Bài giảng Thương mại điện tử - Chương 2: Cơ sở hạ tầng cho phát triển TMĐT

pdf 29 trang huongle 6950
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Thương mại điện tử - Chương 2: Cơ sở hạ tầng cho phát triển TMĐT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_thuong_mai_dien_tu_chuong_2_co_so_ha_tang_cho_phat.pdf

Nội dung text: Bài giảng Thương mại điện tử - Chương 2: Cơ sở hạ tầng cho phát triển TMĐT

  1. CHƢƠNG 2 CƠ SỞ HẠ TẦNG CHO PHÁT TRIỂN TMĐT 1.1. Hạ tầng cơ sở kinh tế-chính trị-xã hội 1.1.1. Môi trường quốc gia Để phát triển TMĐT thì hạ tầng kinh tế xã hội phải được phát triển một cách đồng bộ. Trong đó các vấn đề sau đây cần được giải quyết như: Hệ thống mã vạch quốc gia: việc tương thích mã quốc gia trên mạng Internet là hết sức quan trọng, các hệ thống máy tính sẽ xử lý thông tin trên cơ sở việc đọc mã vạch trên các sản phẩm hàng hoá. Mức sống của người dân Hệ thống thanh toán tài chính tự động Trước hết, chính phủ từng nước phải quyết định xem xã hội thông tin nói chung và internet nói riêng là một hiểm hoạ hay là một cơ hội. Quyết định đó không dễ dàng, ngay một nước hiện đại như Pháp cũng phải tới năm 97-98 mới quyết định được và tuyên bố rằng "đây là cơ hội" (sau một thời gian dài chống lại internet vì nó chiếm mất vị trí của mạng Minitel vốn rất phổ biến trong nội bộ nước Pháp). Từ khẳng định mang tính nhận thức chiến lược ấy mới quyết định thiết lập môi trường kinh tế, pháp lý, và xã hội (kể cả văn hoá, giáo dục) cho nền kinh tế số hoá nói chung và cho thương mại điện tử nói riêng (ví dụ quyết định đưa vào mạng các dịch vụ hành chính, các dịch vụ thu trả thuế, và các dịch vụ khác như thư tín, dự báo thời tiết, thông báo giờ tàu xe v.v.), và đưa các nội dung của kinh tế số hoá vào văn hoá và giáo dục các cấp. Quyết định Phê duyệt Quy hoạch phát triển viễn thông và Internet Việt Nam đến năm 2010 với các mục tiêu như: - Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông có công nghệ hiện đại ngang tầm các nước trong khu vực, có độ bao phủ rộng khắp trên cả nước với dung lượng lớn, chất lượng cao, cung cấp đa dịch vụ và hoạt động có hiệu quả. - Viễn thông và Internet trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tỷ trọng đóng góp cho tăng trưởng GDP ngày càng tăng, tạo nhiều việc làm cho xã hội. Tốc độ tăng trưởng đạt 1,5 - 2 lần so với tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế; đến năm 2010, tổng doanh thu dịch vụ viễn thông và Internet đạt khoảng 55 nghìn tỷ đồng (3,5 tỷ USD). - Cung cấp các dịch vụ viễn thông và Internet với chất lượng tốt, giá cước hợp lý nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của người sử dụng dịch vụ. - Bảo đảm an toàn, an ninh thông tin cho các hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin và truyền thông trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội. - Đẩy nhanh việc phổ cập viễn thông và Internet trên phạm vi cả nước, rút ngắn khoảng cách về sử dụng dịch vụ giữa các vùng, miền, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, đồng thời góp phần bảo đảm an ninh, quốc phòng. Bài Giảng TMĐT Page 41
  2. Quyết định Phê duyệt Quy hoạch phát triển viễn thông và Internet Việt Nam đến năm 2010 của Thủ tướng chính phủ đã thể hiện sự nhìn nhận đúng đắn và quyết tâm của chính phủ trong việc gia nhập xã hội thông tin. Riêng về pháp lý có hàng loạt vấn đề phải xử lý: - Thừa nhận tính pháp lý của giao dịch thương mại điện tử. - Thừa nhận tính pháp lý của chữ ký điện tử (electronic signature) (tức chữ ký dưới dạng số đặt vào một thông điệp dữ liệu (data message)), và chữ ký số hoá (digital signature) (tức biện pháp biến đổi nội dung thông điệp dữ liệu khi dùng mã khoá để giải mới thu được nội dung thật của thông điệp dữ liệu); và có các thiết chế pháp lý, các cơ quan pháp lý thích hợp cho việc xác thực/chứng nhận (authentication/certification) chữ ký điện tử và chữ ký số hoá. - Bảo vệ pháp lý các hợp đồng thương mại điện tử - Bảo vệ pháp lý các thanh toán điện tử (bao gồm cả việc pháp chế hoá các cơ quan phát hành các thẻ thanh toán). Quy định pháp lý đối với các dữ liệu có xuất xứ từ Nhà nước (các cơ quan chính phủ và trung ương), chính quyền địa phương, doanh nghiệp nhà nước trong đó có các vấn đề phải giải quyết như: Nhà nước có phải là chủ nhân của các thông tin có quyền được công khai hoá và các thông tin phải giữ bí mật hay không? Người dân có quyền đòi công khai hoá các số liệu của chính quyền hay không? Khi công khai hoá thì việc phổ biến các số liệu đó có được xem là một nguồn thu cho ngân sách hay không? v.v.). Bảo vệ pháp lý đối với sở hữu trí tuệ (bao gồm cả bản quyền tác giả) liên quan đến mọi hình thức giao dịch điện tử. Bảo vệ bí mật riêng tư một cách "thích đáng" (để ngăn cản các bí mật đời tư bị đưa lên mạng một cách phi pháp, không chỉ tên tuổi, dung mạo mà còn cả các bí mật khác liên quan đến sức khoẻ, tôn giáo, quan điểm chính trị, giới tính, tình dục v.v.). Bảo vệ pháp lý đối với mạng thông tin, chống tội phạm xâm nhập với các mục đích bất hợp pháp như thu thập tin tức mật, thay đổi thông tin trên các trang Web, thâm nhập vào các dữ liệu, sao chép trộm các phần mềm, truyền virus phá hoại v.v ; tới nay từng nước rất có thể đã có các luật đơn hành về các tội này, vấn đề là sẽ phải đưa vào khuôn khổ của bộ luật hình sự, một khi kinh tế số hoá được thừa nhận trên tầm quốc gia. Tất cả những việc trên đây chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở mỗi quốc gia trước hết phải thiết lập một hệ thống "mã nguồn" cho tất cả các thông tin số hoá, bắt đầu từ chữ cái của ngôn ngữ nước đó trở đi; tiếp đó Nhà nước sẽ phải định hình một chiến lược chung về hình thành và phát triển một nền kinh tế số hoá? tiếp đó đến các chính sách, các đạo luật, và các quy định cụ thể tương ứng, được phản ảnh trong toàn bộ chỉnh thể của hệ thống nôi luật. Bài Giảng TMĐT Page 42
  3. 1.1.2. Môi trường quốc tế Các vấn đề môi trường kinh tế, pháp lý và xã hội quốc gia cũng sẽ in hình mẫu của nó vào vấn đề môi trường kinh tế, pháp lý và xã hội quốc tế, cộng thêm với các phức tạp khác của kinh tế-thương mại qua biên giới, trong đó khía cạnh quan trọng nhất là thương mại điện tử mang tính không có biên giới, do đó làm mất đi tính ranh giới địa lý vốn là đặc tính cố hữu của ngoại thương truyền thống, dẫn tới những khó khăn to lớn về luật áp dụng để điều chỉnh hợp đồng, về thanh toán và đặc biệt là về thu thuế. Ví dụ: một dữ liệu với tư cách là một dịch vụ được chuyển từ nước A đến một địa chỉ internet ở nước B, tiếp đó lại được chuyển tới người nhận thực sự ở nước C (rất có thể cơ sở kinh doanh của người chủ địa chỉ internet ở nước B được đặt ở nước C); vậy việc thu thuế sẽ thực hiện bằng cách nào, và dùng luật của nước nào để điều chỉnh thương vụ này. Một ví dụ khác: một người Đức đang đi du lịch bên Mỹ đặt mua qua mạng một lô rượu vang của ô-xtrê- li-a giao tới một nơi nghỉ mát tại Pháp mà anh ta sắp du hành tới; thuế của thương vụ này sẽ do nước nào thu và thu bằng cách nào. Vấn đề còn khó khăn hơn nữa là đánh thuế các dung liệu tức là các hàng hoá "phi vật thể" (như âm nhạc, chương trình truyền hình, chương trình phần mềm v.v giao trực tiếp giữa các đối tác thông qua mạng). Ngoài ra, cũng nảy sinh các khó khăn khác như: thu thuế trong trường hợp thanh toán vô danh (anonimous payment) bằng thẻ thông minh; vấn đề cách kiểm toán các công ty buôn bán bằng phương thức thương mại điện tử; Vấn đề bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ chính trị, và bảo vệ bí mật riêng tư trong thông tin xuyên quốc gia trên mạng internet giữa các nước có hệ thống luật pháp và hệ thống chính trị khác nhau; vấn đề pháp luật quốc tế về sử dụng không gian liên quan đến việc phóng và khai thác các vệ tinh viễn thông v.v. Tất cả những vấn đề ấy đòi hỏi phải có các nỗ lực tập thể đa biên nhằm đạt tới các thoả thuận quốc tế làm căn bản cho "con đường tơ lụa" mới, và trước hết là nhằm bảo vệ quyền lợi của các nước đang phát triển, còn ở tầng thấp về công nghệ thông tin, về cơ chế thuế khoá, và về bảo mật và an toàn. 1.2. Cơ sở pháp lý về thương mại điện tử 1.2.1. Sự cần thiết phải xây dựng khung pháp lý cho việc triển khai Thương mại điện tử Sự phát triển của Thương mại điện tử trên thế giới đã làm thay đổi cách thức kinh doanh, giao dịch truyền thống và đem lại những lợi ích to lớn cho xã hội. Tuy nhiên bên cạnh đó Bài Giảng TMĐT Page 43
  4. cũng phải thừa nhận rằng những rủi ro gặp phải trong quá trình giao dịch, kinh doanh trên mạng là hiện thực và việc này đòi hỏi phải có các giải pháp không chỉ về mặt kỹ thuật mà còn cần phải hình thành được một cơ sở pháp lý đầy đủ. Những kinh nghiệm thực tế trên thế giới cho thấy để thúc đẩy thương mại điện tử phát triển thì vai trò của Nhà nước phải được thể hiện rõ nét trên hai lĩnh vực: cung ứng dịch vụ điện tử và xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ, thống nhất và cụ thể để điều chỉnh các quan hệ thương mại điện tử. Nếu như chúng ta thiếu đi một cơ sở pháp lý vững chắc cho thương mại điện tử hoạt động thì các doanh nghiệp và người tiêu dùng sẽ rất lúng túng trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan và về phía các cơ quan Nhà nước cũng sẽ rất khó có cơ sở để kiểm soát được các hoạt động kinh doanh thương mại điện tử. Hơn thế nữa thương mại điện tử là một lĩnh vực mới mẻ cho nên tạo được niềm tin cho các chủ thể tham gia vào các quan hệ thương mại điện tử là một việc làm có tính cấp thiết mà một trong những hạt nhân là phải tạo ra được một sân chơi chung với những quy tắc được thống nhất một cách chặt chẽ. Trong tiến trình hội nhập với thế giới với tư cách là thành viên của APEC, Việt nam đang tích cực tham gia và ủng hộ "Chương trình hành động chung" mà khối này đã đưa ra về thực hiện "Thương mại phi giấy tờ" vào năm 2005 đối với các nước phát triển và năm 2010 đối với các nước đang phát triển. Việt nam cũng tích cực tham gia vào lộ trình tự do hoá của HiệpLuật định Công khung nghệ thông e-ASEAN tin: Tổ chức,và thực cá nhân hiện thu theo thập, “Các xử lí vànguyên sử dụng tắc thông chỉ tin đạo cá nhânThương của người mại khácđiện trêntử" màmôi các trường nước mạng trong phải khối được đã người thông đó đồngqua. ý, C trừhính trường vì thế hợp nhữngluật có quiđòi định hỏi khác. của Ngoàipháp ralý phảiquốc có tếbiện chúng pháp đảm bảo thông tin cá nhân không bị mất, đánh cắp, thay đổi. Chỉ được lưu trữ những thông tin cá nhân đó ta phải đáptrong ứng một để khoản có gthể thời hoà gian nhập nhất địnhvà theo theo kịpqui địnhcác phápnước luật trong hoặc khu theo vực thỏa và thuận trên giữa thế hai giới. bên. Luật Công nghệ thông tin có hiệu lực vào tháng 1 năm 2007. Tuy nhiên, để Luật có thể đi vào cuộc sống và Trongphát huy khi hết việctác dụng, xây vẫndựng rất vàcần ban những hành văn bảnLuật dưới Giao luật dịchnhằm điệnđiều chỉnhtử và từng Luật khía Công cạnh nghệ cụ thể thông của giao tin diễn ra khá nhanh so với cácdịch điệnLuật tử khác,trong các quá lĩnh trình vực đời xây sống dựng xã hội. và ban hành các nghị định hướng dẫn thi hành các Luật này lại chậm chạp. Tính tới cuối năm 2006, trong số năm nghị định cần ban hành để thi hành Luật Giao dịch điện tử, Chính phủ mới ban hành được duy nhất Nghị định số 57/2006/NĐ-CP về thương mại điện tử. Ngày 9 tháng 6 năm 2006 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 57/2006/NĐ-CP về thương mại điện tử. Đây là nghị định đầu tiên trong số 5 nghị định hướng dẫn Luật Giao dịch điện tử và là nghị định thứ sáu trong số 12 nghị định hướng dẫn Luật Thương mại (sửa đổi) được ban hành. Nội dung cơ bản của Nghị định về Thương mại điện tử là chứng từ điện tử có giá trị pháp lý tương đương chứng từ truyền thống trong mọi hoạt động thương mại, từ chào hàng, chấp nhận chào hàng, giao kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, v.v Nghị định về Thương mại điện tử đánh dấu một bước tiến lớn trong việc tạo hành lang pháp lý để các doanh nghiệp yên tâm Bài Giảng TMĐT Page 44
  5. tiến hành giao dịch thương mại điện tử, khuyến khích thương mại điện tử phát triển, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia, đồng thời cũng là căn cứ pháp lý để xét xử khi có tranh chấp liên quan đến hoạt động thương mại điện tử. Nghị định về Thương mại điện tử được xây dựng dựa trên một số quan điểm và mục tiêu: bám sát các quy định tại Luật Thương mại, Bộ luật Dân sự và Luật Giao dịch điện tử; hỗ trợ tối đa hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp và cá nhân trong xã hội; bao quát các loại hình thương mại điện tử diễn ra trong thực tế, đồng thời có tính đến sự thay đổi, phát triển nhanh chóng của những loại hình giao dịch mới. Nghị định cũng đảm bảo sự tương thích với luật pháp quốc tế, đồng thời phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Để Nghị định về thương mại điện tử có thể đi vào cuộc sống, đồng thời tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động thương mại điện tử tại Việt Nam, các cơ quan chức năng cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng những văn bản hướng dẫn chi tiết hơn nữa về việc ứng dụng thương mại điện tử trong các lĩnh vực hoạt động đặc thù như cung ứng hàng hóa dịch vụ kinh doanh có điều kiện, quảng cáo thương mại qua phương tiện điện tử, sử dụng chứng từ điện tử trong hoạt động thương mại trực tuyến, bảo vệ người tiêu dùng và các quy định liên quan khác. 1.2.2. Các vấn đề pháp luật chuyên ngành Giao dịch tài chính là một lĩnh vực giao dịch đặc thù do có liên quan đến tất cả các mặt của đời sống kinh tế xã hội. Các quy định về thuế, kiểm toán và kế toán không chỉ áp dụng cho giao dịch giữa tổ chức cá nhân với cơ quan thuế, mà còn tác động trực tiếp đến toàn bộ giao dịch thương mại giữa các tổ chức cá nhân với nhau. Do vậy, để có thể tiến hành một chu trình thương mại điện tử trọn vẹn cho đến khâu thanh toán, rất cần những quy định cụ thể nhằm thừa nhận giá trị pháp lý của chứng từ điện tử trong hệ thống pháp luật tài chính. Các văn bản pháp luật như Luật Giao dịch điện tử, Nghị định Thương mại điện tử, Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính (đang soạn thảo) sẽ cung cấp đủ cơ sở pháp lý để chấp nhận chứng từ điện tử nếu doanh nghiệp muốn sử dụng chứng từ điện tử trong giao dịch kinh doanh của mình. Tuy nhiên, điều kiện cụ thể cấu thành nên giá trị pháp lý của những chứng từ này trong các nghiệp vụ đặc thù như thuế, kiểm toán, kế toán thì sẽ do các cơ quan quản lý chuyên ngành quy định. Những quy định như vậy hiện tại mới chỉ được ban hành ở một số văn bản hướng dẫn mang tính cục bộ, áp dụng cho từng trường hợp cụ thể. Việc thiếu một khung quy định chung mang tính tổng thể dẫn đến việc doanh nghiệp và bản thân các cơ quan tài chính cũng lúng túng khi phải đối diện với những vấn đề mới phát sinh từ thực tế hoạt động thương mại điện tử tại Việt Nam. Bài Giảng TMĐT Page 45
  6. Từ năm 2006, các hoạt động thương mại điện tử tại Việt Nam bắt đầu phát triển nhanh và đi vào thực chất hơn do yêu cầu tất yếu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việc triển khai thương mại điện tử tại doanh nghiệp với rất nhiều hình thái đa dạng của nó đã vấp phải những vấn đề sau liên quan đến khía cạnh tài chính của giao dịch: - Vấn đề thuế và thủ tục hải quan đối với hoạt động xuất nhập khẩu sản phẩm số hóa qua mạng Internet ; - Tính hợp lệ của chứng từ thanh toán trong một số trường hợp giao dịch truyền thống nhưng sử dụng phương thức thanh toán hiện đại: khi mua hàng tại quầy và thanh toán bằng thẻ tín dụng, chứng từ mua hàng là sao kê thẻ và hóa đơn bán hàng in tự động từ máy (không có con dấu) ; - Tính hợp lệ của chứng từ thanh toán trong các giao dịch mua bán trực tuyến: khi đặt hàng qua Internet, toàn bộ chứng từ mua hàng là các biểu mẫu điện tử được khởi tạo tự động và truyền qua Internet. a. Thuế và thủ tục hải quan đối với hoạt động xuất nhập khẩu sản phẩm số hóa tiến hành qua Internet Các sản phẩm số hóa như phần mềm, dữ liệu, nhạc, phim, sách điện tử đang chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong giá trị trao đổi thương mại của nền kinh tế thông tin. Một số sản phẩm số hóa như phần mềm thậm chí chiếm phần đáng kể trong giá trị tài sản của nhiều doanh nghiệp và trở thành mặt hàng xuất khẩu chính của nhiều doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, giao dịch mua bán các sản phẩm số hóa có một đặc thù là có thể được tiến hành qua kênh Internet, vượt ngoài phạm vi kiểm soát hiện nay của cơ quan thuế và hải quan. Đây là vấn đề gây nhiều lúng túng không chỉ đối với doanh nghiệp mà cho cả các cơ quan thuế, hải quan. Hiện nay, các cơ quan thuế, hải quan đang nghiên cứu để tìm ra giải pháp hợp lý nhằm theo dõi, quản lý hoạt động này một cách hiệu quả. b. Tính hợp lệ của chứng từ thanh toán điện tử (đối với cơ quan thuế, kế toán, kiểm toán) Việc triển khai thương mại điện tử với các chu trình trọn vẹn cho đến khâu thanh toán sẽ dẫn đến sự thay đổi lớn về cách thức quản lý cũng như hình thức của hệ thống hóa đơn chứng từ. Thay vì các mẫu hóa đơn in sẵn như hiện nay sẽ là hóa đơn tự in từ hệ thống quản lý nội bộ của từng doanh nghiệp, hoặc các chứng từ điện tử được gửi và lưu trữ trong hệ thống thông tin của các bên tham gia giao dịch. Tuy nhiên, để những chứng từ này có thể đưa vào sử dụng trong công tác tài chính doanh nghiệp, thì ngoài sự thừa nhận chính thức của pháp Bài Giảng TMĐT Page 46
