Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam năm 2004

pdf 124 trang huongle 5900
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam năm 2004", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbao_cao_thuong_mai_dien_tu_viet_nam_nam_2004.pdf

Nội dung text: Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam năm 2004

  1. BỘ THƯƠNG MẠI BÁO CÁO THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VIỆT NAM NĂM 2004 HÀ NỘI, THÁNG 4 NĂM 2005 i
  2. Lưu ý Tài liệu này do Vụ Thương mại điện tử, Bộ Thương mại chủ trì biên soạn. Những quan điểm và nhận định đưa ra trong Báo cáo tổng hợp từ kết quả điều tra khảo sát và không phản ánh quan điểm chính thức của Bộ Thương mại. Mọi trích dẫn thông tin từ tài liệu này phải nêu rõ nguồn “Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam 2004” của Bộ Thương mại. Tổ chức cá nhân có nhu cầu xin báo cáo, xin liên hệ với Vụ Thương mại điện tử, Bộ Thương mại, 21 Ngô Quyền, Hà Nội, Việt Nam. Toàn văn Báo cáo này cũng được đăng trên website chính thức của Bộ Thương mại, mục “Thương mại điện tử” phần “Chính sách”, tại địa chỉ sau: ii
  3. LỜI MỞ ĐẦU Thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại điện tử, hàng năm Bộ Thương mại tiến hành điều tra hiện trạng về thương mại điện tử nhằm cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách, doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu và đông đảo các đối tượng khác bức tranh chân thực về tình hình phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam. Báo cáo Hiện trạng phát triển Thương mại điện tử Việt Nam năm 2003 cho thấy thương mại điện tử đã hình thành và phát triển khá nhanh, đồng thời chỉ ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết ở tầm vĩ mô. Báo cáo Hiện trạng phát triển Thương mại điện tử Việt Nam năm 2004 do Vụ Thương mại điện tử chủ trì đã phản ánh nhiều khía cạnh liên quan tới tình hình phát triển thương mại điện tử trong năm 2004 ở nước ta. Báo cáo cung cấp nhiều thông tin giá trị về sự phát triển thương mại điện tử trong năm 2004. So sánh với năm 2003 chúng ta có thể thấy rõ thương mại điện tử ở nước ta đã vươn lên tầm cao mới, góp phần nhất định vào sự phát triển thương mại của đất nước. Báo cáo đã đưa ra quan điểm và nhận định về các khía cạnh liên quan tới thương mại điện tử và một số khuyến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nước lẫn doanh nghiệp. Những quan điểm và nhận định này tổng hợp từ kết quả điều tra khảo sát và không phản ánh quan điểm chính thức của Bộ Thương mại. Một số bộ ngành và tổ chức từ trung ương tới địa phương, đặc biệt là Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, đã phối hợp, giúp đỡ Vụ Thương mại điện tử xây dựng Báo cáo này. Rất nhiều doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực kinh doanh trên phạm vi cả nước đã nhiệt tình tham gia hoạt động điều tra, phỏng vấn. Thay mặt lãnh đạo Bộ Thương mại tôi xin bày tỏ lòng cám ơn chân thành tới tất cả những tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành Báo cáo này. Chúng tôi cũng xin cám ơn các ý kiến góp ý cho Báo cáo Hiện trạng phát triển Thương mại điện tử năm 2004 để rút kinh nghiệm cho hoạt động này của năm 2005 được tốt hơn. Mùa Xuân năm 2005 TS. Lê Danh Vĩnh Thứ trưởng Bộ Thương mại (đã ký) iii
  4. MỤC LỤC Lời mở đầu ii Mục lục hộp minh hoạ vii Mục lục bảng viii Mục lục đồ thị ix Tổng quan tình hình phát triển thương mại điện tử tại Việt Nam năm 2004 x Phần thứ nhất Tổng quan về CNTT và viễn thông gắn với thương mại điện tử 1. Công nghệ thông tin 1 1.1. Tình hình ban hành chính sách 1 1.2. Tình hình phát triển và triển khai các chính sách về CNTT 4 2. Viễn thông và Internet 5 2.1. Tình hình ban hành chính sách 5 2.2. Tình hình hạ tầng viễn thông 6 2.3. Tình hình Internet 7 3. Một số công nghệ liên quan tới phát triển CNTT và Internet 14 3.1. Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) 14 3.2. Chữ ký điện tử và chứng thực điện tử 16 3.3. Phần mềm nguồn mở 19 4. Một số vấn đề khác 20 4.1. Sở hữu trí tuệ 20 4.2. An ninh mạng 21 Phần thứ hai Môi trường chính sách và pháp luật về thương mại điện tử 1. Tình hình chung 23 2. Tình hình xây dựng các chiến lược, kế hoạch liên quan tới TMĐT 24 2.1. Chiến lược phát triển Công nghệ thông tin và Truyền thông (CNTT&TT) 24 2.2. Kế hoạch tổng thể Phát triển Thương mại điện tử giai đoạn 2006 – 2010 25 2.3. Kế hoạch tổng thể Phát triển Chính phủ điện tử tới năm 2010 25 3. Pháp lệnh Thương mại điện tử và Luật Giao dịch điện tử 26 3.1. Pháp lệnh Thương mại điện tử 26 3.2. Luật Giao dịch điện tử 27 4. Một số luật và chính sách liên quan tới TMĐT 28 4.1. Pháp luật về quảng cáo 28 4.2. Luật Kế toán 29 4.3. Bộ luật Dân sự (sửa đổi) 29 4.4. Luật Thương mại (sửa đổi) 30 4.5. Luật Công nghệ thông tin 31 5. Một số văn bản pháp lý khác 32 5.1. Nghị định về chữ ký số và dịch vụ chứng thực điện tử 32 5.2. Nghị định về nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh và sử dụng mật mã bảo vệ 33 iv
  5. thông tin không thuộc phạm vi bí mật nhà nước 6. Các chính sách liên quan tới cung cấp dịch vụ gắn với TMĐT 33 6.1. Nghị định số 55/2001/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ 33 Internet 6.2. Thanh toán điện tử 34 6.3. Thủ tục hải quan, thuế điện tử 35 6.4. Các thủ tục cấp phép điện tử cho các hoạt động đầu tư, thương mại 37 6.5. Pháp luật về sở hữu trí tuệ 38 6.6. Pháp luật về chứng cứ 38 6.7. Tội phạm trên mạng 39 Phần thứ ba Tình hình ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp 1. Tổng quan tình hình ứng dụng CNTT và TMĐT 41 1.1. Tình hình ứng dụng CNTT trong doanh nghiệp 42 1.1.1. Kết nối Internet 42 1.1.2. Cơ cấu đầu tư CNTT 44 1.1.3. Phát triển nguồn nhân lực cho CNTT và TMĐT trong doanh nghiệp 45 1.2. Các công ty thiết lập website TMĐT 45 1.2.1. Tình hình chung 46 1.2.2. Tính năng TMĐT của trang web 48 1.2.3. Lựa chọn mô hình kinh doanh TMĐT 48 1.2.4. Hiệu quả đầu tư cho TMĐT 49 2. Các hình thức tổ chức website 50 2.1. Website công ty 50 2.2. Siêu thị trực tuyến (bán hàng tổng hợp) 54 3. Những hàng hóa phổ biến trên mạng hiện nay 59 3.1. Sản phẩm có độ tiêu chuẩn hóa cao 59 3.2. Sản phẩm số hóa 60 3.3. Sản phẩm thông tin 62 3.4. Thiếp, hoa, quà tặng 63 3.5. Hàng thủ công mỹ nghệ 63 4. Những dịch vụ ứng dụng TMĐT 65 4.1. Dịch vụ CNTT 65 4.2. Dịch vụ du lịch 67 4.3. Dịch vụ thông tin 68 4.4. Dịch vụ tư vấn 70 4.5. Dịch vụ giáo dục và đào tạo trực tuyến 72 Phần thứ tư Một số dịch vụ hỗ trợ thương mại điện tử 1. Dịch vụ “chợ” trên mạng (các website cung cấp dịch vụ trung gian mua bán, 74 còn gọi là sàn giao dịch TMĐT) v
  6. 1.1. Tình hình phát triển chung 76 1.1.1. Về số lượng 76 1.1.2. Về trình độ tổ chức 77 1.1.3. Về hoạt động giao dịch thực tế tiến hành trên sàn 78 1.2. Các đơn vị đứng ra tổ chức và quản lý sàn 81 1.2.1. Tổ chức phi lợi nhuận 81 1.2.2. Doanh nghiệp nhà nước 83 1.2.3. Doanh nghiệp tư nhân 84 1.3. Hình thức tổ chức sàn 85 1.3.1. Cổng thông tin về cơ hội giao thương (B2B) 85 1.3.2. Trung tâm thương mại (B2B và B2C) 86 1.3.3. Website đấu giá (C2C) 87 1.4. Tính chuyên môn hóa 88 1.5. Hiệu quả kinh tế của dịch vụ sàn giao dịch điện tử 90 2. Dịch vụ thanh toán điện tử 91 2.1. Trao đổi dữ liệu tài chính điện tử 93 2.2. Thanh toán ngoại tuyến (thanh toán bằng thẻ tại các điểm bán hàng/dịch 93 vụ) 2.3. Thanh toán trực tuyến 95 2.3.1. Giao dịch ngân hàng trực tuyến 95 2.3.2. Thanh toán mua hàng trên Internet bằng tài khoản hoặc thẻ của ngân 96 hàng Việt Nam 2.3.3. Hệ thống lập và thanh toán hóa đơn điện tử 98 2.4. Thanh toán di động 100 Phần thứ năm Kết luận và khuyến nghị 1. Kết luận 101 1.1. Phát triển CNTT và Internet 101 1.2. Ứng dụng TMĐT của các doanh nghiệp 102 1.3. Sự phát triển của các chợ “ảo” 103 1.4. Môi trường pháp lý 104 1.5. Các chính sách liên quan tới TMĐT 105 1.6. Vai trò của nhà nước 106 2. Khuyến nghị 106 2.1. Sớm ban hành Kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT 106 2.2. Nhanh chóng tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho TMĐT 107 2.3. Thay đổi một số chính sách 107 2.4. Cung cấp các dịch vụ công trực tuyến 107 2.5. Phát triển nguồn nhân lực 108 2.6. Hỗ trợ nghiên cứu và chuyển giao công nghệ 108 2.7. Đầu tư cho thương mại điện tử 108 2.8. Kinh doanh điện tử và TMĐT 109 vi
  7. Phụ lục Phụ lục 1: Ước tính số doanh nghiệp Việt Nam có trang web năm 2004 110 Phụ lục 2: Tổng hợp kiến nghị của doanh nghiệp 114 Phụ lục 3: Các mẫu phiếu điều tra 116 Phụ lục 4: Danh sách các doanh nghiệp khảo sát 125 Phụ lục 5: Giới thiệu một số Sàn thương mại điện tử của Việt Nam 136 Phụ lục 5: Tổng quan tình hình phát triển TMĐT trên thế giới 164 vii
  8. Mục lục hộp minh họa Hộp 1.1 Tình hình thực hiện các Quyết định của Thủ Tướng Chính phủ về thống kê CNTT và TT 1.2 Mối quan hệ giữa trang web và TMĐT 1.3 Sự chưa hợp lý của các quy định về quản lý tên miền Việt nam 1.4 Quy định “Thiết lập website phải xin phép” và Thương mại điện tử 1.5 Nhiều doanh nghiệp có nguy cơ bị phạt vì không có giấy phép thiết lập website 1.6 Ứng dụng UN/EDIFACT tại Bộ Thương mại 1.7 Một hãng đi tiên phong trong lĩnh vực bảo mật 1.8 Ý kiến về quy định đảm bảo an toàn, an ninh trong hoạt động Internet 2.1 Quyết định của Quốc hội dừng triển khai Pháp lệnh TMĐT 2.2 Ngừng ban hành Pháp lệnh TMĐT là một sự kiện CNTT năm 2004 2.3 Xu hướng xây dựng pháp luật về GDĐT trên thế giới 2.4 Hành lang pháp lý cho giao kết hợp đồng điện tử 2.5 Dự thảo Luật Thương mại (sửa đổi) và TMĐT 2.6 Hội thảo về Nghị định chữ ký số 2.7 Một dịch vụ thanh toán trực tuyến 2.8 Triển khai thí điểm hệ thống kê khai hải quan điện tử 2.9 Cam kết quốc tế về sở hữu trí tuệ của Việt nam 2.10 Quy định về giá trị chứng cứ của thông điệp dữ liệu 2.11 Tội phạm trên mạng 3.1 Ước tính tỉ lệ kết nối Internet trong doanh nghiệp 3.2 Trang chủ của website giới thiệu Công ty Xuất nhập khẩu Hòa Bình 3.3 Catalogue máy tính trên website của công ty Netsoft 3.4 Đơn đặt hàng trực tuyến trên website của Công ty da giầy Hà Nội 3.5 Minh họa về siêu thị trực tuyến của một công ty thương mại 3.6 Minh họa về siêu thị trực tuyến của một công ty hoạt động dịch vụ 4.1 Minh hoạ về hạ tầng công nghệ của một sàn TMĐT B2B 4.2 Tình hình hoạt động của một sàn giao dịch thành lập trước năm 2004 4.3 Giới thiệu một sàn giao dịch mới thành lập trong năm 2004 4.4 Minh họa về một sàn giao dịch do tổ chức phi lợi nhuận thành lập 4.5 Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ TMĐT tham gia tuyên truyền đào tạo 4.6 Một sàn giao dịch TMĐT tổ chức theo hình thức trung tâm thương mại 4.7 Quy trình thanh toán của một số thẻ trả trước do doanh nghiệp phát hành 4.8 Một mô hình thanh toán thẻ cho giao dịch trực tuyến viii
