Bài giảng Tổng quan về công nghệ Nano
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Tổng quan về công nghệ Nano", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- bai_giang_tong_quan_ve_cong_nghe_nano.doc
Nội dung text: Bài giảng Tổng quan về công nghệ Nano
- Bài giảng Tổng quan về cơng nghệ Nano 1
- Mục Lục Bài giảng 1 I. Phát triển cơng nghệ nano ở một số nước 3 châu Á - Thái Bình Dương 3 1.1. Thơng tin về cơ sở hạ tầng và chính sách 3 1.2. Các nỗ lực thương mại hĩa ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương 9 1.3. Đầu tư cho cơng nghệ nano của khu vực tư nhân 10 1.4.1. Ơxtrâylia 12 1.4.2. Trung Quốc 13 II. Phát triển cơng nghệ nano ở Châu Âu và Mỹ 14 2.1. Phát triển cơng nghệ nano ở châu Âu 14 2.1.1. Chính sách 14 2.1.2. Cơ sở hạ tầng 18 III. Thị trường và sản phẩm nano 18 2
- Những bước phát triển mới trong cơng nghệ nano của một số nước I. Phát triển cơng nghệ nano ở một số nước châu Á - Thái Bình Dương 1.1. Thơng tin về cơ sở hạ tầng và chính sách Nhật Bản, một trong những nước đi đầu vể mặt cơng nghệ đã đầu tư cho cơng nghệ nano từ giữa những năm 80, thơng qua các chương trình quốc gia khác nhau. Đầu tư của Chính phủ Nhật Bản cho cơng nghệ nano trên đầu người cao nhất trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương và trên thế giới. Năm 2002, đầu tư cho cơng nghệ nano tăng 20-30% so với năm 2001. Theo số liệu thống kê của Chính phủ Nhật Bản, ngân sách năm 2003 dành cho R&D của các chương trình nano vào khoảng 900 triệu USD, chiếm khoảng 11,5% tổng kinh phí cho KH&CN của Nhật Bản dành cho bốn lĩnh vực ưu tiên (khoa học về cuộc sống, cơng nghệ thơng tin, mơi trường và cơng nghệ nano). Ba lĩnh vực ưu tiên khác cũng cĩ các đề tài về cơng nghệ nano. Nếu như kinh phí cho tất cả các đề tài này được tính vào trong tổng dự tốn thì tổng ngân sách của Nhật Bản dành cho cơng nghệ nano sẽ vào khoảng 1,49 tỷ USD (cùng với ngân sách bổ sung). Cuối năm 2003, Chính phủ Nhật Bản dự kiến tăng ngân sách cho R&D cơng nghệ nano năm 2004 lên 20% so với năm 2003. Theo thống kê của Hội đồng Chính sách về Khoa học và Cơng nghệ Nhật Bản (CSTP), tổng ngân sách dành cho cơng nghệ nano và vật liệu năm 2003 là khoảng 2,66 tỷ USD bao gồm cả ngân sách của trường đại học. Trung Quốc, Hàn Quốc và Đài Loan đã đầu tư mạnh mẽ vào cơng nghệ nano từ năm 2001. Trung Quốc cĩ kế hoạch đầu tư khoảng 2-2,5 tỷ Nhân dân tệ (NDT) (250-300 triệu USD) cho giai đoạn kế hoạch 5 năm (2001-2005). Trung Quốc đang chuẩn bị thực hiện những sáng kiến táo bạo vì họ rất mong muốn đuổi kịp mức đầu tư của các nước tiên tiến như Hàn Quốc. Hiện nay, Trung Quốc đang xây dựng Trung tâm Quốc gia về R&D cơng nghệ nano ở gần Trường đại học Bắc Kinh, Thanh Hoa, và Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc. Trung tâm này được khánh thành trong năm 2004. Một cơ sở cơng nghiệp về cơng nghệ nano cũng đã được xây dựng ở Thiên Tân (cách Bắc Kinh khoảng 100km về phía Đơng) và đã đưa vào vận hành vào cuối năm 2003. Hàn Quốc đã cam kết dành đầu tư khoảng 2,391 nghìn tỷ Won (2 tỷ USD) cho giai đoạn 10 năm (2001-2010). Bộ KH&CN nước này cho biết, năm 2002 Bộ KH&CN đã phát triển mạnh nghiên cứu, các cơ sở và nhân lực trong lĩnh vực cơng nghệ nano. Theo đĩ, năm 2002 đã đầu tư 203,1 tỷ Won, tăng 93,1% so với năm trước (105,2 tỷ Won năm 2001) và tăng khoảng 400% so với năm 2000. Tổng thể, Bộ KH&CN dành 3
- 160,1 tỷ Won cho R&D, 34,6 tỷ Won cho xây dựng các cơ sở và 8,4 tỷ Won cho các chương trình đào tạo kỹ sư. Năm 2002, Bộ KH&CN đã tăng cường tìm kiếm tài trợ để hỗ trợ cho cơng nghiệp hố cơng nghệ nano. Mục tiêu là đầu tư khoảng 3 tỷ Won cho xây dựng một phịng thí nghiệm nano quốc gia và trung tâm liên hợp liên kết cơng nghệ thơng tin và cơng nghệ nano theo kế hoạch đã định. Bộ KH&CN cũng đề ra việc phát triển mở rộng các chương trình trao đổi với nước ngồi và hỗ trợ các chương trình đào tạo tại các mạng ở nước ngồi để củng cố nguồn nhân lực trong lĩnh vực phát triển nổi trội này. Dự án Cơng nghệ Nano Quốc gia bao gồm 8 cơ quan của Chính phủ, trong đĩ cĩ Bộ Giáo dục và Phát triển nguồn Nhân lực và Bộ Thương mại, Cơng nghiệp và Năng lượng. Bộ KH&CN của nước này nhẤnmạnh rằng sẽ tập trung vào các lĩnh vực lựa chọn cĩ tiềm năng thương mại lớn nhất. Các lĩnh vực cĩ triển vọng là vật liệu, các linh kiện điện tử, bộ nhớ máy tính và các cấu phần cơ bản khác trên cơ sở nano. Kế hoạch dài hạn chia nhỏ thành 3 giai đoạn cho đến năm 2010, Chính phủ sẽ đầu tư 1,37 nghìn tỷ Won, đầu tư của khu vực tư nhân và Nhà nước cho dự án theo cơ chế đấu thầu để tạo điều kiện cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho cơng nghệ nano trong vịng 5 năm tới. Bảng 1: Kế hoạch đầu tư cho cơng nghệ nano ở Hàn Quốc trong 10 năm (2001- 2010) triệu USD Giai đoạn1 Giai đoạn 2 Giai đoạn 3 Tổng (2001-2004) (2005-2007 (2007-2010) Chính Tư Chính Tư Chính Tư Chính Tư Tổng phủ nhâ phủ nhâ phủ nhâ phủ nhâ n n n n R&D 203 44 232 137 232 206 667 387 1.054 Giáo dục/Đào 31 18 19 73 73 tạo Cơ sở hạ tầng 64 28 28 11 23 10 116 49 164 Tổng 298 72 284 148 274 216 855 436 1.291 Nguồn: www.nanoworld.jp Chính phủ Hàn Quốc lập kế hoạch đến năm 2010 cĩ đạt ít nhất là 10 loại sản phẩm nổi trội và đào tạo được 13.000 chuyên gia về cơng nghệ nano để cạnh tranh với các nước tiên tiến khác. Theo kế hoạch này, Bộ KH&CN sẽ tạo ra một thành phố nano, trong đĩ cĩ các trung tâm nghiên cứu và các doanh nghiệp mạo hiểm mới khởi sự, đồng thời thiết lập một mạng nghiên cứu với các nước cĩ cơng nghệ cao. Một trong những mục tiêu của Sáng kiến Quốc gia về cơng nghệ nano là làm cho Hàn Quốc trở thành quốc gia số 1 trên thế giới trong một số lĩnh vực cạnh tranh nhất định và phát triển các thị trường thích hợp cho sự tăng trưởng cơng nghiệp. Hàn Quốc xác định rõ việc tập trung vào số lượng “các cơng nghệ then chốt”. Kế hoạch năm 2002 của Hàn Quốc về thực hiện triển khai cơng nghệ nano đã được bắt đầu với hai chương trình nghiên cứu thuộc các lĩnh vực mới là “Triển khai các cơng nghệ vật liệu cĩ cấu trúc nano” và “Triển khai các cơng nghệ sản xuất và cơ điện tử 4
- mức nano”. Mỗi chương trình được đầu tư 100 triệu USD cho 10 năm tiếp theo. Bên cạnh các chương trình nghiên cứu về cơng nghệ nano, Chính phủ Hàn Quốc cịn tiến hành thực hiện các chương trình nghiên cứu “cốt lõi”, “cơ sở”, và “cơ bản” với tổng kinh phí nghiên cứu hàng năm khoảng 200 triệu USD cho giai đoạn 6-9 năm tới. Năm 2002, một trung tâm sản xuất nano đã được xây dựng với mục đích chính là sản xuất các thiết bị cĩ kích thước nano. Trung tâm này được đặt tại Viện Khoa học và Cơng nghệ Tiên tiến Hàn Quốc (KAIST) ở Thành phố Khoa học Daejoen (Daejoen Science City), nơi mà cĩ mặt hầu hết các phịng thí nghiệm nghiên cứu của Chính phủ. Chính phủ Hàn Quốc đã phân bổ 165 triệu USD cho Trung tâm này cho giai đoạn 9 năm (2002-2010). Chính phủ đã xây dựng “Kế hoạch hành động để triển khai cơng nghệ nano năm 2003. Kế hoạch hành động này bao gồm “Nghị định của Tổng thống và Điều luật buộc thi hành” đối với việc thực hiện “Hành động thúc đẩy phát triển cơng nghệ nano”. Mục đích của Hành động này là nhằm chuẩn bị một cơ sở nghiên cứu vững chắc cho cơng nghệ nano và khuyến khích cơng nghiệp hĩa ngành cơng nghệ nano non trẻ. Chính phủ Hàn Quốc cịn dành 380 triệu USD (chiếm 19% tổng kinh phí dành cho cơng nghệ nano) cho “Chương trình Quốc gia về Cơng nghiệp hĩa nano”. Ngân sách này bao gồm quỹ R&D trong cơng nghiệp và quỹ vốn kinh doanh. Đài Loan đã cĩ Sáng kiến về cơng nghệ nano, được phân bổ trong 6 năm và bắt đầu thực hiện từ năm 2003. Sáng kiến này cĩ thể sẽ đưa Đài Loan trở thành một trong những khu vực dành ưu tiên cao cho cơng nghệ nano. Nhưng Đài Loan hiểu rất rõ rằng chỉ tăng kinh phí thì chưa đủ mà cịn cần phải đề ra những chính sách thích hợp để nâng cao các ưu thế cạnh tranh, mở ra các hướng nghiên cứu mới và làm cho đơng đảo cơng chúng nhận thức được tốt hơn về tiềm năng của cơng nghệ nano. Sáng kiến Quốc gia của Đài Loan về KH&CN nano là một kế hoạch 6 năm với tổng kinh phí 620 triệu USD từ 2003-2008. Cơ cấu chiến lược và chương trình của nĩ được dựa trên Sáng kiến Quốc gia về cơng nghệ nano của Mỹ. Sáng kiến này nhằm đạt được hai mục đích là xuất sắc về mặt lý thuyết và tạo ra được những ứng dụng cơng nghiệp mang tính sáng tạo thơng qua việc thành lập các cơ sở tiện ích chủ yếu và các chương trình đào tạo chung. Chương trình xuất sắc về mặt lý thuyết bao gồm các chủ đề: Nghiên cứu cơ bản về các đặc tính vật lý, hĩa học, sinh học của các kết cấu nano; Tổng hợp, lắp ráp, và gia cơng các vật liệu nano; Nghiên cứu và triển khai các máy dị và các kỹ thuật thao tác; Thiết kế và chế tạo các bộ phận ghép nối, giao diện và các hệ thống thiết bị nano chức năng; Triển khai cơng nghệ MEMS/NEMS; và cơng nghệ sinh học nano. Đài Loan rất coi trọng giáo dục về cơng nghệ nano. Chương trình giáo dục của Đài Loan nhằm: Xây dựng chương trình Khoa học và Cơng nghệ nano liên ngành tại các trường đại học và cao đẳng; Nâng cao giáo dục kiến thức khoa học cơ bản trong trường cao đẳng trên phương tiện thơng tin đại chúng và trong các trường đại học. Tăng cường hợp tác quốc tế và trao đổi chuyên gia. Tuyển chọn các nhân tài từ nước ngồi, bao gồm cả chuyên gia 5
- từ Trung Quốc và thúc đẩy hợp tác cơng nghiệp - viện nghiên cứu trong nghiên cứu và trao đổi chuyên gia. Các nước khác trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương như Ơxtrâylia, Ấn Độ, New Zealand, Singapo, Malaixia, Thái Lan, đã bắt đầu thực hiện các chương trình/sáng kiến về cơng nghệ nano. Hình 1- So sánh sự đầu tư vào cơng nghệ nano giai đoạn 2003-2007 của các nước châu Á - Thái Bình Dương gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Hồng Kơng, Ấn Độ, Malaixia, New Zealand, Singapo, Đài Loan và Thái Lan. Hình 2 là sự so sánh tồn cầu về đầu tư cho cơng nghệ nano giai đoạn 2001- 2003 của châu Âu, châu Á và Mỹ. Đơn vị được tính là USD. Với giá hối đối: 100 yên bằng 1 USD và 1 Euro bằng 1 USD. Chúng ta cĩ thể dễ dàng nhận thấy sự tăng đột ngột trong đầu tư cho cơng nghệ nano của khu vực châu Á- Thái Bình Dương trong năm 2003. Hình 1: So sánh dầu tư của các nước châu Á - Thái Bình Dương (khơng tính Nhật Bản) cho cơng nghệ nano giai đoạn 2003-2007 (Nguồn: Asia Pacific Nanotech Weekly, www.nanoworld.jp/apnw). 6
- 1400 1200 1000 TriƯu 800 600 USD 2003 400 2002 200 2001 0 EU Mü Ch©u ¸ Hình 2: So sánh đầu tư của các nước châu Âu, châu Á và Mỹ cho cơng nghệ nano giai đoạn 2001-2003. Lưu ý rằng đầu tư của Mỹ khơng bao gồm Microelectronics hoặc MEMS (Nguồn: Asia Pacific Nanotech Weekly, www.nanoworld.jp/apnw). Bảng 2 dưới đây trình bày tĩm tắt thực trạng hỗ trợ về chính sách của Chính phủ đối với cơ sở hạ tầng của KH&CN nano trong truyền thơng, xây dựng mạng lưới, các cơ sở tiện ích cốt yếu quốc gia, thương mại hĩa, giáo dục và hợp tác quốc tế trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Chúng ta nhận thấy rằng hầu hết các nước châu Á hiện đang yếu kém trong việc truyền thơng, đặc biệt bằng tiếng Anh. Các nước này đang ở thời kỳ hình thành mạng lưới cần thiết để hỗ trợ hợp tác nghiên cứu. Tuy vậy, sự phối hợp chặt chẽ phải được thiết lập. Các Trung tâm quốc gia và các cơ sở tiện ích cốt lõi cũng đang trong giai đoạn được xây dựng. Các Trung tâm tiện ích quốc gia tại Nhật Bản đang hoạt động rất tốt. Các chương trình giáo dục hiện cĩ sẵn ở tất cả các quốc gia được chúng tơi điều tra, tuy nhiên những vẤnđề thực tiễn như các lĩnh vực chiến lược và đầu tư cần phải được chi tiết. Về phần hỗ trợ thương mại hĩa như chuyển giao cơng nghệ, sở hữu trí tuệ, liên minh cơng nghiệp và các vẤnđề khác cĩ liên quan cần phải được xác định một cách rõ ràng, đặc biệt là đối với cơng nghệ nano. Bảng 2: Đánh giá về hỗ trợ của Chính phủ cho cơ sở hạ tầng KH&CN nano ở các nước thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Quốc Truyền thơng bằng Mạng Tiện Hỗ trợ Các Hỗ trợ gia/Lãnh tiếng Anh lưới ích thương khĩa hợp thổ Quốc mại đào tác gia hĩa tạo quốc tế Ơxtrâylia Đang Đang Đang Cĩ Đang Đủ được được được sẵn được hình hình hình hình 7
- thành thành thành thành Trung Đang Cĩ Cĩ sẵn Đang Đang Quốc Khơng đủ được sẵn được được hình hình hình thành thành thành Hồng Đang Đang Đang Đang Đang Kơng Khơng đủ được được được được được hình hình hình hình hình thành thành thành thành thành ẤnĐộ Khơng cĩ sẵn Đang Đang Đang Đang Đang được được được được được hình hình hình hình hình thành thành thành thành thành Nhật Bản Cĩ, Cĩ Cĩ sẵn Đang Cĩ Phát triển MEXT sẵn được sẵn và hình METI thành Hàn Quốc Cĩ Cĩ Cĩ sẵn Đang Cĩ Phát triển sẵn được sẵn hình thành Malaixia Khơng cĩ sẵn Đang Đang Đang Đang Đang được được được được được hình hình hình hình hình thành thành thành thành thành New Đang Đang Đang Đang Đang Zealand Khơng đủ được được được được được hình hình hình hình hình thành thành thành thành thành Singapo Tờ rơi EDB Đang Đang Cĩ sẵn Đang Cĩ Đủ được được được sẵn hình hình hình thành thành thành Đài Loan Nano- Đang Đang Đang Cĩ Cĩ Taiwan.sinica.edu.tw được được được sẵn sẵn Khơng đủ hình hình hình thành thành thành Thái Lan Đang Đang Đang Đang Đang Đang chuẩn bị được được được được được hình hình hình hình hình thành thành thành thành thành 8
- 1.2. Các nỗ lực thương mại hĩa ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương Chính phủ Nhật Bản đã cam kết chắc chắn rằng cơng nghệ nano sẽ tạo nên các ngành cơng nghiệp mới và phục hồi lại nền kinh tế Nhật Bản. Cuối năm 2002, tại Hội đồng Kinh tế và Chính sách Tài chính (CEFP), Chính phủ đã thơng qua Chiến lược Phát triển Ngành Cơng nghiệp mới (NIDS) về cơng nghệ nano và vật liệu. Bộ Thương mại Kinh tế và Cơng nghiệp (METI) là Bộ chủ chốt trong việc hỗ trợ các ngành cơng nghiệp của Nhật Bản, năm 2003 để phục hồi nền kinh tế đã tiến hành thực hiện các chương trình R&D sau đây: Cơng nghệ nano và vật liệu: 20 dự án; 11,6 tỷ yên (116 triệu USD); Cơng nghệ thơng tin (IT) + vật liệu: 23 dự án; 22,4 tỷ yên (224 triệu USD); Khoa học đời sống + cơng nghệ nano và vật liệu: 6 dự án; 3,3 tỷ yên (33 triệu USD). Nhật Bản cĩ thế mạnh về sản xuất các đồ gốm tinh xảo, chiếm hơn 1/2 thị phần của thế giới về sản xuất kính hiển vi điện tử cĩ độ phân giải cao, kiểm sốt 60-70% thị phần của thế giới. Cịn về cơng nghiệp cơng nghệ nano, như được trình bày tại bảng 3 dưới đây, Nhật Bản hy vọng sẽ trở thành quốc gia dẫn đầu trong 5 lĩnh vực chủ yếu vào năm 2010. Bảng 3: Kế hoạch thị trường của Nhật Bản năm 2010 về 5 ngành cơng nghiệp chủ yếu Các ngành cơng nghiệp nano Nghìn tỷ Yên Tỷ USD Các vật liệu tái chế 0,6-1,4 6-14 Mơi trường nano và năng lượng 0,9-1,7 9-17 Kỹ thuật sinh học nano 0,6-0,8 6-8 Mạng lưới và thiết bị nano 17-20 170-200 Đo lường và sản xuất nano 0,8-2,2 8-22 (Nguồn: Keidanren Japan) ở hầu hết các nước châu Á, R&D cơng nghệ MEMS được đưa vào trong các chương trình cơng nghệ nano. Tại Nhật Bản, METI bắt đầu thực hiện Chương trình cơng nghệ sản xuất mới - Dự án MEMS. Dự án này được Mỹ tài trợ 20 triệu USD cho giai đoạn 2003-2005 nhằm tập trung chế tạo các thiết bị RF-MEMS, MEMS quang học và các bộ cảm biến MEMS cực nhỏ. Chính phủ Nhật Bản cịn xây dựng các chính sách để vượt qua rào cản về thương mại hĩa như thiếu các kỹ sư về MEMS, thiếu các cơng ty kinh doanh, tiêu chuẩn hĩa cịn quá yếu, các mạng lưới cịn quá nghèo nàn. Tại Nhật Bản, cĩ trên 10 xưởng đúc MEMS, bao gồm cả Olympus, Omron, Matsushita Electric và Sumitomo Metal. Đài Loan đang cạnh tranh với Nhật Bản trong các nỗ lực thương mại hĩa MEMS. Đài Loan đã thành lập Liên minh Cơng nghiệp MEMS Đài Loan với khoảng 9 xưởng đúc và 10 xưởng nữa đang bắt đầu được xây dựng. Mục tiêu của Liên minh 9
- này là chuẩn bị một diễn đàn để trao đổi thơng tin về kỹ thuật và thị trường mới nhất; Xây dựng tiêu chuẩn hĩa cơng nghiệp, hợp nhất các cơng nghệ hiện cĩ và cung cấp bản đồ giao thơng. Liên minh này cịn cung cấp các dịch vụ hợp pháp, các dịch vụ và tư vẤnthương mại quốc tế. Thành viên của Liên minh này bao gồm Asia Pacific Microsystems, Inc.; Walsin Lihwa Corp.; Micro Base Technology Corp. và Neostones Microfabrication Co., Ltd. Các nước như ẤnĐộ cĩ các ngành cơng nghiệp MEMS nổi trội, Thái Lan, Trung Quốc và Singapo hiện đang cĩ các hoạt động nghiên cứu và các cơ sở tiện ích MEMS khá cạnh tranh nhau. 1.3. Đầu tư cho cơng nghệ nano của khu vực tư nhân Trong khu vực kinh doanh ở Nhật Bản, hai tịa nhà thương mại lớn nhất của Nhật Bản là Mitsui & Co. và Mitsubishi Cor. đã thành lập những bộ phận kinh doanh cơng nghệ nano mới. Họ đang hoạt động rất tích cực trong R&D cơng nghệ nano và tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại hĩa và đầu tư vào cơng nghệ nano. Riêng Mitsui & Co đã bắt đầu quá trình xây dựng một doanh nghiệp cơng nghệ nano tồn cầu. Những cơng ty hàng đầu của Nhật Bản như NEC, Hitachi, Fujitsu, NTT, Toshiba, Soni, Sumitomo Electric, Fuji, Xerox và một số cơng ty khác đang tiếp tục tiến hành các nỗ lực R&D cơng nghệ nano và thực hiện nhiều biện pháp mạnh mẽ hơn để thúc đẩy việc thương mại hĩa R&D của họ. Tại Hàn Quốc, các tập đồn như Samsung, LG và các cơng ty khác đang đầu tư mạnh mẽ vào R&D cơng nghệ nano và thương mại hĩa chúng. Các xưởng sản xuất linh kiện bán dẫn của Đài Loan như TSMC và UMC hiện đang theo đuổi ráo riết hướng điện tử học nano bán dẫn. Các hãng cĩ vốn kinh doanh như Innovation Engine (Nhật Bản), Apax Globis Partners & Co. (Nhật Bản), và Juniper Capital Ventures Pte.Ltd (Singapo) đã đầu tư vào triển khai cơng nghệ nano ở châu Á. Các hãng được liệt kê trong danh sách như Cranes Software International Ltd (ẤnĐộ) và Good Fellow Group (Hồng Kơng) đã đầu tư cho các cơng ty kinh doanh cơng nghệ nano ở châu Á. Ngân hàng Macquarie của Ơxtrâylia và Pacific Dunlop là những nhà đầu tư chính cho AMBRI- cơng ty cơng nghệ nano đầu tiên được xếp hạng của thị trường chứng khốn Ơxtrâylia. Những lĩnh vực nĩng được đầu tư ở châu Á bao gồm MEMS, quang điện tử, bộ nhớ của máy tính, các vật liệu carbon, các cơng cụ chẩn đốn, các hệ thống phân phối thuốc, các cơng cụ mơ tả và đo đạc, các cơng nghệ hiển thị và sơn phủ bề mặt. 1.4. Các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương Năm 2003, Bộ Giáo dục, Văn hĩa, Thể thao, Khoa học và Cơng nghệ (MEXT) của Nhật Bản đã khai trương Trung tâm Mạng lưới các nhà nghiên cứu cơng nghệ nano 10
- của Nhật Bản với hai mục đích cung cấp các cơ sở hạ tầng đa ngành, dài hạn do quốc gia điều phối để hỗ trợ cho các nhà khoa học trong lĩnh vực KH&CN nano. Trung tâm này được đầu tư hàng năm với khoảng hơn 30 triệu USD để cung cấp cho các nhà nghiên cứu Nhật Bản các dịch vụ thơng tin, hỗ trợ và phối hợp tổ chức các hội nghị, hội thảo trong nước và quốc tế tại Nhật Bản. Nghiên cứu, xây dựng ngân hàng dữ liệu và hỗ trợ chuyển giao cơng nghệ và kỹ thuật. Các nước thuộc châu Á - Thái Bình Dương đang rất tích cực trong việc xây dựng các trung tâm cơng nghệ nano tầm cỡ quốc gia, bắt đầu từ việc xây dựng các cơ sở hạ tầng được điều phối một cách chặt chẽ sao cho thích hợp với vị thế của KH&CN nano. Các nhà lập chính sách và các nhà khoa học đang ngày càng nhận thức hơn về bản chất đan xen của KH&CN nano và tin tưởng vào con đường dẫn tới sự phát triển chúng. Khơng giống như EU, các nước trong khu vực này khơng sáng lập ra “Hội đồng châu Á” để điều phối R&D cơng nghệ nano ở châu Á và hình thành các mạng lưới. Tuy nhiên, nhận thức về sự cần thiết phải hợp tác ngày càng tăng. Hội nghị Cấp cao về cơng nghệ nano châu Á (ANFoS2004) đã được tổ chức từ ngày 10-11/5/2004 tại Phú Két, Thái Lan, bởi Viện Quốc gia về Khoa học và Cơng nghệ Cơng nghiệp Tiên tiến (AIST) - viện nghiên cứu quốc gia lớn nhất của Nhật Bản - phối hợp cùng với Trung tâm Quốc gia về Cơng nghệ Nano (NANOTEC) của Thái Lan mới được thành lập. Đây là sự cố gắng phối hợp đầu tiên nhằm thiết lập một mạng lưới khu vực về KH&CN nano và là cơ sở cho việc tăng cường sự hợp tác khu vực. Bảng 4: Mạng lưới tham gia của các nước châu Á - Thái Bình Dương tại Hội nghị cấp cao về cơng nghệ nano châu Á (ANFoS2004) Quốc ANF Tổ Điều phối viên Website của Mạng lưới gia/Lãnh thổ chức phối ANFoS2004 hợp/Mạng lưới Ơxtrâylia ANN Người triệu tập: C Jagadish (ANU) Trung Quốc HCNN Giám đốc: C.L.Bai Hồng Kơng HKUST Chủ tịch: Ching-Wu Chu ẤnĐộ DST Cố vấn: R.C.Srivastava Hàn Quốc KNRS Chủ tịch: Hanjo Lim Nhật Bản AIST Giám đốc: H.Yokoyama www.aist.go.jp Malaixia ISIFSS Giám đốc: Halimaton www.kimia.fs.utm.my Hamdan Singapo NUS Giám đốc: Seeram Rama www.nusnni.nus.edu.sg Krishna Đài Loan SINICA Giám đốc: M.K. Wu Nano- taiwan.sinica.edu.tw Thái Lan NANOTE Giám đốc: Wiwut www.nanotec.or.th/index. 11
- C Tanthapanichakoon p hp ANN- Mạng lưới cơng nghệ nano Ơxtrâylia, HCNN- Trung tâm Quốc gia về KH&CN nano, HKUST- Trường đại học KH&CN Hồng Kơng, DST- Vụ KH&CN , KNRS- Hiệp hội các nhà nghiên cứu Cơng nghệ Nano Hàn Quốc AIST- Viện Quốc gia về KH&CN Cơng nghiệp Tiên tiến NUS- Trường đại học Quốc gia Singapo SINICA- Viện Hàn lâm SINICA NANOTEC- Trung tâm Quốc gia về Cơng nghệ Nano Tại Hàn Quốc, một cơ quan hợp pháp được thành lập là “Hội các nhà nghiên cứu cơng nghệ nano quốc gia” do Bộ KH&CN cho phép. GS. Hanjo Lim của trường Đại học Ajou được bầu làm Chủ tịch. TS. JOWon Lee, thuộc Chương trình Mũi nhọn về Các thiết bị Nano mức Tera và ơng Jungil Lee từ Trung tâm Nghiên cứu các thiết bị nano, KIST, được bầu làm các Phĩ Chủ tịch. ở Malaixia, nhĩm yêu thích cơng nghệ nano đã được hình thành và các điều phối viên của các trường đại học ở Malaixia đã được lựa chọn. Khĩa đào tạo Thạc sỹ Khoa học về cơng nghệ nano sẽ luơn cĩ sẵn tại trường Đại học Kebangsaan Malaixia cùng với sự phối hợp với các trường đại học khác ở Malaixia và Viện Cơng nghệ châu Á ở Thái Lan. Các nước châu Á - Thái Bình Dương đang thể hiện những khát vọng và nỗ lực lớn trong việc thúc đẩy quốc gia mình vươn tới tương lai của “nano”. Châu Á - Thái Bình Dương đang trở thành khu vực cĩ khả năng thu hút các đối tác và các cơ hội kinh doanh trong khơng gian Nano. Các ưu thế của việc hợp tác với các tổ chức châu Á là: Các nguồn nhân lực dồi dào; Các cơ sở tiện ích tuyệt hảo (Nhật Bản, Hàn Quốc); Cơng nghệ tiên tiến (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan), tiến bộ nhanh trong cơng nghệ và sự tăng trưởng thị trường nhanh. 1.4.1. Ơxtrâylia Hội đồng Nghiên cứu Ơxtrâylia (ARC, Cơ quan tài trợ chính cho KH&CN ở Ơxtrâylia, tập trung vào khoa học cơ bản, www.arc.gov.au) đã nhận thêm 736,4 triệu đơ la Ơxtrâylia (A$) cho giai đoạn 5 năm để tăng nguồn đầu tư được lựa chọn của ARC lên hai lần. Theo Chương trình Tài trợ Lựa chọn Quốc gia, bốn lĩnh vực ưu tiên cho tài trợ của ARC năm 2003 đã được cơng bố: Vật liệu nano và vật liệu sinh học; Nghiên cứu Genome-Phenome; KH&CN Lượng tử và các hệ thống thơng minh/phức tạp. Từ năm 2003, 170 triệu A$ đã được phân bổ trong vịng 5 năm để hỗ trợ các dự án và các trung tâm, 90 triệu A$ đã được dành cho Trung tâm về Các Chương trình Xuất sắc (COE) của ARC trong vịng 5 năm, bắt đầu từ 2003, số kinh 12
- phí này đã được phân cho 8 trung tâm ở Ơxtrâylia. Cơng nghệ nano liên quan đến COE bao gồm: Cơng nghệ máy tính lượng tử; Quang học Nguyên tử - Lượng tử (Quantum-Atom Optics); Pin Quang điện Silic tiên tiến và photonic (Advanced Sillicon Photovoltaics and Photonics) và các linh kiện băng rộng siêu cao cho các Hệ thống Quang học (Ultrahigh-bandwidth Devices for Optical Systems). Bên cạnh đĩ, khoảng 45 triệu A$ được tài trợ từ cam kết đầu tư của Chính phủ, vốn đầu tư kinh doanh và các nhà đầu tư thương mại khác. 1.4.2. Trung Quốc Theo số liệu điều tra của Bộ KH&CN Trung Quốc (MOST), hiện cĩ khoảng trên 50 trường đại học, 20 viện nghiên cứu thuộc Viện Hàn lâm khoa học Trung Quốc (CAS) và 100 cơng ty đang rất tích cực trong R&D KH&CN nano ở Trung Quốc. Chiến lược ngắn hạn của Trung Quốc là hịa nhập cơng nghệ nano với các ngành cơng nghiệp truyền thống, phát triển các sản phẩm cĩ hiệu quả và chất lượng cạnh tranh cao làm cho cuộc sống thường nhật của người tiêu dùng được cải thiện hơn. Để tạo điều kiện cho việc thương mại hĩa cơng nghệ nano, Trung Quốc đang xây dựng một Trung tâm Kỹ thuật và Cơ sở Cơng nghiệp ở gần Bắc Kinh và Thượng Hải. Trong năm nay, việc nghiên cứu ứng dụng trong các tổ chức R&D chính ở Bắc Kinh sẽ được chuyển về thành phố Thiên Tân khi Cơ sở Cơng nghiệp Cơng nghệ Nano tại đây đi vào hoạt động. Chiến lược dài hạn của Trung Quốc là củng cố khoa học cơ bản và nâng cao tính cạnh tranh tồn cầu của Trung Quốc. Chính phủ đã dành 270 triệu NDT (33 triệu USD) để xây dựng Trung tâm Nghiên cứu Quốc gia về Khoa học và Cơng nghệ Nano. Trung tâm này sẽ thống nhất các tổ chức R&D đứng đầu như Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc, các trường đại học: Bắc Kinh, Thanh Hoa, Phúc Kiến, Giang Đơng, Nam Kinh và trường Đại học Khoa học và Cơng nghệ Đơng Trung Quốc. Mục tiêu của Trung tâm này là tạo điều kiện cho việc điều phối tốt hơn các nghiên cứu trong lĩnh vực KH&CN nano. Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc (CAS) cĩ một mạng lưới các cơ quan nghiên cứu lớn nhất Trung Quốc và thế giới. Trung tâm Kỹ thuật Cơng nghệ Nano Co. Ltd. thuộc CAS (CASNEC) đã được thành lập tháng 11/2002 là cơ sở thúc đẩy việc thương mại hĩa KH&CN nano trong CAS. Nhà đầu tư chính của Trung tâm này là Nhĩm Good Fellow (một cơng ty được xếp hạng ở Hồng Kơng). Nhĩm này sở hữu 55% cổ phần của cơng ty. Tổng kinh phí đầu tư khoảng 50 triệu NDT (6 triệu USD). Trong đĩ, CAS cĩ 20% cổ phần, các nhà khoa học của CAS cĩ 15% cổ phần và Cơng viên Cơng nghệ cao YongFeng cĩ 10% cổ phần. CASNEC được hình thành với mục đích để cải tổ lại hướng cơng nghiệp hĩa cơng nghệ và vật liệu nano trong nội bộ CAS bằng cách áp dụng hình thức quản lý từ trên xuống (top-down). CASNEC được xem như một vai trị kiểu mẫu cho việc thúc đẩy cơ sở cơng nghiệp quốc gia về cơng nghệ và vật liệu nano tại Cơng viên Cơng nghệ cao YongFeng ở Bắc Kinh. CASNEC chiếm diện tích khoảng 7000m 2 của 13
- Cơng viên Cơng nghệ cao YongFeng và nằm ở vị trí trung tâm của vùng Zhong- Guan-Cun là khu vực cĩ Trung tâm Cơng nghiệp và Trung tâm R&D Khoa học và Cơng nghệ Trung Quốc. Mục đích hoạt động của CASNEC là cung cấp cơ sở chuyển giao cơng nghệ cho R&D của CAS. Những nguồn lợi nhuận chính của CASNEC được thu từ cấp giấy phép, sản xuất ở mức độ trung bình và các dịch vụ tư vấn. Đối với sản xuất ở mức độ cơng nghiệp, CASNEC cĩ hợp tác chặt chẽ với các nhà sản xuất lớn đang được đứng vững với các ngành cơng nghiệp và thị trường cĩ liên quan. Mới đây, CASNEC đã ký một thỏa thuận cấp giấy phép cơng nghệ với Nhĩm ERDOS, nhà sản xuất len dạ lớn nhất Trung Quốc, chiếm khoảng 30% thị trường nội địa. Doanh thu hàng năm của nĩ khoảng 3 tỷ NDT (362 triệu USD). So sánh với những cơng việc kinh doanh khác, CASNEC cĩ nhiều ưu thế hơn trong việc tiếp cận trực tiếp với các thành quả R&D của CAS; tiếp cận với một vốn quý các nhà khoa học, kỹ sư xuất sắc và giàu kinh nghiệm; luơn nhận được sự hỗ trợ ổn định về tài chính từ phía Chính phủ. CASNEC hiện cĩ 26 tiến sỹ, 112 thạc sỹ, 3 cử nhân tốn học và 7 kỹ thuật viên. II. Phát triển cơng nghệ nano ở Châu Âu và Mỹ 2.1. Phát triển cơng nghệ nano ở châu Âu 2.1.1. Chính sách Từ trước đến nay, châu Âu vẫn là một khu vực quan trọng về chiến lược và là khu vực đi tiên phong trong lĩnh vực KH&CN. Đối với lĩnh vực phát triển nhanh nhất và cần đầu tư lớn là cơng nghệ nano, châu Âu khơng ngừng tăng cường chú trọng vào việc trở thành khu vực đứng hàng đầu trên thế giới, ngày 14 tháng 5 năm 2004, Uỷ ban châu Âu (EC) đã thơng qua phương pháp truyền thơng "Hướng tới chiến lược cơng nghệ nanơ của châu Âu" (COM 224 338) nhằm củng cố hoạt động (R&D) của tồn châu Âu về cơng nghệ nano và biến cơng nghệ nano thành các sản phẩm cĩ khả năng thương mại hố. EC đã đánh giá cao tầm quan trọng chiến lược của cơng nghệ nano là do: o Tiềm năng đổi mới và khả năng ứng dụng của nĩ trong nhiều lĩnh vực khác nhau để nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, o Khả năng tạo dựng các cơ hội kinh tế cho nhiều ngành, khu vực, o Tiềm năng cho sự phát triển bền vững thực sự, o Những thách thức lớn đối với cộng đồng khoa học: khoa học, giáo dục, tổ chức (đa ngành). o EC nhận thấy cơng nghệ nano như là một cơng cụ cĩ khả năng nâng cao chất lượng cuộc sống và đạt được sự phát triển kinh tế bền vững. 14