  7. luật về giá trị pháp lý của chứng từ điện tử, còn cần sự thay đổi tương ứng trong các quy định về hóa đơn chứng từ của cơ quan thuế. c. Giá trị pháp lý của chứng từ điện tử trong hoạt động tài chính Hiện nay hoá đơn được coi là chứng từ gốc cơ bản nhất để xác định nghĩa vụ và quyền lợi về thuế của doanh nghiệp, để doanh nghiệp hạch toán chi phí và doanh thu, cũng như để xác nhận quyền sở hữu của người mua hàng. Do vậy, các hóa đơn lưu hành trong nội bộ nền kinh tế đều phải tuân thủ những quy định nghiêm ngặt của Bộ Tài chính về hình thức in ấn, nội dung cũng như con dấu. Chứng từ điện tử không đáp ứng đủ những điều kiện này sẽ không được coi là hợp lệ trong giao dịch giữa tổ chức với cơ quan thuế, mặc dù chúng có giá trị pháp lý “như văn bản” và “như bản gốc” theo quy định của pháp luật hiện hành. Đây là điểm vướng mắc rất lớn cho các doanh nghiệp muốn triển khai thương mại điện tử trên quy mô rộng. d. Quyền sở hữu trí tuệ Là hình thái biểu hiện cao của nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin, trình độ phát triển thương mại điện tử ở một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào mức độ thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại quốc gia đó. Từ các sản phẩm phần mềm – nền tảng của ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp, cho đến thương hiệu trong môi trường điện tử, các mẫu mã sản phẩm, ý tưởng kinh doanh, v.v đều là những đối tượng cần được thừa nhận và bảo hộ nếu muốn xây dựng môi trường cạnh tranh thật sự lành mạnh cho thương mại điện tử phát triển. Theo Báo cáo của IDC (Tập đoàn Dữ liệu Quốc tế) và BSA (Liên minh Phần mềm Kinh doanh) công bố tháng 5/2006, Việt Nam hiện vẫn là nước có tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm cao nhất thế giới. Tuy nhiên, so với năm 2005 thì mức độ vi phạm bản quyền năm nay đã giảm cả về con số tương đối và giá trị tuyệt đối. Với hàng loạt sự kiện quốc tế quan trọng như việc gia nhập WTO, đăng cai tổ chức các hội nghị cấp cao APEC và đón tiếp lãnh đạo nhiều tập đoàn CNTT hàng đầu thế giới như Microsoft, Intel, v.v năm 2006 sẽ là một mốc chuyển biến lớn trong việc gia tăng cam kết bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của các nhà quản lý và doanh nghiệp Việt Nam. Đây là vấn đề được các đối tác thương mại lớn đặc biệt quan tâm. Khi gia nhập vào sân chơi thương mại toàn cầu, Việt Nam không có cách nào khác là phải tuân thủ những luật lệ chung của sân chơi đó theo những lộ trình đã cam kết. e. Bản quyền và vấn đề cấp phát tên miền Internet Bài Giảng TMĐT Page 47
  8. Vấn đề sở hữu trí tuệ đã được cơ quan quản lý tài nguyên Internet đặc biệt lưu ý (thông qua quy trình cấp phát tên miền cấp hai .vn) nhằm đảm bảo sự công bằng trong việc phân bổ những tên miền có liên quan đến các nhãn hiệu hoặc tên thương mại đã được bảo hộ. Tên miền cấp hai .vn được VNNIC cấp phát từ đầu tháng 6/2006, chia thành ba giai đoạn: 1. Giai đoạn 1: từ 1/6 đến 12/6. Ưu tiên cho nhãn hiệu hàng hóa, tên tác phẩm được công nhận bảo hộ và các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội trong nước và quốc tế. 2. Giai đoạn 2: từ 13/6 đến 13/7. Xét duyệt tên miền cấp hai cho các tổ chức (trừ cá nhân) đăng ký đã có tên miền cấp ba .vn tương ứng (ví dụ tổ chức đã có tên miền cấp 3 www.tochuc.com.vn sẽ được cấp tên miền cấp 2 là www.tochuc.vn). 3. Giai đoạn 3: từ 14/8/2006. Cấp tự do theo nguyên tắc “ai đăng ký trước cấp trước”. Với tên miền đăng ký trùng tên các nhãn hiệu nổi tiếng đã được bảo hộ trong nước và quốc tế, nếu có ý kiến khiếu nại từ chủ nhãn hiệu, VNNIC sẽ xem xét và quyết định cụ thể đối với từng trường hợp. Thống kê của VNNIC cho thấy hết giai đoạn 1 của đợt xét duyệt (ngày 12/6/2006), trong hơn 1.300 tên miền được duyệt cấp, 40% thuộc về các chủ thể nước ngoài, hầu hết là công ty lớn, nổi tiếng toàn cầu và đã có thương hiệu tại Việt Nam. Trong đó số đơn hợp lệ (tức là có nhãn hiệu thương mại như tên công ty, sản phẩm, dịch vụ được bảo hộ sở hữu trí tuệ) chiếm tới 79,9%. Không những thế, nhiều công ty đa quốc gia còn đăng ký vài chục tên miền kiểu “bao vây” như Johnson & Johnson Co đăng ký johnsonandjohnson.vn, johnson-johnson.vn, johnsons.vn; ngân hàng CitiBank đăng ký citi.vn, citicorp.vn, citibank.vn. Nhiều tập đoàn nước ngoài thậm chí chưa vào Việt Nam đã đăng ký tên miền .vn, ví dụ như Wal Mart. Ngược lại, trong 60% hồ sơ đăng ký giữ chỗ tên miền .vn của các chủ thể doanh nghiệp tại Việt Nam, chỉ 15,63% có giấy chứng nhận bảo hộ sở hữu trí tuệ. Điều này cho thấy doanh nghiệp trong nước thiếu quan tâm và còn “sơ hở” trong đăng ký tên miền cấp hai .vn. f. Bảo vệ thông tin cá nhân Một đặc thù của môi trường điện tử là mức độ truyền dẫn thông tin nhanh và khả năng tiếp cận thông tin dễ dàng cho mọi đối tượng, hệ quả của nó là việc khó kiểm soát cũng như quản lý sự rò rỉ hoặc lạm dụng thông tin cá nhân. Việc thu thập, phát tán các thông tin cá nhân của người tiêu dùng cho mục đích thương mại đang ngày càng phổ biến, và trong nhiều trường hợp đi ngược lại lợi ích cũng như quyền chính đáng của người tiêu dùng. Nhiều quốc gia phát Bài Giảng TMĐT Page 48
  9. triển đặc biệt quan tâm và đã xây dựng khung pháp lý tương đối hoàn thiện để điều chỉnh vấn đề này. Đây cũng là chủ đề được thảo luận trong chương trình nghị sự của nhiều tổ chức quốc tế lớn về thương mại như APEC, AFACT, UNCITRAL, UNCTAD. Việt Nam hiện chưa có Luật về bảo vệ thông tin cá nhân. Xét đặc thù của tập quán kinh doanh và môi trường thương mại truyền thống, bản thân vấn đề thông tin cá nhân cũng còn tương đối mới mẻ với nhiều doanh nghiệp. Tuy nhiên, trước sức ép của quá trình hội nhập, các cơ quan quản lý nhà nước cũng bắt đầu ý thức được tầm quan trọng của việc tạo lập khung pháp lý điều chỉnh vấn đề này. Tiếp sau Luật Giao dịch điện tử ban hành năm 2005, Luật Công nghệ thông tin ban hành ngày 29 tháng 6 năm 2006 đã có những quy định mang tính nguyên tắc về việc bảo vệ thông tin cá nhân trong môi trường điện tử. Điều 46 Luật Giao dịch điện tử quy định: Cơ quan, tổ chức, cá nhân không được sử dụng, cung cấp hoặc tiết lộ thông tin về bí mật đời tư hoặcthông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác mà mình tiếp cận hoặc kiểm soát được trong giao dịch điện tử nếu không được sự đồng ý của họ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Điều 21 Luật Công nghệ thông tin quy định: 1. Tổ chức, cá nhân thu thập, xử lý và sử dụng thông tin cá nhân của người khác trên môi trường mạng phải được người đó đồng ý, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. 2. Tổ chức, cá nhân thu thập, xử lý và sử dụng thông tin cá nhân của người khác có trách nhiệm sau đây: a) Thông báo cho người đó biết về hình thức, phạm vi, địa điểm và mục đích của việc thu thập, xử lý và sử dụng thông tin cá nhân của người đó; b) Sử dụng đúng mục đích thông tin cá nhân thu thập được và chỉ lưu trữ những thông tin đó trong một khoảng thời gian nhất định theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận giữa hai bên; c) Tiến hành các biện pháp quản lý, kỹ thuật cần thiết để đảm bảo thông tin cá nhân không bị mất, đánh cắp, tiết lộ, thay đổi hoặc phá hủy. Điều 22 Luật Công nghệ thông tin quy định: Bài Giảng TMĐT Page 49
  10. 1. Cá nhân có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân lưu trữ thông tin cá nhân của mình trên môi trường mạng thực hiện việc kiểm tra, đính chính hoặc hủy bỏ thông tin đó. 2. Tổ chức, cá nhân không được cung cấp thông tin cá nhân của người khác cho bên thứ ba, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc có sự đồng ý của người đó. 3. Cá nhân có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm trong việc cung cấp thông tin cá nhân. g. Bảo vệ người tiêu dùng trong quảng cáo thương mại bằng thư điện tử Cùng với sự phát triển nhanh của lượng người sử dụng Internet và điện thoại di động ở Việt Nam, các hình thức quảng cáo thương mại qua phương tiện điện tử như email, tin nhắn di động, báo điện tử đang ngày càng phổ biến. Trong khi quảng cáo trên trang tin điện tử là hình thức còn tương đối gần gũi với các phương thức quảng cáo truyền thống (tại nơi công cộng và qua phương tiện thông tin đại chúng), quảng cáo qua thư điện tử đã bước sang một phạm trù ứng dụng hoàn toàn mới và tác động nhiều đến quyền riêng tư thông tin của người tiêu dùng. Ưu điểm của hình thức quảng cáo này là hết sức nhanh chóng, tiện lợi và được phát tán trên diện rộng. Chi phí thấp hơn so với quảng cáo trên các phương tiện truyền thống cũng là một thế mạnh để các doanh nghiệp lựa chọn trong thời đại Internet bùng nổ. Tuy nhiên, hình thức quảng cáo qua thư điện tử cũng tồn tại những mặt trái cần được khắc phục kịp thời. Nó khiến cho người nhận cảm thấy khó chịu vì sự quấy rầy liên tục, ngoài mong muốn và có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của hệ thống thông tin. Thư điện tử quảng cáo hiện góp phần không nhỏ vào số lượng thư rác đang hàng ngày tràn ngập các đường truyền Internet toàn cầu. Vấn đề thư quảng cáo thương mại nói chung và thư rác nói riêng được các nước trên thế giới điều chỉnh dưới hai góc độ: bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong sử dụng thư điện tử và bảo vệ thông tin cá nhân trên môi trường điện tử. h. Xử lý vi phạm, tội phạm trong thương mại điện tử Việt Nam hiện mới ở giai đoạn đầu của việc triển khai ứng dụng thương mại điện tử, nhận thức xã hội cũng như mức độ ứng dụng của người dân và doanh nghiệp còn tương đối thấp. Nhưng các hành vi gây rối và tội phạm trên môi trường mạng đã có chiều hướng ngày càng gia tăng, làm ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của người tiêu dùng cũng như doanh nghiệp Bài Giảng TMĐT Page 50
  11. đối với phương thức kinh doanh còn khá mới mẻ này. Hình thức phạm tội rất đa dạng, từ lừa đảo trong các giao dịch trực tuyến, giả mạo thẻ ATM, cho đến phát tán virus, ăn cắp mật khẩu, phá hoại cơ sở dữ liệu của các website cá nhân và doanh nghiệp, v.v Năm 2006 có thể coi là một năm đáng báo động về số lượng cũng như tần suất các vụ tội phạm trực tuyến ở Việt Nam. Thực tế này đặt ra yêu cầu bức thiết cho các cơ quan nhà nước phải nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý để lập lại trật tự và sự lành mạnh cho môi trường thương mại điện tử tại Việt Nam. Trong năm 2006, nhiều Bộ ngành có liên quan đang bắt đầu triển khai tiếp cận thực tiễn để nghiên cứu xây dựng các biện pháp chế tài đối với hành vi phạm tội trong lĩnh vực công nghệ cao nói chung và thương mại điện tử nói riêng. Hiện nay, việc xử lý các hành vi tội phạm trên mạng chủ yếu dựa vào một số văn bản pháp quy sau: - Luật Giao dịch điện tử - Bộ Luật Hình sự năm 1999 - Nghị định số 55/2001 về Quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet - Quyết định 71/2004/QĐ-BCA về Đảm bảo an toàn và an ninh trong hoạt động cung cấp, sử dụng Internet tại Việt Nam. Tuy nhiên, tất cả những văn bản pháp quy này được đánh giá là mới chỉ hỗ trợ phần nào cho việc “định tội”, chứ chưa giúp cho việc “định khung” hình phạt đối với những hành vi tội phạm trên môi trường mạng. Do đó, các cơ quan điều tra xét xử hiện vẫn gặp khó khăn trong khâu xử lý tội phạm ngay cả khi đối tượng và hành vi phạm tội đã được kết luận rõ. Những ví dụ nổi bật nhất của năm 2006 là các hành vi phát tán virus và tấn công phá hoại website thương mại điện tử. i. Phát tán virus Năm 2006 là năm nổi cộm của nạn phát tán các virus có nguồn gốc từ chính Việt Nam. Chỉ trong vòng vài tháng, BKIS đã thống kê có khoảng 200 ngàn máy tính ở Việt Nam từng bị các loại virus nội này “viếng thăm”. Nhiều ý kiến cho rằng một phần nguyên nhân của nạn phát tán virus là do các cơ quan quản lý nhà nước chưa có các biện pháp thực sự quyết liệt, mang tính răn đe cao. Hiện nay, tất cả các loại hình tội phạm công nghệ cao mới chỉ có mức xử lý cao nhất là phạt hành chính như cảnh cáo, thông báo cho đơn vị quản lý, phạt tiền với mức xử phạt cao nhất trong thực tế là 10 triệu đồng. Bài Giảng TMĐT Page 51
  12. k. Tấn công website Ngoài các hành vi ăn cắp thẻ tín dụng qua mạng, phát tán virus phá hoại hệ thống thông tin của các cá nhân và tổ chức, phát tán thư rác, v.v trong năm 2006 đã xuất hiện nhiều vụ tấn công vào các website thương mại điện tử của doanh nghiệp, gây gián đoạn hoạt động của website hoặc phá hủy hoàn toàn cấu trúc dữ liệu của website, dẫn tới thiệt hại vật chất và uy tín cho doanh nghiệp. Xét từ khía cạnh pháp lý, những hành vi tấn công này có thể được xếp vào danh sách hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Điều 44 Luật Cạnh tranh được Quốc hội thông qua ngày 03/12/2004 quy định: “Cấm doanh nghiệp gây rối hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp khác bằng hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó”. Điều 9 Luật Giao dịch điện tử cũng nghiêm cấm các hành vi “nhằm phá hoại hạ tầng công nghệ về giao dịch điện tử”. Ở mức độ nghiêm trọng, những cá nhân, tổ chức tiến hành các hành vi này còn có thể bị xử lý hình sự. Tuy nhiên, Việt Nam hiện còn thiếu những văn bản dưới Luật hướng dẫn chi tiết việc xử lý và các biện pháp chế tài trong những trường hợp này. Hiện tại, Bộ Tư pháp đang chủ trì một dự án bổ sung và cập nhật các văn bản luật liên quan đến tội phạm công nghệ cao, nhằm quản lý tốt hơn các hoạt động vi phạm pháp luật trên môi trường mạng. 1.2.3. Các yêu cầu pháp lý cho việc phát triển thương mại điện tử a. Giá trị pháp lý của các hình thức thông tin điện tử Theo quan niệm trước đây trong một nền thương mại truyền thống thì văn bản được đồng nghĩa với giấy tờ (dưới hình thức viết). Như vậy, nếu các hình thức thông tin điện tử không được ghi nhận về mặt pháp lý là một trong những hình thức của văn bản, thì các hợp đồng được giao kết trên mạng máy tính giữa các chủ thể sẽ bị coi là vô hiệu , do không đáp ứng được các yêu cầu về mặt pháp lý của hợp đồng. Nếu đòi hỏi các hợp đồng thương mại, dân sự phải được thể hiện dưới hình thức viết và chữ ký tay thì những ưu thế của các giao dịch thương mại điện tử sẽ không được tận dụng và phát huy. Chính vì vậy việc xoá bỏ rào cản đầu tiên ảnh hưởng đến sự phát triển của thương mại điện tử là về phía Nhà nước cần phải có sự ghi nhận về mặt pháp lý đối với giá trị của văn bản giao dịch thông qua phương tiện điện tử. Theo quy định tại nghị định 57/2006/NĐ-CP về thương mại điện tử, chứng từ điện tử có giá trị pháp lý như văn bản nếu thông tin chứa trong chứng từ điện tử có thể Bài Giảng TMĐT Page 52
  13. truy cập được để sử dụng khi cần thiết. Chứng từ điện tử cũng có giá trị như bản gốc nếu thỏa măn được đồng thời 2 điều kiện là có sự đảm bảo đủ tin cậy về tính toàn vẹn của thông tin chứa trong chứng từ điện tử từ khi thông tin được tạo ra ở dạng cuối cùng là chứng từ điện tử hay dạng khác. Và thông tin chứa trong chứng từ điện tử có thể truy cập và sử dụng được dưới dạng hoàn chỉnh khi cần thiết. b. Giá trị pháp lý của chữ ký điện tử Từ trước đến nay chữ ký là phương thức phổ biến để ghi nhận tính xác thực của thông tin được chứa đựng trong văn bản. Trong giao dịch thương mại thông qua các phương tiện điện tử, các yêu cầu về đặc trưng của chữ ký tay có thể đáp ứng bằng hình thức chữ ký điện tử. Chữ ký điện tử trở thành một thành tố quan trọng trong văn bản điện tử. Một trong những vấn đề cấp thiết đặt ra là về mặt công nghệ và pháp lý thì chữ ký điện tử phải đáp ứng được sự an toàn và thể hiện ý chí rõ ràng của các bên về thông tin chứa đựng trong văn bản điện tử. Hiện nay trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và đã được ứng dụng rộng rãi nhằm nhận dạng và chứng thực cá nhân. Những công nghệ này bao gồm công nghệ số và mật lệnh nhận dạng, dấu hiệu hoặc thẻ thông minh, sinh trắc học, dữ liệu điện tử đơn giản, chữ ký kỹ thuật số và các kết hợp của những công nghệ này. Luật pháp điều chỉnh lĩnh vực này sẽ tập trung vào việc đặt ra các yêu cầu về nhận dạng chữ ký điện tử cho phép các bên không liên quan hoặc có ít thông tin về nhau có thể xác định được chính xác chữ ký điện tử của các bên đối tác. Và trong trường hợp này để xác định được độ tin cậy của chữ ký điện tử người ta trù liệu hình thành một cơ quan trung gian nhằm chứng thực tính xác thực và đảm bảo độ tin cậy của chữ ký điện tử. Cơ quan này hình thành nhằm cung cấp một dịch vụ mang nhiều ý nghĩa về mặt pháp lý hơn là về mặt công nghệ. Điều 21. Chữ ký điện tử 1. Chữ ký điện tử được tạo lập dưới dạng từ, chữ, số, ký hiệu, âm thanh hoặc các hình thức khác bằng phương tiện điện tử, gắn liền hoặc kết hợp một cách lôgíc với thông điệp dữ liệu, có khả năng xác nhận người ký thông điệp dữ liệu và xác nhận sự chấp thuận của người đó đối với nội dung thông điệp dữ liệu được ký. 2. Chữ ký điện tử được xem là bảo đảm an toàn nếu chữ ký điện tử đó đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 22 của Luật này. 3. Chữ ký điện tử có thể được chứng thực bởi một tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử. Điều 22. Điều kiện để bảo đảm an toàn cho chữ ký điện tử 1. Chữ ký điện tử được xem là bảo đảm an toàn nếu được kiểm chứng bằng một quy trình kiểm tra an toàn do các bên giao dịch thỏa thuận và đáp ứng được các điều kiện sau đây: a) Dữ liệu tạo chữ ký điện tử chỉ gắn duy nhất với người ký trong bối cảnh dữ liệu đó được sử dụng; b) Dữ liệu tạo chữ ký điện tử chỉ thuộc sự kiểm soát của người ký tại thời điểm ký; c) Mọi thay đổi đối với chữ ký điện tử sau thời điểm ký đều có thể bị phát 02hiện; d) Mọi thay đổi đối với nội dung của thông điệp dữ liệu sau thời điểm ký đều có thể bị phát hiện. 2. Chữ ký điện tử đã được tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử chứng thực được xem là bảo đảm các điều kiện an toàn quy định tại khoản 1 Điều này. Bài Giảng TMĐT Page 53
  14. Nghị định 57 cũng công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử. Nghị định ghi rõ, chứng từ điện tử được coi là có chữ ký của một bên nếu đă sử dụng một phương pháp để xác nhận được bên ký chứng từ điện tử và xác nhận sự chấp thuận của bên đó đối với thông tin chứa trong chứng từ điện tử được ký . c. Vấn đề bản gốc Vấn đề "bản gốc" có liên quan chặt chẽ đến vấn đề "chữ ký" và "văn bản" trong môi truờng kinh doanh điện tử. Bản gốc thể hiện sự toàn vẹn của thông tin chứa đựng trong văn bản. Trong môi trường giao dịch qua mạng thì vấn đề bản gốc được đặt gắn liền với việc sử dụng chữ ký điện tử. Do đó chữ ký điện tử không những chỉ xác định người ký mà còn nhằm xác minh cho tính toàn vẹn của nội dung thông tin chứa trong văn bản. Việc sử dụng chữ ký điện tử đồng nghĩa với việc mã hoá tài liệu được ký kết. Về mặt nguyên tắc thì văn bản điện tử và văn bản truyền thống có giá trị ngang nhau về mặt pháp lý. Vấn đề này được làm rõ sẽ là cơ sở cho việc xác định giá trị chứng cứ của văn bản điện tử. Việc công nhận giá trị chứng cứ của văn bản điện tử đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của thương mại điện tử. Chỉ khi giá trị của văn bản điện tử được đặt ngang hàng với văn bản viết truyền thống thì các chủ thể trong giao dịch thương mại điện tử mới sử dụng một cách thường xuyên văn bản điện tử thay cho văn bản viết truyền thống. Tuy vậy giá trị của văn bản điện tử cũng chỉ được xác nhận khi nó đảm bảo được các thành tố mà đã được nêu ở phần trên. Có thể nói vấn đề xây dựng khung pháp lý làm cơ sở cho thương mại điện tử phát triển là một việc làm mang tính cấp thiết. Dẫu là còn nhiều vấn đề mà chúng ta phải bàn về nó song một thực tế là thương mại điện tử không thể phát triển mạnh và hoàn thiện nếu như không có môi trường pháp lý đầy đủ cho nó hoạt động. Năm 2006 có ý nghĩa đặc biệt đối với thương mại điện tử Việt Nam, là năm đầu tiên thương mại điện tử được pháp luật thừa nhận chính thức khi Luật Giao dịch điện tử, Luật Thương mại (sửa đổi), Bộ luật Dân sự (sửa đổi) và Nghị định Thương mại điện tử có hiệu lực. Năm 2006 cũng là năm đầu tiên triển khai Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2006-2010 theo Quyết định số 222/2005/QĐ-TTg ngày 15 tháng 9 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ. Có thể thấy khung pháp lý về thương mại điện tử đã cơ bản được hình thành. Bài Giảng TMĐT Page 54
  15. 1.3. Hạ tầng công nghệ 1.3.1. Tổ chức của Internet Internet là một liên mạng, tức là mạng của các mạng con. Vậy đầu tiên là vấn đề kết nối hai mạng con. Để kết nối hai mạng con với nhau, có hai vấn đề cần giải quyết. Về mặt vật lý, hai mạng con chỉ có thể kết nối với nhau khi có một máy tính có thể kết nối với cả hai mạng này. Việc kết nối đơn thuần về vậy lý chưa thể làm cho hai mạng con có thể trao đổi thông tin với nhau. Vậy vấn đề thứ hai là máy kết nối được về mặt vật lý với hai mạng con phải hiểu được cả hai giao thức truyền tin được sử dụng trên hai mạng con này và các gói thông tin của hai mạng con sẽ được gửi qua nhau thông qua đó. Máy tính này được gọi là internet gateway hay router. Net 1 Net 2 R Hình 1.5: Hai mạng Net 1 và Net 2 kết nối thông qua router R. Khi kết nối đã trở nên phức tạp hơn, các máy gateway cần phải biết về sơ đồ kiến trúc của các mạng kết nối. Ví dụ trong hình sau đây cho thấy nhiều mạng được kết nối bằng 2 router. Net 1 Net 2 Net 3 R 1 R 2 Hình 1.6: Ba mạng kết nối với nhau thông qua 2 router Như vậy, router R1 phải chuyển tất cả các gói thông tin đến một máy nằm ở mạng Net 2 hoặc Net 3. Với kích thước lớn như mạng Internet, việc các routers làm sao có thể quyết định về việc chuyển các gói thông tin cho các máy trong các mạng sẽ trở nên phức tạp hơn. Để các routers có thể thực hiện được công việc chuyển một số lớn các gói thông tin thuộc các mạng khác nhau người ta đề ra quy tắc là: Các routers chuyển các gói thông tin dựa trên địa chỉ mạng của nơi đến, chứ không phải dựa trên địa chỉ của máy nhận. Bài Giảng TMĐT Page 55
  16. Như vậy, dựa trên địa chỉ mạng nên tổng số thông tin mà router phải lưu giữ về sơ đồ kiến trúc mạng sẽ tuân theo số mạng trên Internet chứ không phải là số máy trên Internet. Như vậy, người dùng trong Internet hình dung Internet làm một mạng thống nhất và bất kỳ hai máy nào trên Internet đều được nối với nhau thông qua một mạng duy nhất. Hình vẽ sau mô tả kiến trúc tổng thể của Internet. Internet host (a) Internet router Physical net host (b) Bài Giảng TMĐT Page 56
  17. Hình 1.7: (a) - Mạng Internet dƣới con mắt ngƣời sử dụng. Các máy đƣợc nối với nhau thông qua một mạng duy nhất. (b) - Kiến trúc tổng quát của mạng Internet. Các routers cung cấp các kết nối giữa các mạng. 1.3.2. Vấn đề quản lý mạng Internet Phần quốc tế Thực chất Internet không thuộc quyền quản lý của bất kỳ ai. Nó không có giám đốc, không có ban quản trị. Bạn có thể tham gia hoặc không tham gia vào Internet, đó là quyền của mỗi thành viên. Mỗi mạng thành phần sẽ có một giám đốc hay chủ tịch, một cơ quan chính phủ hoặc một hãng điều hành, nhưng không có một tổ chức nào chịu trách nhiệm về toàn bộ Internet. Hiệp hội Internet (Internet Socity- ISOC) là một hiệp hội tự nguyện có mục đích phát triển khả năng trao đổi thông tin dựa vào công nghệ Internet. Hiệp hội bầu ra Internet Architecture Board- IAB (Uỷ ban kiến trúc mạng). Ban này có trách nhiệm đưa ra các hướng dẫn về kỹ thuật cũng như phương hướng để phát triển Internet. IAB họp định kỳ để bàn về các vấn đề như các chuẩn, cách phân chia tài nguyên, địa chỉ Mọi người trên Internet thể hiện nguyện vọng của mình thông qua uỷ ban kỹ thuật Internet (Internet Engineering Task Force - IETF). IETF cũng là một tổ chức tự nguyện, có mục đích thảo luận về các vấn đề kỹ thuật và sự hoạt động của Internet. Nếu một vấn đề được coi trọng, IETF lập một nhóm kỹ thuật để nghiên cứu vấn đề này. Nhóm đặc trách nghiên cứu phát triển Internet (IRTF) Trung tâm thông tin mạng (Network information center-NIC) gồm có nhiều trung tâm khu vực như APNIC - khu vực Châu á - Thái bình dương. NIC chịu trách nhiệm phân tên và địa chỉ cho các mạng máy tính nối vào Internet. Các chủ thể tham gia hoạt động Internet trong vùng – quốc gia Nhà cung cấp dịch vụ kết nối truy nhập Internet (IXP - Internet Exchange Provider) là tổ chức, doanh nghiệp được phép thực hiện việc kết nối truy nhập mạng Internet cho tất cả các nhà cung cấp dịch vụ Internet (Internet Service Provider - gọi tắt là ISP). Nhà cung cấp dịch vụ kết nối truy nhập Internet (IXP) quản lý toàn bộ mạng đường trục Internet quốc gia và các cửa đi quốc tế. Hình 1.8. Các chủ thể tham gia hoạt động Internet Bài Giảng TMĐT Page 57