  9. Mục lục bảng Bảng 1.1 Một số mốc lớn về đường lối, chính sách CNTT 1.2 Một số mốc lớn về đường lối, chính sách viễn thông và Internet 1.3 Số người sử dụng Internet trên 10.000 dân 1.4 Giá trị giao dịch thương mại sử dụng EDI (tỷ USD) 1.5 Các nước dẫn đầu về vi phạm bản quyền năm 2003 3.1 Nhóm đối tượng điều tra chung phân theo ngành nghề kinh doanh 3.2 Nhóm doanh nghiệp có website phân theo ngành nghề kinh doanh 3.3 Cơ cấu đầu tư CNTT trong các doanh nghiệp 3.4 Tỷ lệ website phân theo nhóm sản phẩm/dịch vụ 3.5 Tính năng thương mại điện tử của các website doanh nghiệp Việt Nam 3.6 Các hình thức quảng bá website của doanh nghiệp 3.7 Tỉ trọng chi CNTT trong tổng chi phí hoạt động hàng năm của doanh nghiệp 3.8 Ước tính mức đóng góp vào tổng doanh thu của ứng dụng TMĐT trong doanh nghiệp 3.9 Tỷ lệ website có các tính năng TMĐT - so sánh giữa website hàng hóa và dịch vụ 3.10 Mức độ thường xuyên cập nhật của các loại website 3.11 Cho điểm các tác dụng của website đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp 3.12 Giới thiệu một số siêu thị trực tuyến của Việt Nam 3.13 Một số website kinh doanh thiết bị điện tử và viễn thông 3.14 Một số website cung cấp sản phấm số hóa 3.15 Một số website kinh doanh sách trực tuyến 3.16 Một số website kinh doanh hoa và quà tặng 3.17 Một số website hàng thủ công mỹ nghệ 3.18 Một số website du lịch 3.19 Một số website cung cấp dịch vụ thông tin 4.1 Danh sách các sàn thương mại điện tử của Việt Nam 4.2 Xếp hạng một số sàn giao dịch theo tiêu chí của Alexa ix
  10. Mục lục đồ thị Hình 3.1 Các doanh nghiệp có website phân theo quy mô lao động 3.2 Hình thức truy cập website của các doanh nghiệp nói chung 3.3 Hình thức truy cập Internet của các doanh nghiệp có website 3.4 Tỷ trọng chi CNTT trong chi phí hoạt động hàng năm của doanh nghiệp 3.5 Các hình thức đào tạo CNTT trong doanh nghiệp 3.6 Tỷ lệ website phân theo năm thành lập 3.7 Tỷ lệ website có tên miền Việt Nam và quốc tế trong từng thời kỳ 3.8 Ước tính thời gian hoàn vốn cho đầu tư TMĐT của doanh nghiệp 3.9 So sánh các tính năng TMĐT của nhóm website công ty và siêu thị trực tuyến 3.10 Tỷ lệ các doanh nghiệp tham gia xây dựng siêu thị trực tuyến 4.1 Tỷ lệ các website dịch vụ TMĐT 4.2 So sánh giải pháp liên kết tập trung và liên kết riêng lẻ cho hệ thống thanh toán thẻ trực tuyến Từ viết tắt và giải thích từ ngữ B2B Giao dịch TMĐT giữa doanh nghiệp với doanh nghiêp B2C Giao dịch TMĐT giữa cá nhân với doanh nghiệp C2C Giao dịch TMĐT giữa cá nhân với cá nhân CA Nhà cung cấp dịch vụ chứng thực điện tử (Certification Authority) CNTT&TT Công nghệ thông tin và truyền thông EDI Trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic Data Interchange) GDĐT Giao dịch điện tử (Luật) PMNM Phần mềm nguồn mở TMĐT Thương mại điện tử UNCTAD Cơ quan Liên hợp quốc về Thương mại và phát triển (United Nations Conference on Trade and Development) x
  11. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM NĂM 2004 1. Hạ tầng viễn thông và Internet tốt hơn Một trong những kết quả quan trọng nhất của Báo cáo này là đã ước tính được tổng số website của các doanh nghiệp tại Việt Nam đã đạt tới con số 17.500 vào cuối năm 2004. Đây là con số đầy ấn tượng và phản ánh trung thực hạ tầng viễn thông và Internet tại Việt Nam đã đạt được tiến bộ đáng kể trong năm 2004 so với năm 2003. Các con số thuê bao Internet đạt trên 2 triệu, số IP đã cấp là 0,45 triệu, và 35.000 thuê bao truy nhập Internet sử dụng băng thông rộng đã thể hiện phần nào bước tiến này. Mặt khác, trong số các doanh nghiệp tham gia điều tra phục vụ Báo cáo này có tới 53,9% truy cập Internet sử dụng ADSL cũng cho thấy bức tranh chung về sự năng động của các doanh nghiệp trong việc ứng dụng dịch vụ mới cũng như tầm quan trọng của hạ tầng viễn thông và Internet trong nền kinh tế hiện đại. 2. Môi trường pháp lý chưa thay đổi Đối lập với sự thay đổi nhanh trong hạ tầng viễn thông và Internet là sự chậm chạp của hầu hết các cơ quan xây dựng chính sách và pháp luật trong việc tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho TMĐT phát triển. Đây là một minh hoạ rõ ràng về tình hình khối doanh nghiệp năng động hơn khối cơ quan chính phủ. Điều này cũng không phải là ngoại lệ ở Việt Nam khi UNCTAD đã chỉ ra trong giai đoạn đầu của TMĐT tại các nước đang phát triển thì hạ tầng viễn thông và Internet yếu kém là nguyên nhân chủ yếu cản trở việc ứng dụng TMĐT, nhưng sau đó môi trường pháp lý không thích hợp lại trở thành lực cản lớn nhất đối với sự phát triển của TMĐT. Năm 2004 đã chứng kiến việc các cơ quan nhà nước tích cực xây dựng nhiều dự thảo văn bản quy phạm pháp luật nhằm nhanh chóng tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi, đồng bộ và phù hợp với các quy định quốc tế. Đó là Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội với dự thảo Luật Giao dịch điện tử, Bộ Thương mại với dự thảo Luật Thương mại sửa đổi, Bộ Tư pháp với dự thảo Bộ Luật Dân sự sửa đổi, Bộ Bưu chính Viễn thông với dự thảo Nghị định về chữ ký số và dịch vụ chứng thực điện tử, v.v Mặc dù các cơ quan nhà nước đã cố gắng rất lớn nhưng chưa có văn bản pháp quy nào được ban hành và đi vào cuộc sống. Không những không ban hành được các văn bản pháp quy mới mở đường cho TMĐT phát triển, đặc biệt là văn bản thừa nhận giá trị pháp lý của giao dịch điện tử, năm 2004 còn chứng kiến sự chấm dứt xây dựng Pháp lệnh TMĐT làm thất vọng nhiều doanh nghiệp muốn đầu tư mạnh vào TMĐT. Đồng thời năm 2004 cũng cho thấy sự chậm tiếp thu ý kiến của một số cơ quan ban hành chính sách đối với những quy định không phù hợp với cuộc sống được ban hành từ những năm trước. Hai trường hợp điển hình là Quyết định số 27/2002/QĐ-BVHTT về quản lý website xi
  12. có hiệu lực từ năm 2002 và Quyết định số 92/2003/QĐ-BBCVT về quản lý tên miền có hiệu lực từ năm 2003. 3. Khuynh hướng giao dịch thương mại B2B tăng lên Loại hình giao dịch B2C tiếp tục tăng trưởng. So với năm 2003 số siêu thị trực tuyến tăng lên đáng kể. Đây là những website giới thiệu và bán sản phẩm của nhiều nhà sản xuất, đơn vị quản lý website sẽ chịu trách nhiệm cung cấp thông tin, giao dịch với khách hàng và phân phối sản phẩm. Nhưng nét nổi bật của năm 2004 là giao dịch B2B đã bắt đầu khởi sắc. Song song với số lượng doanh nghiệp thiết lập website để bán sản phẩm của mình với quy mô lớn tăng nhanh, năm 2004 cũng chứng kiến sự ra đời của nhiều website hỗ trợ giao dịch giữa các doanh nghiệp với nhau. Tuy nhiên hầu hết các website này đều chưa có định hướng hoạt động rõ ràng, nguồn nhân lực hạn chế, vốn kinh doanh nhỏ, v.v nên chủ yếu mới dừng ở giai đoạn thiết lập và thử nghiệm. Giá trị giao dịch thực tế còn rất thấp. Loại hình giao dịch B2B truyền thống, tức là hai hoặc nhiều doanh nghiệp có thể mua bán tự động với nhau (B2Bi), chưa hình thành ở Việt Nam. Đồng thời, chưa xuất hiện các website cung cấp dịch vụ đấu thầu trực tuyến quy mô lớn. 4. Đầu tư cho TMĐT hợp lý hơn Trong khi còn nhiều ý kiến đánh giá đầu tư cho CNTT của các cơ quan chính phủ đạt hiệu quả thấp, tình hình đầu tư cho TMĐT của các doanh nghiệp đạt hiệu quả khả quan. Rất nhiều doanh nghiệp tự đánh giá có thể hoàn vốn đầu tư cho TMĐT trong vòng hai năm. Cơ cấu đầu tư tuy còn chưa hợp lý do vẫn chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của dịch vụ tư vấn, giải pháp, phần mềm, đào tạo và chuyển giao công nghệ nhưng nói chung tỷ lệ đầu tư cho các hoạt động này đã tăng lên so với đầu tư cho phần cứng. Nhiều doanh nghiệp cung cấp giải pháp, phần mềm TMĐT và cung cấp dịch vụ thiết kế website đã biết tận dụng những lợi thế của phần mềm nguồn mở. 5. Nguồn nhân lực cho TMĐT bắt đầu hình thành Nhận thức về tầm quan trọng của CNTT giữa các doanh nghiệp còn có sự cách biệt đáng kể nhưng xu hướng chung là các doanh nghiệp ngày càng đánh giá cao ý nghĩa của việc ứng dụng CNTT trong việc nâng cao năng suất và mở rộng thị trường. Năm 2004 số doanh nghiệp có cán bộ chuyên trách về CNTT tăng nhanh. Tuy nhiên còn có sự lúng túng trong việc phân công cán bộ phụ trách về thương mại điện tử. Một số doanh nghiệp giao cho cán bộ CNTT kiêm phụ trách thương mại điện tử, số khác giao cho cán bộ tiếp thị phụ trách. Thực tế cho thấy những doanh nghiệp có cán bộ lãnh đạo được đào tạo ở các nước phát triển hoặc am hiểu về TMĐT phụ trách lĩnh vực này thường thành công hơn các doanh nghiệp giao cho cán bộ CNTT phụ trách TMĐT. Có thể thấy lực lượng hoạt động trong lĩnh vực thương mại điện tử hiện nay ở cả trong khu vực doanh nghiệp lẫn trong khu vực xii
