Bài giảng Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - Bùi Văn Hùng

pdf 78 trang huongle 2321
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - Bùi Văn Hùng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_truyen_thong_chong_giac_ngoai_xam_cua_dan_toc_viet.pdf

Nội dung text: Bài giảng Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - Bùi Văn Hùng

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT F 7 G TRUYỀN THỐNG CHỐNG GIẶC NGOẠI XÂM CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM ThS. Bùi Văn Hùng MỤC LỤC
  2. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 2 – MỤC LỤC MỞ ĐẦU 5 1. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 5 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ VÀ NHỮNG TÀI LIỆU CẦN NGHIÊN CỨU 6 Những tài liệu quan trọng cần nghiên cứu là: 8 CHƯƠNG I 9 MỘT SỐ CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG NGOẠI XÂM TIÊU BIỂU TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI CỔ TRUNG ĐẠI 9 1.CÁC CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG TẦN, TRIỆU 9 1.1. CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG TẦN 9 1.1.1. Đế chế Tần và sự bành trướng xuống Bách Việt 9 1.1.2. Cuộc kháng chiến trường kỳ của Văn Lang – Aâu Lạc 9 1.2. CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG TRIỆU ĐÀ XÂM LƯỢC 10 1.2.1. Công cuộc chuẩn bị phòng thủ đất nước 10 1.2.2. Kháng chiến chống xâm lược Triệu Đà và thất bại của An Dương Vương11 2. NHỮNG CUỘC ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP LIÊN TỤC TRONG HƠN NGÀN NĂM BẮC THUỘC 12 2.1. KHỞI NGHĨA HAI BÀ TRƯNG 12 2.1.1. Sự thống trị của phong kiến phương Bắc 12 2.1.2. Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa giành độc lập dân tộc (40 - 43) 13 2.1.3. Hai Bà Trưng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống xâm lược Đông Hán 14 2.2. NHỮNG CUỘC KHỞI NGHĨA LỚN THỜI KỲ BẮC THUỘC LẦN THỨ HAI 15 2.2.1. Từ sau Trưng Vương đến trước Lý Nam Đế (43-542), Khởi nghĩa Bà Triệu 15 2.2.2. Cuộc khởi nghĩa Lý Bí 16 2.3. NHỮNG CUỘC KHỞI NGHĨA LỚN THỜI KỲ BẮC THUỘC LẦN THỨ III VÀ CÔNG CUỘC KHÔI PHỤC QUYỀN TỰ CHỦ DÂN TỘC ĐẦU THẾ KỶ X 18 2.3.1. Aùch thống trị của Tùy - Đường 18 2.3.2. Khởi nghĩa Lý Tự Tiên và Đinh Kiến (687) 19 2.3.3. Khởi nghĩa Mai Thúc Loan (722) 19 2.3.4. Khởi nghĩa Phùng Hưng (766 - 791) 20 2.3.5. Khởi nghĩa Dương Thanh (819 - 820) 20 2.3.6. Công cuộc khôi phục quyền tự chủ dân tộc đầu thế kỷ X 20 3. NHỮNG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG NGOẠI XÂM CỦA DÂN TỘC TỪ THẾ KỶ X ĐẾN THẾ KỶ XVIII 23 3.1. CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN XÂM LƯỢC TỐNG LẦN I (981) .23 3.1.1. Nền tự chủ của dân tộc dưới thời Ngô Quyền và Đinh Tiên Hoàng 23 ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  3. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 3 – 3.1.2. Cuộc kháng chiến của quân dân Đại Cồ Việt dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn 24 3.2. KHÁNG CHIẾN CHỐNG TỐNG LẦN 2 (1075 – 1077) 25 3.2.1. Nhà Lý xây dựng đất nước và chuẩn bị kháng chiến 25 3.2.2. Triều Tống tiếp tục mưu đồ bành trướng 28 3.2.3. Phá tan cứ điểm xâm lược Ung Châu bẻ gãy từ đầu thế chủ động của Tống 29 3.2.4. Dựng phòng tuyến phá giặc 30 3.2.5. Đập tan 30 vạn quân xâm lược Tống 33 3.3. KHÁNG CHIẾN CHỐNG NGUYÊN – MÔNG 38 3.3.1. Đại Việt thế kỷ XIII 38 3.3.2. Sự hình thành và phát triển của đế chế Mông Cổ 40 3.3.3. Kháng chiến chống xâm lược Mông Cổ lần I (1258) 41 3.3.4. Kháng chiến lần hai (1285) 45 3.3.5. Kháng chiến lần thứ ba (1288) 56 3.4. KHÁNG CHIẾN CHỐNG MINH 60 3.4.1. Cuộc xâm lược của nhà Minh và thất bại của nhà Hồ 60 3.4.2. Phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc từ năm 1404 đến năm 1417, cuộc khởi nghĩa Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng 62 3.4.3. Khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 1427) 65 3.5. CÁC CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG XIÊM, THANH 74 3.5.1. Kháng chiến chống Xiêm 74 3.5.2. Kháng chiến chống Thanh 75 CHƯƠNG II 79 TÁC DỤNG CỦA NHỮNG NHÂN TỐ LỚN 79 TRONG CÁC CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG NGOẠI XÂM 79 1. TÁC DỤNG CỦA TINH THẦN YÊU NƯỚC 79 1.1. HOÀN CẢNH THIÊN NHIÊN VÀ LỊCH SỬ ĐÃ RÈN ĐÚC NÊN TRUYỀN THỐNG KIÊN CƯỜNG VÀ BƯỚC ĐẦU XÂY DỰNG Ý THỨC QUỐC GIA DÂN TỘC 79 1.1.1. Hoàn cảnh thiên nhiên 79 1.1.2. Hoàn cảnh lịch sử 80 1.2. TÁC DỤNG CỦA TINH THẦN YÊU NƯỚC TRONG THỜI KỲ BẮC THUỘC: BẢO TỒN NÒI GIỐNG VÀ GIÀNH LẠI ĐỘC LẬP DÂN TỘC 81 1.3. TINH THẦN YÊU NƯỚC MẠNH MẼ ĐÃ THÚC ĐẨY NHÂN DÂN TA ĐẤU TRANH GIỮ VỮNG NỀN ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ LẬP NÊN NHỮNG CHIẾN CÔNG HIỂN HÁCH TỪ THẾ KỶ X ĐẾN THẾ KỶ XVIII. 83 1.4. TINH THẦN YÊU NƯỚC CỦA QUÝ TỘC PHONG KIẾN 85 2. TÁC DỤNG CỦA KHỐI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN 86 3. VỊ TRÍ CỦA NHỮNG YẾU TỐ KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ TRONG CÁC CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG NGOẠI XÂM THỜI CỔ TRUNG ĐẠI VIỆT NAM 88 3.1. YẾU TỐ KINH TẾ: 88 ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  4. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 4 – 3.2. YẾU TỐ AN NINH CHÍNH TRỊ 89 4. NGHỆ THUẬT CHỈ ĐẠO CHIẾN TRANH 90 4.1. NGHỆ THUẬT CHIẾN LƯỢC 91 4.1.1. Tương quan lực lượng 91 4.1.2. Xét đến đường lối chiến tranh chung 92 4.1.3. Tư tưởng chiến lược 92 4.1.4. Phương châm chiến lược 92 4.1.5. Xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh 94 4.1.6. Xây dựng hậu phương vững mạnh 96 4.1.7.Chọn phương hướng tác chiến chiến lược chính xác 96 4.1.8. Liên tục tiến công quân giặc 97 4.1.9. Đấu tranh quân sự kết hợp với những biện pháp khác 98 4.2. NGHỆ THUẬT CHỈ ĐẠO CHIẾN DỊCH , CHIẾN THUẬT 99 KẾT LUẬN 102 ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  5. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 5 – MỞ ĐẦU 1. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm là một bộ phận rất quan trọng trong lịch sử cấu thành nước ta. Chống ngoại xâm để xây dựng một quốc gia độc lập, dân tộc độc lập. Qua hàng trăm cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ và 20 cuộc kháng chiến lớn, ta thấy, lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm đã để lại một truyền thống quý báu anh hùng của dân tộc. Nghiên cứu vấn đề này một cách toàn diện sẽ góp phần làm sáng tỏ nguồn gốc sâu xa của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, sức mạnh Việt Nam, phát huy truyền thống anh hùng và phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam trong thời đại ngày nay. Truyền thống chống ngoại xâm là một vốn quý vô giá của dân tộc, là nguồn động viên tinh thần lớn lao, có tác dụng duy trì tư tưởng chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu đối với nhân dân ta. Việc đánh giặc cứu nước là rất quan trọng nhưng cũng rất bình thường đối với mọi người dân. Nhân dân ta nhận thức sâu sắc rằng: nước mất thì nhà tan, do đó, muốn bảo vệ quyền lợi cá nhân thì không có cách nào khác là phải đấu tranh bảo vệ quyền lợi của dân tộc. Đấu tranh vì quyền lợi cá nhân nhưng không chỉ vì quyền lợi cá nhân mà còn vì nghĩa cả của dân tộc. Trong các cuộc đấu tranh ấy, dù có gian khổ đến đâu nhưng cuối cùng vẫn thành công là nguồn cổ vũ lớn lao khiến nhân dân ta tin tưởng vào thắng lợi của cuộc đấu tranh dân tộc trước mắt. Trong các cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tinh thần dựng nước và giữ nước của nhân dân ta được phát huy cao độ thành sức mạnh vật chất kỳ diệu chiến thắng mọi kẻ thù dù chúng hung bạo và mạnh mẽ đến đâu. Nhân dân ta đang phấn khởi, tự hào bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội hội công bằng, dân chủ, văn minh. Kỷ nguyên này là giai đoạn phát triển cao nhất, là sự kế tục trong thời đại mới lịch sử hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Sự kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc là một quy luật lịch sử. Chính truyền thống ấy, được phát huy đến một trình độ mới, dưới ánh sáng đường lối Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta, là một nhân tố hàng đầu đem lại cho nhân dân ta sức mạnh kỳ diệu trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc. ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  6. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 6 – Vì vậy, tìm hiểu truyền thống, ôn lại quá khứ có thể giúp ta rút ra những bài học kinh nghiệm, không những thế, còn có thể giúp ta đánh giá đúng hơn những thắng lợi vĩ đại ngày nay. Và từ những đỉnh cao của thắng lợi ngày nay mà nhìn lại quá khứ thì càng có thể thấy rõ giá trị lớn lao truyền thống tốt đẹp và lâu đời của dân tộc, thấy rõ hơn những quy luật giành thắng lợi của tổ tiên ta trong cuộc đấu tranh chống những thế lực phong kiến phương Bắc xâm lược. Làm được như vậy, chúng ta càng tăng thêm lòng tự hào dân tộc và nâng cao niềm tin tưởng ở tương lai, phát hiện những khả năng mới của nhân dân ta trong kỷ nguyên mới. Nghiên cứu vấn đề này cũng nhằm mục đích rút ra những bài học quý giá về nghệ thuật chiến lược, chiến dịch, chiến thuật mà cha ông ta đã tích luỹ qua ngàn đời. Chính những tri thức quân sự ấy đã góp phần xây dựng đường lối quân sự của Đảng ta. Vấn đề này cũng tác động sâu sắc đến nhiều mặt của lịch sử nước ta. Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, phần lớn thời gian dân tộc ta phải đương đầu với giặc ngoại xâm. Ngay từ thời đại đồng thau, khi phân hoá giai cấp chưa rõ rệt nhưng nhà nước đã ra đời, điều này được giải thích do yêu cầu chống ngoại xâm. Mặt khác, khi nền kinh tế còn chưa phát triển thì quốc gia thống nhất và chính quyền tập trung đã được xây dựng từ rất sớm. Vấn đề hình thành dân tộc Việt Nam cũng xuất phát từ yêu cầu tự vệ chống ngoại xâm. Tương quan giữa các giai cấp trong xã hội trong đó sự hoà hợp giai cấp luôn hiện rõ, chi phối khá nhiều đến sự phát triển của lịch sử dân tộc. Chính nó tạo ra yếu tố dân chủ rất sớm, là ý thức tự giác của quần chúng về sức mạnh của dân tộc. Phong tục tập quán với truyền thống tôn trọng những vị anh hùng dân tộc, nhiều làng xã tôn thờ họ là thành hoàng, hay tôn vinh là Thánh. Văn học nghệ thuật với những áng văn thơ hay nhất, bất hủ là những thiên cổ hùng văn ca ngợi truyền thống anh hùng của dân tộc. Nền nghệ thuật kiến trúc thường không khoa trương, không đồ sộ, thể hiện tâm lý tự bảo vệ, hạn chế giao tiếp với bên ngoài 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ VÀ NHỮNG TÀI LIỆU CẦN NGHIÊN CỨU Sử sách thời phong kiến chỉ chú ý đến tình hình chính sự và việc làm của vua quan, còn của nhân dân thì rất ít ỏi. Tuy nhiên, lịch sử đấu tranh xây dựng đất nước là chủ đạo, nên quan niệm đó được khắc phục một cách tự nhiên. Các sử gia, chiến lược gia nước ta thường rất tự hào về truyền thống đánh giặc của dân tộc, họ chú trọng nghiên cứu, ghi chép những lời nói, việc làm của những người liên quan đến lịch sử giữ nước của dân tộc. Nhà chính trị, quân sự đại tài Trần Quốc Tuấn đã phân tích lịch sử thời Đinh, Tiền Lê để tìm ra nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Tống lần I (981) và cuộc kháng chiến chống Mông Cổ xâm lược lần I (1258) là khối đoàn kết. ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  7. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 7 – Nguyễn Trãi cho rằng, sở dĩ ta thắng giặc là vì giữa nước ta và phương Bắc có phong tục tập quán riêng, văn hoá riêng, lãnh thổ riêng và không thiếu tinh thần yêu nước. Nguyễn Huệ nêu cao truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc từ thời Bắc thuộc và cho rằng, nhân tố quan trọng quyết định thắng lợi chính là quyết tâm lớn, thống nhất trên dưới đánh giặc. Tự Đức cũng nghiên cứu rất kỹ về lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc nhưng không thừa nhận vai trò của quần chúng nhân dân hay những bài thơ phú của ông về cuộc kháng chiến của nhà Trần chưa đầy đủ. Phan Bội Châu (Việt Nam Quốc sử khảo) đã phân biệt hai loại hình chiến tranh là giữ nước và giải phóng dân tộc, đều có vai trò của quần chúng nhân dân. Họ là hàng vạn những anh hùng vô danh đã ngã xuống bên cạnh những anh hùng hữu danh. Tuy nhiên, ông còn có những hạn chế khi đánh giá về thất bại của Hai Bà Trưng là do thiếu đoàn kết và ngoại giao khổ nhục. Trong thời kỳ thuộc Pháp, các nhà nghiên cứu lịch sử dân tộc tập trung trong tạp chí Chi Tân. Họ viết nhiều bài báo nhằm nhắc nhở truyền thống anh hùng của dân tộc. Hoàng Xuân Hãn viết 2 cuốn sách Lý Thường Kiệt và La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp một cách công phu trên cơ sở thư tịch cổ Trung Quốc và Việt Nam. Thông qua đó, ông đã so sánh, đối chiếu cẩn thận và nêu lên những kinh nghiệm nghiên cứu về gia phả, thần tích, bi ký, truyền thuyết từ các đình làng. Tuy nhiên, ông lại không phát hiện ra vai trò to lớn của trận quyết chiến chiến lược trên sông Như Nguyệt năm 1077. Sau cách mạng tháng Tám, Hoa Bằng và Hoàng Thúc Châu xuất bản cuốn Anh hùng Trần Hưng Đạo trên cơ sở tư liệu gốc với thái độ nghiêm túc. Ở miền Nam, chính quyền Sài Gòn cũng nêu chiêu bài dân tộc, nên cũng đặt vấn đề nghiên cứu lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm. Mục đích chính của họ là hô hào Bắc tiến mà không thực tâm nghiên cứu bản chất của vấn đề. Do đó, thành tựu chính đạt được chỉ là dựng vài tượng đài như Trần Hưng Đạo, Quang Trung, Hai Bà Trưng hay vài cuốn sách sơ sài như cuốn Quân Sử, Tạ Chí Đại Đường viết cuốn Lịch sử nội chiến ở Việt Nam chỉ dành cho kháng chiến chống Xiêm 10 trang, chống Thanh 19 trang. Ở miền Bắc và sau năm 1975, việc nghiên cứu vấn đề này được đặt ra hết sức nghiêm túc. Không chỉ vì mục đích khoa học mà còn vì sự nghiệp cứu nước và giải phóng dân tộc cũng như sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay. Trong Báo cáo chính trị của Hồ Chủ Tịch đọc tại Đại hội II của Đảng (2/1951) đã nhắc đến lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, ca ngợi các anh hùng dân tộc và đề cao tinh thần yêu nước. Trường Chinh trong cuốn Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi cũng đề cập ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  8. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 8 – đến các cuộc khởi nghĩa và kháng chiến giữ nước thời cổ trung đại của dân tộc để nêu cao truyền thống quân sự của dân tộc. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng ta chủ trương phát huy truyền thống yêu nước và coi đó là nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh vật chất của dân tộc để tiến hành kháng chiến. Nhiều bài viết của Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Hoàng Minh Thảo và các nhà khoa học xã hội, nhân văn đã tổng kết lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, giúp cho việc nghiên cứu vấn đề được thuận lợi hơn. Những tài liệu quan trọng cần nghiên cứu là: 1. Đại Việt sử ký toàn thư – NXB KHXH, Hà Nội, 1998. 2. Khâm Định Việt sử thông giám cương mục - NXB KHXH, Hà Nội, 1995. 3. Phan Huy Chú: Lịch triều Hiến chương loại chí - NXB Sử học, Hà Nội, 1960. 4. Võ Nguyên Giáp: Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ tổ quốc - NXB Sự Thật, Hà Nội, 1979. 5. Hoàng Minh Thảo: Tìm hiểu tổ tiên ta đánh giặc - NXB QĐND, Hà Nội 1978. 6. Hồng Lam, Hồng Lĩnh (chủ biên): Những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam chống phong kiến Trung Quốc xâm lược - NXB KHXH, Hà Nội, 1984. 7. Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn: Khởi nghĩa Lam Sơn - NXB KHXH, Hà Nội, 1976. 8. Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm: Kháng chiến chống Nguyên – Mông, NXB KHXH, Hà Nội, 1978. ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  9. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 9 – CHƯƠNG I MỘT SỐ CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG NGOẠI XÂM TIÊU BIỂU TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI CỔ TRUNG ĐẠI 1.CÁC CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG TẦN, TRIỆU 1.1. CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG TẦN 1.1.1. Đế chế Tần và sự bành trướng xuống Bách Việt Sau hàng trăm năm chiến tranh tàn khốc trong thời Xuân Thu – Chiến Quốc, Trung Quốc bước vào giai đoạn thống nhất dưới thời Tần Thủy Hoàng (221 trước Công nguyên). Bằng chiến tranh, Tần Thủy Hoàng đã thống nhất Trung Quốc để xây dựng nhà nước trung ương tập quyền chuyên chế và nô dịch các dân tộc khác. Đó chính là sự kế thừa tư tưởng xâm lược, bành trướng, mở rộng lãnh thổ của quý tộc Hoa Hạ. Ngay sau khi thống nhất Trung Quốc bằng quân sự, pháp luật, Tần Thuỷ Hoàng đã thực hiện những biện pháp quan trọng về quân sự. Ở phía Bắc, để ngăn chặn sự xâm nhập của Hung Nô, Tần Thủy Hoàng sai đắp Vạn Lý Trường Thành. Ở phía Nam, để thực hiện kế hoạch bành trướng, Tần Thủy Hoàng sai uý (chức vụ cao cấp trong quân đội) Đồ Thư mang 50 vạn quân tiến đánh Bách Việt. Khoảng năm 218 TCN, Đồ Thư chia quân làm 5 đạo tiến vào đất Bách Việt. Với ưu thế về quân sự, quân Tần đã nhanh chóng chiếm được đất đai của các nước Đông Việt và Mân Việt, đặt làm quận Phúc Kiến (Quảng Đông). Sau đó quân Tần vượt qua Ngũ Lĩnh, từ Trường Sa tiến vào chiếm Nam Việt và đặt thành quận Nam Hải (cũng thuộc Quảng Đông). Uý Đồ Thư cùng những đạo quân khác theo sông Tương (Ngũ Lĩnh – Hồ Động Đình) tiến vào sông Ly (Việt Giang). Quân Tần đánh bại quân Tây Âu, giết được thủ lĩnh của họ là Dịch Hu Tống và đặt thêm 2 quận là Quế Lâm, Tượng (đều thuộc Quảng Tây và một phần Quý Châu). 1.1.2. Cuộc kháng chiến trường kỳ của Văn Lang – Aâu Lạc Sau khi chiếm được hầu hết đất đai Bách Việt, khoảng năm 214 TCN, quân Tần tiến vào vùng đất nước ta. Một thủ lĩnh Tây Âu khác là Thục Phán (sau này là An Dương Vương) đã cùng các thủ lĩnh Văn Lang và nhân dân Âu Lạc quyết tâm chiến đấu chống xâm lược Tần. ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  10. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 10 – Chiến sự diễn ra chủ yếu ở vùng núi rừng Việt Bắc và miền trung du Đông Bắc (bao gồm cả phần đất phía Nam 2 tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây thuộc Trung Quốc ngày nay). Do quân Tần quá mạnh, người Việt đã rút vào rừng và tổ chức một cuộc chiến tranh du kích lâu dài, gian khổ. Sử cũ mô tả cuộc kháng chiến của quân dân Âu Lạc thường lợi dụng địa hình rừng núi, đêm đêm tấn công vào các doanh trại dã chiến của quân Tần. Nhờ lối đánh gan dạ và mưu trí đó, quân Tần bị tiêu hao, ngày càng mệt mỏi, chán nản, ốm đau, thiếu lương thảo và bị đẩy vào nguy cơ bị tiêu diệt. Thắng lợi bước đầu của hình thức chiến tranh nhân dân đã cổ vũ tinh thần đấu tranh của nhân dân ta. Từ quy mô đánh nhỏ, đánh ban đêm của các lực lượng nhỏ, phân tán, những hình thức đánh lớn, đánh phối hợp giữa nhiều lực lượng từ chính quy đến tự vũ trang đã cho phép quân và dân Aâu lạc mở cuộc tổng phản công chiến lược quét sạch kẻ thù ra khỏi đất nước. Thời cơ đã đến, năm 209 TCN, Tần Thuỷ Hoàng chết, khởi nghĩa nông dân bùng nổ, các phe phái phong kiến tranh giành nhau kịch liệt. Quân và dân Âu Lạc mở một cuộc tổng phản công đại phá quân Tần, đuổi chúng về nước. Quân Tần “thây phơi máu chảy hàng mấy chục vạn người” trong đó có cả tướng Đồ Thư. Cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc đầu tiên của tổ tiên ta mà sử sách còn ghi lại được đã hoàn toàn thắng lợi, mở đầu trang sử chống xâm lăng của dân tộc. 1.2. CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG TRIỆU ĐÀ XÂM LƯỢC 1.2.1. Công cuộc chuẩn bị phòng thủ đất nước Sau chiến công chói lọi chống Tần, Thục Phán (sử Trung Quốc gọi là bộ chúa Ai Lao) xưng là An Dương Vương đặt quốc hiệu là Âu Lạc thay cho Văn Lang. Tên nước thể hiện rõ ràng sự hợp nhất giữa hai thành phần tộc Việt là Âu và Lạc trong một chỉnh thể quốc gia rộng mở cao hơn Văn Lang. Cùng với việc xây dựng một kết cấu chính trị – xã hội hoàn chỉnh hơn (triều dình gồm 2 ban: ban văn – đứng đầu là Nồi Hầu, ban võ - đứng đầu là Cao Lỗ), Thục Phán An Dương Vương đã dời đô về Cổ Loa (ngã ba sông Đuống - sông Hồng). Tại đây, ông đã tiến hành xây dựng toà thành mang ý nghĩa phòng thủ quân sự sâu sắc. Thành Cổ Loa gồm có 3 vòng uốn lượn theo gò, theo bờ sông, bờ đầm nối nhau và khép kín. Thành Ngoại dài hơn 8 km, thành Trung dài hơn 6,5km, thành Nội dài gần 2km. Độ cao của luỹ khoảng từ 8 đến 12m, bề rộng mặt luỹ từ 6 đến 12m và chân luỹ từ 20 đến 30m. Dưới chân luỹ là hào nước rộng khoảng từ 8 đến 12m nối thông với nhau và chảy ra sông Hoàng. Bên cạnh đó, các di tích như Đầm cả, Đầm Nềm, Vườn Thuyền ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  11. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 11 – vừa là chướng ngại thiên nhiên lợi hại, vừa là những căn cứ thuỷ binh quan trọng tạo cho Cổ Loa vừa là căn cứ bộ binh đồng thời là căn cứ thuỷ binh. Theo sử cũ, quân đội Âu Lạc có khoảng hơn một vạn người, bao gồm cả thuỷ và bộ binh. Trang bị của quân lính Âu Lạc gồm có các loại vũ khí bằng đồng thau như rìu, giáo, dao găm và nhất là nỏ liên châu (nỏ liễu hay dân gian còn gọi là nỏ thần). Đây là loại vũ khí lợi hại và có thể là hiện đại nhất thời bấy giờ của An Dương Vương. Tương truyền, người sáng chế ra nó là người thần Cao Lỗ mà lẫy nỏ làm từ móng của thần Rùa Vàng (Kim Qui). Cánh nỏ phải dài và lớn, có thể giương nỏ bằng chân, báng tì ngắm to, soi nhiều hàng rãnh để có thể bắn đi cùng một lúc nhiều mũi tên. Đầu mũi tên bằng đồng, có thể tẩm thuốc độc để tăng thêm hiệu quả sát thương quân địch (phát hiện khảo cổ về kho mũi tên đồng ở chân thành Cổ Loa và rải rác nhiều nơi quanh thành). Ngoài ra, rất có thể quân đội Âu Lạc cũng được trang bị ngựa chiến (thời Hùng Vương đã có truyền thuyết Thánh Gióng). Với tổ chức, trang bị và hệ thống phòng thủ như vậy, An Dương Vương đã đáp ứng được nhu cầu bảo vệ nền độc lập dân tộc trước làn sóng xâm lược bành trướng từ phương Bắc tới. 1.2.2. Kháng chiến chống xâm lược Triệu Đà và thất bại của An Dương Vương Sau khi chiếm được Bách Việt và lập ra bốn quận, nhà Tần đã thực hiện chính sách “di dân khẩn thực” âm mưu đồng hoá người Việt. Cai trị quận Nam Hải là uý Nhâm Ngao đóng dinh ở Phiên Ngung (Quảng Châu ngày nay), nhân lúc nhà Tần suy yếu đã cùng với uý Triệu Đà âm mưu xây dựng cơ sở cát cứ. Triệu Đà vốn là người Chân Định nước Triệu (nay là huyện Chính Định tỉnh Hà Bắc của Trung Quốc). Khi Đồ Thư đang bị sa lầy ở Âu Lạc, Tần Thuỷ Hoàng đã cử Triệu Đà mang quân tăng viện. Triệu Đà đã cùng với Nhâm Ngao đem quân thuỷ bộ xâm lấn Âu Lạc nhưng bị An Dương Vương đánh bại ở vùng sông Lục Đầu và núi Vũ Ninh (theo Lĩnh Nam chích quái và Đại Việt sử ký toàn thư): “Năm 210 TCN, Nhâm Ngao và Triệu Đà đem quân sang xâm lấn. Đà đóng quân ở núi Tiên Du, Bắc Giang đánh nhau với vua (An Dương Vương). Vua đem nỏ thần ra bắn, Đà thua chạy Đà biết vua có nỏ thần, không thể địch nổi, bèn lui giữ núi Vũ Ninh, sai sứ đến giảng hoà”1 Sau khi Nhâm Ngao chết (khoảng 207 TCN), Triệu Đà thay thế cai trị quận Nam Hải, tiếp tục thực hiện mưu đồ cát cứ. Năm 207 TCN, Triệu Đà đánh chiếm Quế Lâm và Tượng quận thành lập nước Nam Việt, tự xưng là Nam Việt Vũ Vương, đóng đô ở Phiên Ngung. Triệu Đà hoà nhập vào phong tục người Việt (tổ tiên của người Choang), lấy vợ người Việt, cũng búi tó, ngồi xổm và tự xưng là “Man Di đại trưởng lão”. Nước Nam Việt tồn tại 96 năm (207 1 Đại Việt sử ký toàn thư, NXB. KHXH. Hà Nội 1998, TI. trang 138. ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  12. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 12 – TCN – 111 TCN) trải 5 đời vua (Triệu Đà sống 76 năm trên đất Việt đến năm 137 TCN mới chết, truyền ngôi cho cháu nội là Triệu Hồ – tức Triệu Văn Vương). Nước Nam Việt ban đầu, phía Đông Bắc giáp Mân Việt, phía Tây Nam giáp với Âu Lạc. Sẵn có mưu đồ cát cứ, Triệu Đà quyết tâm chiếm đất đai Âu Lạc để tăng thêm uy thế. Sau khi đánh bại cuộc tấn công của nhà Tây Hán (180 TCN), Triệu Đà càng đẩy mạnh hơn nữa việc xâm lược Âu Lạc. Quá trình xâm lược của Triệu Đà không được sử sách chép lại cụ thể. Nhưng dựa vào huyền thoại và sử cũ, có thể tóm lược như sau: Trong quá trình xây dựng cơ sở cát cứ, Triệu Đà một mặt dùng quân đội lấn chiếm (210 TCN là một ví dụ), mặt khác dùng thủ đoạn mua chuộc, dụ dỗ, chia rẽ các tù trưởng người Việt để lấn dần tới miền Bình Giang và núi Vũ Ninh (vùng sông Lục Đầu và núi Châu Sơn thuộc Bắc Ninh). Trong giai đoạn từ 210 TCN đến 180 TCN, Triệu Đà đã ít nhất một lần bị An Dương Vương đánh bại tại khu vực tam giác Cổ Loa – Tiên Du – Bắc Ninh. Triệu Đà đã khôn ngoan khi kéo quân về đóng ở núi Vũ Ninh lấy Bình Giang làm biên giới (nay là các sông Lục Nam, Thương, Cầu, Lục Đầu) tức là án ngữ cửa ngõ vào vùng châu thổ Âu Lạc. Không thắng được Âu Lạc bằng quân sự, Triệu Đà chuyển sang dùng mưu mẹo ly gián. Một mặt, Triệu Đà xin giảng hoà, mặt khác xin kết làm thông gia với An Dương Vương (truyền thuyết Trọng Thuỷ – Mỵ Châu) vừa để dò la nội tình, vừa để ly gián vua tôi Âu Lạc. Kết quả, kế sách gian hiểm của Triệu Đà thành công, An Dương Vương thất bại, Âu Lạc bị Triệu Đà thống trị vào khoảng năm 179 TCN. Cơ đồ Âu Lạc bị chìm đắm suốt hàng ngàn năm. 2. NHỮNG CUỘC ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP LIÊN TỤC TRONG HƠN NGÀN NĂM BẮC THUỘC 2.1. KHỞI NGHĨA HAI BÀ TRƯNG 2.1.1. Sự thống trị của phong kiến phương Bắc Sau khi chiếm được nước ta, Triệu Đà thi hành chính sách thống trị gián tiếp. Đất đai Âu Lạc cũ bị chia làm 2 quận là Giao Chỉ (Bắc bộ) và Cửu Chân (Thanh Hoá, Nghệ An và Hà Tĩnh). Đứng đầu mỗi quận là một viên Quan sứ đại diện cho nhà vua Nam Việt. Tổ chức chính quyền vẫn duy trì chế độ lạc tướng cổ truyền của người Việt. Những chức vị cũ như các vương (Tây Vu Vương), Lạc hầu, Lạc tướng và phong tục tập quán cũ vẫn được duy trì. ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  13. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 13 – Nhà Hán thay thế nhà Tần thống trị Trung Quốc, tiếp tục thực hiện tư tưởng xâm lược bành trướng. Năm 135 TCN, Hán Vũ Đế (141 TCN – 87 TCN) sai Nghiêm Trợ đi sứ Nam Việt phủ dụ Triệu Hồ (Văn vương) đầu hàng, làm phiên thuộc cho nhà Hán. Năm 113 TCN, sứ giả nhà Hán là An quốc Thiệu Quý sang Nam Việt phủ dụ Triệu Hưng (Ai vương) thần phục. Năm 112 TCN, Tể tướng Nam Việt là Lữ Gia đánh bại 200 dũng sĩ nhà Hán, giết chết Triệu Hưng và Thái Hậu Cù Thị lập Triệu Kiến Đức lên làm vua. Cuối năm 111 TCN, Hán Vũ Đế sai Lộ Bác Đức dẫn 10 vạn quân tấn công và chiếm được Nam Việt. Nhân cơ hội này, Tây Vu Vương (thủ lĩnh Tây Vu ở phía Bắc châu thổ Bắc bộ, thuộc dòng dõi An Dương Vương) đã lãnh đạo quý tộc và nhân dân Âu Lạc nổi dậy giành độc lập dân tộc. Cuộc khởi nghĩa nhanh chóng bị thất bại, đất đai Âu Lạc và toàn bộ Nam Việt bị vua quan nhà Triệu dâng cho nhà Hán. Nhà Hán chia Nam Việt làm 9 quận: Đạm Nhĩ, Chu Nhai (đảo Hải Nam), Nam Hải, Hợp Phố (Quảng Đông), Uất Lâm, Thương Ngô (Quảng Tây), Giao Chỉ (Bắc bộ), Cửu Chân (Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh), Nhật Nam (từ Quảng Bình đến Quảng Nam). Năm 106 TCN, nhà Hán đặt châu Giao Chỉ gồm 7 quận ở đất liền mà trị sở đặt ở Mê Linh. Đứng đầu châu là thứ sử, quận là thái thú và đô uý. Dưới quận là huyện nhưng phần lớn vẫn do các Lạc hầu, Lạc tướng cai trị như cũ. Suốt thời cai trị của nhà Tây Hán, nhân dân Âu Lạc vẫn không ngừng nổi dậy đấu tranh. Sử cũ nhà Tây Hán ghi “Quân sĩ miền Kinh Sở (Hồ Quảng) khổ vì Âu Lạc”. Vương Mãng cướp ngôi nhà Tây Hán (đóng đô ở Trường An thuộc Thiểm Tây) lập ra nhà Tân (8 - 23), nhiều quý tộc, địa chủ Hán tộc di cư xuống Giao châu. Việc này đã đẩy nhanh quá trình cướp bóc, cai trị và đồng hoá người Việt. Nhà Đông Hán khôi phục cơ nghiệp họ Lưu (đóng đô ở Lạc Dương thuộc Hà Nam) đã thu phục quan lại cai trị ở châu Giao. Năm 34, Tô Định thay Tích Quang làm thái thú quận Giao Chỉ (lúc này trị sở đặt tại Luy Lâu thuộc Bắc Ninh) tiếp tục thực hiện chính sách cướp bóc, nô dịch và đồng hoá người Việt nhưng ở mức độ thâm tệ hơn. Nhân dân Aâu Lạc không cam chịu, đã nhất tề nổi lên dưới ngọn cờ dân tộc của Hai Bà Trưng. 2.1.2. Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa giành độc lập dân tộc (40 - 43) Hai Bà Trưng (Trưng Trắc, Trưng Nhị) là con gái Lạc tướng Mê Linh (khoảng từ Ba Vì đến Tam Đảo, đất bản bộ cũ của các vua Hùng) và bà Dạ (tiếng Việt cổ chỉ một bà già được kính trọng), chắt ngoại vua Hùng. Hai Bà đã chọn cửa sông Hát trên đất Mê Linh làm nơi tụ nghĩa. Theo Hậu Hán thư, cuộc khởi nghĩa bùng nổ vào “mùa Xuân, tháng Hai, niên hiệu Kiến Vũ thứ 16” tức là khoảng tháng 3 năm 40. Đây là thời điểm Hội Xuân, mùa sinh hoạt cộng đồng ở các làng chạ cổ xưa của người Việt. ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  14. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 14 – Nhân dân Âu Lạc không phân biệt đẳng cấp, giới tính đều nô nức hưởng ứng. Những phụ nữ như Man Thiện, Diệu Tiên, Bát Nàn, Đào Kỳ, Lê Thị Hoa, Xuân Nương, Lê Chân, Thánh Thiên, Thiều Hoa, Liễu Giáp, Vĩnh Huy, Ả Dị, Ả Tắc và những nam giới như ông Đống, ông Nà, ông Cai, Chu Thước, Đỗ Năng Tế, Hoàng Đạo, Đông Bảng, Đô Chinh, Đô Dương hưởng ứng và đều được nhân dân ta suy tôn làm thần ở khoảng hơn 200 đình, đền phía Bắc để thờ phụng. Phong trào lan rộng khắp đất đai Nam Việt cũ. Từ Cổ Loa, quân thuỷ bộ của Hai Bà Trưng vượt sông Hoàng, sông Đuống, xuôi sông Dâu đánh chiếm Luy Lâu (thuộc Lũng Khê, Thuận Thành, Bắc Ninh) là châu trị và quận trị Giao Chỉ. Bọn quan lại thống trị nhà Hán tháo chạy về nước. Nhân dân các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Uất Lâm, Hợp Phố nổi dậy hưởng ứng. Như vậy, cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã diễn ra và thu được thắng lợi ở hầu khắp đất đai Nam Việt và Âu Lạc cũ. Nhân dân đã cùng suy tôn Trưng Trắc lên ngôi vua (Trưng vương). Hậu Hán thư chép: “ Đến năm (Kiến Vũ) thứ 16, người con gái ở Giao chỉ là Trưng Trắc và em gái là Trưng Nhị làm phản, đánh phá quận. Trưng Trắc là con gái Lạc tướng huyện Mê Linh, là vợ của Thi Sách người Chu Diên, rất hùng dũng. Thái thú Giao Chỉ là Tô Định, dùng pháp luật trói buộc, Trưng Trắc phẫn nộ, vì thế mà làm phản. Do vậy mà những người Man, người Lý ở Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng (giai ứng chi). Gồm chiếm được 65 thành (sửa là 56), tự lập làm vua. Thứ sử Giao Chỉ và các thái thú chỉ còn giữ được thân mình mà thôi”1. 2.1.3. Hai Bà Trưng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống xâm lược Đông Hán Sau khi lên làm vua và cai quản đất đai Âu lạc cũ (gồm 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân), Hai Bà Trưng đã tha thuế 2 năm liền cho nhân dân. Một mặt, Hai Bà Trưng tiến hành xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước, mặt khác tích cực chuẩn bị kháng chiến chống xâm lược Đông Hán. Trong thời gian từ năm 40 đến năm 42, nhà Đông Hán phải lo đối phó với các phong trào nông dân ở Trung Quốc nên không thể phát quân xâm lược nước ta. Tháng 4 năm 42, Hán Quang Vũ cử Mã Viện làm Phục ba tướng quân, thống soái quân đội gồm hơn một vạn tên sang đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Mã Viện chia quân làm hai đường thủy bộ, cùng tiến vào nước ta. Mùa xuân năm 43, Mã Viện tiến vào Long Biên, Tây Vu (Quế Võ, Tiên Sơn, Bắc Ninh). Hai Bà Trưng bố trí trận địa ở Lãng Bạc (gần Cổ Loa) chặn địch để bảo vệ cho Mê Linh. Nhưng do tương quan lực lượng chênh lệch, Hai Bà Trưng bị thất bại phải rút về Cấm Khê. Vào khoảng tháng 4, Mã Viện xua quân tiến công quyết liệt vào trận địa 1 Trích theo Hồng Nam và Hồng Lĩnh chủ biên, Những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam chống phong kiến Trung Quốc xâm lược, NXB KHXH, H. 1984, Tập I, tr 103. ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  15. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 15 – của Hai Bà Trưng. Hai Bà Trưng bị thất bại và hy sinh oanh liệt cùng với hàng ngàn nghĩa binh. Sau khi đàn áp được cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Mã Viện đã giết hại hơn 300 thủ lĩnh người Việt và đày một số người sang Linh Lăng (Hồ Nam). Mùa thu năm 44, Mã Viện mang quân về Trung Quốc, nước ta bước vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai. 2.2. NHỮNG CUỘC KHỞI NGHĨA LỚN THỜI KỲ BẮC THUỘC LẦN THỨ HAI 2.2.1. Từ sau Trưng Vương đến trước Lý Nam Đế (43-542), Khởi nghĩa Bà Triệu Sau cuộc đàn áp tàn bạo của Mã Viện, phong trào đấu tranh vũ trang của các dân tộc và nhân dân hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân tạm thời lắng xuống một thời gian. Nhà Hán thi hành chính sách thống trị trực tiếp nhưng vẫn không với tay được xuống tới làng xã của người Việt: “Viện tâu rằng luật Việt và luật Hán khác nhau tới hơn mười việc, nay xin làm sáng tỏ cựu chế đối với người Việt”2. Tuy nhiên, các phong trào đấu tranh của nhân dân Bách Việt vẫn liên tục diễn ra vào thế kỷ thứ II như: năm 100, nhân dân huyện Tượng Lâm, quận Nhật Nam nổi dậy đốt phá trị sở, nhà cửa của bọn quan lại đô hộ; năm 116, hàng ngàn người ở Hợp Phố nổi dậy đánh phá quận Thương Ngô; năm 137, nhân dân toàn quận Nhật Nam nổi dậy đánh phá huyện lỵ, Thứ sử châu Giao định đem hơn 2 vạn quân vào đàn áp, binh lính sợ đi xa đã nổi dậy làm binh biến; năm 138, nhân dân hai quận Nhật Nam, Cửu Chân lại nổi dậy khởi nghĩa; năm 144, hơn 1000 dân quận Nhật Nam nổi dậy liên kết với nhân dân quận Cửu Chân đánh phá các thành ấp của bọn quan lại người Hán; từ năm 157 đến 160, Chu Đạt lãnh đạo nhân dân huyện Cư Phong (quận Nhật Nam) nổi dậy khởi nghĩa; từ năm 178 đến 181, Lương Long lãnh đạo nhân dân Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam nổi dậy khởi nghĩa; năm 190, Khu Liên lãnh đạo nhân dân quận Tượng Lâm (Nhật Nam) nổi dậy khởi nghĩa lập ra nước Chiêm Thành. Nhìn chung, phong trào đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta tạm thời chìm lắng trong thế kỷ thứ nhất nhưng lại bùng lên mạnh mẽ trong thế kỷ thứ II. Mặc dù bị đàn áp nhưng đã thể hiện tinh thần đấu tranh liên tục của nhân dân ta, thúc đẩy nhân tố cố kết, tinh thần đoàn kết toàn dân chống lại ách đô hộ của phong kiến Hán tộc. Sang đến đầu thế kỷ thứ III, chính quyền thống nhất Trung Hoa suy yếu, quan lại người Hán cai trị nước ta thường hết sức gian ác và âm mưu cát cứ. Nhân dân ta liên tục nổi dậy chống lại chính quyền đô hộ. Năm 248, Bà Triệu (còn gọi là Nàng Trinh, Triệu 2 Hậu Hán thư, q54, dẫn theo Hồng Nam và Hồng Lĩnh (chủ biên), Những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam chống phong kiến Trung Quốc xâm lược, Sđd, Tập I, tr 119. ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  16. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 16 – Trinh Nương, Triệu Quốc Trinh, Triệu Thị Trinh, Triệu Ẩu), cùng anh là Triệu Quốc Đạt phất cờ khởi nghĩa. Từ căn cứ Tùng Sơn (Thanh Hóa), Bà Triệu tiến ra Bắc. Chính quyền đô hộ của Đông Ngô tan rã. Triều Ngô phải cử Lục Dận làm thứ sử Giao Châu, An Nam Hiệu uý, đem khoảng 8000 quân sang đàn áp. Cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu thất bại nhưng hình ảnh người con gái kiên trinh bất khuất, vẫn ngời sáng trong lịch sử dân tộc. Câu nói nổi tiếng của bà: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp người ta” vẫn vang vọng cùng non sông. 2.2.2. Cuộc khởi nghĩa Lý Bí Sau khi cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu kết thúc, phong trào đấu tranh giành độc lập của nhân ta vẫn diễn ra mạnh mẽ. Năm 262, Quận lại Giao Chỉ Lã Hưng nổi binh giết thái thú; năm 271, nhân dân ở Phù Nghiêm Di và Cửu Chân nổi dậy chống Ngô; năm 299, thú binh ở Cửu Chân do Triệu Chí cầm đầu nổi dậy đánh đuổi thái thú Tây Tấn; từ năm 317 đến 323, Đốc quân Lương Thạc nổi binh giết chết thứ sử Đông Tấn; năm 411, Lý Địch, Lý Thoát nổi dậy khởi nghĩa đánh phá Long Biên đánh đuổi quan lại Đông Tấn; năm 468, Lý Trường Nhân và Lý Thúc Hiến lãnh đạo nhân dân nổi dậy khởi nghĩa, đuổi hết quan lại nhà Tống, tự xưng thứ sử Châu Giao; từ năm 502 đến năm 516, Nguyễn Tông Hiếu nổi dậy, thoát ly chính quyền nhà Lương. Như vậy, cuộc đấu tranh của nhân dân ta đã không ngừng diễn ra làm tiền đề cho cuộc khởi nghĩa Lý Bí bùng nổ và thắng lợi. Năm 542, Lý Bí phất cờ khởi nghĩa. Lý Bí quê ở huyện Thái Bình (thị xã Sơn Tây ngày nay), ông là người Việt gốc Hán, nhân lòng oán hận của dân mà liên kết với hào kiệt các châu, đồng thời nổi dậy chống nhà Lương. Tham gia cuộc khởi nghĩa có Tinh Thiều là người rất giỏi văn chương, Phạm Tu, cha con Triệu Túc là những người rất giỏi võ. Cuộc khởi nghĩa đã nhanh chóng thành công, thứ sử Châu Giao là Tiêu Tư, phải trốn khỏi châu thành Long Biên (Bắc Ninh) về Trung Quốc. Tháng 4 năm 542, nhà Lương sai Thứ sử Việt Châu Trần Hầu, Thứ sử La Châu Nịnh Cự, Thứ sử An Châu Lý Trí, Thứ sử Ái Châu Nguyễn Hán, từ hai phía Bắc, Nam cùng tiến đánh Lý Bí. Cuộc phản kích này của giặc Lương hoàn toàn thất bại. Lý Bí đã kiểm soát được toàn bộ vùng đất nước ta từ Đức Châu (Hà Tĩnh) tới bán đảo Hợp Phố. Bị thua đau, vua Lương lại sai Thứ sử Cao Châu Tôn Quýnh, Thứ sử Tân Châu Lư Tử Hùng mang quân sang đánh nước ta. Tháng 1 năm 543, quân giặc tiến vào Hợp Phố, Lý Bí phục binh chặn đánh tiêu diệt quá nửa đạo quân xâm lược này. ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  17. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 17 – Ở phía Nam, quân Chiêm Thành đánh phá Đức Châu. Tháng 5 năm 543, Lý Bí cử tướng Phạm Tu mang quân vào phương Nam đánh tan quân Chiêm Thành ở Cửu Đức, vua Chiêm Thành là Rudravarman I phải dẫn tàn quân chạy về nước. Sau những thắng lợi trên, tháng 2 năm 544, Lý Bí lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Thiên Đức, quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở miền cửa sông Tô Lịch (Hà Nội ngày nay), xác định rạch ròi cương vực lãnh thổ, đúc tiền riêng. Trong triều đình, ngoài Hoàng đế là người đứng đầu, bên dưới có hai ban văn võ, Tinh Thiều đứng đầu ban văn, Phạm Tu đứng đầu ban võ, Triệu Túc làm Thái phó, Lý Phục Man trấn giữ biên cảnh, Đó là một mô hình nhà nước theo chế độ trung ương tập quyền. Lý Nam Đế đã xây dựng đài Vạn xuân để văn võ bá quan triều hội, xây dựng chùa Khai Quốc (Trấn Quốc sau này) để chấn hưng Phật giáo. Mùa hè năm 545, nhà Lương lại tổ chức một cuộc xâm lược Vạn Xuân mới. Đại tướng của giặc Lương là Dương Phiêu và Trần Bá Tiên, quân xâm lược lên tới hàng vạn tên. Từ Phiên Ngung (Quảng Châu), quân xâm lược tiến vào nước ta theo con đường ven biển Đông Bắc. Tháng 7 năm 545, Lý Bí chặn đánh quân Lương ở Chu Diên rồi rút lui về giữ thành sông Tô Lịch. Quân Lương tiếp tục tiến công, Lý Bí buộc phải rút về giữ thành Gia Ninh (Việt Trì), tướng Phạm Tu đã oanh liệt hy sinh tại cửa sông Tô Lịch. Cục diện cố thủ của Lý Nam Đế kéo dài suốt mùa khô năm 545. Ngày 25 tháng 2 năm 546, quân Lương đã hạ được thành Gia Ninh. Lý Nam Đế rút lui vào miền Động Lão ở Tân Cương (trên lưu vực sông Lô) để xây dựng và củng cố lực lượng. Tháng 10 năm 546, Lý Nam Đế lại kéo quân về đóng thuỷ trại ở vùng hồ Điển Triệt (xã Tứ Yên, Lập Thạch, Phú Thọ). Quân Lương từ Gia Ninh, ngược dòng sông Lô tiến lên bao vây Lý Nam Đế ở hồ Điển Triệt. Trước thế trận của Lý Nam Đế, quân Lương e ngại không dám tiến công. Nhưng đêm ấy đột nhiên mưa to, nước sông rót ào ào vào hồ Điển Triệt, quân Lương nhân thế tập kích bất ngờ vào trận địa của Lý Nam Đế. Nghĩa quân không kịp phòng bị nên tan vỡ, Lý Nam Đế phải nương náu trong động Khuất Lão (Tam Nông, Phú Thọ) và trao binh quyền cho Triệu Quang Phục. Lực lượng kháng chiến của Lý Nam Đế còn lại chia làm hai cánh. Một cánh theo Lý Thiên Bảo, anh ruột Lý Bí gồm khoảng 2 vạn quân, tiến đánh Đức Châu, Ái Châu (Thanh Hoá) và chiếm cứ động Dã Năng, xưng là Đào Lang Vương. Một cánh khác theo Triệu Quang Phục gồm hơn 1 vạn quân lui về dựng căn cứ mới ở đầm Dạ Trạch (bãi Màn Trò, Khoái Châu, Hưng Yên). Nghĩa quân vừa luyện tập, vừa sản xuất, ban ngày ẩn náu, ban đêm đi thuyền nhẹ ra đánh úp các trại giặc. Nghe tin Lý Nam Đế mất (548), Triệu Quang Phục liền xưng là Triệu Việt Vương. ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  18. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 18 – Quân Lương cố sức đánh vào đầm Dạ Trạch nhằm phá vỡ đầu não kháng chiến của ta nhưng âm mưu đó không thực hiện được. Từ năm 547 đến năm 550, tương quan lực lượng ngày càng thay đổi, lực lượng kháng chiến của Triệu Quang Phục đã lớn mạnh. Năm 548, triều Lương xảy ra loạn Hầu Cảnh, Trần Bá Tiên liền trở về Trung Quốc và cướp ngôi nhà Lương vào năm 557. Chớp thời cơ đó, Triệu Quang Phục mở một cuộc tổng phản công lớn, chiếm lại châu thành Long Biên, quét sạch quân giặc ra khỏi bờ cõi, giành lại quyền tự chủ trên toàn đất nước. Nền độc lập của dân tộc ta còn non trẻ chưa vững chắc thì phải đối đầu với sự cát cứ. Năm 557, Lý Phật Tử tìm về quê cũ, lôi kéo họ hàng phe cánh, gây chiến với Triệu Việt Vương. Sau 5 lần giáp chiến không phân thắng bại, hai phe đã tạm thời giảng hoà, kết mối thông gia, phân chia địa giới ở bãi Quân Thần (Từ Liêm, Hà Nội). Năm 571, Lý Phật Tử đánh úp Triệu Việt Vương, lên ngôi Hoàng đế, sử cũ gọi là Hậu Lý Nam Đế. Ở Trung Quốc, nhà Tuỳ thành lập (581), thống nhất Trung Quốc (589) và bắt đầu nhòm ngó phương Nam. Lý Phật Tử, bên trong vẫn tự xưng là Nam Đế nhưng bên ngoài cũng phải tỏ ra thần phục phủ tổng quản Quế Châu. Đầu năm 602, nhà Tuỳ gọi Lý Phật Tử vào chầu. Lý Phật Tử đã hiên ngang chống lại lệnh của vua Tuỳ và chuẩn bị lực lượng để đối phó. Lý Phật Tử đã chia quân đóng giữ ba nơi hiểm yếu. Lý Đại Quyền (con của người anh Lý Phật Tử) đem đại quân trấn giữ thành Long Biên, Lý Phổ Đỉnh trấn giữ thành Ô Diên (Đan Phượng, Hà Tây), Lý Phật Tử thân thống suất đại quân phòng ngự tại thành Cổ Loa. Tháng giêng năm 603, vua Tuỳ phong Lưu Phương làm Giao Châu đạo hành quân tổng quản, Kính Đức Lượng làm trưởng sư dẫn mười vạn quân xâm lược nước ta. Quân Tuỳ tiến tới núi Đô Lung (Tụ Long, Hà Giang) thì bị hai ngàn quân ta phục kích chặn đánh. Lưu Phương thúc quân vượt qua tiến về bao vây Cổ Loa. Trước sự tấn công của quân giặc, Lý Phật Tử đã phải đầu hàng và bị bắt đem về Trường An. Những tướng lĩnh của Lý Phật Tử tiếp tục chiến đấu ở các nơi nhưng đều bị Lưu Phương giết hại. Lưu Phương còn tiến đánh Chiêm Thành năm 605, cướp vàng bạc châu báu và lập ba châu mới ở phía Nam Hoành Sơn. Nước ta lại rơi vào ách thống trị của phong kiến Trung Quốc. 2.3. NHỮNG CUỘC KHỞI NGHĨA LỚN THỜI KỲ BẮC THUỘC LẦN THỨ III VÀ CÔNG CUỘC KHÔI PHỤC QUYỀN TỰ CHỦ DÂN TỘC ĐẦU THẾ KỶ X 2.3.1. Aùch thống trị của Tùy - Đường Sau khi chiếm được nước ta, nhà Tuỳ bỏ châu, thu nhỏ quận. Miền đất nước ta gồm bốn quận là Giao Chỉ (Bắc bộ), Cửu Chân (Thanh Hoá), Nhật Nam (Nghệ An, Hà Tĩnh) ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  19. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 19 – và Ninh Việt (miền Đông Bắc và một phần Quảng Đông, Trung Quốc). Năm 607, trị sở quận Giao Chỉ được dời từ Long Biên về Tống Bình (Hà Nội). Dưới thời Đường (618 - 905), nhà Đường lại bãi bỏ các quận, khôi phục lại hệ thống các châu. Năm 622, nhà Đường lập Giao Châu đô hộ phủ, tới năm 679, đổi thành An Nam đô hộ phủ. Điều này chứng tỏ phong kiến phương Bắc đã không thể biến miền đất nước ta thành nội địa của Trung Quốc. Nhà Đường chia An Nam đô hộ phủ thành 12 châu, 59 huyện, dưới huyện là hương, xã. Đứng đầu mỗi châu là chức thứ sử, huyện là tri huyện, nhưng quyền lực chính trị trên miền đất nước ta ngày càng tách khỏi sự khống chế trực tiếp của triều đình Trường An. Các tên quan lại nhà Đường cai trị nước ta, thường rất tàn bạo, bóc lột nhân dân ta hết sức nặng nề, nhân dân ta đã không ngừng nổi dậy đấu tranh giành quyền độc lập dân tộc. Đáng chú ý là các cuộc khởi nghĩa: Lý Tự Tiên và Đinh Kiến (687), Mai Thúc Loan (722), Phùng Hưng (766 - 769), Dương Thanh (819 - 820). 2.3.2. Khởi nghĩa Lý Tự Tiên và Đinh Kiến (687) Nhân lòng căm phẫn của nhân dân, vào năm 687, Lý Tự Tiên (không rõ thành phần xuất thân, tuổi tác và quê quán) đã phát động một cuộc khởi nghĩa lớn. Viên Đô hộ Lưu Diên Hựu đem quân đàn áp, giết hại Lý Tự Tiên. Nhưng các thủ lĩnh nghĩa quân khác là Đinh Kiến và Tư Thận tiếp tục chỉ huy cuộc khởi nghĩa. Nghĩa quân bao vây và phá tan phủ thành Tống Bình, giết chết Lưu Diên Hựu. Nhà Đường đã cử Tư mã Quế Châu Tào Huyền Tĩnh và Đô đốc Quảng Châu Phùng Nguyên Thường chia quân làm 2 đường thuỷ, bộ kéo sang đàn áp. Đinh Kiến và Tư Thận tử trận, nghĩa quân tan vỡ. 2.3.3. Khởi nghĩa Mai Thúc Loan (722) Mai Thúc Loan (còn gọi là Mai Huyền Thành), quê ở Mai Phụ (Thạch Hà, Hà Tĩnh), sau lên ở vùng Ngọc Trừng (Nam Đàn, Nghệ An). Ông nhà nghèo, phải đi ở đợ cho nhà giàu, chăn trâu, cầy ruộng nhưng rất khoẻ và sáng dạ, người đen trũi, nổi tiếng giỏi vật cả một vùng. Năm 722, Mai Thúc Loan kêu gọi đoàn dân phu gánh vải nộp cống cho nhà Đường nổi dậy khởi nghĩa. Từ căn cứ Sa Nam (còn gọi là thành Vạn An), Mai Thúc Loan tiến ra Bắc, công phá phủ thành Tống Bình. Bè lũ đô hộ Quang Sở Khách phải bỏ chạy về nước. Mai Thúc Loan lên ngôi vua (còn gọi là Mai Hắc Đế), đóng đô ở Vạn An. Nhà Đường sai Dương Tử Húc và Quang Sở Khách mang 10 vạn quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Sau nhiều trận đánh khốc liệt, từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực sông Lam, cuối cùng, Mai Hắc Đế tử trận, nghĩa quân tan vỡ. ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  20. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 20 – 2.3.4. Khởi nghĩa Phùng Hưng (766 - 791) Phùng Hưng quê ở xã Đường Lâm (Ba Vì, Hà Tây), dòng dõi quan lang, nhà giàu, có uy tín lớn trong vùng. Anh em Phùng Hưng, Phùng Hải có sức khoẻ vật nổi trâu, đánh được hổ, cõng thuyền nặng đi hàng chục dặm. Năm 766, Phùng Hưng phát động cuộc khởi nghĩa. Từ Đường Lâm, nghĩa quân tiến lên đánh chiếm được cả một miền rộng lớn quanh vùng Phong Châu (Phú Thọ), xây dựng thành căn cứ chống giặc. Phùng Hưng xưng làm Đô quân, Phùng Hải là Đô bảo, cùng lãnh đạo nghĩa quân tiếng xuống bao vây phủ thành Tống Bình. Tên quan đô hộ Cao Chính Bình đem quân ra ngoài thành đón đánh nghĩa quân, bị thua to, trở về lo quá phát bệnh mà chết. Nghĩa quân chiếm được phủ thành rồi đánh đuổi quân đô hộ về nước. Phùng Hưng dựng quyền tự chủ được 7 năm thì mất. Trong nội bộ nghĩa quân xảy ra tranh chấp quyền lực. Bồ Phá Cần lập con Phùng Hưng là Phùng An lên nối nghiệp, Phùng Hải né tránh Bồ Phá Cần, bỏ lên động Chu Nham (?). Phùng An dâng tôn hiệu cha là Bố Cái đại vương. Cuối năm 791, nhà Đường cử Triệu Xương mang quân sang đàn áp, cuộc khởi nghĩa bị thất bại, nền tự chủ mới xây dựng được hơn 9 năm lại bị tan vỡ. 2.3.5. Khởi nghĩa Dương Thanh (819 - 820) Dương Thanh là một thủ lĩnh người Việt, dòng dõi hào trưởng lâu đời, có thế lực, làm thứ sử Châu Hoan. Để dễ bề kiềm chế ông, viên quan đô hộ Lý Tượng Cổ đã điều ông về Tống Bình làm nha môn tướng. Vào năm 819, Lý Tượng Cổ sai Dương Thanh mang 3 ngàn quân đi đàn áp cuộc khởi nghĩa của nhân dân Tày, Nùng, Tráng ở Man Hoàng Động. Dương Thanh cùng với con trai là Dương Chí Liệt, Đỗ Sỹ Giao kêu gọi binh sỹ quay lại tấn công thành Tống Bình, giết chết Lý Tượng Cổ cùng hơn 1000 thủ hạ của y, chiếm giữ phủ thành. Nhà Đường sai Quế Trọng Vũ cất quân sang đánh. Dương Thanh cùng con là Dương Chí Trinh bị giặc giết, Dương Chí Liệt và Đỗ Sỹ Giao lui quân về giữ Trường Châu (Yên Mô, Ninh Bình) nhưng ít lâu sau bị thất bại. Nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của tầng lớp hào trưởng yêu nước vẫn không ngừng nổi dậy khởi nghĩa, hầu hết bọn đô hộ đều phải bỏ chạy về nước. 2.3.6. Công cuộc khôi phục quyền tự chủ dân tộc đầu thế kỷ X ƒ Họ Khúc và công cuộc đấu tranh giành quyền tự chủ (905 - 930) Năm 866, nhà Đường đổi tên An Nam đô hộ phủ thành Tĩnh Hải quân tiết trấn, đứng đầu là chức tiết độ sứ. Phong trào đấu tranh giành quyền tự chủ dân tộc của nhân dân ta suốt ba thế kỷ trước báo hiệu sự xuất hiện của bình minh sau một đêm dài tăm tối dưới ách thống trị của phong kiến Trung Quốc. ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  21. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 21 – Năm 905, nhân lúc nhà Đường suy yếu, chưa kịp điều tên quan tiết độ sứ mới thay thế viên tiết độ sứ cuối cùng là Độc Cô Tổn đã bị điều đi nơi khác, Khúc Thừa Dụ (một người hào trưởng ở đất Hồng Châu, Hưng Yên) đã tiến quân ra chiếm đóng phủ thành Tống Bình, tự xưng là Tiết độ sứ. Ông đã đuổi hết bọn quan lại nhà Đường về nước và tiến hành sắp xếp một chính quyền tự chủ. Ngày 7 tháng 2 năm 906, vua Đường buộc phải phong cho ông chức “Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, Đổng bình chương sự”. Năm 907, Khúc Thừa Dụ mất, con ông là Khúc Hạo lên thay. Ngày 1 tháng 9 năm 907, nhà Hậu Lương cũng phải công nhận Khúc Hạo là “An Nam đô hộ, sung Tiết độ sứ”. Nhân lúc Trung Quốc đang ở vào thời kỳ rối loạn “Ngũ đại thập quốc”, Khúc Hạo đã tiến hành các chính sách cải cách nhằm xây dựng một chính quyền dân tộc thống nhất từ trung ương đến làng xã. Đơn vị hành chính từ lộ (phủ, châu) đến giáp, xã. Ông còn giảm nhẹ thuế khoá, khuyến khích phát triển kinh tế để chấn hưng đất nước. Năm 917, Khúc Hạo mất, con là Khúc Thừa Mỹ lên thay. Lúc này ở sát biên giới nước ta, Tiết độ sứ Quảng Châu là Lưu Yểm đã xưng vương đặt quốc hiệu là Nam Hán và âm mưu xâm lược nước ta. Năm 930, vua Nam Hán sai Lý Thủ Dung và Lương Khắc Trinh chia quân làm hai đường thuỷ bộ tiến vào nước ta. Tháng 10 năm 930, quân Nam Hán đánh bại đạo quân của Khúc Thừa Mỹ, chiếm được thành Đại La (Hà Nội). Tuy nhiên, quân Nam Hán chỉ cai quản được Đại La và một phần ở Bắc Bộ. Từ đèo Ba Dội (Tam Điệp) trở vào Nam, các hào trưởng địa phương và tướng tá cũ của họ Khúc vẫn giữ được quyền kiểm soát đất đai và nhân dân. ƒ Dương Đình Nghệ khôi phục quyền tự chủ (931 - 937) Ở lò võ làng Ràng (Dương Xá, Thiệu Hoá, Thanh Hóa), đã hình thành một trung tâm kháng chiến khá mạnh, đứng đầu là Dương Đình Nghệ, một tướng cũ của họ Khúc. Ông công khai nuôi dưỡng 3.000 nghĩa tử trong nhà, ngày đêm luyện tập chuẩn bị tiến ra Bắc tiêu diệt quân xâm lược. Trong số đó có Ngô Quyền từ Phong Châu, Đinh Công Trứ từ Trường Châu (Ninh Bình), là những viên tướng giỏi. Tháng 3 năm 931, từ Ái Châu, Dương Đình Nghệ đã cử binh tiến ra bao vây thành Đại La. Vua Nam Hán vội vã cử Trình Bảo mang quân sang cứu viện. Khi viện binh của địch chưa tới nơi thì quân ta đã chiếm được thành Đại La, Lương Khắc Trinh bị giết chết, Lý Tiến (sang thay cho Lý Thủ Dung) cùng đám tàn quân chạy thoát về nước. Dương Đình Nghệ đã chủ động đem quân ra ngoài thành đánh tan đạo viên binh của địch, Trình Bảo bị ta giết chết tại trận. Dương Đình Nghệ cũng chỉ xưng là tiết độ sứ, cử Đinh Công Trứ làm thứ sử Hoan Châu, Ngô Quyền làm thứ sử Ái Châu. ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  22. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 22 – ƒ Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nam Hán lần thứ II (938). Tháng 4 năm 937, Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết hại để đoạt chức tiết độ sứ. Hành động phản trắc của Kiều Công Tiễn đã gây ra sự phẫn nộ trong các tầng lớp nhân dân ta. Kiều Công Tiễn sợ hãi cầu cứu vua Nam Hán. Ngô Quyền liền chuẩn bị kéo quân ra Bắc trừng trị tên phản bội Kiều Công Tiễn. Lợi dụng thời cơ đó, vua Nam Hán liền phát động cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Mặc dù có nhiều lời bàn tỏ ra thận trọng nhưng không hợp ý vua Nam Hán Lưu Cung. Vua Nam Hán phong cho con trai là Vạn vương Hoằng Tháo làm Tĩnh hải quân tiết độ sứ, tước Giao vương, thống lĩnh thuỷ quân vượt biển xâm lược nước ta. Cuối năm 937, Ngô Quyền dẫn quân tiến đánh Đại La, chém đầu Kiều Công Tiễn và chuẩn bị kế sách đánh giặc. Ông sai quân dân chặt gỗ lim ở rừng hai bên bờ sông Bạch Đằng, vót nhọn rồi đem đóng xuống lòng sông Bạch Đằng, hình thành thế trận phục kích chờ đón đạo thuỷ binh Nam Hán sang xâm lược. Ngô Quyền nói : “nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt đóng ngầm trước ở cửa biển, thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra thoát”1. Đúng như Ngô Quyền đã dự đoán, cuối năm 938, đại quân Nam Hán do Hoằng Tháo dẫn đầu, tiến vào cửa sông Bạch Đằng. Ngô Quyền sai Nguyễn Tất Tố dẫn một đạo thuỷ quân ra khiêu chiến, nhử địch vượt qua trận địa cọc. Khi nước triều xuống, Ngô Quyền tự mình thống lĩnh đại quân tấn công quyết liệt vào hai bên sườn đội hình quân giặc. Hoằng Tháo bị giết chết tại trận, thuyền giặc va vào trận địa cọc bị nhấn chìm toàn bộ xuống dòng sông Bạch Đằng lịch sử . Thời gian xảy ra trận đánh chỉ vài tiếng đồng hồ, đến nỗi vua Nam Hán đóng quân ở sát biên giới để tiếp ứng cho con nhưng không kịp. Nghe tin thất bại quá bất ngờ và kinh hoàng, vua Nam Hán đành thu nhặt tàn quân rút về nước. Từ đó, triều Nam Hán phải vĩnh viễn từ bỏ dã tâm xâm lược nước ta, không dám động chạm đến chủ quyền lãnh thổ của nước ta nữa. Ngợi ca Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng, nhà sử học Lê Văn Hưu viết: “Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của đất Việt ta mà đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một lần nổi giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy.”2 1,2. Đại Việt sử ký toàn thư, NXB. KHXH, Hà Nội 1998, TI. trang 203.204,205. ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  23. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 23 – 3. NHỮNG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG NGOẠI XÂM CỦA DÂN TỘC TỪ THẾ KỶ X ĐẾN THẾ KỶ XVIII 3.1. CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN XÂM LƯỢC TỐNG LẦN I (981) 3.1.1. Nền tự chủ của dân tộc dưới thời Ngô Quyền và Đinh Tiên Hoàng ƒ Triều Ngô và loạn 12 sứ quân Sau khi đánh thắng quân xâm lược Nam Hán, năm 939, Ngô Quyền xưng vương (lịch sử gọi ông là Tiền Ngô Vương). Ngô Quyền chính thức cắt đứt quan hệ với các hoàng đế Trung Quốc, bãi bỏ chức tiết độ sứ và xây dựng chính quyền của một nhà nước độc lập. Ông đóng đô ở cố đô Cổ Loa và thiết lập vương triều theo thể chế tập quyền. Bộ máy nhà nước được tổ chức có quy củ từ trung ương đến địa phương, theo hai hệ thống chính ngạch là văn quan và võ quan. Nhà sử học Lê Văn Hưu thời Trần đã bàn về sự nghiệp dựng nước của Ngô Quyền như sau: “Tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi đế, đổi niên hiệu, nhưng chính thống của nước Việt ta, ngõ hầu đã nối lại được” và Ngô Sĩ Liên cùng các sử thần triều Lê cũng nhận xét: “Tiền Ngô [Vương]nổi lên không chỉ có công chiến thắng mà thôi, việc đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục, có thể thấy được quy mô của bậc đế vương”1. Năm 944, Ngô Quyền mất, Ngô Xương Ngập lên thay và bị Dương Tam Kha cướp ngôi. Nhân cơ hội này, thủ lĩnh các địa phương nổi dậy cát cứ, gây ra nạn 12 sứ quân. Đinh Bộ Lĩnh đã dương cao ngọn cờ thống nhất quốc gia, dân tộc, để dẹp yên 12 sứ quân. Ông dấy binh ở động Hoa Lư (Ninh Bình), nhân dân mọi miền kéo về tụ nghĩa. Năm 967, Đinh Bộ Lĩnh thống nhất sơn hà lập ra triều Đinh. ƒ Triều Đinh Đinh Bộ Lĩnh dẹp tan loạn 12 sứ quân và lên ngôi hoàng đế hiệu là Đinh Tiên Hoàng, kinh đô đóng tại Hoa Lư, đặt tên nước là Đại Cồ Việt. Hai năm sau, ông cấm sử dụng niên hiệu của hoàng đế Trung Quốc và đặt niên hiệu riêng là Thái Bình. Việc làm của Đinh Bộ Lĩnh có ý nghĩa lớn lao, nêu cao tinh thần tự chủ, tự cường, bất khuất của nhân dân ta trước sự hăm dọa của nhà Tống. Kế thừa thể chế tổ chức bộ máy nhà nước của Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng xây dựng và phát triển nhà nước theo chế độ trung ương tập quyền. Ông chia cả nước ra làm mười đạo, mỗi đạo vừa là đơn vị hành chính, vừa là đơn vị quân sự. Mỗi đạo gồm 10 1 Đại Việt sử ký toàn thư, NXB. KHXH, Hà Nội 1998, TI. trang 205. ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  24. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 24 – quân, mỗi quân có 10 lữ, mỗi lữ có 10 tốt, mỗi tốt có 10 ngũ, mỗi ngũ có 10 người. Đó chính là cách tổ chức quân đội theo cơ chế vũ trang toàn dân. Năm 970, sau khi ổn định việc xây dựng triều đình mới, Đinh Tiên Hoàng cử sứ bộ sang nhà Tống giao hảo. Các năm 972, 973, vua Đinh lại cử Đinh Liễn làm chánh sứ sang Tống cầu phong. Vua Tống đã sai sứ sang phong Đinh Bộ Lĩnh làm Giao Chỉ quận vương và phong Đinh Liễn làm Tĩnh Hải quân tiết độ sứ, An Nam đô hộ. ƒ Âm mưu xâm lược của nhà Tống đối với Đại Cồ Việt Năm 960, Triệu Khuông Dận cướp ngôi nhà Hậu Chu, lên làm vua lập ra nhà Tống. Nhà Tống là một triều đại phong kiến lớn ở Trung Quốc, cương giới mở rộng gần bằng lãnh thổ Trung Quốc ngày nay. Phía Bắc giáp nước Liêu và Mông Cổ (Đông Bắc Trung Quốc ngày nay), phía Tây Bắc giáp Tây Hạ (Tân Cương), phía Tây Nam giáp Nam Chiếu (Vân Nam), phía Nam giáp Đại Cồ Việt. Nhà Tống đã tiến hành chinh phục bằng quân sự đối với các nước láng giềng và gấp rút chuẩn bị xâm lược Đại Việt. Trong lúc nước ta đang đứng trước nguy cơ phải đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược lớn thì vào cuối năm 979, hai cha con Đinh Tiên Hoàng và con trưởng là Đinh Liễn bị ám hại. Nội bộ triều đình lục đục, vua mới còn nhỏ. Được tin đó, nhà Tống vội sai các tướng Hầu Nhân Bảo làm “Lục lộ, thuỷ lộ chuyển vận sứ”, Tôn Toàn Hưng làm phó tướng cùng các tên tướng Lưu Trừng, Giả Thực, Trần Khâm Tộ đem quân sang xâm lược nước ta. Trước khi tiến đánh nước ta, Tống Thái Tông còn cử sứ giả mang thư sang đe dọa với lời lẽ hết sức hống hách: “Nay thánh triều lòng nhân trùm khắp muôn nước, cơ nghiệp thái bình kể cũng đã thịnh. Lễ phân phòng đã sắp đặt sẵn, còn đợi ngươi đến chúc sức khoẻ ta. Ngươi đừng ru rú trong bốn góc nhà, khiến cho ta buồn phiền, phải chém cờ bổ so làm cỏ nước ngươi, hối sao cho kịp”1. 