  18. Nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP - Internet Service Provider) là tổ chức, doanh nghiệp được phép thiết lập mạng thông tin máy tính với một số địa chỉ IP và cung cấp các dịch vụ như: thư tín điện tử, truyền tệp dữ liệu, truy nhập từ xa, truy nhập các cơ sở dữ liệu theo các phương thức khác nhau cho đơn vị và người sử dụng dịch vụ Internet. Nhà cung cấp dịch vụ thông tin trên Internet (ICP - Internet Content Provider) là tổ chức doanh nghiệp được phép cung cấp các thông tin chính thức được đưa vào Internet thông qua việc kết nối hệ thống của họ vào hệ thống của một nhà cung cấp dịch vụ hoặc nhà cung cấp khả năng truy nhập. Đơn vị cung cấp dịcn vụ Internet dùng riêng là cơ quan tổ chức, doanh nghiệp được phép thiết lập mạng thông tin máy tính để cung cấp dịch vụ Internet cho các thành viên trong nội bộ của đơn vị mình không nhằm mục đích kinh doanh. Ngƣời sử dụng dịch vụ Internet là cá nhân sử dụng máy tính hoặc tổ chức sử dụng máy tính, mạng máy tính có thể kết nối với Internet thông qua hợp đồng thuê bao với các nhà cung cấp dịch vụ Internet. Nếu người sử dụng thuộc đơn vị cung cấp dịch vụ Internet dùng riêng thì phải có hợp đồng nguyên tắc với đơn vị cung cấp dịch vụ Internet dùng riêng đó. Trung tâm thông tin về mạng (NIC) là cơ quan quản lý địa chỉ tên miền .vn, tên miền mức dưới (Sub- Domain Names); tổ chức và khai thác hệ thống máy chủ tên miền; làm đầu mối quốc tế, đăng ký các miền địa chỉ IP, quản lý và phân phối các địa chỉ này. 1.3.3. Máy chủ và hệ thống khách chủ Máy chủ Máy chủ (host) là một máy tính được nối vào mạng và có khả năng cung cấp thông tin cho máy tính khác trong mạng. Nói cách khác, máy chủ là máy tính trong mạng mà các máy tính trong mạng đó có thể truy cập được. Trạm đầu cuối (terminal) là một máy tính được ghép nối vào một mạng và hoạt động nhờ nguồn lực do một máy chủ hỗ trợ. Mỗi máy chủ trên Internet có một địa chỉ TCP/IP duy nhất. Địa chỉ TCP/IP bao gồm các con số và dấu chấm. Địa chỉ TCP/IP của máy tính còn gọi là địa chỉ vật lý. Địa chỉ vật lý và các tên logic trên máy chủ không có ý nghĩa nhiều đối với những người sử dụng. Giao tiếp được thiết lập giữa người dùng và máy tính chủ thông qua các địa chỉ TCP/IP. Các hệ thống khách/chủ Bài Giảng TMĐT Page 58
  19. Một trong những nguyên tắc sử dụng mạng là cho phép chia sẻ các tài nguyên, việc chia sẻ này do hai chương trình riêng biệt thực hiện, mỗi chương trình chạy trên một máy tính khác nhau. a. Trình chủ (server program) - Trình khách (client program) Trình chủ là một chương trình cung cấp các dịch vụ thông tin cũng như các tài nguyên khác. Trình khách (client program) là một chương trình đại diện cho người dùng: yêu cầu và tiếp nhận các dịch vụ về tài nguyên được các máy chủ cấp. Chẳng hạn như chúng ta đang làm việc với một chương trình soạn thảo văn bản chạy trên một máy PC và muốn soạn thảo một tệp riêng lưu trữ trên một máy tính khác trên mạng. Chúng ta nêu yêu cầu cho chương trình soạn thảo, chương trình này liền truyền một thông điệp tới máy tính kia, yêu cầu gửi một tệp tới máy này. Chương trình xử lý văn bản của chúng ta là trình khách, trong đó chương trình đáp lại yêu cầu và gửi tệp tới là trình chủ, hay nói rõ hơn, đó là trình cung cấp tệp (file server). Trên các mạng nội bộ, thiết bị phần cứng gần nhau và có thể nhìn thấy được, người ta thường dùng "server" để đề cập tới một máy tính cụ thể, chạy một trình chủ. Trên Internet, phần cứng thường không nhìn thấy được, những thuật ngữ "client" và "server" thường đề cập tới những chương trình yêu cầu và cung cấp các dịch vụ. b. Máy chủ (Server) Máy chủ là các máy tính chủ (host) cung cấp các dịch vụ cho người dùng. Có nhiều loại máy chủ như máy chủ cung cấp lưu trữ các tệp và tư liệu, máy chủ cung cấp dịch vụ Web (WWW Server), máy chủ FTP (File Tranfer Protocol: máy chủ phục vụ tải tệp) Mỗi một máy chủ sử dụng một giao thức riêng biệt hoặc một phương pháp truyền thông dựa trên TCP/IP (bảng 1.2). MộT Số LOạI MÁY CHủ VÀ CÁC GIAO THứC Máy chủ Tên giao thức Máy chủ Web (World Wide Web server) HTTP Máy chủ FTP, máy chủ phục vụ cho việc tải tệp. FTP Máy chủ dịch vụ thư điện tử. SMTP Máy chủ phục vụ tin. NNTP Máy chủ Gopher Gopher Bài Giảng TMĐT Page 59
  20. 1.3.4. Hệ thống địa chỉ trên Internet a. Địa chỉ máy chủ Mỗi máy tính nối với Internet đều có địa chỉ riêng của mình. Địa chỉ trên Internet có vai trò quan trọng giống như số nhà hay số điện thoại (để chọn đường). Mỗi máy tính đều có một địa chỉ IP riêng và còn được gọi là địa chỉ trên Internet. Một địa chỉ IP gồm có 4 nhóm số cách nhau bằng dấu chấm. VD: 129.32.1.100 Đối với người sử dụng, địa chỉ IP thật khó nhớ. Do đó, người ta còn sử dụng địa chỉ mạng theo tên. VD alaska.tic.com sẽ dễ nhớ hơn là 142.135.128.129 Để quản lý hệ thống tên, người ta dùng hệ thống quản lý tên miền (Domain Name System – DNS). DNS là hệ thống đặt tên chính thức của Internet và là cơ sở dữ liệu được duy trì bởi nhiều tổ chức, mỗi tổ chức chỉ quản lý một phần. Để dễ quản lý, cũng giống như danh bạ điện thoại, người ta chia nó thành từng vùng, từng tổ chức, sau đó lại phân nhỏ tiếp theo cấu trúc phân cấp hay cấu trúc cây. Các máy chủ (server hoặc là host) nằm rải rác trên các địa điểm khác nhau trên thế giới. Trừ các máy chủ nằm trên nước Mỹ, tên các máy chủ nằm trên tất cả quốc gia trên thế giới có hậu tố đặc trưng cho quốc gia đó. Như vậy địa chỉ máy chủ gồm: Tên giao thức Tên máy chủ. Tên của cơ quan hay một tổ chức. Loại cơ quan. Tên nước. Chẳng hạn, tên máy chủ là www.pacific.net.sg định nghĩa một máy chủ www, của Công ty Pacific, một trong các nhà cung cấp dịch vụ Internet tại Singapore. Luôn luôn cần viết chính xác một địa chỉ Web, chú ý đến từng ký tự, dấu gạch nối và các chữ viết hoa. Các khu vực chính theo tổ chức Khu vực (Domain) ý nghĩa Com (commercial organization) Tổ chức thương mại Edu (educationl institution) Tổ chức giáo dục Gov (government) Tổ chức nhà nước Bài Giảng TMĐT Page 60
  21. Int (international organization) Tổ chức quốc tế Mil (U.S military) Quân sự Mỹ Net (nerworking organization) Tổ chức về mạng Org (non-profit organization) Tổ chức không tạo lợi nhuận Bảng Các khu vực chính theo địa lý Các khu vực chính theo địa lý Khu vực ý nghĩa Khu vực ý nghĩa Aq Antarctica It ý Ar Argentina Jp Nhật Bản at áo Kr Hàn Quốc au úc Kw Cô Oét be Bỉ Li Liechtensien bg Bungari Lt Lithuania br Braxin Lu Lucxămbua ca Canada Lv Latvia ch Thuỵ sỹ Mx Mêhicô cl Chi lê My Malaysia cn Trung quốc hl Hà Lan cr Costa Rica no Na Uy cs Cộng hoà séc nz Niudilân de Đức pl Ba Lan dk Đan Mạch pr Pureto Rico (U.S) ec Ecuador pt Bồ Đào Nha ee Estonia re Đảo Rơnoa eg Ai Cập se Thuỵ Điển es Tây Ban Nha sg Singapore fi Phần Lan si Slovenia fr Pháp su Liên bang Nga gb Liên Hiệp Anh th Thái Lan gr Hy Lạp tw Đài Loan hk Hồng Công uk Vương quốc Anh hr Croatia us Mỹ hu Hungary ve Venezuela ie Cộng hoà Ai Len vn Việt Nam il Israel yu Nam Tư in ấn độ za Nam Phi is Iceland Dịch vụ đánh tên vùng - Domain Name Service (DNS) Địa chỉ IP dù được biểu diễn dưới dạng một số nguyên 32 bits hay dạng chấm thập phân đều rất khó nhớ đối với người sử dụng, do đó trên mạng Internet người ta đã xây dựng một Bài Giảng TMĐT Page 61