  13. quản lý nhà nước đều trưởng thành từ kinh nghiệm thực tiễn trong vài năm qua và chưa được đào tạo cơ bản. Số cán bộ được đào tạo cơ bản về TMĐT ở Việt Nam hầu như chưa xuất hiện. Cho tới cuối năm 2004 chỉ có rất ít cán bộ được đào tạo cơ bản về lĩnh vực này ở nước ngoài làm việc tại các doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên số sinh viên Việt Nam chọn chuyên ngành TMĐT ở các trường đại học nước ngoài đã tăng lên. Trong vài năm tới khi các sinh viên này về nước sẽ là nguồn nhân lực quan trọng hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Một số trường đại học kinh tế - thương mại trong nước đã tiến hành giảng dạy về TMĐT như là một phần của chương trình đào tạo các kỹ sư kinh tế. Một số doanh nghiệp đi tiên phong trong việc nghiên cứu hoặc kinh doanh TMĐT cũng tích cực tham gia tuyên truyền, đào tạo về TMĐT. 6. Vai trò của nhà nước có nhiều tiến bộ nhưng vẫn chưa nổi bật Một số doanh nghiệp đánh giá khó khăn lớn nhất trong việc tham gia thương mại điện tử là thiếu nguồn nhân lực có kỹ năng. Tuy nhiên nhìn từ góc độ vĩ mô phải thừa nhận thực tế là nếu không có sự hỗ trợ về nhiều mặt của nhà nước thì TMĐT không thể phát triển mạnh mẽ được. Nhiều hoạt động xây dựng chính sách và pháp luật trong năm 2004 của các cơ quan nhà nước có ý nghĩa chuẩn bị cực kỳ quan trọng cho việc ban hành nhiều chính sách và văn bản quy phạm pháp luật trong năm 2005. Nếu như năm 2005 các hoạt động được khởi động từ năm 2004 được hoàn thành như dự kiến thì có thể khẳng định năm 2005 hoặc năm 2006 sẽ là năm khởi đầu cho giai đoạn hai của TMĐT ở Việt Nam.1 Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng vai trò của nhà nước trong năm 2004 chưa nổi bật. Thứ nhất, về môi trường pháp lý, việc chấm dứt Dự án Pháp lệnh Thương mại điện tử trong khi Luật Giao dịch điện tử không thể ban hành cho tới cuối năm 2005 đồng nghĩa với việc giao dịch thương mại sử dụng các phương tiện điện tử chưa được pháp luật chính thức thừa nhận. Hậu quả là không một đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp nào có thể đầu tư thoả đáng vào TMĐT cũng như không doanh nghiệp nào có thể thực hiện các giao dịch thương mại điện tử lớn. Thứ hai, về mặt chính sách, năm 2004 vẫn chưa xuất hiện chính sách nào về TMĐT cụ thể hoá đường lối phát triển đã được vạch ra trong giai đoạn 2000 – 2002. Các doanh nghiệp hầu như không nhận được bất kỳ sự hỗ trợ nào của nhà nước, đặc biệt trong việc đầu tư vào việc cung cấp giải pháp, dịch vụ cho giao dịch thương mại điện tử B2B.2 Thứ ba, cho tới cuối năm 2004 vẫn chưa xuất hiện chiến lược dài hạn hay kế hoạch trung hạn nào đối với phát triển TMĐT trong khi TMĐT liên quan tới nhiều 1 Giai đoạn một là giai đoạn thương mại điện tử hình thành và được pháp luật thừa nhận chính thức, giai đoạn hai là giai đoạn thương mại điện tử được ứng dụng rộng rãi và phát triển. 2 Phát biểu tại Hội nghị Thương mại toàn quốc do Bộ Thương mại tổ chức vào tháng 2 năm 2005, Phó Thủ Tướng Chính phủ Vũ Khoan đã nhấn mạnh thương mại điện tử không đạt được mục tiêu đặt ra trong lĩnh vực thương mại giai đoạn 2001 – 2005. xiii
  14. chủ thể, nhiều lĩnh vực từ trung ương tới địa phương, từ các cơ quan lập pháp và tư pháp tới hành pháp, từ doanh nghiệp tới người tiêu dùng, v.v đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ. Cùng với Chiến lược phát triển CNTT và TT, Kế hoạch tổng thể phát triển Chính phủ điện tử tới 2010, cho tới cuối năm 2004 Kế hoạch tổng thể phát triển Thương mại điện tử mới ở giai đoạn dự thảo và chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt.3 Thứ tư, trong năm 2004 nhiều dịch vụ công hỗ trợ cho TMĐT do các cơ quan nhà nước cung cấp hay hỗ trợ cũng mới dừng ở mức kế hoạch hay triển khai thí điểm. Đáng chú ý nhất là các dịch vụ khai báo hải quan điện tử, thuế điện tử, các thủ tục xuất nhập khẩu điện tử, chứng thực điện tử. Thứ năm, nhà nước có vai trò quan trọng trong việc phổ biến, tuyên truyền, đào tạo về TMĐT và đây là hoạt động mà khu vực doanh nghiệp dù năng động và tích cực cũng không thể thay thế được nhà nước. Mặc dù Bộ Thương mại và một số đơn vị khác đã tiến hành tuyên truyền, phổ biến về thương mại điện tử nhưng chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ so với nhu cầu. Thứ sáu, thống kê về TMĐT có ý nghĩa cực kỳ quan trọng cho cả hoạt động hoạch định chính sách của các cơ quan nhà nước cũng như hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhưng cho tới hết năm 2004 nhà nước vẫn hầu như chưa triển khai công tác này. Không có công bố chính thức và tin cậy nào về nhiều tiêu chí liên quan tới TMĐT. Cần phải khẳng định là không thể triển khai tốt bất cứ hoạt động nào trong sáu hoạt động trên nếu tách rời với các hoạt động còn lại, nghĩa là cần phải triển khai đồng bộ cả sáu hoạt động này. Có thể thấy đây là thử thách rất lớn đối với các cơ quan nhà nước trong năm 2005 và các năm tiếp theo. 3 Năm 2001 Bộ Thương mại đã xây dựng Đề án phát triển TMĐT giai đoạn 2001-2005 và đã trình Chính phủ vào tháng 6/2001 nhưng chưa được Chính phủ phê duyệt. Như vậy, cho tới cuối năm 2004 chưa có chiến lược, kế hoạch tổng thể hay đề án phát triển TMĐT nào được cấp Chính phủ hay Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt. xiv
  15. PHẦN THỨ NHẤT TỔNG QUAN VỀ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ VIỄN THÔNG GẮN VỚI THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Công nghệ thông tin (CNTT) và viễn thông là nền tảng cho sự phát triển của của TMĐT. Phần này sẽ giới thiệu tổng quan về tình hình phát triển công nghệ thông tin và viễn thông có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới phát triển TMĐT trong năm 2004. 1. Công nghệ thông tin 1.1. Tình hình ban hành chính sách Sau khi một loạt đường lối, chính sách lớn về CNTT được ban hành từ năm 2000 đến năm 2002, việc ban hành chính sách về CNTT đã chững lại trong năm 2003 và năm 2004. Tuy nhiên, năm 2004 đã chứng kiến sự ra đời của ba văn bản quan trọng. Về phát triển nguồn nhân lực CNTT, Thủ Tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 331/QĐ-TTg ngày 6/4/2004 phê duyệt “Chương trình phát triển nguồn nhân lực về CNTT từ nay đến năm 2010”. Về ứng dụng CNTT, Thủ Tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 235/2004/QĐ-TTg ngày 2/3/2004 phê duyệt Dự án tổng thể “Ứng dụng và phát triển phần mềm nguồn mở ở Việt Nam giai đoạn 2004 – 2008”, Quyết định số 179/2004/QĐ-TTg ngày 6/10/2004 về việc Phê duyệt Chiến lược ứng dụng và phát triển CNTT tài nguyên và môi trường đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020. Có thể nhận thấy có sự hẫng hụt trong việc ban hành các chính sách, giải pháp cụ thể triển khai các đường lối, chính sách lớn về CNTT đã được ban hành trong giai đoạn đầu của kế hoạch 5 năm 2001 -2005. Bảng 1.1 Một số mốc lớn về đường lối, chính sách CNTT Năm 2000 – 2002 6/2000 Nghị quyết số 07/2000/NQ-CP về việc xây dựng và phát triển công nghiệp phần mềm giai đoạn 2000 – 2005. 10/2000 Chỉ thị số 58/CT-TW của Bộ Chính trị về việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá. 11/2000 Quyết định số 128/2000/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ về một số chính sách và biện pháp nhằm khuyến khích đầu tư và phát triển công nghiệp phần mềm. 2/2001 Quyết định số 19/2001/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ về việc bổ sung sản phẩm máy tính vào danh sách các sản phẩm công nghiệp mũi nhọn được hỗ trợ theo Quyết định số 37/2000/QĐ-TTg của Thủ 1
  16. Tướng Chính phủ ngày 24/3/2000. 5/2001 Quyết định số 81/2001/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch hành động thực hiện Chỉ thị 58/CT-TW về việc ứng dụng và phát triển CNTT trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn 2001 – 2005. 5/2001 Thông tư số 31/2001/TT-BTC của Bộ Tài chính về một số chỉ dẫn thực hiện ưu đãi thuế theo Quyết định số 128/2000/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ. 5/2001 Thông tư số 27/2001/TT-BVHTT của Bộ Văn hoá Thông tin về việc hướng dẫn thực hiện Nghị định số 76/CP ngày 29/11/1996 và Nghị định số 60/CP ngày 6/6/1997 của Chính phủ về việc hướng dẫn thực hiện một số qui định về bản quyền trong Bộ Luật Dân sự. 6/2001 Quyết định số 112/2001/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án tin học hoá quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2005. 8/2001 Quyết định số 987/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy chế quản lý, cung cấp và khai thác sử dụng thông tin tín dụng điện tử. 12/2001 Quyết định số 1557/2001/QĐ-NHNN về việc ban hành Quy chế thanh toán bù trừ điện tử liên ngân hàng. 3/2002 Quyết định số 44/2002/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ về việc sử dụng chứng từ điện tử như là chứng từ kế toán trong việc tính toán và thanh toán vốn tại các tổ chức cung cấp dịch vụ thanh toán. 3/2002 Quyết định số 212/2002/QĐ-NHNN về việc ban hành Quy trình kỹ thuật nghiệp vụ thanh toán bù trừ điện tử liên ngân hàng (Quyết định này sửa đổi, bổ sung Quyết định số 1557/2001/QĐ-NHNN ngày 14/12/2001 về việc ban hành Quy chế thanh toán bù trừ điện tử liên ngân hàng). 5/2002 Quyết định số 543/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành các quy định về xây dựng, cấp phát, quản lý và sử dụng chữ ký số đối với các chứng từ điện tử trong thanh toán điện tử liên ngân hàng. 7/2002 Quyết định số 95/2002/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ Phê duyệt Kế hoạch tổng thể ứng dụng và phát triển CNTT đến năm 2005. 11/2002 Nghị định số 90/2002/NĐ-CP của Chính phủ, trong đó quy định chức năng quản lý nhà nước về CNTT của Bộ Bưu chính Viễn thông. 12/2002 Quyết định số 176/2002/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ về việc thành lập Ban Chỉ đạo Chương trình hành động triển khai Chỉ thị số 2
  17. 58/CT-TW (Ban Chỉ đạo 58). Năm 2003 5/2003 Công văn số 2236/TCHQ-CNTT hướng dẫn chi tiết khai báo bằng phương tiện điện tử trong khâu đăng ký hồ sơ hải quan. 6/2003 Quyết định số 119/2003/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch tổng thể ứng dụng CNTT ngành tài chính tới năm 2010. Năm 2004 3/2004 Quyết định số 235/2004/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt Dự án tổng thể “Ứng dụng và phát triển phần mềm nguồn mở ở Việt Nam giai đoạn 2004 – 2008”. 4/2004 Quyết định số 331/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình phát triển nguồn nhân lực về CNTT từ nay đến năm 2010”. 10/2004 Quyết định số 179/2004/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược ứng dụng và phát triển CNTT tài nguyên và môi trường đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020. Hai sự kiện CNTT nổi bật trong năm 2004 là Hội thảo Quốc gia về CNTT và TT lần thứ 2 và Tuần lễ Tin học Việt Nam lần thứ 13. Hội thảo Quốc gia về CNTT & TT lần thứ 2 tổ chức vào tháng 8 năm 2004 tại Đà Nẵng với chủ đề “Ứng dụng CNTT và TT trong các doanh nghiệp”. Hội thảo đã nêu bật được một số thành công trong việc ứng dụng CNTT và TT của nhiều doanh nghiệp trên phạm vi cả nước, đồng thời chỉ ra nhiều khó khăn mà các doanh nghiệp gặp phải, từ môi trường pháp lý, chính sách tới nguồn nhân lực. Hội thảo đã nhận được sự quan tâm của các nhà lãnh đạo chủ chốt của Chính phủ về CNTT và TT như Phó Thủ Tướng Chính phủ, Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về CNTT (Ban Chỉ đạo 58), Phạm Gia Khiêm, Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông, Phó Trưởng Ban chỉ đạo 58, Đỗ Trung Tá. Tham dự Hội thảo còn có rất nhiều đại biểu từ các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp liên quan tới hoạch định chính sách, ứng dụng và kinh doanh trong lĩnh vực CNTT và TT của cả nước. Tuần lễ Tin học Việt Nam lần thứ 13 (IT Week 13) tổ chức vào tháng 10 năm 2004 tại Hà nội với chủ đề “Hướng tới Chính phủ điện tử”. Đây là hoạt động tích cực của giới CNTT và TT Việt Nam nhằm biểu dương lực lượng, thể hiện tiềm năng và cơ hội trong quá trình Hội nhập và Phát triển. Sáng kiến của Hội Tin học Việt Nam (VAIP) trao Giải thưởng Cúp Vàng CNTT-TT Việt Nam được tổ chức trong khuôn khổ Tuần lễ Tin học đã nhận được sự ủng hộ tích cực. Giải thưởng Cúp vàng có mục đích tôn vinh và khuyến khích các sản phẩm, cá nhân, tập thể đã đóng góp nhiều cho sự nghiệp phát triển và ứng dụng CNTT và TT Việt Nam. Các sản phẩm được được xét chọn và trao Cúp vàng tại IT WEEK 13 thuộc các lĩnh vực 3
  18. giải pháp, sản phẩm ứng dụng cấp ngành, máy tính thương hiệu Việt Nam, phần mềm đóng gói – phần mềm thương phẩm, phần mềm xuất khẩu và gia công phần mềm xuất khẩu, báo điện tử và trang thông tin điện tử và sản phẩm, dịch vụ TMĐT. Các sản phẩm, giải pháp, dịch vụ được trao Cúp vàng đã thể hiện bước tiến đáng kể của CNTT và TT Việt Nam năm 2004. Đáng chú ý là từ năm 2003 thương mại điện tử đã được coi là một lĩnh vực ứng dụng CNTT và TT quan trọng và được VAIP chọn là một trong các lĩnh vực trao giải Cúp vàng trong các Tuần lễ Tin học thứ 12 và 13. ( 1.2. Tình hình phát triển và triển khai các chính sách về CNTT Theo Báo cáo Toàn cảnh CNTT Việt Nam năm 2004 (7/2004) của Hội Tin học Thành phố Hồ Chí Minh, tốc độ tăng trưởng thị trường CNTT Việt Nam năm 2003 là 28.8% và đạt 515 triệu USD, bao gồm 410 triệu USD phần cứng và 105 triệu USD phần mềm và dịch vụ, xuất khẩu được 730 triệu USD, bao gồm 700 triệu USD phần cứng và 30 triệu USD phần mềm. Số máy tính tiêu thụ trên thị trường lên tới 1 triệu chiếc với máy tính có thương hiệu chiếm khoảng 20%. Số nhân lực làm phần mềm tăng 150%, năng suất làm phần mềm đạt tới 10000 USD/người/năm. Theo TS. Nguyễn Minh Dân, Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ Bộ Bưu chính viễn thông4, tổng giá trị các mặt hàng điện tử, CNTT tiêu thụ trong năm 2004 đạt 1,3 tỷ USD, tăng 38,5% so với năm 2003, trong đó nhóm sản phẩm CNTT và điện thoại di động chiếm tỷ trọng 45,6%, tương đương 592,8 triệu USD. Tổng giá trị xuất khẩu linh kiện điện tử, máy tính trong năm 2004 đạt hơn 1 tỷ USD, tăng khoảng 60% so với năm 2003. Công nghiệp phần mềm đạt doanh thu 150 triệu USD, trong đó xuất khẩu đạt trên 30 triệu USD. Từ những con số trên, có thể ước tính sơ bộ giá trị thị trường CNTT Việt Nam 2004 đạt mức 713 triệu USD, bao gồm 593 triệu USD phần cứng và 120 triệu USD phần mềm và dịch vụ, tăng 38,4% so với năm 2003. Việc ứng dụng và phát triển CNTT đạt được một số tiến bộ đáng khích lệ nhưng có thể thấy về tổng thể không đạt được các mục tiêu lớn mà một loạt đường lối, chính sách và giải pháp đã đề ra, đặc biệt là về các lĩnh vực chính phủ điện tử, thương mại điện tử, phát triển nguồn nhân lực CNTT, xuất khẩu phẩn mềm, v.v Mặc dù chưa có báo cáo đánh giá chính thức về việc triển khai một loạt chính sách và giải pháp lớn về CNTT nhưng có thể nhận thấy việc triển khai các quyết định của Thủ Tướng Chính phủ liên quan tới CNTT không được sáng sủa. Trong khi việc triển khai Đề án 112 về tin học hoá quản lý nhà nước đã góp phần nhất định tới việc hình thành và phát triển chính phủ điện tử (eGovernment) thì nhiều ý kiến cho rằng hiệu quả triển khai chưa cao. Việc triển khai Kế hoạch tổng thể ứng dụng và phát triển CNTT tới 2005 theo Quyết định số 95/2002/QĐ-TTg hầu như không tiến triển. Tình hình triển khai các hoạt động về phần mềm nguồn mở của Dự án tổng thể “Ứng dụng và phát triển phần mềm nguồn mở ở Việt Nam 4 Bài trình bày tại Khóa đào tạo “Nâng cao năng lực hoạch định và thực thi chính sách phát luật cho Thương mại điện tử” do Bộ Thương mại phối hợp với Dự án Canada về hỗ trợ thực thi chính sách (PIAP) tổ chức tại Hà Nội ngày 4-7 tháng 4/2005 4
  19. giai đoạn 2004 – 2008” theo Quyết định số 235/2004/QĐ-TTg cũng khá chậm chạp. Hộp 1.1 Tình hình thực hiện các Quyết định của Thủ Tướng Chính phủ về thống kê CNTT và TT Thống kê CNTT và TT Việt Nam hầu như chưa triển khai hoạt động thống kê về CNTT. Rất khó có thể có được số liệu thống kê đáng tin cậy từ các cơ quan chính phủ về mọi tiêu chí liên quan tới CNTT và TT bao gồm thống kê về thương mại điện tử. Điều này gây khó khăn rất lớn cho việc xây dựng và sửa đổi chính sách vĩ mô liên quan đến CNTT và TT. Đồng thời, số liệu thống kê vừa thiếu vừa ít tin cậy cũng cản trở cho việc xây dựng kế hoạch kinh doanh của các doanh nghiệp. Các Quyết định số 81/2001/QĐ-TTg và số 95/2002/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ đã chỉ rõ cần phải đẩy mạnh hoạt động thống kê về CNTT và TT, nhưng cho tới cuối năm 2004 Việt Nam vẫn chưa có tiến bộ đáng kể nào trong việc triển khai hoạt động này. 2. Viễn thông và Internet 2.1. Tình hình ban hành chính sách Hai văn bản đầu tiên khai phá cho các hoạt động Internet chính thức ở Việt Nam là Quyết định số 848/1997/QĐ-BNV(A11) của Bộ Nội vụ ban hành tháng 10 năm 1997 quy định về biện pháp và trang thiết bị kiểm tra, kiểm soát đảm bảo an ninh quốc gia trong hoạt động Internet ở Việt Nam và Quyết định số 705/1998/QĐ- TCBĐ của Tổng cục Bưu điện ban hành tháng 11 năm 1998 về việc ban hành Quy định tạm thời việc quản lý, phân bổ tên miền và địa chỉ Internet. Trong các năm 2001 và 2002 môi trường pháp lý cho các hoạt động Internet đã được xác lập với việc nhiều văn bản pháp quy được ban hành, trong đó có Nghị định số 55/2001/NĐ-CP của Chính phủ tháng 8 năm 2001 về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet. Năm 2003 chỉ có một văn bản pháp quy về Internet được ban hành, nhưng đây lại là văn bản gây ra rất nhiều tranh luận về một số quy định chưa hợp lý. Đó là Quyết định số 92/2003/QĐ-BCVT của Bộ Bưu chính Viễn thông tháng 5 năm 2003 ban hành Quy định về quản lý và sử dụng tài nguyên Internet. Tương tự như tình hình ban hành chính sách về CNTT, năm 2004 có tới 6 văn bản pháp quy về viễn thông và Internet được ban hành, trong đó một số quy định về quản lý Internet thu hút sự chú ý rộng rãi về tính khả thi của chúng. Bảng 1.2 Một số mốc lớn về đường lối, chính sách viễn thông và Internet Năm 2000 – 2002 8/2001 Nghị định số 55/2001/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet. 5
  20. 10/2001 Quyết định số 158/2001/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển Viễn thông tới năm 2010 và định hướng tới 2020. 11/2001 Thông tư 04/2001/TT-TCBĐ của Tổng cục Bưu điện hướng dẫn thi hành Nghị định số 55/2001/NĐ-CP về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet. 2/2002 Quyết định số 33/2002/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch phát triển Internet Việt Nam giai đoạn 2001-2005. 5/2002 Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông. 10/2002 Quyết định số 27/2002/QĐ-BVHTT của Bộ Văn hoá Thông tin ban hành Quy chế quản lý và cấp phép cung cấp thông tin, thiết lập trang thông tin điện tử trên Internet. Năm 2003 5/2003 Quyết định số 92/2003/QĐ-BCVT của Bộ Bưu chính Viễn thông ban hành Quy định về quản lý và sử dụng tài nguyên Internet. Năm 2004 1/2004 Quyết định số 71/2004/QĐ-BCA(A11) của Bộ Công an ban hành quy định về đảm bảo an toàn, an ninh trong hoạt động quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet tại Việt Nam. 3/2004 Chỉ thị số 07/2004/CT-BBCVT của Bộ Bưu chính Viễn thông về việc tăng cường công tác quản lý đại lý Internet công cộng. 5/2004 Chỉ thị 06/2004/CT-BBCVT của Bộ Bưu chính Viễn thông tăng cường đảm bảo an toàn, an ninh thông tin Bưu chính, Viễn thông và Internet trong tình hình mới 6/2004 Quyết định số 26/2004/QĐ-BBCVT của Bộ Bưu chính Viễn thông ban hành Chương trình triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về bưu chính, viễn thông và CNTT đến năm 2007. 9/2004 Nghị định số 160/2004/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông về viễn thông. 12/2004 Thông tư số 05/2004/TT-BBCVT của Bộ Bưu chính Viễn thông hướng dẫn thực hiện một số điều về xử lý vi phạm hành chính và khiếu nại, tố cáo quy định tại Chương IV Nghị định số 55/2001/NĐ- CP của Chính phủ về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet. 2.2. Tình hình hạ tầng viễn thông5 Về hệ thống chuyển mạch, các tổng đài cửa ngõ quốc tế (International Gateway Switch) thuộc thế hệ tổng đài hiện đại trên thế giới, các tổng đài quá giang (National Transit Switch) là các tổng đài hiện đại, đủ khả năng chuyển mạch trung 5 Phần này tham khảo và trích dẫn nhiều thông tin từ “Báo cáo Hiện trạng hạ tầng viễn thông”, Hà nội, tháng 12 năm 2004 do tác giả Nguyễn Xuân Trụ chủ trì (Vụ Viễn thông, Bộ Bưu chính Viễn thông). 6