- o EC đã thơng qua một giải pháp chính thống khơng chỉ tính đến tính đa ngành của Cơng nghệ Nano, các thách thức trong khoa học, tiềm năng kinh tế, mà cịn tính đến các tác động lớn đến mơi trường và tồn xã hội. EC đã tiến hành điều tra các Mạng lưới cơng nghệ nano tại các quốc gia thành viên và các quốc gia liên đới. Cĩ 110 mạng lưới đang phối hợp hoạt động. Hơn 1/2 trong số đĩ đang hoạt động ở phạm vi quốc tế. Các mạng lưới này bao gồm khoảng 2.000 nhĩm và bao trùm tất cả các lĩnh vực về cơng nghệ nano. Các chi tiết về kết quả điều tra được cĩ sẵn trên Website về cơng nghệ nano của EC: www.cordis.lu/nanotechnology. Theo EC, các vẤnđề khác liên quan đến khoa học nano ở châu Âu là cơ sở hạ tầng, khơng cĩ chính sách đổi mới hài hịa ở cấp độ tổng thể, các vẤnđề về khả năng lưu động của các nhà nghiên cứu, rủi ro về tạo vốn và quản lý vốn, vẤnđề sáng chế, mơi trường quản lý doanh nghiệp yếu kém và khung đổi mới khơng chặt chẽ. Vì vậy, sáng kiến khoa học nano mới đã được đề ra nhằm củng cố các lĩnh vực yếu kém nêu trên: Nhằm tăng cường đầu tư và điều phối R&D để đẩy mạnh ứng dụng cơng nghệ nano trong cơng nghiệp, Phát triển cơ sở hạ tầng R&D đạt trình độ quốc tế, đáp ứng nhu cầu của các cơ quan nghiên cứu lẫn ngành cơng nghiệp, Khuyến khích giáo dục đào tạo liên ngành cho các nhà nghiên cứu, nhẤnmạnh vào tư duy quản lý doanh nghiệp, Tạo điều kiện tốt hơn cho chuyển giao cơng nghệ và đổi mới các sản phẩm hữu ích được thương mại hố, Phân tích và tích hợp các nhu cầu hoặc mối quan tâm của xã hội vào quá trình R&D, Giải quyết tất cả các yếu tố gây tổn hại, như sức khoẻ của cộng đồng, an tồn, mơi trường và rủi ro đối với người tiêu dùng, nhằm thực hiện đánh giá rủi ro của từng cơng đoạn trong vịng đời sản phẩm của cơng nghệ nano. Để đạt được các hoạt động nêu trên cần cĩ sự hợp tác tốt hơn và các sáng kiến ở tầm quốc tế. Từ tháng 7/2002, EC bắt đầu thực hiện Chương trình Diễn đàn nano với tổng kinh phí cho giai đoạn bốn năm khoảng 2,7 triệu euro. Diễn đàn nano châu Âu này (www.nanoforum.org) là một tổ chức mạng lưới cung cấp nguồn thơng tin tổng hợp về tất cả các lĩnh vực của cơng nghệ nano cho Chính phủ, cộng đồng xã hội, khoa học và doanh nghiệp. Diễn đàn này hỗ trợ cho chiến lược cơng nghệ nano châu Âu và giúp để hội nhập các nước ứng cử viên vào Liên minh châu Âu (EU). Nĩ đã tổ chức các cuộc hội thảo về các chủ đề chính, tập trung vào đào tạo. Nĩ đã xuất bản các báo cáo tập trung vào các vẤnđề xã hội, kỹ thuật và chính sách. Ngồi ra, nĩ đã xây dựng trang web về cơ sở dữ liệu để duy trì các thơng tin về R&D cơng nghệ nano ở châu Âu và các cơ hội kinh doanh. 15
- EC đã triển khai thực hiện Chương trình Khung lần thứ 6 (FP6, 2002-2006) với tổng kinh phí khoảng 13.345 triệu euro. Trong EU, Đức là nước cĩ mức đầu tư cao nhất cho cơng nghệ nano, tiếp đĩ là Anh. Nhận thấy Mỹ và Nhật Bản chú trọng hơn châu Âu, ví dụ như Đạo luật R&D cơng nghệ nano được Chính phủ Mỹ ký năm 2003, EU đề xuất tăng gấp 3 đầu tư vào cơng nghệ nano đến năm 2010 nhằm duy trì khả năng cạnh tranh trên tồn cầu. Ngồi ra, EU sẽ giải quyết vẤnđề chưa cĩ chương trình R&D cơng nghệ nanơ tập trung mà ở Mỹ chương trình này nổi bật nhất. Khác với những chương trình khung trước đây, FP6 nhẤnmạnh đến việc củng cố nền tảng KH&CN của tồn ngành cơng nghiệp và khuyến khích mang tính cạnh tranh hơn ở tầm quốc tế. FP6 được cấu trúc thành 3 tiêu đề chính sau: 1. Tập trung và hội nhập các nghiên cứu của cộng đồng, 2. Xây dựng lĩnh vực nghiên cứu của châu Âu, 3. Củng cố nền tảng của lĩnh vực nghiên cứu của châu Âu. Các hoạt động và triển vọng của chính sách nghiên cứu của EU trong việc thực hiện các mục tiêu được nêu ra tại Hội nghị cấp cao Lisbon tháng 3/2000 và tại các hội nghị cấp cao châu Âu tiếp theo (tại Goteborg tháng 7/2001 và Barcelona tháng 3/2002) đã được khẳng định tại Tầm nhìn của Lĩnh vực Nghiên cứu của châu Âu (ERA). Mục tiêu của ERA là xây dựng một chính sách phối hợp nghiên cứu của châu Âu được điều chỉnh và giải quyết thích hợp cho phạm vi của từng quốc gia, khu vực và tồn châu Âu. Nĩ khơng hạn chế việc nghiên cứu, vì vậy được áp dụng cho tất cả các lĩnh vực khi xây dựng chính sách, bao gồm cả các nguồn nhân lực và giáo dục, khía cạnh xã hội, đạo đức, các vẤnđề tồn cầu, tầm cỡ quốc tế, v.v Nĩ đã làm cho chi phí nghiên cứu tăng lên khoảng 3,0% GDP của tồn châu Âu. Các hoạt động xây dựng Lĩnh vực Nghiên cứu của Châu Âu bao gồm: nghiên cứu và đổi mới, nguồn nhân lực và tính biến động, hạ tầng cơ sở của nghiên cứu, Khoa học và Xã hội. Bảy chủ đề ưu tiên (TP) được khẳng định trong FP6 là: TP1 các khoa học và cuộc sống, gen và cơng nghệ sinh học đối với sức khỏe, TP2 các cơng nghệ xã hội hĩa thơng tin, TP3 cơng nghệ và khoa học nano; các vật liệu đa chức năng thơng minh, các quá trình và các thiết bị sản xuất mới, TP4 hàng khơng và Vũ trụ; TP5 an tồn và chất lượng thực phẩm, TP6 phát triển bền vững, thay đổi tồn cầu và các hệ sinh thái, TP7 Người dân và việc quản lý trong một xã hội tri thức. Trong TP1, TP2, TP3 bao gồm các dự án hồn chỉnh về KH&CN nano. Tổng kinh phí dành cho KH&CN nano trong FP6 cho giai đoạn 4 năm là 700 triệu euro. Theo 16
- đánh giá của EC, tổng chi phí hàng năm cho KH&CN nano của châu Âu là khoảng 700 triệu euro. TP1 gồm cĩ cơng nghệ nano liên quan đến gen, protein, định hướng chủ yếu cho sức khỏe (phát triển con chip sinh học, giao diện của tế bào, ví dụ như nơtron, nghiên cứu về não, cơng cụ chẩn đốn và điều trị bệnh). TP2 gồm điện tử nano, quang điện tử, lượng tử, cơng nghệ nano siêu nhỏ. TP3 gồm các nghiên cứu đa ngành dài hạn, cơng nghệ sinh học nano, kỹ thuật nano, các vật liệu và thiết bị chuyên dụng và xây dựng, các cơng cụ và kỹ thuật, sản xuất nano, các ứng dụng cho y tế, cơng nghiệp, mơi trường và các lĩnh vực khác. Chương trình cơng nghệ nano về gen bao gồm các vật liệu, các quá trình sản xuất, cơng cụ, thiết bị và các ứng dụng trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế. EC tin rằng các yêu cầu mới về khoa học, triển khai và các cơ hội chỉ cĩ thể được điều khiển và khai thác trọn vẹn nếu nĩ được thực hiện trong bối cảnh tồn cầu thơng qua hợp tác quốc tế. Chính vì vậy, các chương trình của EC về tổng thể là hồn tồn mở cho sự tham gia của quốc tế. Cĩ ba khả năng chính sau đây cho sự hợp tác quốc tế: Hỗ trợ trực tiếp cho các quốc gia mục tiêu trong những lĩnh vực cĩ liên quan như, y tế, nơng nghiệp hoặc nước, Các thỏa thuận song phương với hàng loạt quốc gia về KH&CN, Các kế hoạch cụ thể và các hoạt động liên kết, hầu hết được thể hiện bằng các văn bản ghi nhớ. Hợp tác của EC và Quỹ NSF của Mỹ về khoa học vật liệu và cơng nghệ nano được bắt đầu từ 12/1999 và tập trung vào: Các cơ hội cĩ thể so sánh được để tham gia vào các chương trình khác, Trao đổi rộng rãi thơng tin, Tăng cường hợp tác, Phối hợp tìm kiếm tài trợ cho các đề xuất dự án, Liên kết tổ chức các hội nghị, hội thảo , Hỗ trợ cơng tác đào tạo. Cho đến nay đã cĩ ba hợp tác tìm kiếm đầu tư đã được thực hiện với 12 dự án được tài trợ và được phối hợp giám sát ngay từ khi chuẩn bị và 5 hội thảo đã được phối hợp cùng tổ chức theo hợp tác giữa EC và NSF. Một trong những hướng chính trong khoa học và cơng nghệ nano là phải nhận dạng được các rào cản hiện tại (hoặc tương lai) và những cố gắng hỗ trợ thực hiện các giải pháp vượt qua các rào cản đĩ bằng cách tính đến tất cả các khía cạnh cĩ liên quan và tương lai tồn cầu. 17