3.1.2. Cuộc kháng chiến của quân dân Đại Cồ Việt dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn Mùa thu năm 980, viên quan coi Lạng Châu (Lạng Sơn) cho người về Hoa Lư báo tin quân Tống chuẩn bị đánh xuống nước ta. Thái hậu Dương Vân Nga giao cho phụ chính Lê Hoàn tổ chức cuộc kháng chiến và tiếp đó đưa Lê Hoàn lên làm vua. Lê Hoàn đã cùng các tướng huy động quân sĩ cùng nhân dân khẩn trương chuẩn bị chống giặc. Ông đã đề ra chính sách để xây dựng và củng cố khối đoàn kết dân tộc, tạo nên nền tảng sức mạnh của quốc gia để chiến thắng quân xâm lược. 1 Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, TI. trang 218. ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  25. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 25 – Theo kế của Ngô Quyền trước đây, Lê Hoàn sai quân đóng cọc nhọn ở vùng cửa sông Bạch Đằng để ngăn chặn thủy quân của giặc. Mặt khác, ông tự mình thống lĩnh đại quân tổ chức trận địa mai phục lớn ở quanh ải Chi Lăng đón đánh quân Tống. Ông còn cho người sang nhà Tống, dâng sớ xin được lập Đinh Toàn làm vua, nhằm gây thêm sự chủ quan, kiêu ngạo của quân Tống và tăng thời gian chuẩn bị của quân ta. Tháng 4 năm 981, quân Tống ồ ạt kéo vào nước ta theo hai đường: đạo chính binh do Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng chỉ huy tiến vào theo đường Lạng Sơn, đạo kỳ binh do Trần Khâm Tộ chỉ huy cùng tiến quân với đạo thuỷ binh của Lưu Trừng, Giả Thực tiến theo đường biển về cửa sông Bạch Đằng. Theo kế hoạch đã định, khi thủy quân của giặc đã đến vùng ven biển gần cửa sông Bạch Đằng thì Lê Hoàn cử quân ra chống cự quyết liệt. Không đánh nổi quân ta, thủy quân giặc buộc phải rút lui. Trần Khâm Tộ bí mật tiến sâu vào vùng Tây Kết (Khoái Châu) hòng tạo ra một đòn đánh hiểm sau lưng quân ta. Trong lúc đó, Hầu Nhân Bảo chờ mãi không thấy tin tức gì của thủy quân, phải đốc thúc Tôn Toàn Hưng (bấy giờ còn đóng lại ở Hoa Bộ (Nam Quảng Đông, Trung Quốc) chờ tin, tiến xuống, nhưng Tôn Toàn Hưng không nghe. Hầu Nhân Bảo đành tự mình dẫn quân đánh xuống theo đường sông sông Thương (Chi Lăng). Lê Hoàn đã phục binh đánh tan giặc, giết chết Hầu Nhân Bảo, rồi nhân đà thắng lợi đánh thẳng lên phía Bắc. Trần Khâm Tộ được tin Hầu Nhân Bảo chết, hoảng sợ, ra lệnh rút quân chạy về nước nhưng không kịp. Lê Hoàn tung khối quân dự bị chuyển sang vây đánh quyết liệt. Hầu hết quân Tống bị tiêu diệt, tướng giặc là Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân bị bắt sống. Những tên khác như Tôn Toàn Hưng, Lưu Trừng, Giả Thực, Vương Soạn chạy thoát về nước (sau đều bị xử tử hoặc giam cho đến chết). Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống hoàn toàn thắng lợi. Một lần nữa, nhân dân ta bằng sức chiến đấu anh dũng của mình, khẳng định quyền tự chủ đất nước, bảo vệ vững chắc những thành quả đấu tranh và xây dựng đất nước của tổ tiên mình. Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã giáng một đòn nặng nề vào tư tưởng bành trướng của vua tôi nhà Tống. Tên tuổi của Lê Hoàn và quân tướng nhà Tiền Lê cũng như của Dương thái hậu mãi mãi khắc sâu vào lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta. 3.2. KHÁNG CHIẾN CHỐNG TỐNG LẦN 2 (1075 – 1077) 3.2.1. Nhà Lý xây dựng đất nước và chuẩn bị kháng chiến Năm 1009, Lý Công Uẩn được toàn thể quý tộc và sư sãi tôn lên làm vua, lập ra triều Lý. Trải qua các thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, công cuộc xây dựng và phát triển đất nước đã đạt được nhiều thành quả về mọi mặt. ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  26. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 26 – Năm 1010, Lý Công Uẩn quyết định dời đô về thành Đại La và đổi tên thành Thăng Long (Hà Nội). Năm 1054, nhà Lý đổi tên nước là Đại Việt. Nhà Lý ra sức củng cố và phát triển chế độ trung ương tập quyền. Bộ máy nhà nước phong kiến được tổ chức khá quy củ. Hệ thống tổ chức hành chính được thành lập từ trung ương đến tận cơ sở. Trong nước được chia thành các lộ (phủ, châu, trại), đến các huyện, xã (hương, giáp). Ở cấp làng xã, yếu tố dân chủ, tự trị vẫn còn khá đậm nét song song tồn tại với hình thức tổ chức hành chính tập quyền của nhà nước phong kiến. Vua là người có quyền lực cao nhất trong triều đình, sau đến các chức quan cao cấp về văn và võ theo thứ tự phân cấp. Ngoài việc dùng những người thân thuộc của nhà vua và một số công thần để nắm giữ những trọng trách trong triều đình, nhà Lý còn mở khoa thi để tuyển chọn và đào tạo nhân tài cho đất nước. Các hoàng tử được phong tước vương và cử đi trấn trị ở các nơi hiểm yếu. Nhà Lý thi hành chính sách “Nhu viễn” nhằm củng cố khối đoàn kết dân tộc và tạo ra phên dậu cho triều đình phong kiến. Các vua Lý thường ban phát bổng lộc, gả công chúa cho các tù trưởng thiểu số để ràng buộc họ. Năm 1042, nhà Lý ban bố luật “Hình thư” để bảo vệ quyền lợi của nhà nước phong kiến tập quyền. Những hoạt động lập pháp của nhà Lý đã đánh dấu sự phát triển của lịch sử pháp quyền Việt Nam, chứng tỏ tính chất ổn định và hoàn bị của một thiết chế nhà nước trung ương tập quyền ở nước ta thời Lý. Nhà Lý rất chú trọng phát triển kinh tế. Toàn bộ ruộng đất thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Làng xã đóng vai trò là người chiếm hữu và sử dụng ruộng đất. Ruộng tư tồn tại và bắt đầu phát triển do chế độ phân phong ruộng đất. Tuy nhiên, xu hướng thống nhất về quyền sở hữu ruộng đất vẫn mang tính chủ đạo. Nhà Lý đã thi hành hàng loạt các chính sách để phát triển kinh tế nông nghiệp như: hàng năm, các vua Lý thường đi cày ruộng tịch điền; chăm lo xây dựng và củng cố hệ thống thuỷ lợi; mở rọâng diện tích khai hoang; thực hành các biện pháp khuyến nông; Thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng rất phát triển. Sản phẩm thủ công ngày càng tinh xảo, quy mô sản xuất được mở rộng, mạng lưới giao thông được không ngừng hoàn thiện, tạo ra một thị trường nội địa thống nhất. Thăng Long trở thành một trung tâm kinh tế quan trọng, tập trung nhiều thợ thủ công và thương nhân. Trên cơ sở chính trị và kinh tế ổn định, nền văn hoá dân tộc có điều kiện để phát triển. Thời Lý là thời kỳ mở đầu của nền văn hoá Lý – Trần, nền văn minh Đại Việt rực rỡ. Trên tất cả các mặt như kiến trúc, điêu khắc, văn học, giáo dục đều có những bước tiến rực rỡ. Năm 1070, nhà Lý cho lập Văn miếu và mở Quốc tử giám tại kinh thành Thăng Long làm nơi học tập cho con em tầng lớp quý tộc quan lại và khuyến khích đạo ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  27. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 27 – học trong nhân dân. Phật giáo ở vào giai đoạn thịnh đạt và vai trò của tầng lớp sư sãi rất lớn, nhưng trong xã hội đã xuất hiện tầng lớp nho sĩ được đào tạo ngày càng quy củ. Nho sĩ ngày càng trở thành một lực lượng đông đảo, quan trọng và là giới trí thức phục vụ cho bộ máy nhà nước phong kiến. Trong lĩnh vực quân sự, nhà Lý tăng cường xây dựng quân đội hùng mạnh cả về tổ chức, trang bị và huấn luyện. Bằng chính sách “Ngụ binh ư nông”, nhà Lý đã xây dựng được một lực lượng vũ trang đông đảo. Tất cả nhân đinh từ 18 đến 59 tuổi đều được ghi tên vào một cuốn sổ màu vàng để Nhà nước quản lý và huấn luyện quân sự. Từ 18 đến 21 tuổi được gọi là “hoàng nam”, từ 21 đến 59 tuổi gọi là “đại hoàng nam”. Sau khi hết hạn quân sự, họ được gửi về địa phương để tham gia sản xuất và khi có chiến tranh thì phải sung vào quân đội. Nhờ chính sách tuyển quân sáng tạo như vậy, nhà Lý đã duy trì được sức chiến đấu của toàn dân mà vẫn đảm bảo được sản xuất, đỡ gánh nặng cho Nhà nước. Quân đội nhà Lý có 3 loại chính: Quân thường trực gồm có quân cấm vệ, sương quân và du quân. Quân cấm vệ được tuyển chọn kỹ càng từ con em của quý tộc, quan lại phong kiến và được thích vào trán 3 chữ “Thiên tử quân”. Quân cấm vệ được triều đình cấp phát lương bổng. Du quân là lực lượng cơ động của triều đình. Sương quân là lực lượng quân đồn trú của triều đình. Hai lực lượng này cũng được tuyển chọn kỹ càng và biên chế thành những đơn vị từ cấp tướng đến cấp đội, giáp. Du quân và sương quân phải tự túc lương ăn. Đứng đầu quân đội nhà Lý là Thái uý và Thiếu uý cho đến các võ quan như Đô thống, Nguyên suý, Tổng quản, Thượng tướng, Đại tướng, Đô tướng, Đội trưởng, Quân địa phương gồm có quân các phủ, lộ, trại và quân của các vương hầu, tù trưởng thiểu số. Quân địa phương là lực lượng phòng giữ và tác chiến tại chỗ nhưng phải chịu sự điều động của triều đình khi có việc cần. Lực lượng này cũng phải tự túc lương ăn như sương quân và du quân. Ngoài ra, nhà Lý còn khuyến khích việc thành lập các đội tự vệ làng xã gọi chung là hương binh. Quân đội nhà Lý được tổ chức thành 2 binh chủng là bộ binh và thuỷ binh. Bộ binh là lực lượng chủ yếu và đông đảo nhất gồm có quân cung nỏ, kỵ binh, tượng binh. Thuỷ binh được trang bị thuyền chiến, kế thừa truyền thống bơi lặn và giỏi thuỷ chiến của nhân dân ta. Quân đội nhà Lý được trang bị các loại vũ khí thông thường như giáo, mác, kiếm sắt, cung nỏ, áo giáp, máy bắn đá, và được huấn luyện, thao diễn theo một binh pháp thống nhất. Như vậy, nhà Lý đã xây dựng được một lực lượng quân đội hùng mạnh, có quân thường trực thiện chiến, có quân hậu bị đông đảo, được tổ chức và huấn luyện quy ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  28. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 28 – củ. Nhờ đó, nhà Lý có đầy đủ sức mạnh để sẵn sàng chống quân xâm lược, bảo vệ nền độc lập, tự chủ của nước nhà. 3.2.2. Triều Tống tiếp tục mưu đồ bành trướng Năm 981, Lê Hoàn đã đánh tan hai đạo quân xâm lược Tống, bảo vệ vững chắc nền độc lập của Đại Cồ Việt và buộc nhà Tống phải giữ “hòa hiếu” trong một thời gian dài, nhưng các vua Tống vẫn chưa từ bỏ ý đồ đánh chiếm nước ta. Khi mới thiết lập vương triều, năm 960, nhà Tống chưa thống nhất được hoàn toàn đất nước. Phía Bắc và phía Tây Bắc, hai tộc Khiết Đan và Đảng Hạng vẫn kiểm soát một phần Trung Quốc. Khiết Đan lập ra nước Đại Liêu (vùng Nhiệt Hà), Đảng Hạng lập ra nước Hạ (vùng Cam Túc). Nhà Tống rất vất vả vì hai nước này. Từ cuối thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XI, luôn có chiến tranh Tống – Liêu, Tống – Hạ. Trong hoàn cảnh đó, Tống Thần Tông và tể tướng Vương An Thạch chủ trương gây chiến với Đại Việt. Nhà Tống còn hy vọng dùng chiến công ngoài biên thùy để trấn áp phe đối lập trong triều. Hơn nữa, họ lại còn hy vọng dùng thắng lợi trong cuộc chiến tranh để gây thanh thế với Liêu Hạ. Vua tôi nhà Tống bàn rằng: “Nếu thắng, thế Tống sẽ tăng, các nước Liêu Hạ sẽ phải kiêng nể”. Để thực hiện kế hoạch xâm lược nước ta, nhà Tống đã tiến hành tổ chức khu vực biên giới Việt – Tống thành một hệ thống căn cứ xâm lược lợi hại. Dọc biên giới có thành Ung Châu (Nam Ninh, Quảng Tây) và cửa biển Khâm Châu, Liêm Châu (Quảng Đông) rất thuận lợi cho việc xuất quân từ Tống vào Đại Việt. Ung Châu nằm trên điểm hợp lưu của sông Tả Giang và Hữu Giang, là một vị trí quan trọng của Quảng Tây. Bao quanh phía Nam Ung Châu sẵn có năm trại Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình, Cổ Vạn, Thiên Long. Từ Ung Châu đến cửa biển Khâm Châu, Liêm Châu khoảng trên 100km. Từ Khâm Châu chỉ một ngày thuyền là đến châu Vĩnh An (Móng Cái) của Đại Việt, Khâm Châu có chỗ dựa là hai trại Dung Châu và Bạch Châu. Ung Châu là căn cứ hậu cần lớn nhất chuẩn bị cho cuộc xâm lược Đại Việt. Năm 1071, triều Tống đã cử Tô Giám, một lão tướng có nhiều kinh nghiệm, đã từng đánh thắng Nùng Trí Cao và rất am hiểu tình hình Đại Việt đến phụ trách. Tô Giám cho xây thành Ung Châu rất kiên cố. Thành có 50.000 quân (3000 đóng ở 5 trại xung quanh) chuyên lo việc biên thùy. Tất cả những điều trên đây đã bộc lộ rõ mưu toan bành trướng của nhà Tống đối với Đại Việt. Vương triều Lý đã nhận thức sâu sắc ý đồ đó. Các vua đầu tiên của nhà Lý đã có kế hoạch bảo vệ tổ quốc rất chủ động. Bên ngoài, các vua Lý một mặt hết sức mềm ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  29. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 29 – dẻo để có quan hệ ngoại giao bình thường, nhưng mặt khác, nối tiếp chính sách của các vua thời Tiền Lê, các vua Lý tăng cường phòng thủ biên giới phía Bắc, kiên quyết chống trả những cuộc xâm lấn của nhà Tống. 3.2.3. Phá tan cứ điểm xâm lược Ung Châu bẻ gãy từ đầu thế chủ động của Tống Năm 1072, vua Lý Thánh Tông chết. Thái tử Càn Đức mới 6 tuổi lên nối ngôi hiệu là Nhân Tông. Nhà Tống cho rằng đó là một cơ hội tốt nên càng đẩy mạnh chuẩn bị xâm lược Đại Việt. Ở vùng Ung Châu, Lưu Di hoạt động quá lộ liễu đến nỗi Tô Giám phải khuyên can: “ Giám lại đưa thư cho Di, bảo đừng làm những sự khiêu khích giặc”. Trước tình hình đó, triều đình nhà Lý đã đối phó rất chủ động, khẩn trương. Vua Nhân Tông lúc này còn nhỏ tuổi nên tất cả quyền bính đều nằm trong tay quan Phụ quốc Thái úy Lý Thường Kiệt. Chính Lý Thường Kiệt đã đảm đương công việc tổ chức, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Tống xâm lược ở thế kỉ XI. Năm 1074, Lý Thường Kiệt đã mời Lý Đạo Thành vốn là quan Thái sư đời Lý Thánh Tông, từ Nghệ An trở lại triều đình giữ chức Thái phó bình chương quân quốc trọng sự. Hai ông đã hợp lực cùng lo toan việc nước trong lúc nguy nan. Sau khi củng cố lại lực lượng, ngăn ngừa bất trắc phía nam, Lý Thường Kiệt không bị động chờ đợi giặc mà đã quyết định tiến công giặc trước để đẩy giặc vào thế bị động, giành lấy thế chủ động cho cuộc kháng chiến. Ông nói: “Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc”. Triều đình tán thành chủ trương ấy. Lý Thường Kiệt liền tổ chức một cuộc tập kích vào đất Tống nhằm phá tan các cứ điểm xâm lược Ung, Khâm, Liêm mà chủ yếu là thành Ung Châu rồi quay về phòng thủ đất nước, chủ động đánh địch. Trong cuộc tập kích này, Lý Thường Kiệt huy động hơn 10 vạn quân thủy bộ. Về mặt bộ, lực lượng chính chủ yếu là quân lính các tộc thiểu số do các tù trưởng của họ là Tôn Đản, Lưu Kỷ, Hoàng Kim Mãn, Thân Cảnh Phúc, Vi Thủ An chỉ huy. Phụ trách chung là Tôn Đản. Bộ binh tập trung ngay ở các châu Quảng Nguyên, Môn (Đông Khê), Quang Lang, Tô Mậu. Ngày 27/10/1075 chiến dịch tập kích quân địch của Lý Thường Kiệt bắt đầu. Trước sức tiến công mãnh liệt của quân ta, quân Tống không thể chống đỡ, phải tháo chạy vào thành Ung Châu cố thủ. Quân ta thừa thắng tiến lên bao vây chặt thành Ung Châu. Sau hai tháng tiến công, quân ta đã phá tan toàn bộ hệ thống đồn trại của Tống ở dọc biên giới. ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  30. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 30 – Ngày 30/12/1075, chủ lực của đợt tập kích đã theo đường thủy, do đích thân Lý Thường Kiệt chỉ huy, từ châu Vĩnh An (Móng Cái, Quảng Ninh) tiến đánh Khâm Châu. Ngày 31/12/1075, thành Khâm Châu bị quân ta tập kích bất ngờ thất thủ. Ngày 2/1/ 1076, quân ta đánh chiếm Liêm Châu dễ dàng. Quân Tống không cản nổi đường tiến quân của ta. Để làm sáng tỏ mục đích của cuộc tập kích vào đất Tống và tạo điều kiện hơn nữa, Lý Thường Kiệt đã cho niêm yết khắp nơi tờ “Phạt Tống lộ bố văn”. Ngày 17/1/1076, Tôn Đản hợp quân với Lý Thường Kiệt bao vây thành Ung Châu. Quân Tống tại thành Ung Châu hết sức cố thủ và không ngừng xin viện binh. Triều Tống ra lệnh cho Tô Giám phải hết sức cố thủ để chờ đạo quân “Nam viện” của Quách Quỳ tập hợp sẽ tiến thẳng vào kinh đô Đại Việt. Nhưng trước sức tiến công rất quyết liệt của quân ta, Đề kiểm Quế Châu phải sai Trương Thủ Tiết dẫn một vạn quân kỵ tới giải nguy. Toàn bộ đạo viện binh này đã bị Lý Thường Kiệt đặt phục binh tiêu diệt tại núi Côn Luân (Trung Quốc) vào ngày 6/2/1076. Cuộc vây thành Ung Châu đã kéo dài hơn một tháng. Quân địch khốn quẫn vì cạn lương, thiếu nước viện binh lại bị tiêu diệt không đến được. Sau 42 ngày đêm công phá dữ dội, ngày 1/3/1076, quân ta hạ được thành Ung Châu. Tô Giám cùng toàn thể gia quyến của y tự thiêu mà chết. Mục đích của cuộc tiến công thành Ung Châu là để tự vệ một cách tích cực. Đó là một bộ phận khăng khít, là giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống. Bằng cuộc tiến công táo bạo đó, Lý Thường Kiệt đã đẩy kẻ thù vào thế bị động và tạo ra nhiều điều kiện có lợi để đánh bại kẻ thù khi chúng kéo sang xâm lược. Những căn cứ quân sự và hậu cần mà nhà Tống dốc bao công phu, bao thời gian xây dựng đã bị phá hủy tan tành. Cuộc hành binh xâm lược của chúng sắp tới sẽ có nhiều chậm trễ vì gặp nhiều khó khăn. 3.2.4. Dựng phòng tuyến phá giặc Biết chắc quân Tống thế nào cũng kéo quân sang xâm lược để thực hiện mục đích đã đeo đuổi từ lâu và để phục thù, Lý Thường Kiệt đã chủ động rút về rất sớm để xúc tiến việc chuẩn bị kháng chiến. Sau thất bại đau đớn dọc biên giới Việt – Tống, nội bộ nhà Tống thêm lục đục. Vua quan nhà Tống đổ lỗi cho nhau, một số khuyên vua Tống Thần Tông không nên phiêu lưu đánh Đại Việt. Nhưng với bản chất hiếu chiến và tham vọng bành trướng, Tống Thần Tông vẫn một mực chủ trương tiến đánh Đại Việt. Tháng 3 năm 1076, vua Tống hạ chiếu sai Quách Quỳ làm chánh tướng, Triệu Tiết làm phó lo việc binh lương. Quách Quỳ là tướng miền Bắc đã từng giúp Phạm Trọng Yêm chống Hạ. Các tướng cũng đều lấy từ miền Tây Bắc. Binh lính được huy động là 10 vạn quân kỵ, bộ, 1 vạn ngựa trong số này, 4,5 vạn là quân rút từ biên giới Liêu, Hạ, do 9 tướng chỉ huy. Số còn lại tập ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  31. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 31 – trung ở các lộ, đặc biệt là các lộ dọc đường từ kinh đô đến Ung Châu. Ngoài 10 vạn quân chiến đấu còn có 20 vạn phu đi phục vụ. Như vậy, bộ phận chủ yếu của đạo quân xâm lược này là những võ quan và binh sĩ thiện chiến. Trang bị của bộ binh Tống ngoài vũ khí thông thường còn có máy bắn đá và hỏa tiễn (pháo thăng thiên). Vua Tống còn sai Hàn lâm y quân viện chọn 57 bài thuốc trị lam chướng làm thành thuốc hoàn cho mang theo để chữa bệnh cho binh sĩ. Lý Thường Kiệt thấy rằng Tống là một vương quốc lớn và đã điều động một đạo quân khổng lồ (binh phu hơn 30 vạn); vì thế nếu ta đem toàn bộ lực lượng ra quyết chiến với quân chủ lực địch ngay khi chúng mới vào biên giới thì rất bất lợi. Nhưng mặt khác ông lại thấy nhà Tống tiến hành cuộc chiến tranh này trong thế bị động, trong lúc gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là sự uy hiếp của Liêu, Hạ. Nhà Tống không thể kéo dài chiến tranh, không thể dốc nhiều lực lượng cho chiến tranh. Vua Tống dặn Quách Quỳ “phải lo việc An Nam cho chóng xong”. Còn về phía ta, tiềm lực vật chất tuy ít hơn địch, nhưng vua tôi, quân dân đều đồng lòng quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc với tư thế chủ động của người giành thắng lợi trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến và ta lại được chiến đấu trên đất nước mình, quê hương mình. Lý Thường Kiệt quyết định sẽ chặn đứng bước tiến của quân xâm lược trước miền đất chủ yếu của tổ quốc (kinh đô Thăng Long, đầu não của lực lượng kháng chiến) là phủ Thiên Đức (Từ Sơn, Bắc Ninh) quê hương của nhà Lý, là vùng đồng bằng phì nhiêu giàu có, đông dân. Đó cũng chính là mục tiêu chủ yếu mà quân địch cần đánh chiếm. Thủy binh địch tập trung ở Khâm Châu. Từ Khâm Châu, theo Khứ Phi, tác giả của sách Lĩnh ngoại đại đáp (đời Tống) thuyền đi một ngày đến châu Vĩnh An. Ở Vĩnh An, thuyền theo sông Đông Kênh vào cửa Bạch Đằng lên Vạn Xuân (Phả Lại trên sông Lục Đầu) để vào Thăng Long hoặc ứng các ngả cho các cánh quân bộ. Thủy binh địch không phải là lực lượng lớn, lại không tinh nhuệ nhưng có nhiệm vụ phối hợp với bộ binh “ghé vào bờ bắc sông để chở đại quân qua sông”. Về mặt biển, phía ta, tướng Lý Kế Nguyên phụ trách một đội thủy binh đóng dọc sông Đông Kênh. Sông Đông Kênh là dải nước ven biển giữa đất liền và các hải cảng từ Móng Cái đến cửa sông Bạch Đằng. Lý Kế Nguyên phải chặn bằng được thủy binh địch, làm thất bại kế hoạch phối hợp quân thủy bộ của Tống. Lực lượng chủ yếu của địch trong cuộc xâm lược này là bộ binh và kỵ binh. Quân kỵ, quân bộ liên kết từ Ung Châu và các trại xung quanh. Từ đó quân địch sẽ theo nhiều đường qua vùng Đông Bắc nước ta để tiến vào Thăng Long. Các mũi tiến công của bộ binh địch đều phải qua vùng núi rừng Đông Bắc hiểm trở. Đó là nơi cư trú của các dân tộc thiểu số, chủ yếu là người Tày. Lý Thường Kiệt giao ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  32. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 32 – cho các tù trưởng chỉ huy các đội quân thiểu số – lúc đó gọi là quân Thượng du – lợi dụng địa hình , đón đánh địch. Phò mã Thân Cảnh Phúc, thủ lĩnh châu Quang Lang đóng quân ở động Giáp (vùng Kép, Bắc Giang), khống chế con đường chính Lạng Sơn – Thăng Long. Lợi hại nhất là những đội phục binh của ông đặt ở đèo Quyết Lí và ải Giáp khẩu. Yểm trợ cho Thân Cảnh Phúc ở phía Tây là quân của Sầm Khánh Tân, Nùng Thuận Linh, Hoàng Kim Mãn ở vùng Châu Môn, ngăn chặn đường từ Bình Gia (Lạng Sơn) đến Thái Nguyên. Phía Đông, Thân Cảnh Phúc và quân của Vi Thủ An đóng ở châu Tô Mậu ngăn chặn đường từ Tư Lăng (thuộc Ung Châu) đến Lạng Châu. Những đạo quân thiểu số trên đây rất thông thạo địa hình, là nỗi e ngại lớn cho kẻ địch. Triệu Tiết nói rằng : “Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên, Thân Cảnh Phúc ở động Giáp đều cầm cương binh”: Nhưng lực lượng vũ trang của các dân tộc miền núi rõ ràng là không thể chặn đứng được giặc. Với sức mạnh to lớn ban đầu, các mũi tiến công của bộ binh Tống có thể vượt qua những chiến tuyến phụ của quân ta. Tuy nhiên muốn đến được Thăng Long, dù đi đường nào cũng phải qua sông Cầu (Như Nguyệt hay Nguyệt Đức). Sông Cầu bắt nguồn từ Cao Bằng, đổ ra sông Lục Đầu ở Phả Lại (lúc đó là Vạn Xuân). Dòng sông chặn ngang tất cả các con đường bộ từ Quảng Tây vào Thiên Đức, Thăng Long, đường thủy từ Bạch Đằng muốn vào Thiên Đức đến Thăng Long cũng phải qua sông Cầu ở khu vực Vạn Xuân. Thượng lưu sông Cầu rất hiểm trở, khúc sông từ Thái Nguyên lên Đa Phúc có thể qua lại được nhưng sang sông rồi lại gặp phải dãy núi Tam Đảo khó vượt qua. Chỉ có khúc sông từ Đa Phúc đến Phả Lại dài khoảng gần 100 km, nhất là đoạn từ Ngã Ba Xà(ngã ba sông Cà Lồ và sông Cầu) trở xuống, tức sông Như Nguyệt là có thể qua lại dễ dàng, có bến đò, có đường bộ về Thăng Long. Tại bờ nam sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt cho đắp đất làm chiến lũy dọc sông, phía ngoài lũy, giáp mặt sông, ông sai đắp cọc tre làm nhiều lớp giậu. Dưới bãi sông còn có những hố sông ngầm. Sông rộng, chông ngầm, giậu dày, lũy cao kết hợp với nhau chặt chẽ thành một chiến tuyến lợi hại. Nói chung, chiến tuyến Như Nguyệt chạy dài từ Ngã Ba Xà đến Vạn Xuân (Phả Lại). Nhưng trên đoạn sông này, hai bên bờ có nhiều chổ núi ăn sát bờ sông (núi Nham Biền ở huyện Việt Yên, Bắc Giang), hoặc rừng cây um tùm. Ở những chỗ đó không cần phải đắp chiến lũy. Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy cho tập trung đắp lũy làm rào ở những nơi địch có khả năng vượt sông mà quan trọng nhất là khu vực bến Như Nguyệt, Thị Cầu, Vạn Xuân. Quân chủ lực được điều đến để chiến đấu bên chiến lũy. Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy ở đây. Một bộ phận quân đóng ngay bên phòng tuyến ở những vị trí xung yếu, ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  33. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 33 – những nơi địch có thể vượt qua. Theo sách Việt điện u linh, Lý Thường Kiệt cho đóng những trại quân: Như Nguyệt, Thị Cầu, Phấn Động (thị xã Tam Đa, Yên Phong, Bắc Ninh) và Vạn Xuân. Đây là những cứ điểm quan trọng có thể liên hoàn thủy bộ, ứng cứu cho nhau nhanh chóng kịp thời. Theo truyền thuyết của một số làng thì đại bản doanh của Lý Thường Kiệt ở xã Yên Phụ (Yên Phong, Bắc Ninh). Xã này nằm trên con đường cổ từ bến Như Nguyệt về Thăng Long, cách Như Nguyệt khoảng 6 km, không xa các đường khác về Thăng Long. Nơi đây lại có núi Thất Diệu gồm bảy ngọn núi thấp nổi lên giữa cánh đồng. Vị trí và địa hình này có thể phù hợp với yêu cầu chỉ huy sở của đại quân đã nêu ở trên. Toàn bộ chủ lực quân thủy bộ của ta trên chiến tuyến Như Nguyệt có thể là trên 6 vạn. Lý Thường Kiệt đã kết hợp địa hình tự nhiên, bãi chướng ngại vật với quân đội mà bố trí lực lượng có trọng điểm để vừa có thể kiểm soát, bảo vệ được toàn chiến tuyến vừa có thể nhanh chóng tập trung đánh lại có hiệu quả những mũi đột phá của địch và tổ chức phản công khi có thời cơ. 3.2.5. Đập tan 30 vạn quân xâm lược Tống Quân Tống bắt đầu cuộc xâm lược nước ta vào mùa thu năm 1076. Tháng 7 năm 1076, toàn bộ quân đội của Quách Quỳ đã tiến xuống Ung Châu. Quách Quỳ cho những đội quân tiên phong đánh chiếm một vài nơi ở địa đầu nước ta để thăm dò tình hình. Giữa tháng 8 năm 1076, tướng địch Nhâm Khởi đánh chiếm được trại Ngọc Sơn ở biên giới thuộc châu Vĩnh An. Quách Quỳ liền ra lệnh cho Hòa Mâu và Dương Tùng Tiên đem thủy quân lên đường. Từ Khâm Châu, thủy quân địch sang hải phận châu Vĩnh An để định theo sông Đông Kênh vào Bạch Đằng. Lý Kế Nguyên lập tức cho quân ra chặn đứng thủy quân Tống, buộc chúng phải rút về Liên Châu cố thủ. Lý Kế Nguyên đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đó là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trong toàn bộ kế hoạch kháng chiến của Lý Thường Kiệt, chặn đứng thủy quân do Hòa Mâu và Dương Tùng Tiên chỉ huy. Trên đường bộ, vào tháng 12 năm 1076, Quách Quỳ cho một số tướng giỏi như Yên Đạt, Tu Kỷ tiến đánh Quảng Nguyên. Lưu Kỉ và quân sĩ chiến đấu rất hăng hái, giết và bắt được khá nhiều giặc. Theo sách Đại Nam nhất thống chí, nhân dân ở phía bắc châu Quảng Nguyên cũng tham gia đánh giặc chống cướp phá. Cho đến đầu năm 1077, khi kiểm soát được Quảng Nguyên thì địch đã bị thiệt hại khá nhiều. Đại quân Quách Quỳ từ châu Tư Minh (Bằng Tường, Quảng Tây) theo nhiều ngả tiến vào nước ta. Ngày 8/1/1077, Quách Quỳ chỉ huy bộ phận chủ yếu, vượt ải Nam Quan vào Lạng Sơn, định theo đường thiên lí xuống Thăng Long. Quân ta rút khỏi ải ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  34. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 34 – Quyết Lý. Theo kế hoạch, Thân Cảnh Phúc bố trí quân ở rừng núi, dọc theo đường thiên lí, tiếp tục chiến đấu đánh tiêu hao địch. Thân Cảnh Phúc vẫn ở vùng động Giáp ráo riết đôn đốc quân lính chuẩn bị đánh giặc ở Giáp Khẩu (Chi Lăng). Quách Quỳ bỏ ý định tiến thẳng qua ải Giáp Khẩu theo đường thiên lí mà đem quân sang phía Tây. Quân Tống vượt dãy núi Bắc Sơn đến Yên Thế rồi tới ven sông Cầu vùng Thái Nguyên. Sách Tục tư trị thông giám trường biên viết: “giặc đặt phục binh ở cửa ải Giáp Khẩu để đón quân ta. Quỳ biết nên đi đường tắt qua dãy núi Đâu Đỉnh mà tiến rồi tới sông Phú Lương”. Ngày 18/1/1077, đại quân Quách Quỳ đến bờ bắc của đoạn đầu sông Như Nguyệt đối diện với bến đò Như Nguyệt, với đường cái lớn về Thăng Long. Địch muốn hành quân tiếp, nhưng trước mặt là dòng Như Nguyệt và chiến tuyến của quân ta ở bờ Nam. Quách Quỳ định tổ chức vượt sông, tấn công quân ta, tiến thẳng về Thăng Long như kế hoạch đã định. Nhưng thủy binh địch bặt hẳn tâm tích. Quách Quỳ phải quyết định tạm đóng quân lại ở bờ bắc sông Như Nguyệt. Với ý đồ chuẩn bị vượt sông, tiếp tục cuộc tiến công đánh chiếm kinh thành Thăng Long, nên địch không cần dàn đều lực lượng trên trận tuyến dài mà chúng đóng thành từng khối ở những vị trí xung yếu, nhất là những bến đò, những con đường thuận lợi tiến về Thăng Long. Một bộ phận quan trọng quân Tống do phó tướng Triệu Tiết chỉ huy đóng ở bờ bắc bến đò Như Nguyệt (vùng thôn Mai Thượng, xã Mai Đình, huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang). Phía địch, đại bản doanh của Quách Quỳ đóng ở phía đông, cách khu đóng quân của Triệu Tiết, Miêu Lý ở vùng xã Mai Đình 60 dặm khoảng hơn 30 km. Đó có thể là địa điểm đối diện với Thị Cầu (khu vực thị xã Bắc Ninh, thuộc huyện Việt Yên ngày nay). Đây là vị trí trọng yếu nằm trên đường thiên lí. Đạo quân do Quách Quỳ trực tiếp chỉ huy này là một trong những đạo quân chính. Như vậy là địch chia quân làm hai khối lớn do chánh tướng và phó tướng trực tiếp chỉ huy, đóng cách nhau hơn 30 km ở bắc sông Như Nguyệt trước mặt hai bến đò lớn nằm trên hai trục đường quan trọng tiến về Thăng Long. Khoảng giữa hai khối quân lớn, địch còn đóng giữ một số vị trí cần thiết để có thể liên hệ, tiếp ứng cho nhau khi tổ chức vượt sông hoặc khi bị tiến công. Trong số các vị trí đó có địa điểm núi Tiên Lát ở thôn Hạ Lát xã Tiên Sơn (huyện Việt Yên). Khu núi Tiên Lát gồm có núi Voi, núi Chúc, núi Lều, núi Phượng Hoàng cao dưới 80 mét. Đứng trên núi Phượng Hoàng có thể nhìn rõ một vệt dài ở bờ nam sông Như Nguyệt từ xã Dũng Liệt đến xã Hòa Long (đều thuộc huyện Yên Phong) và đến cả vùng Thị Cầu. ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  35. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 35 – Tiến xuống bờ bắc sông Như Nguyệt, quân Tống chỉ còn cách Thăng Long khoảng 20 km (tính theo đoạn Như Nguyệt – Thăng Long). Quách Quỳ nóng lòng muốn chiếm Thăng Long để thực hiện kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh như vua Tống đã căn dặn. Việc Quách Quỳ phải tạm dừng lại đợi thủy quân vào hợp đồng tác chiến là bất đắc dĩ. Tướng giặc Vương Tiến được lệnh bắc cầu phao qua bến Như Nguyệt để cho đội quân xung kích của Miêu Lý sang sông. Đội quân này khoảng hai nghìn tên nhờ cầu phao qua sông dễ dàng và sau đấy chọc thủng được một chiến tuyến của quân ta. Lợi dụng địa hình ở Yên Phụ (Yên Phong Bắc Ninh), Lý Thường Kiệt bố trí một trận địa mai phục chờ giặc. Quân ta được nhân dân hết sức giúp đỡ, đánh giặc rất dữ dội. Giặc thua tan tác, số sống sót cùng Miêu Lý hoảng hốt chạy về bến Như Nguyệt, nhưng đến nơi thì cầu phao đã bị cắt và quân ta lại tiến công mạnh mẽ. Bên kia sông Triệu Tiết cho bè sang cứu không được. Sách Tục tư trị thông giám trường biên chép : “binh thế đứt đoạn, quân ít không địch nổi nhiều, bị giặc (chỉ quân ta) ngăn chặn rơi ngã xuống sông”, phần lớn đội quân xung kích của địch bị tiêu diệt. Miêu Lý và một số tàn binh liều chết chạy về bờ bắc. Cuộc tiến công mở màn của địch bên bờ sông Như Nguyệt đã bị quân dân ta đập tan nhanh chóng. Sau đó, Quách Quỳ lại huy động một lực lượng mạnh hơn và đóng bè lớn chở quân qua sông lần hai. Mỗi lần bè chở đựơc 500 tên. Bè không có nhiều, chở quân sang lại phải quay về đón số mới. Hết lớp này đến lớp khác, quân Tống đổ sang bờ sông Như Nguyệt rồi xông lên phá bãi chướng ngại ven sông. Chúng chặt đốt những hàng rào bằng tre. Nhưng hàng rào mấy tầng rất khó phá. Quân ta từ trên chiến lũy lại đánh dữ dội. Lớp trước bị tiêu diệt, lớp sau sang cứu viện cũng bị đánh tan. Học giả họ Trình nhà Tống đã mô tả trận đánh như sau: “dùng bè chở 500 quân vượt sông vừa chặt vừa đốt mấy lần trại rào bằng tre không được. Đem bè không về chở cứu binh sang, nhưng lại bị giặc (chỉ quân Lý Thường Kiệt) bắt giết. Thế là quân ta không được cứu, kẻ trốn, kẻ chết, không thành công được”. Hai lần vượt sông, hai lần thất bại thảm hại, vì thế nên tuy trong tay gần nguyên vẹn số quân 10 vạn, số phu 20 vạn mà Quách Quỳ không dám nghĩ đến tiến công nữa. Quách Quỳ quyết định dứt khoát phải chờ thủy quân và buồn rầu ra lệnh: “Ai bàn đánh sẽ chém”. Chủ lực của địch là bộ binh và kị binh đã không thể liên hệ được với thủy binh và bị chặn đứng lại trước chiến tuyến sông Như Nguyệt. Quân địch tuy chiếm được khu Đông Bắc và Bắc ngạn sông Cầu nhưng đã mất thế chủ động tiến công và bị hãm trong một địa bàn rất bất lợi. Đó là vùng thượng du và trung du, dân cư thưa thớt, quân Tống không ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
  36. Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam - 36 – thể vơ vét cướp bóc được. Lương ăn của đạo quân xâm lược hoàn toàn trông chờ vào việc vận chuyển tiếp tế bằng đường bộ của dân phu. Quân dân ta vòng sau lưng địch lại phát triển các hoạt động du kích quấy rối liên tục. Những đoàn phu vận chuyển lương thực luôn bị chặn đánh. Những đội quân thượng du của ta cùng với dân chúng các tộc người thiểu số len lỏi trong rừng sâu, núi cao thường bất ngờ tiến ra đánh tỉa. Hoạt động mạnh nhất là đạo quân của phò mã Thân Cảnh Phúc ở vùng động Giáp. Sách Đại Việt sử ký dẫn một đoạn trong sách Quế Hải chí như sau : “Viên tri châu quan lang là phò mã bị thua, bèn trốn vào trong bụi cỏ, thấy quân Tống đi lẻ loi thì giết chết hoặc bắt về người ta cho là một vị thiên thần”. Quân Tống rất hoang mang lo sợ. Hai tháng đã trôi qua, quân Tống ngày càng bị tiêu hao về số lượng và đặc biệt nghiêm trọng là quân Tống không thể vơ vét cướp bóc của cải được. Lương ăn của đạo quân xâm lược hoàn toàn trông chờ vào việc vận chuyển tiếp tế bằng đường bộ của dân phu. Viên quan chuyển vận sứ Lý Bình Nhất đã tính phải có 40 vạn phu, nhưng nhà Tống chỉ điều được 20 vạn. Do đó, một số vũ khí và tên sắt của quân lính đã phải bỏ lại, lương thực không mang được nhiều. Quân Tống tuy thế suy lực giảm nhưng vẫn còn một số lượng khá đông. Chúng vẫn đóng trên một trận tuyến dài khoảng 30 km ở bờ bắc sông Như Nguyệt. Từ lúc chuyển sang thế tạm thời cố thủ, chúng không dám tiến công ta dù bị khiêu khích, nhưng lại có âm mưu nhử quân ta sang bờ bắc để tiêu diệt. Chúng đã bàn tính: “nhử người tới đất mình lợi hơn mình tới đất người”. Vậy nên “giả cách không phòng bị, chúng nó (chỉ quân ta) ắt tới đánh”. Trong điều kiện quân địch còn đông và lo phòng thủ như vậy, nên ta không thể mở một cuộc tổng phản công bao vây, tiêu diệt toàn bộ quân địch. Lý Thường Kiệt chủ trương mở nhiều cuộc công kích để vừa có thể chia sẻ lực lượng, vừa tiêu diệt được nhiều địch. Hai đối tượng chính mà Lý Thường Kiệt dự định tập trung lực lượng đánh vào là khối quân của Quách Quỳ và Triệu Tiết. Lý Thường Kiệt cử hai hoàng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn đem 400 chiến thuyền chiến, chở hai vạn quân từ Vạn Xuân ngược sông Như Nguyệt mở một cuộc tiến công vào doanh trại Quách Quỳ. Sử nhà Tống đã mô tả : “Vài vạn quân quát tháo, chửi mắng đến đánh”. Cuộc tiến công của thủy quân ta đã gây cho địch nhiều thiệt hại. Nhưng quân ta cũng bị tổn thất. Hai hoàng tử Hoằng Chân, Chiêu Văn và mấy nghìn quân đã hy sinh. Cuộc tiến công chính diện này không chỉ nhằm tiêu diệt sinh lực địch mà còn nhằm thu hút lực lượng và tập trung sự chú ý của các khối quân địch vào đây. Việc đó tạo nên ThS. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử