối chủ yếu cung cấp các dịch vụ sáng tạo và sự hỗ trợ nhanh chóng. Một doanh nghiệp nhỏ sẽ dễ dàng hơn trong việc thay đổi cơ sở hạ tầng bên trong để thích ứng với những nhu cầu mới của thƣơng mại trực tuyến. Các doanh nghiệp lớn thƣờng có các cơ cấu chậm hơn và quan liêu hơn ở vào thế bất lợi hơn. Khi Internet phát triển và làm thay đổi bộ mặt của doanh nghiệp, các doanh nghiệp lớn cần phải thay đổi cơ sở hạ tầng bên trong của mình để cung cấp các hệ thống linh hoạt hỗ trợ cho các nhu cầu Internet. h. Thương mại điện tử tạo cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp bưu chính trong lĩnh vực dịch vụ vận chuyển bưu phẩm, bưu kiện và kho vận Sự phát triển mạnh mẽ của Internet nói chung và thƣơng mại điện tử nói riêng làm cho lƣu lƣợng và cơ cấu tỷ trọng các loại bƣu gửi trong tƣơng lai sẽ thay đổi rất mạnh. Có thể nói rằng Internet sẽ tác động đến Bƣu chính theo hai góc độ. Một mặt là thách thức đối với bƣu chính khi nhiều loại hình dịch vụ ra đời thay thế cho bƣu chính truyền thống nhƣ thƣ điện tử, thanh toán điện tử, quản lý điện tử Tuy nhiên, ở góc độ tích cực, thƣơng mại điện tử sẽ làm cho thị trƣờng bƣu kiện, dịch vụ kho vận tăng trƣởng mạnh, thị trƣờng bƣu phẩm cũng sẽ tăng (do các tài liệu giao dịch về tài chính tăng). Thật vậy, khi mua hàng qua mạng, khách hàng mong muốn rằng chỉ bằng những lần nhấn Bài Giảng TMĐT Page 22
  23. chuột đặt hàng rồi thanh toán, họ sẽ có thể nhận đƣợc sản phẩm và dịch vụ mua đúng thời hạn cam kết, đúng ngƣời nhận. Chính vì vậy, bất kỳ doanh nghiệp nào kinh doanh trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử đều phải chú ý đến công tác kho vận của mình, đặc biệt về thời hạn và chất lƣợng vận chuyển. Có thể nói rằng công tác kho vận thực sự trở thành một bộ phận cấu tành của sản phẩm, dịch vụ bán qua mạng và là một tiêu chuẩn trong đánh giá chất lƣợng sản phẩm, dịch vụ đƣợc bán qua mạng. Mà chất lƣợng sản phẩm, dịch vụ vẫn luôn là yếu tố hàng đầu để đảm bảo thành công của thƣơng mại điện tử. Để đảm bảo chất lƣợng và thời gian vận chuyển, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử có xu hƣớng cần đến các dịch vụ vận chuyển và kho vận của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ vận chuyển và kho vận chuyên nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp bƣu chính. Nhƣ vậy, rõ ràng đây là cơ hội rất lớn đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ vận chuyển bƣu kiện và dịch vụ kho vận của ngành bƣu chính. Thêm vào đó, khi thƣơng mại điện tử phát triển, các giao dịch (đặc biệt là giao dịch tài chính) giữa các doanh nghiệp và giữa doanh nghiệp với khách hàng của họ ngày càng tăng, vì vậy thị trƣờng bƣu phẩm truyền thống cũng có phần hƣởng lợi. Tuy nhiên, sự phát triển của thƣơng mại điện tử cũng đặt ra cho Bƣu chính các nƣớc những thách thức phải đối đầu mà đặc biệt là sự nắm bắt những lợi thế do Internet tạo ra để tìm kiếm các cơ hội kinh doanh mới cũng nhƣ mở rộng thị phần, nâng cao hiệu quả kinh doanh hiện tại cho Bƣu chính. 1.4.2. Đối với khách hàng Sự phát triển của Internet và thƣơng mại điện tử đã dẫn đến sự di chuyển quyền lực về phía khách hàng. Thật vậy, sự vận động của các phƣơng tiện điện tử đặc biệt là mạng Internet đã mang lại cho khách hàng, những ngƣời tiêu dùng và cả các doanh nghiệp khả năng tiếp cận với các chào hàng sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp trên toàn thế giới. Điều này có nghĩa là sự lựa chọn về sản phẩm, dịch vụ để đáp ứng nhu cầu mua sắm của họ đƣợc mở rộng ra rất nhiều và các doanh nghiệp phải đối diện với cạnh tranh nhiều hơn. Nhƣ vậy, muốn cạnh tranh tốt, các doanh nghiệp cần phải xác định một cách chính xác, đầy đủ hơn về nhu cầu của khách hàng đồng thời phải tiến tới cá biệt hoá sản phẩm và dịch vụ của mình để đáp ứng tốt hơn các nhu cầu cá biệt của khách hàng. Sự chuyển lực về phía khách hàng kéo theo sự biến động thực sự về mô hình kinh tế. Các doanh nghiệp đã chuyển từ mô hình tối ƣu hoá nhờ công tác tiêu chuẩn hoá và sản lƣợng sang mô hình tối ƣu hoá quá trình sản xuất/phân phối nhằm đáp ứng tốt nhất những thị trƣờng tập trung, thậm chí là các nhu cầu cá nhân. Rõ ràng, khi ứng dụng thƣơng mại điện tử khách hàng Bài Giảng TMĐT Page 23
  24. của chúng ta sẽ là ngƣời đƣợc hƣởng lợi: Thƣơng mại điện tử giúp khách hàng dễ dàng hơn trong việc chọn lựa sản phẩm, dịch vụ Có thể nói thƣơng mại điện tử là một kênh phân phối mới, một kênh thông tin bổ sung quan trọng giúp khách hàng tiếp cận với doanh nghiệp, với sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp. Giờ đây, chỉ với chiếc máy tính cá nhân nối mạng Internet, khách hàng có thể tiếp xúc với rất nhiều chào hàng sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp trên toàn thế giới. Nhƣ vậy, quá trình đi đến quyết định mua hàng của khách hàng đã có thể cải thiện và rút ngắn do giai đoạn tìm kiếm thông tin về sản phẩm, dịch vụ có thể đáp ứng nhu cầu của bản thân khách hàng sẽ đƣợc thực hiện tốt hơn trong thƣơng mại điện tử. Nếu nhƣ trong thƣơng mại truyền thống, cản trở về thời gian, không gian, sự chậm trễ và thiếu thông tin có thể làm cho sự lựa chọn và quyết định mua của khách hàng là không tối ƣu thì trong thƣơng mại điện tử, việc có nhiều thông tin (nhƣ về giá cả, tính năng, dịch vụ kèm thêm ) về chủng loại sản phẩm, dịch vụ cần tìm làm khách hàng dễ dàng hơn trong việc lựa chọn chính xác nhãn hiệu sản phẩm, dịch vụ và doanh nghiệp cung cấp cho mình. Quá trình thông qua quyết định mua hàng Quá trình đi đến quyết định mua hàng của ngƣời tiêu dùng theo lý thuyết Marketing bao gồm 5 bƣớc nhƣ sau đây. Đây là quá trình đầy đủ khi mới bắt đầu mua. Ngƣời mua thƣờng xuyên có thể bỏ qua các giai đoạn không cần thiết (do đã đƣợc thực hiện ở các lần mua trƣớc đây), tức là quá trình mua lặp lại sẽ bỏ qua một số giai đoạn. Một khách hàng thƣờng gọi điện thoại thì khi có nhu cầu họ sẽ đến ngay bƣu cục gần nhà để gọi mà không cần mất công tìm kiếm, đánh giá các phƣơng án. Nhận biết Tìm kiếm Đánh giá các Quyết định Đánh giá nhu cầu thông tin ph.án mua sau mua Nhận biết nhu cầu: giai đoạn khách hàng phát hiện những mong muốn, nhu cầu cần đáp ứng (có thể tự bản thân khách hàng phát hiện ra hoặc do những tác động marketing gợi mở những nhu cầu này của khách hàng. Ở giai đoạn này, khách hàng đã mang máng nhận biết chủng loại sản phẩm, dịch vụ có thể đáp ứng đƣợc nhu cầu của mình. Bài Giảng TMĐT Page 24
  25. Tìm kiếm thông tin: giai đoạn khách hàng tìm kiếm thông tin về chủng loại sản phẩm, dịch vụ có thể đáp ứng nhu cầu. Nhu cầu càng cấp bách, thông tin ban đầu càng ít, sản phẩm cần mua có giá trị càng lớn thì càng thôi thúc con ngƣời tìm kiếm thông tin. Các nguồn thông tin cơ bản mà ngƣời tiêu dùng có thể tìm kiếm, tham khảo trong thƣơng mại truyền thống là: nguồn thông tin cá nhân (ừ bạn bè, gia đình, hàng xóm, đồng nghiệp ); nguồn thông tin thƣơng mại (qua quảng cáo, hội chợ, triển lãm, ngƣời bán hàng ); nguồn thông tin đại chúng (dƣ luận, báo chí, truyền hình, tuyên truyền ); nguồn thông tin kinh nghiệm thông qua tiếp xúc trực tiếp với sản phẩm. Đánh giá các phƣơng án: từ các nhãn hiệu sản phẩm khác nhau đã biết qua giai đoạn tìm kiếm, khách hàng bắt đầu đánh giá để chọn ra nhãn hiệu phù hợp với nhu cầu của mình. Quyết định mua: sau khi đánh giá các lựa chọn, khách hàng đi tới ý định mua. Tuy nhiên từ ý định mua đến quyết định mua còn có các cản trở nhƣ thái độ của các nhóm ảnh hƣởng (bạn bè, gia đình ), các điều kiện mua hàng (địa điểm giao dịch, phƣơng thức thanh toán, các dịch vụ hậu mãi ). Đánh giá sau khi mua: sau khi mua xong khách hàng sử dụng sản phẩm và có các đánh giá về sản phẩm mua đƣợc. Mức độ hài lòng của khách hàng sẽ tác động trực tiếp đến các quyết định mua vào các lần sau. Sự lựa chọn sản phẩm, dịch vụ và doanh nghiệp cung ứng của khách hàng cũng không bị bó hẹp trong phạm vi một khu vực địa lý nhất định mà đã đƣợc mở rộng sang phạm vi toàn quốc, khu vực và quốc tế (phụ thuộc điều kiện có thể đáp ứng cho hoạt động mua bán qua mạng). Đúng vậy, chỉ với một thẻ tín dụng, giờ đây, một độc giả Việt Nam hoàn toàn có thể mua trực tiếp một cuốn sách xuất bản tại Pháp trong thời gian ngắn nhất mà không phải đợi chờ hay làm các thủ tục đặt mua và thanh toán phiền hà. Hay một ngƣời tiêu dùng có thể đặt mua trực tiếp một chiếc máy tính xách tay hay camera tại Mỹ thay vì mua sản phẩm đó tại thị trƣờng Việt Nam với nỗi lo hàng bán tại Việt Nam có thể không đƣợc đảm bảo chất lƣợng nhƣ hàng do mình lựa chọn và đặt mua trực tiếp tại Mỹ. a. Nhờ thương mại điện tử, khách hàng có thể tiết kiệm chi phí mua hàng hơn Theo quan điểm của P.Kotler- một nhà marketing nổi tiếng, tổng chi phí của khách hàng khi mua và tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ đƣợc hiểu là toàn bộ những hao phí, những phí tổn mà khách hàng phải bỏ ra để có đƣợc sản phẩm, dịch vụ. Các hao phí này không chỉ gồm những chi phí về tiền để mua và tiêu dùng hàng hoá mà ta vẫn thƣờng hiểu mà còn cả những chi phí về thời gian, sức lực và tinh thần mà ngƣời mua đã bỏ ra để có đƣợc sản phẩm, dịch vụ. Bài Giảng TMĐT Page 25
  26. Trong thƣơng mại truyền thống, để mua đƣợc sản phẩm và dịch vụ mong muốn, đôi khi khách hàng phải trả rất nhiều khoản chi phí. Đó có thể là những chi phí để tìm kiếm thông tin về sản phẩm, dịch vụ về nhà cung ứng: chi phí điện thoại, đi lại để khảo hàng Rồi sau đó là những chi phí để mua hàng ngoài chi phí mua sản phẩm, dịch vụ nhƣ là chi phí đi lại, vận chuyển Thế nhƣng với thƣơng mại điện tử những chi phí này đƣợc giảm đi cho khách hàng. Ví dụ nhƣ chỉ với 1 khoản chi phí nhỏ truy nhập Internet, khách hàng có thể khảo rất nhiều loại hàng trên Internet mà không cần phải gọi điện đến tận công ty hay đi khảo hàng trực tiếp tại các cửa hàng. Ngoài ra, với một số mặt hàng có thể truyền trực tiếp qua mạng nhƣ sách điện tử, bài hát, đĩa nhạc, tờ báo khách hàng cũng không cần phải đến tận cửa hàng để mua mà có thể mua trực tiếp từ máy tính cá nhân nối mạng Internet của mình và không phải trả chi phí vận chuyển Và trên thực tế, giá bán sản phẩm, dịch vụ qua mạng nhìn chung là có xu hƣớng rẻ hơn là giá bán sản phẩm, dịch vụ tại các cửa hàng. Điều này là hoàn toàn hợp lý. Bởi vì nhƣ ta đã phân tích trong phần trƣớc kinh doanh trên mạng giúp cho các doanh nghiệp tiết kiệm rất nhiều loại chi phí so với trong thƣơng mại truyền thống trong đó phải kể đến là chi phí thuê văn phòng, cửa hàng, chi phí tiếp thị Đây chính là cơ sở để doanh nghiệp có thể giảm giá bán sản phẩm, dịch vụ của mình khi thực thi thƣơng mại điện tử. Khi giá bán sản phẩm, dịch vụ giảm thì khách hàng sẽ là những ngƣời hƣởng lợi vì chi phí mua hàng của họ đƣợc giảm đi. Cuối cùng và điều quan trọng là thƣơng mại điện tử giúp khách hàng tiết kiệm đƣợc rất nhiều thời gian để mua hàng. Nhƣ đã đề cập nhiều lần, chỉ với một máy tính cá nhân nối mạng Internet và trong điều kiện cho phép của thƣơng mại điện tử, khách hàng có thể thực hiện một cách nhanh chóng bằng những lần nhấn chuột toàn bộ qui trình mua hàng thƣờng đƣợc thực hiện một cách tốn kém thời gian trong thƣơng mại điện tử từ khâu khảo hàng, xem xét, so sánh và thanh toán. Nhƣ vậy, với thƣơng mại điện tử, khách hàng có thể tiết kiệm rất nhiều thời gian để mua một mặt hàng nào đó và có thể dành thời gian cho những công việc khác. Khi thƣơng mại điện tử thực sự trở thành phƣơng thức kinh doanh phổ biến, khách hàng không còn cảnh thiếu thông tin về sản phẩm, dịch vụ muốn mua, mất nhiều thời gian đi khảo hàng, di chuyển đến cửa hàng mua hàng và vận chuyển hàng về nữa. b. Thương mại điện tử góp phần làm khách hàng hài lòng hơn Nhƣ ta đã phân tích thƣơng mại điện tử giúp cho các doanh nghiệp mang lại dịch vụ tốt hơn cho khách hàng. Mà khi dịch vụ khách hàng của doanh nghiệp đƣợc thực hiện tốt hơn thì cũng có nghĩa là giá trị mà doanh nghiệp mang lại cho khách hàng là nhiều hơn. Điều này góp phần làm tăng sự hài lòng của khách hàng về sản phẩm, dịch vụ và doanh nghiệp cung ứng. Ngoài ra, nhƣ ta đã đề cập ở trên, thƣơng mại điện tử giúp cho khách hàng dễ dàng hơn Bài Giảng TMĐT Page 26
  27. trong việc lựa chọn sản phẩm, dịch vụ và cũng làm cho họ tiết kiệm đƣợc các chi phí mua hàng bao gồm cả các chi phí về tiền và thời gian. Sự thuận lợi và tiết kiệm hơn của quá trình mua hàng sẽ làm khách hàng hài lòng hơn khi thực hiện việc mua hàng qua mạng. 1.4.3. Đối với xã hội Ngoài các lợi ích cho các doanh nghiệp và bản thân những ngƣời tiêu dùng, thƣơng mại điện tử còn mang lại những lợi ích to lớn cho nền kinh tế quốc gia và cho xã hội. a. Thương mại điện tử tạo điều kiện cho nền kinh tế quốc gia sớm tiếp cận kinh tế tri thức và hội nhập nền kinh tế thế giới Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành chính sách kinh tế đối ngoại nhất quán của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam. Mục tiêu chính của quá trình hội nhập này là nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đáp ứng yêu cầu và lợi ích của quốc gia, đồng thời thông qua hội nhập kinh tế quốc tế để phát huy vai trò và tiềm năng của đất nƣớc trong quá trình hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới, tranh thủ các nguồn vốn, thiết bị, vật tƣ, thành tựu khoa học - công nghệ, kiến thức và kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trƣờng tăng cƣờng quan hệ hợp tác cùng có lợi, làm cho nƣớc ta phát triển ngày càng nhanh và bền vững hơn. Với vai trò của mình, Nhà nƣớc ta đã và đang thực hiện từng bƣớc nội dung chủ yếu của hội nhập kinh tế quốc tế là mở cửa thị trƣờng về thƣơng mại, đầu tƣ và dịch vụ. Nhà nƣớc với tƣ cách là chủ thể chính trong hội nhập kinh tế quốc tế, vừa ký kết các hiệp định kinh tế đối ngoại dƣới hình thức đa phƣơng và song phƣơng, vừa tham gia các tổ chức và diễn đàn kinh tế thế giới và khu vực, vừa thiết lập quan hệ thƣơng mại, đầu tƣ khoa học - kỹ thuật với từng nƣớc. Một trong những yếu tố ảnh hƣởng đến quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nƣớc ta hiện nay là xu thế toàn cầu hoá kinh tế. Đây là một xu thế khách quan, xu thế của thời đại, đang lôi cuốn ngày càng nhiều nƣớc tham gia, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Một quốc gia cũng không thể biệt lập, đứng ngoài xu thế này. Một trong những đặc điểm của quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế, đó là sự xuất hiện và có phần lũng loạn các tập đoàn kinh tế đa quốc gia và xuyên quốc gia. Ngày nay, có khoảng 60.000 tập đoàn kinh tế đa quốc gia và xuyên quốc gia của các nƣớc phát triển cùng với hơn 500.000 chi nhánh ở khắp nơi trên thế giới đang là xƣơng sống của quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Các tập đoàn kinh tế này, với tham vọng thôn tính các doanh nghiệp nội địa, đang có xu hƣớng sáp nhập để cùng nhau thống trị và chia sẻ lợi ích từ nền kinh tế thế giới. Ở nƣớc ta, việc mất thị phần ngay cả trên thị trƣờng nội địa cũng đã xảy ra đối với nhiều doanh nghiệp. Trong bối cảnh nhƣ Bài Giảng TMĐT Page 27
  28. vậy, để tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, kể cả nguy cơ mất độc lập tự chủ về kinh tế chúng ta cần phải có các giải pháp phù hợp để đối phó với các nguy cơ này. Cùng với xu thế toàn cầu hoá kinh tế, khoa học và công nghệ trên thế giới đang có những bƣớc tiến nhảy vọt đáng kể. Sự phát triển của khoa học và công nghệ đã dẫn đến việc xuất hiện nền kinh tế tri thức, thƣơng mại điện tử ở nhiều nƣớc trên thế giới, trong đó có nƣớc ta. Những biến đổi đáng kể về chất của tiến bộ khoa học đã và đang làm thay đổi dần vị trí, vai trò của các chủ thể trong những mối quan hệ kinh tế - xã hội theo hƣớng kết hợp và cởi mở hơn. Đặc biệt, sự phát triển của thƣơng mại điện tử sẽ kích thích sự phát triển của ngành công nghệ thông tin, khai phá dữ liệu và phát hiện tri thức. Lợi ích này có một ý nghĩa lớn đối với các nƣớc đang phát triển: nếu không nhanh chóng tiếp cận nền kinh tế tri thức thì sau khoảng một thập kỷ nữa, các nƣớc đang phát triển có thể bị bỏ rơi hoàn toàn. Khía cạnh lợi ích này mang tính chiến lƣợc công nghệ và tính chính sách phát triển cần cho các nƣớc công nghiệp hóa. Một số chuyên gia kinh tế cho rằng, sớm chuyển sang kinh tế tri thức có thể giúp một nƣớc đang phát triển tạo đƣợc một bƣớc nhảy vọt (leapfrog) tiến kịp các nƣớc đi trƣớc với thời gian ngắn hơn. b. Giảm ách tắc và tai nạn giao thông Nền tảng của thƣơng mại điện tử là mạng máy tính, trên toàn thế giới đó là mạng Internet và phƣơng tiện truyền thông hiện đại nhƣ vệ tinh viễn thông, cáp, vô tuyến, các khí cụ điện tử khác v.v Do phát triển của hệ thống mạng máy tính, mọi việc đều có thể xử lý và giải quyết trên mạng tại nhà, do vậy, ngoài phố sẽ vắng ngƣời và phƣơng tiện giao thông, nhƣ vậy tai nạn giao thông sẽ ít hơn trƣớc nhiều. 1.5. Các hình thức ứng dụng của thương mại điện tử 1.5.1. Thư điện tử Các doanh nghiệp, các cơ quan nhà nƣớc, các cá nhân sử dụng thƣ điện tử để gửi thƣ cho nhau một cách trực tuyến thông qua mạng, gọi là thƣ điện tử (Electrolic Mail, viết tắt là E-mail). Thông tin trong thƣ điện tử không phải tuân theo một cấu trúc định trƣớc nào. Đối với nhiều ngƣời sử dụng Internet, email là khía cạnh quan trọng nhất và là một phƣơng tiện đƣợc ngƣời ta sử dụng nhiều nhất. Các thông báo email có thể giống nhƣ các biên bản ghi nhớ hơn là thƣ bƣu điện. Một thông báo có thể dễ dàng đƣợc sao chép sang những ngƣời sử dụng khác. Và khi nhận đƣợc một thông báo đến, ngƣời sử dụng có thể đính kèm thƣ trả lời của mình vào nó hoặc chuyển nó sang một ngƣời thứ ba. Ngƣời sử dụng cũng có thể đính kèm các tài liệu và các files đồ hoạ vào các thông báo email. Bài Giảng TMĐT Page 28
  29. Sở dĩ email đƣợc ƣu ái nhƣ vậy là bởi vì nó mang lại sự thuận tiện, nhanh chóng, rẻ tiền cùng với sự tin cậy cho ngƣời sử dụng. Thực vậy, khi ngƣời sử dụng gửi một thông báo nào đó, thƣờng nó sẽ đƣợc gửi đi ngay lập tức và hầu nhƣ không tốn chi phí nào cả hoặc nếu có thì rất nhỏ. Các phần đính kèm có thể làm giảm đi tốc độ các hoạt động trên mạng khác của ngƣời sử dụng, nhƣng dù sao sử dụng email cũng là một cách rẻ tiền để gửi đi các tài liệu. Thêm vào đó, cần phải nói thêm rằng email là tƣơng đối đáng tin cậy. Thƣờng thì email rất ít khi gặp sự cố trong việc truyền tải thông tin. Nếu ngƣời sử dụng phạm một sai sót nào đó trong khi gửi thông báo thì nó sẽ gửi trả lại ngƣời sử dụng thông báo đó, trừ khi việc sai sót trong khi điền địa chỉ nhận đã biến nó thành một địa chỉ thật của một ngƣời sử dụng khác. Ngày nay, mỗi cá nhân có thể dùng email từ nhiều nguồn: hoặc là dùng email miễn phí của các nhà cung cấp tài khoản email miễn phí (điển hình là 2 “đại gia” Yahoo và Hotmail), hoặc nếu cá nhân đó có website riêng thì họ có thể tạo cho mình những email có địa chỉ tên miền (domain) là tên miền của website của mình. Bằng cách này, cá nhân hoặc doanh nghiệp đã tận dụng đƣợc cơ hội tốt để quảng bá tên miền của website của mình. Ví dụ về một tài khoản email cung cấp bởi Yahoo Nhập địa chỉ Nhập mật khẩu Đăng nhập 1. Sau khi đăng nhập Bài Giảng TMĐT Page 29
  30. Để soạn thảo một bức thƣ Nhập địa chỉ ngƣời nhận Tiêu đề bức thƣ Đính kèm tài liệu Nội dung thƣ Bài Giảng TMĐT Page 30
  31. Định dạng và trang trí nội dung thƣ Nội dung thƣ Sử dụng chữ ký tự động Gửi thƣ 1.5.2. Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) Khái niệm Trao đổi dữ liệu điện tử (electronic data interchange-EDI) là công nghệ cho phép trao đổi trực tiếp dữ liệu có cấu trúc giữa các máy tính thông qua phƣơng tiện điện tử. Hiểu một cách nôm na, EDI chính là việc trao đổi dữ liệu dƣới dạng “có cấu trúc” (structured form), (có cấu trúc nghĩa là các thông tin đƣợc trao đổi giữa các đối tác thoả thuận với nhau tuân thủ theo một khuôn dạng nào đó) từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử khác, giữa các doanh nghiệp hoặc các đơn vị đã thỏa thuận buôn bán với nhau, theo cách này sẽ tự động hóa hoàn toàn không cần có sự can thiệp của con ngƣời. EDI bao hàm những qui trình đảm bảo cho hình thức truyền thông này an toàn hơn. Ngoài khả năng nhận dạng, kỹ thuật này còn có thể hỗ trợ phát hiện và sửa lỗi. Chứng thực theo hƣớng xác nhận nội dung dữ liệu có thể đƣợc thực hiện và tính cá nhân có thể trong EDI bởi một số phƣơng tiện tích hợp trong hệ thống. Chứng thực ngƣời đƣợc quyền gửi thông điệp cũng đƣợc đảm bảo. EDI có thể đƣợc sử dụng để truyền theo đƣờng điện tử các tài liệu nhƣ hoá đơn, phiếu đặt Bài Giảng TMĐT Page 31
  32. hàng, giấy biên nhận, các tài liệu vận chuyển và các thƣ từ trao đổi nghiệp vụ chuẩn khác giữa các tổ chức và các đối tác kinh doanh. EDI cũng có thể đƣợc sử dụng để truyền thông tin tài chính và thanh toán dƣới dạng điện tử, thƣờng đƣợc gọi là chuyển tiền điện tử (EFT- Electronique Funds Transfer). Do đó, ngày nay, các chức năng của EDI càng trở nên có ý nghĩa hơn, đặc biệt với sự phát triển của thƣơng mại điện tử trên thế giới. Song, để có thể áp dụng EDI rộng rãi cần phải có các chuẩn, và thực tế đã có nhiều chuẩn quốc tế đƣợc xây dựng. Bởi vì, trong hầu hết các trƣờng hợp, một doanh nghiệp phải giao tiếp với rất nhiều đối tác thƣơng mại. Ví dụ, trong ngành công nghiệp bán lẻ, một siêu thị trung bình có thể phải làm việc với hàng trăm nhà cung cấp khác nhau. Mỗi nhà cung cấp lại có rất nhiều khách hàng. Nếu mỗi nhà cung cấp lại có các giao thức riêng của họ để cung cấp thông tin thì họ rất khó thực hiện EDI để trao đổi thông tin và giao dịch do phải yêu cầu chuyển đổi định dạng. Kết quả là chi phí thực hiện EDI sẽ tăng và làm giảm hiệu quả. Nhƣ vậy, nhu cầu xác định chuẩn là rõ ràng để đảm bảo thành công của EDI. Đó là vì EDI dựa vào việc sử dụng cấu trúc và diễn giải chuẩn của các giao dịch kinh doanh điện tử để thực hiện việc trao đổi dữ liệu giữa tất cả các đối tác thƣơng mại, vì vậy có thể giảm lỗi trong việc truyền dữ liệu dù có dùng đến hệ thống máy tính hay không. Có hai chuẩn chính đƣợc sử dụng rộng rãi ngày nay, đó là các tiêu chuẩn ANSI ASC X12 và các tiêu chuẩn EDIFACT của Liên hiệp Quốc (xem phụ lục). Các chuẩn này định nghĩa các yêu cầu cú pháp cho rất nhiều kiểu giao dịch EDI. Và hầu nhƣ các giao dịch EDI đều có thể đƣợc giải quyết theo những chuẩn này. Quá trình phát triển của EDI và sự ra đời của EDI trên Internet Các ứng dụng đƣợc biết đến đầu tiên của EDI khi chúng đƣợc thực hiện tại Mỹ. Tuy nhiên, nguồn gốc của ý tƣởng này, ngày nay đƣợc phát triển trên thế giới, đƣợc đƣa ra bởi Berlin Airfift vào năm 1948, khi thức ăn và hàng tiêu dùng đƣợc vận chuyển bằng máy bay, đi kèm với những bản kê khai hàng hoá khác nhau, bằng các ngôn ngữ khác nhau và hàng loạt các bản sao khác đã làm nảy sinh vấn đề cần có một bản kê khai hàng hoá quy chuẩn. Ở Mỹ, việc truyền phát điện tử đã bắt đầu vào những năm 60, ban đầu trong các ngành vận tải đƣờng bộ và đƣờng sắt. Việc chuẩn hoá tài liệu cũng cần thực hiện cùng với sự thay đổi đó. Do đó, năm 1968, Uỷ ban hợp tác dữ liệu vận tải của Mỹ đã đƣợc thành lập để phối hợp cùng phát triển các qui tắc biên dịch giữa 4tiêu chuẩn đang dùng của các ngành. Một bƣớc chuyển biến có ý nghĩa quan trọng đối với việc chuẩn hoá đã đƣợc thực hiện với các tiêu chuẩn X12 của Viện tiêu chuẩn quốc gia Hoa Kỳ. Các tiêu chuẩn này đã dần dần đƣợc mở rộng và thay thế các chuẩn do Uỷ ban hợp tác dữ liệu vận tải tạo ra. Vào cùng thời gian đó, Cục thuế và hải quan của Anh, với sự hỗ trợ của Ban điều hành quá Bài Giảng TMĐT Page 32
  33. trình đơn giản hoá thủ tục thƣơng mại của Anh, đã xây dựng và phát triển các tiêu chuẩn riêng của mình dành cho các tài liệu đƣợc sử dụng trong thƣơng mại quốc tế. Tiêu chuẩn này về sau đƣợc Uỷ ban kinh tế liên hợp quốc về châu Âu mở rộng và trở thành tiêu chuẩn trao đổi dữ liệu thƣơng mại vì mục đích chung, và dần dần đƣợc chấp nhận bởi hơn 2000 tổ chức xuất khẩu của Anh. Nhiều vấn đề nảy sinh từ việc từ việc sử dụng hai bộ tiêu chuẩn khác nhau (và mang tính không đồng nhất rất lớn) đã đƣợc giải quyết bằng việc thành lập nhóm làm việc phối hợp Bắc Mỹ và Châu Âu của Liên hợp quốc, khởi đầu cho sự phát triển của tiêu chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử cho các ngành vận tải, thƣơng mại và hành chính. Các tài liệu kinh doanh đầy đủ đang trong quá trình xây dựng và phát triển Nhƣ vậy, ngay cả trƣớc khi có Internet đã có EDI. Khi đó ngƣời ta dùng “mạng giá trị gia tăng” (Value Added Network, viết tắt là VAN) để liên kết các đối tác EDI với nhau. Cốt lõi của VAN là một hệ thống thƣ điện tử cho phép các máy tính điện tử liên lạc đƣợc với nhau, và hoạt động nhƣ một phƣơng tiện lƣu trữ và tìm kiếm. Khi nối vào VAN, một doanh nghiệp có thể liên lạc với nhiếu máy tính điện tử nằm ở nhiều thành phố trên khắp thế giới. Nhà cung cấp dịch vụ duy trì VAN với một hộp thƣ cho mọi thành viên tham gia kinh doanh và trên cơ sở đó lƣu trữ, chuyển tiếp các bức thƣ điện tử EDI giữa họ. Mọi công ty dùng EDI phải chấp thuận sử dụng mẫu biểu với dung lƣợng theo qui định trong khi kinh doanh trên EDI. Mẫu này đƣợc truyền qua mail trên VAN. Mỗi thành viên tham gia phải chạy phần mềm dịch EDI trên máy tính của họ để chuyển dữ liệu EDI sang dạng đƣợc dùng bởi cơ sở dữ liệu của chính họ. Tuy nhiên, EDI trên VAN kém thích hợp đối với hệ thống các tổ chức ảo và các mối quan hệ biến đổi nhanh chóng, điều đang trở thành tiêu chuẩn trong kinh doanh ngày nay. Trƣớc đây, phần lớn các giao dịch EDI đƣợc thoả thuận và thực hiện qua TPA (trading partner agreement), ở đó nó thực hiện quá trình trao đổi dữ liệu từng bƣớc một. Thực hiện thoả thuận, sau đó kết thúc liên lạc là một quá trình tốn kém và chậm chạp, nhất là so với các tiêu chuẩn kinh doanh đặt ra thời nay. Chính vì lý do này mà các nhà cung cấp dịch vụ EDI đang thử nghiệm truy cập Internet vào các dv EDI đƣợc đặt tại trung tâm máy tính của họ. Với sự chuyển hƣớng thực thi mềm dẻo và năng động của EDI trên Internet, ví dụ dùng các đơn đặt hàng qua trình duyệt Web, các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ dễ dàng tận dụng EDI hơn. Bảng 6 dƣới đây so sánh thực thi EDI trên Internet và VAN. Bài Giảng TMĐT Page 33
  34. Bảng 6- So sánh EDI trên Internet và VAN Đặc điểm Với Internet Với VAN Các hộp thƣ lƣu và chuyển tiếp Đƣợc Đƣợc Môi trƣờng an toàn Không đƣợc Đƣợc Thực thi tin cậy Không đƣợc Đƣợc Trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ Hạn chế Đƣợc Hỗ trợ khách hàng Hạn chế Đƣợc Truy cập tƣơng tác Đƣợc Chi phí cao Truy cập thông tin điện tử Đƣợc Hạn chế Các dịch vụ thảo luận nhóm Chi phí cao Chi phí cao EDI ngày càng đƣợc sử dụng rộng rãi trên toàn cầu, chủ yếu phục vụ cho việc mua và phân phối hàng (gửi đơn hàng, các xác nhận, các tài liệu gửi hàng, hóa đơn v.v ) EDI chủ yếu đƣợc thực hiện thông qua mạng ngoài (extranet) với nhau và thƣờng đƣợc gọi là “mạng thƣơng mại” (net- commerce). Cũng có khi có “EDI hỗn hợp” (hybird EDI) dùng cho trƣờng hợp chỉ có một bên đối tác dùng EDI, còn bên kia thì vẫn dùng các phƣơng thức thông thƣờng (nhƣ fax, thƣ tín qua bƣu điện ). Sự ra đời của EDI gắn bó chặt chẽ với tiến trình thoả thuận trƣớc tốn nhiều thời gian để xác định phƣơng hƣớng giao dịch thích hợp cho cả hai bên kinh doanh, làm cho nó không còn thích hợp trong nhiều giao dịch kinh doanh nhanh chóng, tạm thời hiện nay. Hơn nữa, mỗi lĩnh vực kinh doanh đã định nghĩa một phƣơng thức EDI riêng biệt của chính nó khiến sự giao dịch chéo giữa các doanh nghiệp trở nên khó khăn, thậm chí không thực hiện đƣợc. OpenEDI, một phiên bản mới, đƣợc thiết kế để mô tả và thực thi giao dịch kinh doanh EDI đơn giản hơn, đồng thời có thể dùng trên Internet. Các doanh nghiệp có thể dùng EDI để tự động truyền thông tin giữa các đơn vị cũng nhƣ giữa các công ty. Chẳng hạn, dữ liệu EDI có thể đƣợc truyền giữa các phòng mua bán, phòng tài chính và phòng tiếp nhận để tự động hoá các tiến trình mua bán và thanh toán. Truyền thông tin EDI tới các công ty khác cũng có thể làm đơn giản các tiến trình nhƣ vậy khi mua hàng và uỷ quyền thanh toán giữa các công ty. Để phục vụ cho buôn bán giữa các doanh nghiệp thuận lợi hơn với chi phí truyền thông không quá tốn kém, ngƣời ta đã xây dựng một kiểu mạng mới gọi là “mạng riêng ảo” (virtual private network), là mạng riêng dạng intranet của một doanh nghiệp nhƣng đƣợc thiết lập dựa trên chuẩn trang Web và truyền thông qua mạng Internet. Hai mạng Intranet liên kết, trao đổi thông tin với nhau đƣợc gọi là mạng extranet giữa hai doanh nghiệp. Mạng riêng ảo có các khối Bài Giảng TMĐT Page 34
  35. phần cứng hoặc phần mềm dùng để mã hóa thông tin, đôi lúc có tác dụng nhƣ một tƣờng lửa bảo vệ thông tin (firewall) giữa các đối tác với nhau. EDI làm việc nhƣ thế nào? Có 5 bƣớc cơ bản trong qui trình của một giao dịch EDI điển hình, cùng với tiêu chuẩn EDI, chúng làm cho việc trao đổi dữ liệu có thể đƣợc thực hiện giữa hai đối tác thƣơng mại. Bƣớc 1- Chuẩn bị tài liệu điện tử: Bƣớc đầu tiên trong trình tự của EDI là tập hợp thông tin và dữ liệu. Cách thu thập thông tin cần thiết cũng giống nhƣ trong hệ thống truyền thống. Tuy nhiên, thay vì in dữ liệu ra giấy, hệ thống phải xây dựng một cơ sở dữ liệu để lƣu các dữ liệu này. Khi đã có tệp dữ liệu hoặc cơ sở dữ liệu rồi, có thể chuyển sang bƣớc sau. Bƣớc 2- Dịch dữ liệu để chuyển đi: Bƣớc tiếp theo là dịch tệp tài liệu hoặc cơ sở dữ liệu sang định dạng tiêu chuẩn theo đặc tả của tài liệu tƣơng ứng. Tệp dữ liệu kết quả phải chứa một chuỗi giao dịch có liên quan đến, chẳng hạn nhƣ phiếu mua hàng. Qui trình làm việc của EDI Hệ thống mua Hệ thống lập bán phiếu Chuyển định Chuyển định dạng trong dạng trong Bộ chuyển đổi Bộ chuyển đổi EDI EDI Phong bì EDI Phong bì EDI cho thông điệp cho thông điệp tài liệu tài liệu Internet hoặc mạng VAN Modem Modem Bài Giảng TMĐT Page 35
  36. Bƣớc 3- Truyền thông : Máy tính sẽ nối và chuyển tự động các tệp dữ liệu đó đến lên mạng Internet hoặc một mạng giá trị gia tăng (VAN) đã thu xếp trƣớc. Internet hoặc mạng VAN sẽ xử lý từng tệp dữ liệu và chuyển tới hộp thƣ điện tử tƣơng ứng với các địa chỉ nơi nhận đã đƣợc ghi trong tệp. Bƣớc 4- Dịch dữ liệu đến : Công ty nhận dữ liệu định kỳ lấy tệp dữ liệu từ hộp thƣ của họ và dịch ngƣợc tệp dữ liệu đó từ dạng tiêu chuẩn sang dạng đặc thù theo yêu cầu của phần mềm ứng dụng của công ty. Bƣớc 5- Xử lý tài liệu điện tử : Đến đây thì hệ thống tài liệu nội bộ của công ty đã có thể xử lý tài liệu nhận đƣợc. Mọi tài liệu là kết quả xử lý tƣơng ứng với giao dịch nhận đƣợc cũng phải dùng những qui trình hoặc những bƣớc nhƣ vậy để chuyển lại cho nơi khởi động giao dịch. Khi đó, có thể kết thúc vòng thực hiện trao đổi dữ liệu điện tử. 1.5.3. Truyền dung liệu Dung liệu (content) là nội dung của hàng hóa, mà không phải là bản thân vật mang nội dung đó; ví dụ nhƣ: tin tức, nhạc phim, các chƣơng trình phát thanh, truyền hình, các chƣơng trình phần mềm, các ý kiến tƣ vấn, vé máy bay, vé xem phim, xem hát, hợp đồng bảo hiểm Trƣớc đây, dung liệu đƣợc trao đổi dƣới dạng hiện vật bằng cách đƣa vào đĩa, vào băng, in thành sách báo, thành văn bản, đóng gói bao bì chuyển đến tay ngƣời sử dụng, hoặc đến điểm phân phối (nhƣ cửa hàng, quầy báo ) để ngƣời sử dụng mua và nhận trức tiếp. Ngày nay, dung liệu đƣợc số hóa và truyền gửi theo mạng, gọi là giao gửi số hóa (digital delivery). Các tờ báo, các tƣ liệu công ty, các catalogue sản phẩm lần lƣợt đƣa lên Web, ngƣời ta gọi là xuất bản điện tử (electronic publishing hoặc Web publishing); các chƣơng trình phát thanh, truyền hình, giáo dục, ca nhạc, kể chuyện cũng đƣợc số hóa, truyền qua Internet, ngƣời sử dụng tải xuống (download) và sử dụng thông qua màn hình và thiết bị âm thanh của máy tính điện tử. Đặt mua chỗ trên máy bay, rạp hát qua Internet gọi là vé điện tử (electronic ticket) ở Mỹ đã chiếm tỷ trọng tới 70%. Ngƣời tiêu thụ dùng Internet liên lạc trực tuyến với cơ quan tín dụng- ngân hàng để biết các thông tin về bảo hiểm và số liệu phút chót về tài chính của mình (tiền tiết kiệm, tiền gửi, tiền sắp phải trả ). Với góc độ kinh tế - thƣơng mại, các loại thông tin kinh tế và kinh doanh trên Internet đều rất phong phú, một nhiệm vụ quan trọng của công tác thông tin ngày nay là khai thác Web và phân tích tổng hợp. 1.5.4. Thanh toán điện tử Trong thƣơng mại truyền thống, ngƣời ta thanh toán tiền mua hàng và dịch vụ bằng rất nhiều cách khác nhau. Tại các nƣớc phát triển, ngƣời tiêu dùng cá thể có thể thanh toán tiền mua Bài Giảng TMĐT Page 36
  37. hàng bằng tiền mặt, séc, thẻ tín dụng hoặc thẻ ghi nợ. Các doanh nghiệp thƣờng thực hiện các giao dịch thanh toán điện tử với nhau, chủ yếu thông qua các mạng dùng riêng. Ngày nay, do xu thế gia tăng của thƣơng mại điện tử, cả ngƣời tiêu dùng và doanh nghiệp đều đang tìm kiếm và triển khai kinh doanh ngay trên mạng. Do đó, một ứng dụng của thƣơng mại điện tử đƣợc triển khai và ứng dụng, đó là thanh toán điện tử. Thanh toán trực tuyến đòi hỏi ngƣời bán phải có một tài khoản chấp nhận thanh toán thẻ tại ngân hàng nào đó (Merchant Account) và thuê một nhà cung cấp dịch vụ thanh toán thẻ (Payment Gateway), còn ngƣời mua phải có thẻ tín dụng. 1.5.5. Bán lẻ hàng hoá hữu hình Đến nay, danh sách các hàng hóa bán lẻ qua mạng đã mở rộng, từ hoa tới quần áo, ôtô và làm xuất hiện một loại hoạt động gọi là “mua hàng điện tử” (electronic shopping), hay “mua hàng trên mạng”. Ở một số nƣớc, Internet bắt đầu trở thành công cụ để cạnh tranh bán lẻ hàng hữu hình. Tận dụng tính năng đa phƣơng tiện của môi trƣờng Web, ngƣời bán xây dựng trên mạng các “cửa hàng ảo”. Gọi là ảo bởi vì, cửa hàng có thật nhƣng ta chỉ xem toàn bộ quang cảnh cửa hàng và các hàng hóa chứa trong đó trên từng trang màn hình một. Để có thể mua hàng, khách hàng tìm trang Web của cửa hàng, xem hàng hóa hiển thị trên màn hình, xác nhận mua và trả tiển bằng thanh toán điện tử. Lúc đầu (giai đoạn một), việc mua bán nhƣ vậy còn ở dạng sơ khai: ngƣời mua chọn hàng rồi đặt hàng thông qua mẫu đơn cũng đặt ngay trên Web. Nhƣng có trƣờng hợp muốn lựa chọn giữa nhiều loại hàng ở các trang Web khác nhau (của cùng một cửa hàng) thì hàng hóa miêu tả nằm ở một trang, đơn đặt hàng lại nằm ở trang khác, gây ra nhiều phiền toái. Để khắc phục, ở giai đoạn hai, xuất hiện loại phần mềm mới, cùng với hàng hóa của cửa hàng trên màn hình đã có thêm phần “ xe mua hàng” (shopping cart, shopping trolly), giỏ mua hàng (shopping basket, shopping bag) giống nhƣ giỏ mua hàng hay xe mua hàng thật mà ngƣời mua thƣờng dùng khi vào cửa hàng siêu thị. Xe và giỏ mua hàng này đi theo ngƣời mua suốt quá trình chuyển từ trang Web này đến trang Web khác để chọn hàng. Khi tìm đƣợc hàng vừa ý, ngƣời mua ấn phím “Hãy bỏ vào giỏ” (Put in into shopping bag); các xe hay giỏ mua hàng này có nhiệm vụ tự động tính tiền (kể cả thuế, cƣớc vận chuyển) để thanh toán với khách mua. Hiện nay, các hãng bán hàng đã có hệ thống phần mềm mới hơn có tính năng cao hơn, cho phép ngƣời mua giao tiếp thoải mái hơn với cửa hàng và hàng hóa Vì hàng hóa là hữu hình, nên tất yếu sau đó cửa hàng phải dùng tới các phƣơng tiện gửi hàng theo kiểu truyền thống để đƣa hàng đến tay ngƣời tiêu dùng. Một trong những thuận lợi của mua hàng trên mạng là khách hàng có cửa hàng tại nhà (home shopping) mà không cần phải đích thân đi tới nơi có cửa hàng thật. Bài Giảng TMĐT Page 37
  38. 1.5.6. Quảng cáo trực tuyến Số lƣợng ngƣời sử dụng Internet ở Việt Nam đang tăng mạnh, vì thế quảng cáo trực tuyến dần dần trở thành hình thức quảng cáo quan trọng. Đây là xu hƣớng chung trên toàn cầu. Nhu cầu thị trƣờng lớn nhƣng chƣa đƣợc doanh nghiệp tận dụng khai thác. Vì vậy, các doanh nghiệp hoạt động trong ngành quảng cáo Việt Nam cần quan tâm đúng mức hơn nữa đối với thị trƣờng rộng lớn này. Đồng thời, đa dạng hóa khách hàng cũng là mục tiêu cần hƣớng tới trong chiến lƣợc phát triển dài hạn của doanh nghiệp kinh doanh quảng cáo trực tuyến. Các công ty lớn nhƣ Yahoo! và Google đã có những động thái rõ ràng nhằm chuẩn bị cho việc thâm nhập vào thị trƣờng quảng cáo trực tuyến tại Việt Nam. Cả Yahoo! và Google đều đã đƣa ra các dịch vụ bằng tiếng Việt với mục tiêu thu hút ngƣời sử dụng Việt Nam, từ đó thúc đẩy doanh nghiệp trong nƣớc tham gia quảng cáo tại trang thông tin điện tử hoặc các dịch vụ quảng cáo của những công ty này. 1.5.7. Giải trí trực tuyến a. Trò chơi trực tuyến Mặc dù Trò chơi trực tuyến mới gia nhập thị trƣờng từ 2003 nhƣng theo kết quả đánh giá thử nghiệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong ngành Công nghiệp nội dung số Việt Nam của Công ty Tƣ vấn Markcom năm 2006, trong các ngành kinh doanh dịch vụ trực tuyến, trò chơi trực tuyến đƣợc đánh giá cao nhất về yếu tố liên tục cải tiến, nâng cao chất lƣợng và khả Bài Giảng TMĐT Page 38
  39. năng hấp thụ công nghệ (76,25/100 điểm). Những yếu tố quan trọng này sẽ giúp trò chơi trực tuyến phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới đây. b. Truyền hình trực tuyến và âm nhạc trực tuyến Truyền hình trực tuyến đƣợc coi nhƣ một cuộc cách mạng trong lĩnh vực truyền thông đại chúng. Ngoài khả năng tƣơng tác với khán giả và cho phép lựa chọn nội dung linh hoạt, truyền hình trực tuyến còn mở ra khả năng truyền phát trên toàn cầu. Một ƣu thế của truyền hình Internet so với các loại truyền hình theo yêu cầu là không phải đầu tƣ quá nhiều về chi phí hạ tầng. Truyền hình Internet có thể sử dụng mạng lƣới điện thoại cố định sẵn có để triển khai kết nối Internet ADSL. Đây có thể là một kênh cập nhật thông tin nhanh và tiện lợi nhất. 1.5.8. E – Learning - đào tạo trên mạng Internet So với những kiểu đào tạo từ xa trƣớc đây, e –Learning có những ƣu thế hơn hẳn để nâng cao chất lƣợng và hiệu quả đào tạo; đó là sự tiện lợi, linh hoạt trong việc khai thác kiến thức, tài liệu, giáo trình trên mạng, là khả năng năng tƣơng tác giữa ngƣời học với ngƣời dạy, giữa ngƣời học với nhau trong những “lớp học ảo” Cùng với sự phát triển đến chóng mặt và xu hƣớng hội tụ công nghệ: Internet băng rộng, truy cập không dây, multimedia nhiều chuyên gia đã dự đoán e - Learning chính là tƣơng lai của đào tạo từ và giáo dục đào tạo nói chung. Trong tƣơng lai, cùng với sự phát triển nhanh chóng của CNTT-TT, đặc biệt là sự phát triển và phổ cập Internet ở nƣớc ta và các chƣơng trình nhƣ: Internet trƣờng học, Internet nông thôn, phát triển các Điểm BĐVHX, chắc chắn e - Learning sẽ trở thành một hình thức chủ yếu của ĐTTX. 1.5.9. Các dịch vụ giá trị gia tăng trực tuyến khác Việt Nam có hơn 10 triệu thuê bao điện thoại di động, trong đó riêng năm 2006 đã có 3,5 triệu thuê bao mới, cho thấy tiềm năng phát triển lớn của dịch vụ gia tăng trên điện thoại di động, chủ yếu là dịch vụ cung cấp thông qua tin nhắn. Nhìn chung, hình thức này có thể chia thành hai loại chính: dịch vụ tin nhắn đa phƣơng tiện và dịch vụ tin nhắn cung cấp nội dung. Dịch vụ tin nhắn đa phƣơng tiện vẫn tiếp tục giữ vị trí ƣu thế của mình. Dịch vụ này bao gồm tải nhạc chuông, hình, hình nền và các trò chơi trên điện thoại di động. Bài Giảng TMĐT Page 39
  40. Các dịch vụ tin nhắn cung cấp nội dung phát triển nhƣ: - Tin nhắn trúng thƣởng - Tin nhắn thông tin kinh tế xã hội - Tin nhắn có nội dung chuyên sâu: tƣ vấn sức khỏe, an toàn giao thông, tra cứu, giải đáp, v.v Sự ra đời của công nghệ tiên tiến nhƣ 3G, Wimax, và sự tham gia cung cấp dịch vụ di động của nhiều công ty mới nhƣ công ty Cổ phần Viễn thông Hà Nội (HanoiTelecom), Công ty Viễn thông điện lực (EVN), thị trƣờng cung cấp dịch vụ nội dung cho mạng điện thoại di động chắc chắn còn có những phát triển đáng kể trong thời gian tới. Với việc Việt nam gia nhập WTO thị trƣờng này sẽ còn đƣợc mở rộng hơn bởi sự tham gia của các công ty tầm cỡ quốc tế nhƣ Yahoo!, MSN, Google. Nhƣ vậy, dịch vụ cung cấp nội dung thông tin cho mạng điện thoại di động thông qua tin nhắn sẽ tiếp tục mang lại sự thỏa mãn cho khách hàng, đồng thời mang lại nguồn lợi cho cả ngành thƣơng mại di động. Bài Giảng TMĐT Page 40