  21. kế cho lưu lượng thông tin trên mạng trục quốc gia. Tổng đài tadem nội hạt (Local Tadem Switch) đặt tại Hà nội và TP. Hồ Chí Minh, nhiều tổng đài nội hạt (Local Switch) tại các tỉnh, thành phố và các tổng đài vệ tinh, các bộ tập trung thuê bao. Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) đã triển khai mạng thế hệ mới NGN và chuyển dần lưu lượng PSTN sang khai thác trên mạng NGN cũng như cung cấp nhiều dịch vụ ứng dụng NGN cho khách hàng. Về mạng truyền dẫn, các hệ thống truyền dẫn quốc tế bao gồm ba trung tâm viễn thông quốc tế với các hệ thống tổng đài, truyền dẫn kỹ thuật số kết nối mạng viễn thông Việt Nam với mạng viễn thông thế giới. Các tổng đài quốc tế được kết nối tới nhiều nước khác nhau và chuyển tiếp tới tất cả các nước còn lại thông qua cáp quang và vệ tinh. Ba trung tâm viễn thông quốc tế được liên kết với nhau bằng hệ thống cáp quang có khả năng tự động xử lý sự cố, tự sửa chữa cho chính mình. Đối với truyền dẫn liên tỉnh có mạng truyền dẫn tuyến trục Bắc – Nam bằng cáp quang 20 Gbps trên quốc lộ 1A và trên đường dây 500 KV đảm bảo độ an toàn cao và băng thông rộng. Tuyến đường trục này còn có thêm hệ thống vi ba số 140 Mbps để dự phòng. Ngoài ra còn có một số tuyến đường trục khác của Viettel, ETC. Truyền dẫn liên tỉnh hầu hết đã được cáp quang hoá. Mạng truyền dẫn nội tỉnh được mở rộng và đang được cáp quang hoá. Mạng truy cập bao gồm ba loại là mạng cáp nội hạt, hệ thống thuê bao vô tuyến và hệ thống VSAT. Mạng cáp nội hạt gồm mạng cáp đồng và mạng cáp quang để cung cấp dịch vụ viễn thông đến hộ thuê bao. Hệ thống thuê bao vô tuyến hỗ trợ cho mạng cáp nội hạt và rất có hiệu quả đối với các nhà cao tầng và địa bàn khó triển khai mạng cáp đồng. Hệ thống VSAT được sử dụng cho các vùng miền núi và hải đảo. Về thông tin di động, có bốn nhà khai thác đã cung cấp và hai nhà khai thác khác đang chuẩn bị cung cấp dịch vụ di động toàn quốc. MobiFone và Vinaphone của VNPT sử dụng công nghệ GSM với tổng số khoảng 4,4 triệu thuê bao và có khả năng chuyển vùng tới hơn 84 nước. SPT sử dụng công nghệ CDMA1x cung cấp dịch vụ từ tháng 7/2003 và hiện có khoảng 0,14 triệu thuê bao, Vietel sử dụng công nghệ GSM cung cấp dịch vụ từ tháng 10/2004 và hiện có khoảng 0,15 triệu thuê bao. Trong năm 2004 các mạng S-Fone, MobiFone và Vinaphone đã chính thức cung cấp dịch vụ nhắn tin chéo mạng nên thúc đẩy sự phát triển của thông tin di động. MobiFone và Vinaphone sử dụng công nghệ GSM đã chính thức cung cấp dịch vụ GPRS/MMS chuẩn bị cho chiến lược tiến lên 3G. Hanoi Telecom sử dụng công nghệ CDMA2000 đang chuẩn bị tham gia thị trường. VP Telecom sử dụng công nghệ CDMA450 đang thử nghiệm mạng lưới và dịch vụ cho cung cấp dịch vụ vô tuyến cố định. Đối với thông tin di động nội vùng bao gồm điện thoại vô tuyến cố định và điện thoại di động nội vùng sử dụng hệ thống IPAS với công nghệ PHS- IP đã được cung cấp tại Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 12/2002. Mạng truyền dẫn số liệu và chuyển mạch gói sử dụng cộng nghệ X25 với 3 tổng đài chuyển mạch tại Hà nội, Đà nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh với các dịch vụ X25, X28 và X32. Mạng Telex sử dụng 3 tổng đài đặt tại Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh có xu hướng ngừng phát triển. 2.3. Tình hình Internet 7
  22. Kết nối quốc tế thông qua 6 hướng với tổng dung lượng tăng từ 1038 Mbps vào tháng 12/2003 lên 1892 Mbps vào tháng 12/2004. Đối với kết nối trong nước, từ năm 2003 các doanh nghiệp IXP đã thực hiện kết nối đồng cấp thông qua Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC). Có 6 doanh nghiệp được cấp phép cung cấp dịch vụ kết nối Internet (IXP) là VNPT, Viettel, FPT, SPT, ETC và Hanoi Telecom. Có 15 doanh nghiệp được cấp phép cung cấp dịch vụ truy nhập Internet, trong đó có 7 doanh nghiệp đã cung cấp dịch vụ cho khách hàng là VNPT, FPT, SPT, Netnam, Viettel, OCI và Hanoi Telecom. Theo VNNIC, cuối năm 2004 tổng số thuê bao Internet đạt khoảng trên 2 triệu và số IP đã cấp là 0,45 triệu, thuê bao chủ yếu là dial-up. Dịch vụ truy nhập Internet băng rộng đã được cung cấp từ năm 1997 với nhiều loại hình như ISDN, leased line, VSAT nhưng số khách hàng vẫn không nhiều và chủ yếu là doanh nghiệp do nguyên nhân chính là giá cước cao. Từ giữa năm 2003 khi VNPT đã cung cấp dịch vụ ADSL tới nay đã có thêm 3 nhà cung cấp dịch vụ này cho khách hàng là FPT, Viettel và SPT, hiện có khoảng 35000 thuê bao truy nhập Internet sử dụng băng thông rộng. Các loại hình dịch vụ truy nhập Internet mới như WiFi và GPRS cũng bắt đầu phát triển. Số người sử dụng Internet đạt khoảng 6,2 triệu, mật độ người sử dụng Internet đạt khoảng 7,4%. Nếu so với số người sử dụng Internet vào cuối năm 2003 là 3,2 triệu người thì có thể thấy trong năm 2004 số người sử dụng đã tăng gần gấp đôi. Bảng 1.3 Số người sử dụng Internet trên 10.000 dân Năm 2001 2002 2003 2004 Việt Nam 124 184 430 740 Trung Quốc 257 460 632 - Thái Lan 577 776 965 - Các nước phát triển - 4474 4495 - Các nước đang phát triển - 429 501 - Nguồn: VNNIC và Tổ chức viễn thông quốc tế (ITU) Cùng với số thuê bao và số người sử dụng Internet, số tên miền Internet phản ánh mức độ phổ cập Internet và hơn thế là mức độ ứng dụng Internet trong các hoạt động kinh tế, xã hội. Theo VNNIC, số tên miền Việt Nam đã tăng từ 2300 vào tháng 12/2002 lên 5510 vào tháng 12/2003 và 9037 vào tháng 12/2004 với số tên miền cấp hai .com và .net khoảng 84%. Như vậy tốc độ tăng trưởng tên miền .VN năm 2004 khoảng 64%. Tuy nhiên sự tăng trưởng này chưa phản ánh sự tăng trưởng chung của số tên miền và số trang web của các doanh nghiệp Việt Nam vì chưa tính tới các tên miền quốc tế. Căn cứ trên số tên miền .VN, thông tin về tên miền quốc tế tại ý kiến của các nhà chuyên môn tại một số công ty 8
  23. cung cấp dịch vụ web hosting, thông tin về các doanh nghiệp trong Báo cáo Hiện trạng phát triển TMĐT năm 2003 và các doanh nghiệp tham gia điều tra cho Báo cáo này, có thể ước tính tổng số doanh nghiệp có trang web vào cuối năm 2004 khoảng 17.500 (chi tiết xin xem phụ lục 1). Hộp 1.2 Mối quan hệ giữa trang web và TMĐT Mối quan hệ giữa số trang web và thương mại điện tử Hầu hết doanh nghiệp sử dụng Internet cho mục đích kinh doanh tiến hành trao đổi thông tin và các giao dịch qua email, truy cập vào các trang web và thiết lập trang web của mình. Các trang web là nơi tiến hành hầu hết giao dịch dạng B2B lẫn B2C. Do đó sự tăng trưởng của số trang web là một tiêu chí có ích để đánh giá sự tăng trưởng của thương mại điện tử. Từ tháng 6/2003 tới 6/2004, số trang web trên thế giới tăng 26,1%. Báo cáo TMĐT và Phát triển, UNCTAD 2004 Trong năm 2004 chủ đề quản lý tên miền và trang tin điện tử thu hút sự quan tâm lớn của các nhà hoạch định chính sách cũng như doanh nghiệp. * Quản lý tên miền: Ngày 26/5/2003, Bộ Bưu chính Viễn thông đã ra Quyết định số 92/2003/QĐ-BCVT ban hành Quy định về quản lý và sử dụng tài nguyên Internet. Quy định này điều chỉnh việc quản lý và sử dụng tài nguyên Internet đối với mọi tổ chức, cá nhân trong nước; tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực Internet tại Việt Nam. Theo Điều 4 của Quyết định, tài nguyên Internet bao gồm hệ thống các tên và số dùng cho Internet được ấn định thống nhất trên phạm vi toàn cầu: tên miền (DN), địa chỉ Internet (IP), số hiệu mạng (ASN), số và tên khác được các tổ chức quốc tế có thẩm quyền về tài nguyên Internet quy định. Quyết định này đã góp phần tích cực đối với sự phát triển của tên miền Việt Nam .VN. Tuy nhiên nó chưa khuyến khích và hỗ trợ kinh doanh trên môi trường Internet trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Những vấn đề chưa hợp lý nhiều nhất liên quan tới sở hữu tên miền và các quyền liên quan như mua bán, quyền sở hữu trí tuệ như thương hiệu và chỉ dẫn địa lý, thủ tục đăng ký tên miền, giải quyết tranh chấp và phí đăng ký và sử dụng tên miền.6 Có thể liệt kê một số quy định còn chưa hợp lý như sau: Điều 2: Tài nguyên Internet Nghiêm cấm việc chuyển nhượng, cho thuê, bán lại tài nguyên Internet dưới bất kỳ hình thức nào. 6 Có thể nhận thấy một số chính sách của Việt nam còn nặng về quản lý hành chính và chưa phù hợp với các quy luật của kinh tế thị trường. Quy định nghiêm cấm việc chuyển nhượng, cho thuê, bán lại tài nguyên Internet dưới bất kỳ hình thức nào không phải là trường hợp duy nhất. Trên lĩnh vực thương mại, một trong những vấn đề được tranh luận nhiều nhất trong năm 2004 là việc các doanh nghiệp dệt may có quyền được mua bán, cho vay, chuyển nhượng đối với hạn ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ hay không. 9
  24. Nhận xét: Quyết định không chỉ rõ tên miền quốc tế (gTLD) như .COM, .NET có thuộc phạm vi điều chỉnh hay không. Trên thực tế các tên miền, có thể cả tên miền Việt Nam (.VN), đang được mua bán. Điều 6: Quyền và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng tài nguyên Internet 3. Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có trách nhiệm trả lại tài nguyên Internet cho Trung tâm Internet Việt Nam khi không còn nhu cầu sử dụng nữa. Nhận xét: Tính khả thi của quy định này rất thấp.7 6. Các tổ chức, cá nhân chỉ được sử dụng tên miền dưới tên miền dùng chung (gTLD) sau 24 giờ kể từ khi thông báo cho VNNIC biết tại website Nhận xét: Quy định này còn khó khả thi hơn quy định trên. Điều 9 : Nguyên tắc đăng ký tên miền 4. Tên miền chỉ được cấp phát khi có đầy đủ thông tin về máy chủ tên miền mà nó được đặt hoặc tên miền đích mà nó trỏ tới. 5. Tổ chức, cá nhân xin đăng ký tên miền phải giải thích rõ mối liên quan của tên miền xin đăng ký với hoạt động của mình (doanh nghiệp phải tự đăng ký tên miền, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ web không được đăng ký thay) Nhận xét: Các quy định này hoặc không phù hợp với thực tế và/hoặc không khả thi. Điều 10: Thủ tục đăng ký, sử dụng tên miền 1. Hồ sơ gửi cho VNNIC gồm đơn xin đăng ký tên miền, giấy phép đăng ký kinh doanh, quyết định thành lập, v.v 4. Tên miền đã được cấp phát phải đi vào hoạt động sau thời hạn tối đa là 60 ngày, quá thời hạn này tên miền đó sẽ bị thu hồi, nếu không có lý do chính đáng. Nhận xét: Một số doanh nghiệp cung cấp dịch vụ web không thể đăng ký tên miền .VN cho khách hàng ngay cả khi có uỷ quyền của khách hàng. Họ cho rằng điều này gây phiền hà cho khách hàng muốn thuê dịch vụ trọn gói. Ngoài ra, quy định thu hồi tên miền đã cấp nếu không hoạt động trong vòng 60 ngày cũng không khả thi. Điều 20: Giải quyết khiếu nại 1. Nếu khiếu nại có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp tên miền giữa các bên, VNNIC cần khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các bên tự thoả thuận giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp các bên không tự thoả thuận được, VNNIC xem xét quyết định trên cơ sở các quy định hiện hành của pháp luật. 7 Trong trường hợp quản lý hạn ngạch dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ, cơ quan quản lý nhà nước về thương mại đưa ra quy định doanh nghiệp nào không còn nhu cầu sử dụng hạn ngạch phải trả lại hạn ngạch. Trên thực tế không có doanh nghiệp dệt may nào trả lại hạn ngạch đã được cấp. Tình hình có thể xảy ra như vậy đối với việc quản lý tên miền và tính khả thi của quy định này. Khi chủ sở hữu tên miền có được tên miền có giá trị thương mại cao họ sẽ tìm mọi cách để bán tên miền đó mà không trả lại cho cơ quan quản lý nhà nước về tên miền. 10
  25. 2. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết của VNNIC, các bên có liên quan có thể yêu cầu các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật về khiếu nại. Nhận xét: giải quyết tranh chấp về tên miền liên quan tới nhiều quy định pháp luật khác, đặc biệt là các quy định về quyền sở hữu trí tuệ. Hộp 1.3 Sự chưa hợp lý của các quy định về quản lý tên miền Việt Nam Nhịp Sống Số Thứ Hai, 02/08/2004, 17:27 (GMT+7) Quản lý tên miền Việt Nam: cần nhiều cải tiến TTO - Trong thời đại số, tên miền đồng nghĩa với thương hiệu và là một tài sản quan trọng của doanh nghiệp. Tuy nhiên, các quy định về việc đăng ký và giải quyết tranh chấp của hệ thống tên miền .vn của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Đây là vấn đề nổi cộm được các chuyên gia trong và ngoài nước tranh luận sôi nổi tại hội thảo bàn tròn “Tên miền Internet và tranh chấp tên miền” vừa được tổ chức tại Hà Nội. Quy định chưa rõ ràng, nhiều bất cập khi đăng ký Quy định về quản lý và sử dụng tài nguyên Internet được ban hành theo Quyết định số 92/2003/QĐ-BBCVT ngày 26 tháng 5 năm 2003 của Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông là cơ sở pháp lý quan trọng giúp phát triển hệ thống tên miền quốc gia .vn. Trong đó quy định việc đăng ký tên miền là “tổ chức, cá nhân đăng ký trước được xét cấp trước”. Kể từ thời điểm Quy định ra đời, đến tháng 6 năm 2004, đã có 7.454 tên miền được đăng ký với Trung tâm Thông tin Internet Việt Nam (VNNIC). Đây có thể nói là một bước tiến đáng kể trong việc phát triển hệ thống tên miền quốc gia. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, quy định trên còn một số vấn đề bất cập cần được sửa đổi như: nguyên tắc ai đăng ký trước được cấp phát trước cũng như việc đăng ký trực tuyến chưa được triển khai, chưa có các quy định về giải quyết tranh chấp tên miền, trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp tên miền chưa được quy định rõ ràng, và mâu thuẫn với các quy định về sở hữu trí tuệ của Bộ Văn hóa. Ông Vũ Thái Hà, Công ty Sở hữu trí tuệ D&N nhận xét: “Quyết định quản lý tên miền hiện nay có những điểm gây cản trở phát triển tên miền. Cụ thể việc đăng ký các tên miền liên quan tới tên các địa danh, các tên chung của một ngành kinh tế, chủng loại hàng hoá, sản phẩm, tên các loại dược phẩm vẫn còn bị hạn chế (khoản 3 Điều 9 của Quy định) trong khi các tên miền này là các tên miền có giá trị sử dụng cao đối với các tổ chức kinh doanh thương mại điện tử“. “Phí đăng ký và duy trì tên miền quá cao so với các nước trên thế giới. Ví dụ trong một năm đầu là 930.000đ, cho các năm tiếp theo là 450.000đ, mỗi lần thay đổi thông số tên miền đều phải trả phí 250.000đ mà việc thay đổi này (ví dụ như chuyển giao máy chủ) là công việc kỹ thuật thường xuyên của chủ sở hữu tên miền” ông Hà nói thêm. Ngoài ra việc không được chuyển nhượng tên miền cũng là vấn đề gây khó khăn cho các doanh nghiệp. Ông Lê Hồng Hà, Hội Tin học-Viễn thông Hà Nội đặt câu hỏi: “Tên miền là một tài nguyên tương tự như đất đai. Chủ thể được quyền sử dụng và chuyển nhượng đất, vậy tại sao chuyển nhượng tên miền lại không được? Bổ sung cho ý kiến này, Đào Việt Cường, một đại diện khác của D&N nói: “Hiện nay tên miền có giá trị lên vài triệu USD, ví dụ như : business.com có trị giá lớn 7.5 triệu USD, casino.com - 5.5 triệu USD Vậy có ai chịu bỏ nhiều tiền đầu tư phát triển tên miền nếu biết rằng khi công ty của họ sáp nhập với doanh nghiệp khác thì tên miền sẽ không được chuyển giao”. Theo ông Cường, việc hạn chế chuyển giao tên miền sẽ cản trở sự đầu tư vào lĩnh vực thương mại điện tử của các tổ chức và cá nhân. Sẽ sửa đổi quy định 92 và xây dựng quy chế giải quyết tranh chấp Trả lời cho những thắc mắc trên, ông Nguyễn Lê Thúy, Giám đốc VNNIC, cho biết trong thời gian tới cơ quan này sẽ tiến hành sửa đổi quy định 92 và cuối năm nay hoàn thành đưa ra dự thảo. Trong đó sẽ đặc biệt chú ý tới việc xây dựng quy chế giải quyết tranh chấp tên miền .vn và điều chỉnh mức phí chung. * Quản lý trang tin điện tử (website): Mặc dù các quy định về quản lý tên miền Việt Nam còn nhiều điểm chưa hợp lý nhưng đã góp phần đáng kể vào sự phát triển trang web với tên miền .VN 11
  26. của các doanh nghiệp thể hiện qua tốc độ tăng trưởng cao của tên miền .VN trong năm 2004. Đáng lưu ý là cơ quan quản lý nhà nước về tên miền đã nghiêm túc lắng nghe ý kiến của khách hàng và thông báo công khai dự định sửa đổi, bổ sung Quyết định số 92/2003/QĐ-BBCVT. Trong khi đó một quyết định được ban hành trước đó gây cản trở đáng kể tới phát triển trang web, hầu như không có khả năng thực thi và không thể hiện sự đổi mới trong phương pháp quản lý nhà nước vẫn tiếp tục có hiệu lực. Hơn thế, cho tới cuối năm 2004 cơ quan ban hành quyết định này và các cơ quan quản lý nhà nước liên quan chưa có bất cứ thông báo nào về kế hoạch sửa đổi các quy định gây cản trở kinh doanh của nó. Đó là Quyết định số 27/2002/QĐ-BVHTT ngày 10/10/2002 của Bộ Văn hoá Thông tin về Quy chế quản lý và cấp phép cung cấp thông tin, thiết lập trang thông tin điện tử trên Internet. Hộp 1.4 Quy định “Thiết lập website phải xin phép” và Thương mại điện tử Lập trang web Vì sao Internet ở Việt Nam phát triển chậm? Có nhiều nguyên nhân, tôi chỉ muốn nói một khía cạnh quan trọng: Khoảng 90% nội dung trên Internet là bằng tiếng Anh. Trong khi đó các quy định cụ thể lại không khuyến khích, thậm chí còn cản trở việc phát triển nội dung. Theo Quyết định 27 của Bộ Văn hoá Thông tin (không bàn đến các mục khác và các tờ báo trực tuyến, chỉ nói đến các trang web): Cá nhân không được lập trang web. Chỉ các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức mới được lập trang web (Điều 3) và thủ tục cấp phép rất rườm rà (Điều 6, Điều 7, Điều 8). Phải chăng chính các quy định như vậy giải thích vì sao nội dung tiếng Việt trên Internet lại nghèo nàn, đó là chưa nói đến sự cản trở và tác hại của nó đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, cản trở thương mại điện tử. Theo tôi sửa điều này không khó. Chỉ cần nêu thêm một điều đơn giản vào quyết định, đó là phạm vi điều chỉnh của nó chỉ cho các đơn vị làm báo điện tử. Các tổ chức kinh doanh dịch vụ nội dung hay ứng dụng khác thì phải chịu các quy định của các ngành đó, còn các website không có mục đích kinh doanh thông tin như của cá nhân, doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức ngoại giao, v.v không bị điều chỉnh. Tiến sĩ Nguyễn Quang A, Báo Lao động số 357 ra ngày 22/12/2004 Một số quy định không nhận được sự ủng hộ của đông đảo cộng đồng sử dụng Internet, đặc biệt là các doanh nghiệp, là: Điều 1: Bộ Văn hoá Thông tin là cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước và cấp giấy phép cung cấp thông tin trên Internet (ICP), thiết lập trang tin điện tử trên Internet. Điều 2: 1. Đơn vị cung cấp thông tin trên Internet là cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp được Bộ Văn hoá Thông tin cấp giấy phép thực hiện việc cung cấp thông tin trên Internet thông qua nhà cung cấp dịch vụ Internet. 2. Trang tin điện tử (Website) là loại hình bản tin thực hiện trên mạng Internet. Điều 3: 12
  27. 1. Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài, các pháp nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam cung cấp thông tin trên Internet, thiết lập trang tin điện tử trên Internet chịu sự điều chỉnh của Quy chế này. Điều 4: 4. Không được cung cấp thông tin trên Internet, thiết lập trang tin điện tử trên Internet khi chưa có giấy phép của Bộ Văn hoá Thông tin. Điều 8: Mọi cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp tại Việt Nam có nhu cầu muốn cung cấp thông tin trên Internet, thiết lập trang tin điện tử trên Internet tại Việt Nam phải làm thủ tục xin phép gửi Bộ Văn hoá Thông tin (Vụ Báo chí). Nhận xét: - Quy định rất mơ hồ về «cung cấp thông tin trên Internet» và « trang tin điện tử». Về bản chất thiết lập website là để cung cấp thông tin. Do đó tất cả pháp nhân, bao gồm các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, thiết lập và duy trì website đều thuộc phạm vi điều chỉnh của Quyết định và phải xin phép Bộ Văn hoá Thông tin!8 - Không có quy định đối với website do cá nhân thiết lập! - Trong khi Luật Doanh nghiệp và hệ thống các văn bản khác đã tạo ra cách quản lý thông thoáng cho doanh nghiệp theo hướng quy định rõ những hoạt động cấm kinh doanh, kinh doanh có điều kiện, ngoài ra doanh nghiệp được phép kinh doanh, đồng thời chuyển cách quản lý từ cấp phép sang đăng ký, thì Quyết định này vẫn duy trì cách quản lý gây khó khăn cho doanh nghiệp.9 Điều 6: Điều kiện cấp phép 1. Cơ quan xin cấp phép phải xác định rõ loại hình thông tin cung cấp, nội dung, các chuyên mục, tần số cập nhật thông tin. Có đủ phương tiện kỹ thuật phục vụ cho việc cung cấp thông tin, có địa chỉ miền trên Internet hợp lệ. Điều 7: Hồ sơ xin cấp phép 1. Đề án hoạt động, kế hoạch chi tiết về cung cấp thông tin trên Internet (các loại hình thông tin sẽ cung cấp, nội dung, các chuyên mục) Sơ yếu lý lịch người chịu trách nhiệm chính về nội dung và các thành viên phụ trách việc cung cấp thông tin có chứng nhận của cơ quan chủ quản. Nhận xét: Các quy định này đều rất xa rời thực tiễn thiết lập và duy trì hoạt động của website và hoàn toàn không có tính khả thi. Chính vì các quy định không phù hợp với thực tiễn nhưng lại không được cơ quan ban hành lắng nghe dư luận và sửa đổi nên Quyết định số 27/2002/QĐ-BVHTT là một trong những ví dụ điển hình về việc coi thường pháp luật của doanh nghiệp: hầu hết các website vẫn tồn tại và phát triển mà không cần tới giấy phép của Bộ 8 Điều 7 quy định rõ hồ sơ đối với các cơ quan đại diện tổ chức kinh tế , các công ty, xí nghiệp của nước ngoài; các tổ chức kinh tế, công ty, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 9 Năm 2004, ý định cấm kinh doanh dịch vụ giải trí karaoke của cơ quan quản lý nhà nước về văn hoá thông tin đã gặp phải sự phản ứng mạnh mẽ của dư luận. Rất nhiều ý kiến phê phán cách làm "không quản lý được thì cấm". 13
  28. Văn hoá Thông tin. Tuy nhiên, mọi doanh nghiệp và cá nhân muốn có một quy định mới, tránh cho họ tình trạng luôn luôn vi phạm pháp luật.10 Hộp 1.5 Nhiều doanh nghiệp có nguy cơ bị phạt vì không có giấy phép thiết lập website Phạt Công ty TiTan tại Vũng Tầu Ngày 12/12/2003, UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu ra quyết định 12399 xử phạt vi phạm hành chánh 50 triệu đồng đối với Công ty TiTan (trụ sở 545 Trương Công Định, P.7, TP Vũng Tàu) vì Công ty TiTan đã: thiết lập hệ thống thiết bị và cung cấp dịch vụ Internet không có giấy phép; thiết lập trang tin điện tử trên Internet khi chưa có giấy phép của Bộ Văn hóa - Thông tin; nội dung của công ty cung cấp thông tin trên trang tin điện tử không đúng Trong quyết định 12399 của UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu không ghi rõ trang tin điện tử mà Công ty TiTan vi phạm là website nào nhưng căn cứ theo các site mà TiTan đang sở hữu thì có thể biết đó là: www.bariavungtau.com, www.bariavungtau.net, www.bariavungtau.org, www.vungtaucity.org. Xung quanh chuyện xử phạt trên, có nhiều điều chưa ổn: Là doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ thông tin không thể không có hệ thống thiết bị. Theo Nghị định 55/2001, dịch vụ Internet (điều 12) gồm có dịch vụ kết nối Internet (IXP), dịch vụ truy cập Internet (ISP), dịch vụ ứng dụng Internet (OSP). Trong đó, dịch vụ thông tin Internet là một loại hình OSP, bao gồm dịch vụ phát hành báo chí (báo nói, báo hình, báo điện tử), phát hành xuất bản phẩm trên Internet và các loại hình tin tức điện tử khác trên Internet. TiTan không phải là IXP, ISP, cơ quan báo chí. Trên thực tế, hàng chục ngàn website trong nước được các công ty thiết kế và đưa nội dung lên mạng hầu hết đều không cần xin giấy phép của Bộ Văn hóa - Thông tin. Chung quy lại, điều mà UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu không “bằng lòng” chính là tên miền bariavungtau.com đã bị công ty TiTan đăng ký. Điều cơ bản nhất mà mọi người đều biết, hoạt động của Internet là không biên giới. Những website trên đều được TiTan đăng ký tại nước ngoài chứ không phải trong nước. Nguyên tắc pháp lý và luật chơi của đăng ký tên miền rất rõ ràng (cả quốc tế và Việt Nam): ai đăng ký trước được cấp trước. Mọi người truy cập mạng thường xuyên hiện nay cũng đều thấy địa danh Hà Nội đã bị đăng ký trước từ lâu: www.hanoi.com, www.hanoi.net, www.hanoi.org. Nhưng UBND thành phố Hà Nội không thể ra quyết định xử phạt các công ty sở hữu những tên miền trên bởi họ đều đã đăng ký quốc tế. 3. Một số công nghệ liên quan tới phát triển CNTT và Internet 3.1. Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) Trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic Data Interchange) có ý nghĩa quyết định đối với giao dịch thương mại điện tử quy mô lớn giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp. EDI là hình thức phổ biến nhất để trao đổi dữ liệu có cấu trúc giữa hệ thống máy tính của các doanh nghiệp. Sử dụng EDI, doanh nghiệp sẽ giảm được lỗi sai sót do con người gây nên, giảm thời gian xử lý thông tin trong các giao dịch kinh doanh, tiết kiệm thời gian và chi phí so với trao đổi dữ liệu phi cấu trúc. EDI được ứng dụng rất phổ biến trong nhiều ngành công nghiệp trên thế giới và sẽ còn tăng mạnh trong một vài năm tới. Thứ nhất, sự phát triển mạnh mẽ của 10 Tính tới cuối năm 2004 tổng số website được cấp phép khoảng 2500, hầu hết website này là của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội. Con số này rất nhỏ so với tổng số website đang tồn tại. 14
  29. Internet đã tạo ra một phương tiện hữu hiệu cho việc sử dụng EDI thay vì phải thực hiện qua các mạng giá trị gia tăng (VAN). Thứ hai, các ngôn ngữ lập trình hiện đại mới xuất hiện như XML làm cho EDI trở nên dễ thiết kế và dễ sử dụng hơn. Vào giữa những năm 1990, một số lượng lớn các công ty bắt đầu cung cấp dịch vụ EDI trên Internet. Các công ty vốn cung cấp mạng giá trị gia tăng truyền thống nay đưa ra dịch vụ EDI trên Internet, cùng với rất nhiều các công ty mới gia nhập vào thị trường dịch vụ EDI trên Internet. EDI trên Internet được gọi là EDI Internet hoặc Web EDI. Cấu trúc mở của Internet cho phép các đối tác thương mại có được cơ hội tiềm tàng trong việc trao đổi thông tin có cấu trúc với các công cụ mới như XML/ebXML. Bảng 1.4 Giá trị giao dịch thương mại sử dụng EDI (tỷ USD) 2001 2002 2003 2004 2005 3.227 3.250 3.443 3.608 3.783 Nguồn: OECD và ước tính của Tập đoàn thông tin Giga cho các năm 2003 - 2005 Cho tới năm 2004, EDI hầu như chưa được áp dụng tại Việt Nam trừ một số doanh nghiệp trong ngành ngân hàng, tài chính, vận tải biển đã sử dụng EDI để giao dịch với các đối tác nước ngoài và thực hiện các hoạt động nghiệp vụ trong nội bộ ngành. Việc áp dụng EDI đòi hỏi các doanh nghiệp phải được tin học hoá ở một mức độ khá cao và quy trình quản lý doanh nghiệp tiên tiến. Hộp 1.6 Ứng dụng UN/EDIFACT tại Bộ Thương mại Hệ thống truyền dữ liệu visa điện tử (ELVIS) Từ tháng 3/2004, Bộ Thương mại đã vận hành hệ thống truyền visa điện tử cho hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Hệ thống này sử dụng chuẩn UN/EDIFACT để trao đổi dữ liệu hạn ngạch với Hải quan Hoa Kỳ. Hệ thống ELVIS giúp việc quản lý hạn ngạch hàng dệt may sang Hoa Kỳ hiệu quả và tránh được gian lận thương mại hơn so với phương pháp quản lý hạn ngạch bằng giấy truyền thống. Các cơ quan quản lý nhà nước về CNTT và TMĐT đã nhận thức được tầm quan trọng của lỗ hổng về tiêu chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử và đã có một số hoạt động nhằm thúc đẩy sự ứng dụng EDI ở nước ta. Ngày 23/12/2002, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Quyết định số 1035/QĐ-BKHCN về việc thành lập Tổ công tác xây dựng dự thảo Tiêu chuẩn “Trao đổi dữ liệu điện tử - EDI” (gọi tắt là Tổ công tác EDI) gồm đại diện của nhiều cơ quan và doanh nghiệp. Trong năm 2004, Tổ công tác này đã triển khai nhiều hoạt động nhằm nâng cao nhận thức trong toàn xã hội về EDI và tiếp tục công tác nghiên cứu xây dựng dự thảo Khung tiêu chuẩn EDI như : - Cập nhật thường xuyên thông tin về EDI tại tổ chức các lớp học và trình bày về EDI tại một số hội thảo. - Triển khai xây dựng Bộ từ điển thuật ngữ EDI áp dụng cho các lĩnh vực hành chính, thương mại, tài chính - ngân hàng, hải quan và giao thông vận tải của Việt Nam. 15
  30. - Tổ chức và điều phối việc thực hiện các nội dung của Dự án Tương thích tiêu chuẩn EDI của châu Âu và Pháp vào Việt Nam (EA2) do EU tài trợ và EDIFRANCE là đơn vị chủ trì. Tổ chức đoàn chuyên gia Việt Nam sang khảo sát về Khung chính sách công nghệ và tiêu chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử của Anh, tham dự Hội thảo tại Berlin về ứng dụng Chuẩn lưu trữ tài liệu OpenOffice.org XML và các dịch vụ đăng ký trực tuyến đưa các dịch vụ hành chính công lên mạng thông qua công nghệ tự động nhập liệu e-form. Tổ kỹ thuật tiêu chuẩn CNTT thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn – Đo lường – Chất lượng thuộc Bộ KH&CN đang khẩn trương xây dựng Bộ tiêu chuẩn EDI Việt Nam dựa trên Bộ UN/EDIFACT, dự kiến có thể ban hành vào cuối năm 2005. Bộ Thương mại hợp tác với một số tổ chức về TMĐT như AFACT nhằm thiết lập chuẩn EDI cho các giao dịch thương mại, hậu thuẫn cho sự phát triển mạnh của TMĐT Việt Nam trong những năm tới. 3.2. Chữ ký điện tử và chứng thực điện tử Việc kết nối qua mạng Internet hiện nay chủ yếu sử dụng giao thức TCP/IP. TCP/IP cho phép các thông tin được gửi từ một máy tính này tới một máy tính khác thông qua một loạt các máy trung gian hoặc các mạng riêng biệt trước khi nó có thể đi tới đích. Tính linh hoạt này của giao thức TCP/IP đã tạo cơ hội cho “bên thứ ba” có thể thực hiện các hành động bất hợp pháp, cụ thể là: - Nghe trộm: thông tin vẫn không bị thay đổi, nhưng sự bí mật của nó thì không còn. Ví dụ, số thẻ tín dụng hoặc các thông tin cần bảo mật bị lộ. - Giả mạo: các thông tin trong khi truyền đi bị thay đổi hoặc thay thế trước khi đến người nhận. Ví dụ, đơn đặt hàng hay lý lịch của một cá nhân bị thay đổi. - Mạo danh: thông tin được gửi tới một cá nhân mạo nhận là người nhận hợp pháp theo hai hình thức. Hình thức thứ nhất là bắt chước, tức là một cá nhân có thể giả vờ như một người khác như dùng địa chỉ mail của một người khác hoặc giả mạo một tên miền của một trang web. Hình thức thứ hai là xuyên tạc, tức là một cá nhân hay một tổ chức có thể đưa ra những thông tin không đúng sự thật về họ như một trang web mạo nhận chuyên về kinh doanh trang thiết bị nội thất, nhưng thực tế lại là một trang chuyên ăn cắp mã thẻ tín dụng và không bao giờ gửi hàng cho khách. Sự phát triển thương mại điện tử gắn chặt với việc đảm bảo an toàn thông tin được trao đổi trên mạng và sự tin cậy của bên tham gia giao dịch. Công nghệ phổ biến hiện nay chống đỡ có hiệu quả những hành động bất hợp pháp nêu trên và đảm bảo sự tin cậy của các bên là chữ ký số và chứng thực điện tử. Công nghệ này cho phép: - Mã hoá và giải mã: cho phép hai đối tác giao dịch với nhau trên mạng có thể che giấu thông tin. Người gửi mã hoá các thông tin trước khi gửi chúng đi, người nhận sẽ giải mã trước khi đọc. Trong khi truyền, các thông tin sẽ không bị lộ. - Chống lại sự giả mạo: cho phép người nhận có thể kiểm tra thông tin có bị thay đổi hay không. Bất kỳ một sự thay đổi hay thay thế nội dung của thông tin gốc đều bị phát hiện. 16