  22. dịch vụ dùng để đổi tên của một host sang địa chỉ IP. Dịch vụ đó là dịch vụ đánh tên vùng (Domain Name Service DNS). DNS cho phép người sử dụng Internet có thể truy nhập tới một máy tính bằng tên của nó thay vì bằng địa chỉ IP. Việc đánh tên vùng được tổ chức dạng cây. Tên của một host sẽ được đặt bằng cách đi từ nút biểu diễn host lên tận gốc. Việc đánh tên vùng không chỉ có lợi là không bắt người sử dụng nhớ địa chỉ IP của các host mà nó còn làm dễ dàng hơn trong việc tổ chức mạng. Địa chỉ URL Địa chỉ Web hay còn gọi là URL (chữ viết tắt của từ "Universal Resource Locator") là tên thư mục trên một máy chủ, chứa một tài nguyên trên mạng Internet. Một địa chỉ URL gồm ba phần: - Phần giao thức. - Phần máy chủ. - Tên tư liệu. Ví dụ về một địa chỉ Web hay URL của một trang chủ: Http:// rampages. onramp.net/~jerry/index.html Chúng ta hiểu các thành phần của địa chỉ trên như sau: http Rampages. onramp ~jerry Index.html Giao thức Tên vùng của máy Đường dẫn Tên tệp cung cấp dịch vụ Web Khi người ta nói về các "địa chỉ" trên mạng Internet tức là nói về các địa chỉ Web (URL) hoặc các địa chỉ thư điện tử (e-mail). Thông thường các địa chỉ Web bắt đầu bằng một nhóm ký tự http:// (hoặc là nhóm ký tự nào đó với ://) và hầu như kết thúc bằng nhóm ký tự .html hoặc /. Nếu như mạng Internet hoàn thiện, trên một trình duyệt World Wide Web chỉ cần một nháy chuột là có thể đi đến một địa điểm quan tâm. Mạng Internet phát triển quá nhanh chóng nên không thể có một danh sách chứa tất cả các địa chỉ, hơn nữa người ta thường chỉ quan tâm đến một số địa chỉ nào đó. Người ta có thể biết địa chỉ chỉ nào đó qua báo chí, sách vở hay qua bạn bè. Trong các trường hợp như vậy, địa chỉ URL sẽ cho biết địa điểm của Web trên mạng Internet. Bài Giảng TMĐT Page 62
  23. Nếu một địa chỉ Web phải sao chép trên giấy, cần chú ý một vài lỗi thường gặp. Các địa chỉ của Web hiếm khi kết thúc bằng một dấu chấm. Nếu chúng ta thấy một dấu chấm cuối một địa chỉ Web, đấy có nghĩa là thành phần của một câu văn và không phải là thành phần của địa chỉ. Thông thường địa chỉ Web kết thúc bằng một nhóm ký tự "html" hoặc dấu gạch chéo (\). Trong các địa chỉ Web thường có các dấu `. Rất có thể một người nào đó gửi đi một bức thư điện tử bằng một chương trình viết thư, trong đó có một địa chỉ Web, thì chỉ cần nháy đúp chuột vào đó, khi đó Windows sẽ khởi động trình duyệt Web (Microsoft Internet explorer) và đi thẳng đến địa chỉ này. Địa chỉ thƣ tín điện tử Cấu trúc của địa chỉ thư tín điện tử (email ađres) thường có cấu trúc dạng: Tên người sử dụng@Tên máy chủ cung cấp dịch vụ thư điện tử Cấu trúc cơ sở Các trang Web khác nhau, tẻ nhạt hay sinh động, vô nghĩa hoặc rất cần thiết, nhưng tất cả đều có cùng một cấu trúc cơ sở, nên đa số các trình duyệt đang chạy trên hầu hết các kiểu máy tính đều có thể hiển thị thành công hầu hết các trang Web. b. Hệ thống mạng Internet Việt nam Để cung cấp khả năng truy nhập Internet, Công ty Điện toán và truyền số liệu VDC đã thiết lập 03 cổng quốc tế đặt tại Hà Nội và 2 cổng quốc tế đặt tại Tp. Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, thiết lập đường trục Bắc Nam để kết nối Internet cho các ISP, ICP và các mạng dùng riêng. Mạng trục Bắc Nam có thể đáp ứng được nhu cầu của khách hàng trực tiếp trong những năm tới. Tình hình phát triển Internet tháng 1/2007. - Số lƣợng thuê bao qui đổi : 4127501 - Số ngƣời sử dụng : 14913652 - Tỉ lệ số dân sử dụng Internet : 17.94 % - Tổng băng thông kênh kết nối quốc tế của Việt Nam : 7076 Mbps - Tổng lƣu lƣợng trao đổi qua trạm trung chuyển VNIX : 6426850 Gbytes - Tổng số tên miền .vn đang hoạt động: 36619 - Tổng số địa chỉ IP đã cấp : 1862400 - Tổng thuê bao băng rộng : 576832 Bài Giảng TMĐT Page 63
  24. 1.4. Hạ tầng cơ sở nhân lực Thương mại trong khái niệm "thương mại điện tử" liên quan tới mọi người, từ người tiêu thụ tới người sản xuất phân phối, tới các cơ quan chính phủ, tới cả các nhà công nghệ và phát triển. Áp dụng thương mại điện tử tất yếu làm nảy sinh hai đòi hỏi: một là mọi người đều quen thuộc và có khả năng thành thạo hoạt động trên mạng, hai là có một đội ngũ chuyên gia tin học nhanh, thường xuyên bắt kịp các công nghệ thông tin mới phát triển ra để phục vụ cho kinh tế số hoá nói chung và thương mại điện tử nói riêng (nay đã ở mức đổi mới hàng tuần), cũng như có khả năng thiết kế các công cụ phần mềm đáp ứng được nhu cầu hoạt động của một nền kinh tế số hoá, tránh bị động lệ thuộc hoàn toàn vào nước khác. Ngoài ra, nếu sử dụng internet/web, thì một yêu cầu tự nhiên nữa của kinh doanh trực tuyến là tất cả những người tham gia đều phải biết Anh ngữ, vì tới nay (và có lẽ còn tới một thời điểm rất xa nữa), ngôn ngữ chủ yếu sử dụng trong thương mại nói chung, và thương mại điện tử qua mạng internet nói riêng, vẫn là tiếng Anh (đương nhiên, đây chủ yếu chỉ là "vấn đề" đối với các nước ít phát triển). Đòi hỏi này của thương mại điện tử sẽ dẫn tới sự thay đổi căn bản hệ thống giáo dục và đào tạo. Nhận thức xã hội đối với thƣơng mại điện tử Doanh nghiệp đã bắt đầu ý thức được tầm quan trọng của nhân tố con người và xã hội khi bắt tay vào triển khai thương mại điện tử. Tuy nhiên, thay đổi nhận thức xã hội về một phương thức sản xuất kinh doanh mới là một quá trình lâu dài và phức tạp, đòi hỏi sự tham gia của mọi thành phần từ các cơ quan nhà nước, phương tiện truyền thông, tổ chức xã hội cho đến bản thân doanh nghiệp và người tiêu dùng. Sự thay đổi nhận thức của các nhóm đối tượng khác nhau có thể diễn ra với nhịp độ khác nhau, nhưng nhìn chung nhận thức xã hội về thương mại điện tử đã có nhiều chuyển biến tích cực so với các năm trước. Nhận thức của ngƣời tiêu dùng Cùng với việc các ngân hàng đẩy mạnh triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử và nhiều nhà cung cấp dịch vụ thiết yếu như điện, nước, điện thoại, dịch vụ vận chuyển bắt đầu chấp nhận phương thức thanh toán điện tử, thì nhận thức của người tiêu dùng về loại hình thanh toán này cũng ngày càng được nâng cao. Thói quen sử dụng thẻ thanh toán của người tiêu dùng ở các đô thị lớn bắt đầu được hình thành. Theo ước tính của Vietcombank, năm 2005 số tiền thanh toán qua thẻ chỉ chiếm 1% trên tổng số tiền giao dịch của chủ thẻ với ngân hàng nhưng đến tháng 7/2006 đã tăng lên 15%. Tại Vietcombank, số thẻ được phát hành tính đến cuối tháng 6/2006 đạt 1,2 triệu thẻ với tổng Bài Giảng TMĐT Page 64
  25. số dư bình quân là 3.000 tỷ đồng, trung bình trong mỗi tài khoản luôn có khoảng 2,5 triệu đồng. Những thay đổi này mặc dù mới là bước đầu, nhưng đã cho thấy chuyển biến tích cực trong thói quen dùng tiền mặt của người dân. Việc làm quen với thẻ thanh toán sẽ là tiền đề hình thành tập quán mua sắm và tiêu dùng hiện đại, làm động lực cho việc triển khai rộng rãi các ứng dụng thương mại điện tử trong xã hội. Bên cạnh chuyển biến về thói quen dùng tiền mặt, tập quán tiêu dùng trong xã hội cũng đang có những bước thay đổi lớn cùng với sự tăng trưởng nhanh của hàm lượng thông tin trong nền kinh tế. Người tiêu dùng hiện đại, đặc biệt giới trẻ và những người có thu nhập cao, ngày càng hiểu biết và được tiếp cận nhiều thông tin hơn, do đó nhu cầu tiêu dùng cũng trở nên tinh tế hơn. Trong bối cảnh đó, thương mại điện tử đem lại một giải pháp lý tưởng để người tiêu dùng tìm hiểu thông tin và mở rộng phạm vi lựa chọn hàng hóa dịch vụ. Một tỷ lệ ngày cao người dùng Internet Việt Nam đang bắt đầu tham gia vào thương mại điện tử, từ những bước đơn giản ban đầu như tra cứu thông tin sản phẩm, tìm hiểu về dịch vụ, cho đến tiêu thụ dịch vụ trực tiếp trên Internet (như chơi trò chơi trực tuyến, tải nhạc, tải phần mềm, v.v ) Nhận thức về lợi ích của thƣơng mại điện tử trong doanh nghiệp Nhận thức về lợi ích của thương mại điện tử trong doanh nghiệp, đặc biệt nhận thức của những người đứng đầu doanh nghiệp, là một yếu tố quan trọng góp phần tạo ra các quyết định hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Nhiều chỉ số điều tra như tỉ lệ cử nhân viên đi đào tạo, tỉ lệ đầu tư cho thương mại điện tử tăng lên trong năm 2006 so với năm 2005 chứng tỏ rằng, nhận thức của doanh nghiệp về thương mại điện tử đã rõ nét hơn, từ ban giám đốc, nhân viên kinh doanh và cả những người thuộc bộ phận sản xuất. Năm 2006, nhiều lớp tập huấn về thương mại điện tử cho doanh nghiệp đã được tổ chức và thu hút đông đảo học viên trên khắp các tỉnh, thành phố của cả nước. Điều này chứng minh rằng, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ đã quan tâm tìm hiểu về lợi ích và cách thức để ứng dụng thương mại điện tử hiệu quả. Tại các lớp tập huấn, các giảng viên cũng có dịp trao đổi, thu nhận thông tin từ học viên về tình hình ứng dụng thương mại điện tử tại doanh nghiệp và những vấn đề đặt ra trong thực tế. Nhiều câu hỏi mang tính chuyên sâu, thể hiện mức độ nhận thức khá cao của học viên về thương mại điện tử. Bài Giảng TMĐT Page 65
  26. 1.5. Bảo mật và an toàn thông tin Vấn đề bảo mật, an ninh trên mạng là một trong những vấn đề nóng hổi trong hoạt động thực tiễn của Thương mại điện tử. Liệu khách hàng có tin tưởng khi thực hiện các giao dịch trên mạng không? Và liệu những nhà cung cấp dịch vụ giao dịch trực tuyến cũng như các ISP có bảo đảm được những thông tin của khách hàng giao dịch trên mạng được an toàn không? Những ý tưởng về mã hoá là tiền đề cho sự thiết lập các vấn đề liên quan đến bảo mật và an ninh trên mạng. Các đoạn mã như vậy đã được sử dụng trong quân đội từ nhiều thế kỷ nay. Các điệp viên của liên quân đồng minh đã sử dụng các mã để truyền thông báo đến cho sếp của họ. Trong chiến tranh thế giới thứ hai cả hai bên đều dùng các phương pháp mã hoá an toàn để trao đổi thông tin trong nội bộ của mình. Chiến thắng ở Germany của quân đồng mình cũng nhờ một phần lớn vào việc họ đã giải mã được các thông điệp của quân Ðức. Một dãy các con số từ 1-26 được dịch chuyển thành một dãy các chữ cái. Chìa khoá ở đây có thể đơn giản chỉ là D-13 có nghĩa là chữ cái D tương đương với số 13. Các con số này có thể được truyền qua máy thu thanh và ngay cả trẻ con cũng thể viết lại các con số này, sau đó đặt các khoá giải mã vào chúng rồi giải mã các thông điệp này. Các mã khoá bảo mật hiện đại làm việc với cùng một cơ chế như trên chỉ khác một điều là nó phức tạp hơn. Bạn có thể tìm cách phá mã bằng cách so sánh lần lượt các con số trong dãy số với bức thông điệp được mã hoá để tìm ra ý nghĩa của nó nếu như khóa đơn giản. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu bạn đối mặt với một khoá mã bao gồm 40 số ngẫu nhiên, mỗi số sẽ tác động lên bức thông điệp theo một kiểu khác và lần lượt chồng lên 40 lần. Ðiều gì sẽ xẩy ra nếu bạn phải đoán đúng 150 con số trước khi có được chìa khoá để mở khoá. Ðấy là cách mà các mã khoá làm việc, tuy nhiên còn thêm một vài bước nữa. Hai khoá mã hoá riêng rẽ được sử dụng. Khoá đầu tiên được sử dụng để trộn các thông điệp sao cho nó không thể đọc được, nhưng khoá này mọi người có liên quan đều biết hoặc có nghĩa nó là công cộng. Tuy nhiên việc giải mã các thông điệp cần một mã khoá thứ hai, mã này chỉ có người có quyền giải mã giữ hoặc nó được sử dụng chỉ bởi người nhận bức thông điệp này. Trên thực tế các khoá này có liên quan đến nhau ở gốc, điều đó lý giải tại sao một khoá có thể giải mã các thông điệp được mã hoá bởi mã khoá thứ hai. Ðể thực hiện các công việc mã hoá và giải mã, mã khoá riêng công cộng cần một vài người giữ các khoá riêng, đề phòng trường hợp khoá này bị mất hoặc trong trường hợp việc xác định người gửi hoặc người nhận cần phải thực hiện. Các công ty đưa ra các khoá mã riêng sẽ quản lý và bảo vệ các khoá này và đóng vai trò như một cơ quản xác định thẩm quyền cho các mã khoá bảo mật. Bài Giảng TMĐT Page 66
  27. 1.6. Cơ sở hạ tầng thanh toán Thanh toán trực tuyến là một trong những vấn đề cốt yếu của TMĐT. Thiếu hạ tầng thành toán, chưa thể có thương mại điện tử theo đúng nghĩa của nó. 1.6.1. Lợi ích của thanh toán điện tử - Tính tiện lợi: thuê bao Internet có thể tiến hành thanh toán mọi lúc, mọi nơi. - Giá thành rẻ: giá thành được hiểu là chi phí người dùng phải trả khi tiến hành giao dịch thanh toán. Chi phí người dùng phải trả khi thanh toán qua hệ thống thanh toán điện tử sẽ rẻ hơn so với thanh toán của hệ thống thanh toán riêng của ngân hàng vì nhiều lý do: + Thứ nhất: các khâu trong hệ thống thanh toán điện tử được tự động hoá hoàn toàn trong khi dịch vụ thanh toán của ngân hàng mới chỉ được tự động hoá một phần. + Thứ hai: các ngân hàng phải thuê các đường truyền thông để thiết lập mạng (riêng) thanh toán liên ngân hàng. So với hệ thống thanh toán điện tử dựa trên nền Internet thì chi phí thuê và duy trì đường truyền riêng sẽ tốn kém hơn. Vì những lý do trên mà hệ thống thanh toán điện tử có thể cạnh tranh được với hệ thống ngân hàng về phí thanh toán. Đây cũng là một điểm hấp dẫn các cá nhân, các doanh nghiệp có nhu cầu thanh toán giá trị lớn và thường xuyên. - Khi kinh doanh trên Internet, đối tượng khách hàng của doanh nghiệp sẽ được mở rộng trên phạm vi toàn cầu, mà khách hàng ở các nước phát triển thường thanh toán bằng thẻ tín dụng khi mua hàng. Do đó, việc doanh nghiệp không chấp nhận thanh toán bằng thẻ tín dụng cũng có nghĩa là doanh nghiệp từ chối bán hàng. Khách hàng sẽ không mua hàng của doanh nghiệp khi họ thấy mua bán không thuận tiện bởi vì họ có thể dễ dàng tìm thấy nhà cung cấp khác. Còn ở Việt Nam, mặc dù hiện nay phương pháp thanh toán bằng thẻ tín dụng còn chưa phổ biến nhưng nếu doanh nghiệp có kế hoạch kinh doanh trên mạng và doanh nghiệp muốn vươn tới khách hàng trên thị trường thế giới thì doanh nghiệp nên chấp nhận thanh toán bằng thẻ tín dụng. Bằng không, doanh nghiệp sẽ bỏ lỡ rất nhiều cơ hội kinh doanh. Doanh nghiệp cần phải tạo cho việc giao dịch kinh doanh trên mạng của mình thuận lợi cho khách hàng và phải tận dụng mọi cơ hội kinh doanh với khách hàng khi họ có nhu cầu. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Thanh toán điện tử là một lĩnh vực tương đối mới mẻ nhưng lại là điểm quan trọng khi doanh nghiệp triển khai kinh doanh trên mạng. Bài Giảng TMĐT Page 67
  28. 1.6.2. Yêu cầu đối với việc thanh toán điện tử Tiền không bị mất đi cũng không được tạo ra thêm trong quá trình vận chuyển Tiền và hàng hoá được trao đổi dễ dàng Không bên nào có thể bác bỏ vai trò của mình trong quá trình giao dịch Chữ ký điện tử 1.6.3. Những đặc điểm cần có của tiền điện tử Được chấp nhận rộng rãi Chuyển đổi điện tử Có thể chia nhỏ Không bị mất mát hay làm giả trong quá trình vận chuyển Bảo mật (không có ai trừ các bên giao dịch biết rõ lượng tiền giao dịch) Có thể ẩn danh (không ai có thể xác định được người thanh toán) Giao dịch ngoại tuyến (không cần thiết phải có sự nhận diện trực tuyến) Đến nay Ngân hàng Nhà nước và bốn ngân hàng thương mại quốc doanh đã có hệ thống thanh toán dữ liệu điện tử riêng để đáp ứng các nhu cầu thanh toán của khách hàng trong nội bộ hệ thống và đi ra ngoài hệ thống bù trừ và thanh toán liên ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước. Ngoài ra, các ngân hàng đã tham gia hệ thống thanh toán của Hiệp hội giao dịch tài chính liên ngân hàng toàn cầu (SWIFT - Society for WorldWide Inter-Bank Financial Transmission) với hàng ngàn lượt bức điện thanh toán đi đến. Hiện nay Ngân hàng Ngoại thương đã có hệ thống bán lẻ (Silverlake), hệ thống quản lý thẻ, hệ thống máy rút tiền tự động (ATM) và tham gia thanh toán trên mạng SWIFT. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn triển khai máy rút tiền tự động (ATM), trụ sở tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh và đã có những khách hàng đầu tiên. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển triển khai hệ thống thanh toán tập trung (BCS), hệ thống giao dịch trên mạng (IBS) và Home Banking. Ngân hàng Công Thương triển khai dự án "Hạ tầng cơ sở thanh toán điện tử trong thương mại điện tử". Hiện nay, khách hàng có thể truy cập đến điạ chỉ Website của Ngân hàng Công Thương và sử dụng dịch vụ ngân hàng trực tuyến Internet (Online Banking) sau khi được kiểm tra các yếu tố truy xuất như tên chủ tài khoản, mã bảo mật (Password) khách Bài Giảng TMĐT Page 68
  29. hàng có thể xem thông tin về tài khoản của mình, kiểm tra số dư tài khoản, tìm chi tiết của giao dịch gần nhất, chỉ số mới nhất như: tỷ giá hối đoái, lãi suất tiền gửi, tư vấn về một số lĩnh vực Thậm chí khách hàng còn có thể đưa ra các chỉ thị để thanh toán trên tài khoản của mình. Một hệ thống khác của Ngân hàng Công Thương cũng đang được thử nghiệm đó là hệ thống ATM. Tuy nhiên, so với các Ngân hàng thương mại khác, Ngân hàng Công Thương có phần chậm hơn trong việc đưa ra các sản phẩm và dịch vụ mới đáp ứng các tiêu chuẩn của thương mại điện tử cho khách hàng. Ngân hàng Thương mại á - Châu (ACB) có hệ thống phát hành và thanh toán thẻ tương đối phát triển và thu hút được nhiều khách hàng. Nhìn chung, các ngân hàng lớn trong nước chưa chuyển đổi được các mô hình giao dịch cũ sang mô hình ngân hàng hiện đại có các sản phẩm dịch vụ thương mại điện tử được cung cấp trên internet, đến từng khách hàng và cho phép các khách hàng có thể đặt hàng và thanh toán qua mạng đáp ứng yêu cầu các khoản thanh toán phải được thực hiện ngay lập tức. Bài Giảng TMĐT Page 69