- 2.1.2. Cơ sở hạ tầng a. Mạng lưới EC đang đầu tư cho một số lượng lớn mạng lưới đổi mới KH&CN cho các quốc gia thành viên của EU và các quốc gia liên đới. Các Đầu mối Liên lạc Quốc gia (NCP) đang hỗ trợ các cuộc hội nghị thơng qua các đề xuất dự án để EU kêu gọi tài trợ. Mỗi chủ đề ưu tiên lại cĩ một NCP riêng, trong đĩ bao gồm cả chủ đề ưu tiên về cơng nghệ nano. EC cịn đầu tư cho việc đổi mới Mạng lưới Trung tâm Tiếp âm (IRC). Các Trung tâm này sẽ hỗ trợ cho việc chuyển giao cơng nghệ quốc tế trong khối EU và trong các quốc gia liên đới. Các hỗ trợ khác của EU cho mạng lưới bao gồm Dự án Gate2Growth với mục đích phù hợp hĩa các nhà doanh nghiệp cách tân với các nhà tư bản kinh doanh, Minanet, một cơ sở dữ liệu trực tuyến của European Microsystems, và các dự án nghiên cứu cơng nghệ nano. Như đã đề cập ở trên, EC đang tài trợ cho diễn đàn nano một mạng lưới chủ đề được sử dụng như một cổng ra vào của Cơng nghệ nano ở châu Âu. Mạng lưới này gồm các dịch vụ cung cấp thơng tin cho các nhà nghiên cứu, các nhà cơng nghiệp, các nhà lập chính sách, sinh viên, và cơng chúng. III. Thị trường và sản phẩm nano Thị trường cơng nghệ nano được ước tính sẽ đạt khoảng 1.000 tỉ USD vào năm 2015 và đây cũng sẽ là lĩnh vực cạnh tranh gay gắt. Cĩ thể nĩi đĩ là điều lạ lùng khi cơng nghệ nano (được hiểu như một kỹ xảo chế tạo các vật liệu và máy mĩc cĩ kích thước rất nhỏ) đang tạo ra những tác động đặc biệt trái ngược trong kinh doanh. Thay bằng việc chế tạo ra cái gì đĩ thực tế hơn, người ta lại tạo ra cái rất vơ vị và làm cho nĩ cĩ vẻ như thần diệu. Nếu bạn muốn cơng ty, sản phẩm của bạn nghe cĩ vẻ độc đáo hơn, bạn hãy gắn thêm tiếp đầu từ "nano" vào và bạn sẽ là một phần của Vật to lớn Tiếp theo (The Next Big Thing). Điều đĩ cũng giống như khi các cơng ty thêm cái đuơi ".com" trong giai đoạn bùng nổ Internet hay "tech" trong những năm bùng nổ máy tính xách tay (PC). Các cơng việc kinh doanh liên quan đến cơng nghệ nano đang mở ra cả một lĩnh vực mới bao gồm các nguồn lực sẵn cĩ. Vì vậy, các cơng ty đang cố sắp xếp lại những gì họ đang tiến hành. Tất nhiên mục tiêu của họ là kiếm tiền. Theo một ước tính, cơng nghệ nano sẽ là một thị trường đạt trị giá 1.000 tỷ USD trong vịng khoảng một thập kỷ nữa. Hiện nay, số tiền đầu tư vào lĩnh vực này của Chính phủ Mỹ và khu vực tư nhân đã lên tới 3 tỷ USD và vẫn đang tiếp tục tăng lên. Chương trình "Xúc tiến Cơng nghệ Nano" của Chính phủ Mỹ đã kiến nghị chi tiêu 847 triệu USD cho nghiên cứu trong năm 2004, tăng 9,5% so với năm 2003 (năm 1997 - 116 triệu USD; năm 2000 - 270 triệu; năm 2001 - 422 triệu và năm 2002 - 518 triệu, chưa kể các đề tài của các trường đại học ký với các 18
- cơ quan quốc phịng, an ninh và một số cơng ty lớn, trong đĩ thường cĩ phần R&D liên quan tới cơng nghệ nano). Nhưng, trước khi các nhà đầu tư, các nhà kinh doanh vốn mạo hiểm và các quan chức Chính phủ bắt đầu tung tiền ra, cĩ thể họ sẽ muốn cĩ một cái nhìn, ở phạm vi nano, vào giá trị thực của cơng nghệ mới này. Tại châu Âu, Đức hỗ trợ rất mạnh cho việc phát triển cơng nghệ nano. Đức cĩ một Ch- ương trình thống nhất giao cho Bộ Giáo dục và Nghiên cứu quản lý với kinh phí chung chi từ ngân sách khoảng 7 tỷ USD, trong đĩ 1/4 được chi cho đầu tư đổi mới cơng nghệ. Nhà nước Đức cịn thơng qua Chương trình EXIST nhằm trả lương và thù lao cho các cán bộ nghiên cứu và sinh viên đại học tham gia nghiên cứu cơng nghệ nano. Chương trình EXIST cịn chi tiền để lập các cơng ty ở các trường đại học cho việc thực hiện các mục tiêu đặc biệt, Bộ Giáo dục và Nghiên cứu Đức đã sơ bộ đánh giá tiềm năng to lớn của thị trường cơng nghệ cĩ doanh số tiềm năng đáng kể này mà họ hy vọng nước Đức sẽ cĩ vai trị dẫn đầu trong việc nắm bắt các cơ hội. Theo Bộ này, một số lĩnh vực trọng tâm sau đây cĩ tiềm năng doanh số cao: Các lớp siêu mỏng (chiều dày vài nguyên tử) 20 tỷ USD, các kết cấu dọc cạnh (lateral) 2 tỷ USD, xử lý bề mặt siêu chính xác 12 tỷ USD, đo lường và phân tích các kết cấu nano 13 tỷ USD, các vật liệu nano và kiến tạo phân tử 4 tỷ USD. Đức cĩ khoảng 60 cơng ty quan tâm đặc biệt tới cơng nghệ nano. ở Trung Quốc, Viện Hàn lâm Khoa học quản lý nhiều chương trình R&D về cơng nghệ nano. Một trong những hướng tập trung là cơng nghệ chế tạo bán dẫn và các thiết bị điện tử dựa trên cơng nghệ nano. Trung Quốc cĩ 17 trường đại học và 11 cơng ty lớn thực hiện nghiên cứu về cơng nghệ nano và khoảng 200 doanh nghiệp cĩ ràng buộc trong quan hệ buơn bán các thiết bị, sản phẩm cơng nghệ nano. Tại Hàn Quốc, Bộ KH&CN thơng qua Chương trình "Khởi phát các thiết bị nano mức tera" tài trợ cho các trường đại học và ngành cơng nghiệp phát triển các thiết bị điện tử thế hệ tương lai tới đây. Tập đồn Samsung, người khổng lồ của cơng nghiệp Hàn Quốc, lập hẳn một cơ quan khoa học là Viện Cơng nghệ tiên tiến để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu cơng nghệ, thương mại hố các cơng nghệ vi điện tử và hỗ trợ việc ứng dụng các hệ thống vi điện tử (microelectro-mechanical). Cơ quan Thúc đẩy Đầu tư Thương mại Hàn Quốc cũng gĩp một vai trị tích cực trong việc cung cấp thơng tin liên quan đến đầu tư vào cơng nghệ nano. Về các sản phẩm mới của cơng nghệ nano: "Nhanh hơn, nhẹ hơn, nhỏ hơn" là chủ đề chính của các sản phẩm cơng nghệ nano, đáp ứng nhu cầu khách hàng về giảm trọng lượng, thể tích, giảm tiêu thụ nguyên vật liệu, năng lượng hoặc tăng tốc độ xử lý và sản xuất. Ngược lại với các lĩnh vực cơng nghệ cao khác, cơng nghệ nanơ về bản chất đã hàm chứa nhiều đặc trưng kỹ thuật như vậy trong cơng nghệ. Nhĩm các sản phẩm sắp tới sẽ rất phong phú và xâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực cơng nghiệp. Sau đây là một số ví dụ: sinh học, sản phẩm cơng nghệ nano "hình mẫu" của tương lai là các thiết bị giá rẻ hoặc cĩ thể tái sử dụng, dùng chẩn đốn phịng bệnh cho người. Các thiết bị này giúp Chính phủ giảm chi phí cho y tế, giúp các cá nhân tự theo dõi tình trạng sức 19
- khoẻ và gĩp phần vào sự tiến bộ của ngành y. Chip sinh học nhận dạng các phân tử, chuỗi ADN hoặc protein sử dụng để chẩn đốn. Giống như vi chip bán dẫn, chip sinh học phát triển theo xu hướng tăng cơng năng theo thời gian, nhờ các cơ chế giống nhau: diện hoạt động phân tích cá thể giảm liên tục trong khi phạm vi cơng năng lại gia tăng. Chip sinh học sẽ đa năng tồn diện hơn khi các phản ứng cĩ thể được thích nghi với nhu cầu của khách hàng và chi phí tính theo chức năng giảm. Với việc giảm thiểu kích thước hơn nữa, cơng nghệ nano sẽ cĩ vai trị quan trọng hơn trong ngành chế tạo. Ví dụ, khi cần phân tích chất lỏng, chất lỏng phải đi qua các kênh rất nhỏ với độ dung sai ở cấp nano. Các hệ thống vi chất lỏng như vậy sẽ là cấu phần xây dựng cơ bản cho các phịng thí nghiệm trên chip (lab-on-the-chip). Hiện nay đã cĩ thị trường này, cụ thể là thiết bị dùng sắp xếp chuỗi ADN và chip protein, nhưng chúng cịn rất đắt. Tuy nhiên, điều này sẽ thay đổi khi cơng nghệ nano phát triển tạo được các hệ thống vi chất lỏng hiệu quả và cơng nghệ sẽ cĩ tiềm năng lớn khi kết hợp được số lượng lớn cảm biến sinh học trên cơ sở các nguyên lý khác nhau. Một khi cơng nghệ chín muồi để cĩ thể sản xuất với chi phí thấp, các ứng dụng chắc chắn sẽ là y học dự phịng, kiểm định độ tươi của thực phẩm, cảm biến báo động thơng minh phát hiện khí,v.v Nhiều nỗ lực nghiên cứu khoa học hiện nay hướng vào việc phát triển các bề mặt vật liệu tương thích sinh học. Mục đích là tạo ra các màng tương thích sinh học để thay thế mơ của người, dùng chữa trị các tổn thương. Các bề mặt hữu cơ này được tạo cấu trúc nano để cĩ thể là vật chủ cho các tế bào sống, thúc đẩy sự phát triển của chúng khi được đưa vào trong cơ thể. Trong lĩnh vực cơng nghệ nano, vẤnđề kích thước rất quan trọng. Một nanơmét bằng một phần tỷ mét, tức là bằng một phần 75000 đường kính của một sợi tĩc của người, trong khi cơng nghệ nano nĩi chung đề cập đến kỹ thuật liên quan đến các vật liệu cĩ kích thước nhỏ hơn 100 nanơmét. Bằng cách chế tạo ra vật chất ở kích thước như vậy, các nhà nghiên cứu cĩ thể tạo ra các vật liệu chắc chắn hơn, nhẹ hơn hay cứng hơn so với vật liệu thơng thường. Các hãng như Lee Jeans và Eddie Bauer đã cho ra loại quần kaki bằng chất liệu nanơ cĩ khả năng chống lại chất màu. Chất liệu này được xử lý bằng các hạt từ một cơng ty mang tên Nano-Tex, các hạt này được gắn vào sợi cơ-tơng và tạo ra một bức rào chắn cĩ thể đẩy lùi được những kẻ thù tự nhiên của chất liệu sợi như cà phê, mực, phẩm màu Cơng ty mỹ phẩm L’O real đã đưa những viên nang nhỏ tí xíu chứa đầy vitamin A vào trong các loại kem dưỡng ẩm của mình để cĩ thể thấm tốt hơn trên da. Nhưng cho dù những sản phẩm này nọ đĩ, bao gồm cả màn chống nắng trong suốt và bĩng chơi tennis cĩ độ bền cao, cĩ hữu ích và lý thú bao nhiêu đi chăng nữa, thì chúng cũng khĩ cĩ thể phát triển thành một cuộc cách mạng cơng nghiệp tiếp theo. Theo ý kiến của nhà Biên tập Howard Lovy, của tờ Small Times, thì các vật liệu nano được sử dụng trong các sản phẩm màn chống nắng và vải kaki chỉ là một bước tiến tiếp theo của các ngành vật liệu, hố chất và cĩ thể truy ngược cội nguồn một chút quay về với 20
- phiên bản gốc của Eric Drexler - Tác giả của cuốn sách "Engines of Creation" (Những động cơ sáng tạo) xuất bản năm 1986, trong đĩ ơng đã nhìn thấy trước một cuộc cách mạng đảo lộn từ duới lên trong ngành chế tạo. Ơng đã dùng thuật ngữ "cơng nghệ nano phân tử" để phân biệt sự lắp ráp ở phạm vi phân tử với việc sử dụng các màng và vật liệu cĩ kích thước nano để nhằm củng cố các quy trình cũ, giống như việc chế tạo ra loại quần bình thường bằng vật liệu chống dây màu. Ngồi ra, các cơng ty đang miễn cưỡng khước từ một cơ hội để yêu cầu một sự đổi mới cho phép họ tính giá thêm từ 20% đến 30% vào các sản phẩm hiện tại của họ. Điều tiếp thêm sức cho cơng việc kinh doanh chính là các giải pháp mà cơng nghệ nano cĩ thể dẫn tới các phương pháp chế tạo vi mạch mới hay thiết kế ra các tế bào năng lượng mặt trời cĩ hiệu suất cao, nhưng giá rẻ để làm giảm các chi phí năng lượng. Mihail Rocco - người lãnh đạo xúc tiến cơng nghệ nano, đang muốn tìm kiếm những tiến bộ trong việc cung cấp thuốc vào cơ thể để tiêu diệt các tế bào ung thư giống như một người bắn tỉa đặc biệt. Ơng Rocco cho rằng, cơng nghệ nano sẽ cĩ thể kéo dài tuổi thọ thêm từ 20 đến 30 năm, bởi vì "chúng ta cĩ thể thanh tốn căn bệnh Alzheimer’s và các bệnh về não khác". Tất cả các tiến bộ đĩ sẽ cịn phải chờ hàng thập kỷ nữa nếu tiến triển theo hướng tốt. Vậy làm cách nào để khơng lâu nữa các sản phẩm của ngày nay cĩ thể biến thành một thị trường trị giá 1 nghìn tỷ USD. Điều đáng ngạc nhiên là con số này được lặp lại nhiều lần trong một báo cáo của Quỹ Khoa học Quốc gia (NSF) Mỹ năm 2001. Nhưng nếu xem xét kỹ hơn thì cĩ thể thấy là các nhà nghiên cứu của NSF đã thực hiện những bước nhảy vọt thực sự lớn trong niềm tin của họ. Ví dụ, họ đã dự báo rằng, một nửa trong tổng sản lượng thuốc sản xuất trong tương lai sẽ phụ thuộc vào cơng nghệ nano, với trị giá khoảng 180 tỷ USD. Nhưng điều này khơng giống với việc phát biểu rằng, ngay lập tức sẽ cĩ một thị trường các loại thuốc mới trị giá 180 tỷ USD. Theo ý kiến của nhà phân tích Mike Richardson thuộc Hãng tư vẤnFreedonia, doanh thu trực tiếp từ cơng nghệ nano cĩ thể sẽ lên đến 35 tỷ USD vào năm 2020. Tuy nhiên, ơng cũng thừa nhận rằng con số này chỉ là suy đốn, bởi vì đây là một lĩnh vực hồn tồn chưa được khai phá. Cho đến nay, cĩ nhiều cơng ty rất thích con số 35 tỷ USD, điều này giải thích tại sao tiếp đầu từ "nano" đã được gắn vào tên của nhiều cơng ty. Ví dụ, cơng ty NanoPierce Technologies, trước đây mang tên Sunlight Systems, cơng nghệ của họ tạo ra các mối liên kết giữa các vi mạch và các bộ phận điện tử khác cĩ kích thước gần bằng kích thước nano. Một số cơng ty khác muốn gắn thêm cái tên nano cho cơng ty mình bởi vì họ muốn đĩn đầu sự bùng nổ cơng nghệ nano và tạo cho các sản phẩm của họ cĩ tính cạnh tranh hơn. Thí dụ nữa: Hãng chế tạo kính hiển vi nguyên tử Veeco Instruments, cĩ doanh thu trong quí 2/2004 đạt 73,5 triệu USD và Hãng FEI trong cùng giai đoạn cũng đạt được một phần lợi nhuận nhỏ từ việc bán sản phẩm kính hiển vi chùm tia điện tử của mình với doanh thu 89,8 triệu USD. Nhưng tất cả các cơng ty nĩi trên đều là những người chơi cịn nhỏ, đặc biệt khi so sánh với IBM và Hewlett-Packard là các hãng đã tiến hành rất nhiều nghiên cứu về cơng nghệ. 21
- Về thị trường ống nano, Báo cáo mới nhất của Hãng Business Communication Company, Inc. nhan đề "ống nano: phương hướng và cơng nghệ – Nanotubes: Directions and Technologies" đã đánh giá: khối lượng ống nano đường kính từ 1 đến 300 nm (bao gồm cả 2 loại: đơn thành vách và đa thành vách) sản xuất trong nửa đầu năm 2003 ước tính khoảng từ 10 đến 20 kg, trị giá 5-10 triệu USD, khối lượng đã sản xuất năm 2002 là 22,1 kg, trị giá 11,9 triệu USD. Thị trường ống nano cacbon phân thành 2 nhánh cơng nghiệp: cơng nghiệp vật liệu phục vụ nghiên cứu cơng nghệ nano và cơng nghiệp vật liệu phục vụ nghiên cứu các lĩnh vực khác. Hiện nay khối lượng nano cacbon sản xuất trên thế giới cịn nhỏ bé với giá thành cịn cao. Trên thực tế, ống nano đa thành vách đã được ứng dụng từ 5 năm nay để làm thay đổi tính chất của polyme. ống nano đã làm cho polyme trở thành vật liệu dẫn điện, ứng dụng trong cơng nghiệp máy tính, cơng nghiệp sản xuất đĩa CD và cơng nghiệp tự động hố. Báo cáo cũng đưa ra dự báo rằng, trong thập kỷ đầu của thế kỷ 21, thị trường nghiên cứu ống nano sẽ phát triển khơng mạnh bằng thị trường ứng dụng thương mại. Hiện tại, ống nano đã cĩ khả năng ứng dụng thương mại rộng rãi trong các lĩnh vực: vật liệu composit, kỹ thuật điện tử, cơ cấu dẫn động, màn hình, kính hiển vi, ắcquy, tụ điện và pin nhiên liệu. Trong giai đoạn hiện nay, giá chế tạo ống nano cịn khá cao đang là rào cản đối với việc thương mại hố loại vật liệu này. Tuy nhiên, dự báo trong những năm tới đây, giá chế tạo ống nano sẽ hạ dần, hơn nữa nếu sản xuất với khối lượng lớn giá sản xuất cịn tiếp tục hạ. Giá trị thị trường thế giới về ống nano năm 2001 là 7 triệu USD, 2002 là 11,9 triệu USD và dự báo năm 2006 sẽ là 231,5 triệu USD. Trong tương lai xa hơn, thị trường ứng dụng ống nano sẽ tăng lên cỡ nhiều tỷ USD. Trong vịng 5 năm tới đây, ống nano cĩ thể sẽ thay thế vi mạch trên cơ sở silic và tranzito hiện nay. ở quy mơ ứng dụng rộng hơn nữa, ống nano sẽ được sử dụng trong sản xuất pin nhiên liệu. Ngồi ra, ống nano cịn cĩ thể ứng dụng trong cơng nghiệp quốc phịng. Mỹ bắt đầu quan tâm thúc đẩy thương mại hĩa cơng nghệ nano Những năm vừa qua, nhờ hoạt động tích cực của các tổ chức như Liên minh Doanh nghiệp Nano (LDN), mà cơng nghệ nano ở Mỹ đã rời khỏi lãnh địa của KH&CN để thâm nhập vào lãnh địa của kinh doanh thương mại, đồng thời giúp đưa các vẤnđề của cơng nghệ nano lên hàng đầu trong chương trình nghị sự về chính sách cơng nghệ. Những ai đã am hiểu về quá trình đổi mới đều biết rằng những phát minh lớn trong 22
- KH&CN mới chỉ là bước khởi đầu của sự đổi mới cơng nghệ. Các tổ chức như LDN là những loại tổ chức cĩ cơ chế tạo điều kiện và nguồn kinh phí để giúp đưa những kiến thức thu được từ R&D thành ra những sản phẩm và dịch vụ, giúp tăng lượng của cải, phát triển kinh tế và tạo ra cơng ăn việc làm. Những tổ chức đĩ là những nhân tố quan trọng cho cơng việc đổi mới. Các nhà khoa học, các kỹ sư, các doanh nghiệp và các nhà làm chính sách của cả thành phố lẫn bang New York, nhờ tầm nhìn và quyết tâm của mình đã tạo ra một mơ hình phát triển kinh tế dựa vào cơng nghệ nano. Phần đĩng gĩp to lớn ở đây là thuộc về Thống đốc Pataki, người vừa qua đã được cuốn "The Nanotech Report 2002" đánh giá là một trong những nhân vật cĩ ảnh hưởng lớn nhất tới cơng nghệ nano. Theo ơng Pataki, " Cơng nghệ nano cĩ nhiều hứa hẹn nhất đối với sự thịnh vượng trong tương lai của New York và của cả dân tộc". Với niềm tin như vậy, New York đã khơng tiếc tiền của và cơng sức để xây dựng kết cấu hạ tầng, đảm bảo cho cơng nghệ nano cĩ thể tăng trưởng, phát triển và nhân rộng. Về khu vực hàn lâm: 3 trường đại học ở New York (Cornell, RPI, Columbia) đã được nhận những khoản tài trợ đầu tiên của NSF để thành lập các trung tâm cơng nghệ nano. Ngồi ra, các trường SUNY Albany, SUNY Buffalo và Alfret cũng cĩ các chương trình lớn về cơng nghệ nano. Các doanh nghiệp lớn: New York cĩ một số tập đồn đang đầu tư mạnh cho cơng nghệ nano, ví dụ IBM, Kodak, GE, Bausch&Lomb, Xerox v.v Các cơng ty khởi sự: Một loạt các cơng ty khởi sự, với xuất phát điểm từ vơ số các đề tài ứng dụng từ cơng nghệ nano. Các tổ chức phi lợi nhuận: New York là địa điểm để đặt trụ sở của LDN, mà cĩ văn phịng ở Ulster County. New York đã và đang là lãnh địa của vi điện tử và cĩ thể nĩi rằng đĩ cũng là lãnh địa nano của cả nước Mỹ: cả 2 lãnh địa đều được xác định rất rõ để phát triển, thương mại hố và gặt hái các lợi ích kinh tế của cơng nghệ nano đang nổi lên. Tất cả những điều đĩ đã giúp đem lại những nhận định dưới đây: "Cách tốt nhất để dự báo tương lai là sáng tạo ra tương lai đĩ". Câu gợi ý này là của Alan Kay phát biểu năm 1971 tại Hội nghị của các cán bộ và kỹ sư của Cơng ty Xerox. Câu nĩi này lúc đĩ đã đúng: những nỗ lực của họ đã gĩp phần quan trọng để làm thay đổi ngành cơng nghệ thơng tin. Và điều này vẫn đúng cho hơm nay. Alan Kay cịn cĩ một câu nĩi nữa cũng rất đúng và quan trọng như thế, đĩ là: "Những người thực sự thơng minh và nếu được cấp kinh phí đầy đủ sẽ cĩ thể làm được hầu hết mọi việc." Hiện nay, nước Mỹ đã đạt tới một giai đoạn, trong đĩ cơng nghệ nano dành được lịng nhiệt tình và ủng hộ to lớn. Tuy nhiên, bây giờ cũng là lúc mọi người bắt đầu phân tích kỹ lưỡng hơn tiềm năng kinh doanh của nĩ, bởi một số nhân tố như sau: Nano đã nổi lên thành một sự kiện lớn. Cĩ lẽ đây là tột cùng của các cơng nghệ tạo ra năng lực mới, bởi lẽ nĩ liên quan đến những phần tử cơ bản nhất tạo nên sự sống và vật chất. Khĩ mà hình dung ra được ngành nào khơng liên đến khi ta cĩ được khả năng am hiểu và khai thác được tiềm năng của vật liệu ở cấp nano. Do vậy, tác động kinh tế của nano là lớn lao. Cuộc chạy đua để phát triển và thương mại hố nano cĩ một ý nghĩa to 23
- lớn đối với quốc gia, doanh nghiệp và mọi người. Với những hàm ý sâu xa như vậy, những lời tuyên bố liên quan đến nĩ khơng thể tránh khỏi sự quan tâm và xem xét. Nhận xét Trong khi Mỹ đang tiếp tục phát triển chính sách và hợp tác trong triển khai khoa học và cơng nghệ nano thơng qua việc hỗ trợ mạnh mẽ trong điều hành và chính sách của Chính phủ cũng như xây dựng cơ sở hạ tầng trên tồn nước Mỹ, thì EC và khu vực châu Á-Thái Bình Dương đang theo sát Mỹ trong định hướng xây dựng chính sách và xây dựng cơ sở hạ tầng cho chính mình. Diễn đàn về nano châu Âu 2003 được tổ chức vào 9-12/12/2003 tại Trieste (Italia) đã thơng báo rõ ràng rằng EC phải thực hiện nhiều hơn nữa các biện pháp chiến lược sao cho khơng thể tụt hậu so với Mỹ và Nhật. TS. E. Andreta, Giám đốc “Các Cơng nghệ Cơng nghiệp” (EU) đã nhẤnmạnh rằng kiến thức phải được chia sẻ trên phạm vi quốc tế và EU sẽ mở rộng mạng lưới của nĩ khơng chỉ trong khối EU, mà cịn kết nối với Mỹ, châu Á-Thái Bình Dương, và các châu lục khác. Kế hoạch Nghiên cứu và Triển khai cơng nghệ nano thế kỷ 21 được thơng qua tháng 12/2003 tại Quốc hội Mỹ, đã tuyên bố “Đảm bảo sự lãnh đạo tồn cầu của Mỹ trong việc phát triển và ứng dụng cơng nghệ nano” và “Đi đầu của Mỹ trong năng lực sản xuất và cạnh tranh cơng nghiệp do cĩ đầu tư ổn định, thích hợp và được điều phối cho các nghiên cứu dài hạn về khoa học và kỹ thuật cơng nghệ nano”. Chúng ta đang nhìn thấy cơng nghệ nano ngày một đang trở thành mục tiêu theo đuổi tồn cầu và đang phát triển mạnh mẽ. Sự dẫn đầu của Mỹ trong R&D cơng nghệ nano đã làm tăng đầu tư cho lĩnh vực này trên khắp thế giới, thơi thúc thực hiện hàng loạt chương trình nghiên cứu và các sáng kiến quốc gia mới của thế giới. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương, một khu vực cĩ sự phát triển kinh tế nhanh, với sự nhiệt tình và năng động so với Mỹ, với sự đa dạng về văn hĩa và truyền thống so với EU, chúng ta phải bắt đầu hợp tác làm việc với nhau theo phương thức phối hợp và liên kết chặt chẽ hơn. Chúng ta phải trau dồi kiến thức nghiên cứu đa ngành một cách đúng đắn và phải xây dựng sự lãnh đạo tồn cầu về phát triển KH&CN nano thơng qua sự phối hợp và hợp tác của khu vực một cách chiến lược hơn. Chúng ta hy vọng rằng Hội nghị Diễn đàn Thượng đỉnh về nano của châu Á (ANFoS2004) sẽ đưa tất cả chúng ta đến một tương lai tốt đẹp hơn cho khu vực. Biên soạn: TS. Phùng Minh Lai CN. Phùng Anh Tiến 24
- Tài liệu tham khảo 1. Weekly Report, Commentary and Analysis on Nanotechnology Activities inside Asia Pacific Area written by Lerwen Liu, Ph.D., a nanotech watcher and consultant. www.nanoworld.jp 2. Korea National Nanotechnology Initiative, 5/2004 3. Taiwan National Nanotechnology Initiative and Infrastructure Summary (5/ 2004) 4. India National Science and Technology Initiative (5/2004) 5. Nanotechnology in Singapore, Asia Pacific Nanotech Weekly, Vol.1, Singapore (2003) 6. Current Status of Nanotech in Thailand, Asia Pacific Nanotech Weekly, 2003- 2004. 7. Australian Nanotechnology Funding and Strategy, . Nano is moving to the Center of Excellence in Australia. Asia Pacific Nanotech Weekly, Vol.1-2, #Australia (2003-2004). 8. The European Nanotechnology Gateway : Nanoforum, Asia Pacific Nanotech Weekly, Vol.1, #Europe (2003). 9. Status of Nanotech Industry in China. Leading Nanotech Research Center in China. Hong Kong Business Entering Nanospace. Asia Pacific Nanotech Weekly, Vol.1-2, #China (2003-2004). 10. Japan Nanotech Reaching the Highest Political and Industrial, 5/ 2004. Japan Government Launched nanotech Business Strategy. Asia Pacific Nanotech Weekly, Vol.1-2, #Japan (2003-2004). 11. Malaysia Nanotechnology Part 1, Part 2, Part 3. Asia Pacific Nanotech Weekly, Vol.1-2, #Malaysia (2003-2004). 12. Taiwan National Nanotechnology Initiative and Infrastructure. Taiwan ITRI Gaining Speed in Nanotechnology Industrialization. Asia Pacific Nanotech Weekly, Vol.1-2, #Taiwan (2003-2004). 13. Trends in Nanotechnology Market and Start-Ups. Asia Pacific Nanotech Weekly, Vol.1, #World (2003). . 14. . Tech Monitor, 2002. MRS, No 8/2004 15. Nanotech Market, Tech Monitor, 2003, No 3. 16. U.S. News & World Report, 12/2003 17. Nanotechnology and Nano – economy, 18. 19. www.saigontimes.com.vn/tbktsg/ detail.asp?muc=11&Sobao=717&SoTT=26 - 63k 20. 25