  31. - Xác thực: cho phép người nhận có thể xác định danh tính của người gửi. - Không thể chối cãi: người gửi không thể chối cãi việc gửi thông tin. Mặc dù Việt Nam chưa chính thức có quy định pháp lý về việc cung cấp dịch vụ chữ ký số và chứng thực điện tử nhưng một số công ty đã năng động trong việc nghiên cứu và đưa vào ứng dụng công nghệ này. Từ giữa năm 2003, Công ty Misoft đã đưa ra thị trường sản phẩm thương mại MiCA sử dụng để cấp phát, quản lý chứng chỉ số, các chứng chỉ số này được lưu trữ trong các thiết bị chuyên dụng như iKey, SmartCard. Đồng thời thực hiện chuyển giao công nghệ trong việc tích hợp chứng chỉ số vào các hệ thống tin học trên nền Web, Mail cũng như các phần mềm phát triển xây dựng trên các ngôn ngữ lập trình khác nhau như Microsoft.Net, Delphi, Visual Basic, C++, ASP, JSP, Ngoài ra, Misoft còn thực hiện các khóa đào tạo về áp dụng chứng chỉ số trong thương mại điện tử cho các cơ quan, đơn vị. Đội ngũ chuyên gia của Misoft được đào tạo, cấp chứng chỉ từ các hãng lớn trên thế giới như Entrust. Misoft cũng là nhà phân phối sản phẩm về hệ thống cấp phát chứng chỉ của EnTrust tại Việt Nam. Misoft có khả năng cung cấp, chuyển giao các sản phẩm chứng chỉ số liên quan đến thương mại điện tử cho mọi mức độ khách hàng khác nhau, từ các hệ thống giao dịch nội bộ tới các hệ thống diện rộng, phân cấp, xác thực chéo. Misoft đã thực hiện cung cấp sản phẩm, đào tạo cho các khách hàng lớn như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính. Song song với các hệ thống cấp phát chứng chỉ số, Misoft còn là nhà cung cấp giải pháp an toàn an ninh mạng nói chung và thương mại điện tử nói riêng. Các giải pháp chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực như: dò tìm, đánh giá điểm yếu (Found Stone); các hệ thống tường lửa (CheckPoint); hệ thống phát hiện và phòng chống xâm nhập (Internet Security Systems); hệ thống phòng chống virus tập trung (TrendMicro). Các hệ thống này đã được kiểm chứng thực tế từ các khách hàng lớn như Công ty Thông tin Di dộng (VMS), Vietnam Airlines, Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Bộ Tài chính. Hộp 1.7 Một hãng đi tiên phong trong lĩnh vực bảo mật Entrust - một trong những hãng đi đầu về phát triển PKI. Giải pháp của EnTrust không những đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về hệ thống CA mà còn cung cấp thêm nhiều ứng dụng của chứng chỉ số, tích hợp chúng trong các ứng dụng khác như e- mail, mã hoá file thư mục Các sản phẩm của Entrust tập trung cho việc nhận dạng và quản lý truy nhập bằng sử dụng xác thực mạnh, phân quyền, chữ ký điện tử và mã hoá các dịch vụ bảo mật cho các doanh nghiệp sử dụng giao dịch điện tử qua hệ thống mạng nội bộ, mạng WAN, mạng Internet, các dịch vụ Web, VPN. Chứng chỉ số do Entrust cung cấp tuân theo chuẩn X509 V3, ngoài ra còn tuân theo các chuẩn quốc tế về mã hoá như PKCS, RFC. Sơ đồ hệ thống (trang tiếp) 17
  32. Công ty VASC đã xây dựng thành công hệ thống quản lý và cấp chứng chỉ số của mình từ tháng 4/2002 và từ tháng 8/2002 đã chính thức phục vụ khách hàng. Chứng chỉ số VASC CA được dùng trong các giao dịch trên môi trường mạng hoặc Internet để: - Chứng thực các đối tượng sử dụng - Đảm bảo an toàn và bảo mật thông tin - Cung cấp bằng chứng pháp lý nếu xảy ra tranh chấp VASC CA cung cấp ba loại chứng chỉ số: chứng chỉ số cho cá nhân, chứng chỉ số cho máy chủ (server) và chứng chỉ số cho phát triển phần mềm. Trung tâm tin học Nacencom đã nghiên cứu và triển khai thành công việc cấp và quản lý chứng chỉ số dùng thẻ thông minh “PKI SmartCard” cho các đối tượng tham gia trong môi trường giao dịch điện tử, bao gồm các cá nhân, tổ chức và các hệ thống TMĐT. Thẻ thông minh PKI SmartCard của Nacencom như một máy tính thu nhỏ, là một công cụ cơ động với khả năng chống giả mạo, an toàn cho các khoá mã hoá, khoá xác thực và các thông tin nhậy cảm, hoạt động độc lập với máy tính trong xác thực, chữ ký điện tử và trao đổi khoá. Thẻ tuân theo chuẩn quốc tế ISO 7816, EN 726-3 và hỗ trợ đa ứng dụng. Cặp khoá được sinh bên trong thẻ, khoá riêng được bảo mật tuyệt đối trong thẻ với thuật toán mã hoá RSA 1024 bit. Thẻ được bảo vệ bằng PIN, hỗ trợ nhiều chứng thực và cặp khoá lưu trong thẻ. Ngoài ra, thẻ hỗ trợ giao tiếp với các hệ thống quản lý chứng thực số khác. Việc cấp chứng thực số tuân theo chuẩn X509 quy định cấu trúc của chứng thực số do Liên minh viễn thông quốc tế (ITU) ban hành. 18
  33. 3.3. Phần mềm nguồn mở Báo cáo Thương mại điện tử và Phát triển năm 2003 của UNCTAD đã nhấn mạnh tác động to lớn của Internet đối với phát triển kinh tế, đồng thời vạch ra lợi ích tiềm tàng của phần mềm nguồn mở (PMNM) đối với sự phát triển của CNTT nói chung và TMĐT nói riêng. Theo đánh giá của Dự án Phần mềm nguồn mở quốc gia thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, PMNM đã và đang phát triển mạnh mẽ và là một trong những hướng phát triển có triển vọng trong thời gian tới trong lĩnh vực CNTT. Đó là do tính ưu việt rất cơ bản của PMNM là phần mềm được phát triển, chia sẻ, hoàn thiện và đóng góp của hàng ngàn người trên thế giới. PMNM cho phép người dùng quyền tự do chạy chương trình với bất kỳ mục đích nào, quyền nghiên cứu và sửa đổi chương trình, quyền sao chép và phân phối lại mà không phải xin phép và trả tiền bản quyền. PMNM là tài sản trí tuệ của của cả cộng đồng trên phạm vi toàn thế giới và được chia sẻ tự do, đây là một trong những lợi thế mà những nước đi sau như Việt Nam có thể có cơ hội để phát triển. PMNM đã vào Việt Nam từ những năm 90 phục vụ mục đích nghiên cứu. Được sự ủng hộ của những người tiên phong và hoà nhập với phong trào phát triển PMNM trên thế giới, năm 2000 Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) đã tổ chức Hội thảo Quốc gia lần thứ nhất về PMNM và tiếp theo là các Hội thảo Quốc gia lần 2 năm 2002 và lần 3 năm 2004. Tháng 3/2004, Bộ Khoa học và Công nghệ đã đăng cai tổ chức Diễn đàn Châu Á lần thứ 3 về PMNM với 17 nền kinh tế trong Châu lục tham dự. Hoà nhịp với xu thế phát triển PMNM trên thế giới, Việt Nam cũng đã có những nỗ lực trong việc ứng dụng và phát triển PMNM và đạt được những kết quả nhất định trong công tác đào tạo và nghiên cứu, ứng dụng và phát triển, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về PMNM, cụ thể: - Viện Tin học Pháp ngữ (IFI) đã hoàn toàn sử dụng PMNM phục vụ công tác giảng dạy và học tập cho tất cả giáo viên và sinh viên của Viện. Một số hệ thống máy tính thuộc Trường Đại học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh đã sử dụng Linux nhiều năm qua khẳng định độ tin cậy và an toàn. Một số trường đại học như Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Cần thơ, Đại học Huế cũng đã có kế hoạch sử dụng hệ điều hành này trong công tác giảng dạy và học tập. - Khoảng hơn 20 công ty Việt Nam đã tham gia phát triển và cung cấp các sản phẩm trên nền nguồn mở và đưa vào thực tế triển khai như: Ứng dụng cho máy để bàn, các sản phẩm này đã được các nhà sản xuất máy tính thương hiệu Việt Nam cài đặt trong máy xuất xưởng, đưa vào hệ thống giáo dục trong các trường phổ thông (5.000 máy cho hơn 100 trường phổ thông trên cả nước) ; Ứng dụng cho các hệ thống thông tin và máy chủ như dịch vụ viễn thông, Interrnet, thương mại điện tử, ngân hàng, cơ sở dữ liệu, cổng thông tin, hệ thống thông tin quản lý - Văn phòng Trung ương Đảng đã quyết định chuyển đổi hệ thống thông tin của Đảng từ Trung ương đến địa phương dựa trên Lotus Note sang giải pháp dựa trên PMNM. Việc chuyển đổi này đáp ứng nhu cầu tác nghiệp cũng như mở rộng hệ thống và làm chủ công nghệ. Hiện Văn phòng Trung ương Đảng đang nhân rộng xuống các tỉnh thành phố. 19
  34. - Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký thoả thuận với SUN về việc đưa vào sử dụng StarOffice 7 như một ứng dụng văn phòng chuẩn trong ngành giáo dục. Bản StarOffice (bản thương mại của SUN) và bản OpenOffice - Phần mềm nguồn mở (SUN tặng cộng đồng nguồn mở) đều do SUN phát triển, có đôi chút khác biệt giữa hai phiên bản này là bản StarOffice hoàn toàn do SUN phát triển, còn bản OpenOffice thì có sự đóng góp của cộng đồng. Điều này có nghĩa, một người sử dụng thành thạo StarOffice thì cũng sẽ sử dụng thành thạo OpenOffice, như vậy việc Bộ Giáo dục và đào tạo ký thoả thuận với SUN về sử dụng bản StarOffice sẽ là bước đệm rất quan trọng trong việc chuyển từ sử dụng các ứng dụng nguồn đóng (Microsoft) sang các ứng dụng nguồn mở trong ngành giáo dục. - Tổ chức các nước sử dụng tiếng Pháp (Francophonie) đã hỗ trợ thành thành lập Trung tâm hỗ trợ PMNM và đưa PMNM vào triển khai thử nghiệm tại 03 trường đại học tại Việt Nam (Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Bách khoa TP. Hồ Chí Minh và Đại học Cần Thơ) - Các Trung tâm APTECH đào tạo về CNTT (khoảng 15 Trung tâm) đã đưa nội dung đào tạo về PMNM vào trong các khoá học của Trung tâm. APTECH dự kiến đến cuối năm 2004 sẽ đưa ra các khoá đào tạo chuyên sâu về PMNM. - Đã có thêm nhiều công ty định hướng và cam kết tham gia vào phát triển các ứng dụng PMNM. Nổi bật nhất là công ty TMA đang tích cực chuẩn bị cho việc chuyển đổi sang sử dụng và phát triển các ứng dụng trên nền nguồn mở. Tuy chưa thành một tổ chức lớn, nhưng trong nước đã hình thành các cộng đồng về phần mềm nguồn mở chủ yếu là trong một số trường đại học lớn. Cuối tháng 08/2004 Đại học Bách khoa Hà Nội tổ chức ngày hội về PMNM để hưởng ứng ngày quốc tế về PMNM và phần mềm tự do. Đây là một dấu ấn trong việc phát triển cộng đồng PMNM ở Việt Nam. Ngày 02/03/2004 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 235/QĐ- TTg về việc phê duyệt Dự án tổng thể “Ứng dụng và phát triển phần mềm nguồn mở ở Việt Nam giai đoạn 2004-2008” với mục tiêu chủ yếu là đẩy nhanh việc ứng dụng và phát triển PMNM, góp phần bảo vệ bản quyền tác giả và giảm chi phí mua sắm phần mềm, thúc đẩy phát triển công nghiệp CNTT nói chung và công nghiệp phần mềm nói riêng của Việt Nam. Bộ Khoa học Công nghệ đang cùng nhiều cơ quan, tổ chức từ trung ương tới địa phương và cộng đồng doanh nghiệp CNTT tích cực triển khai Quyết định này. Đồng thời Bộ Khoa học và Công nghệ đã xây dựng trang web cung cấp thông tin phong phú về PMNM. 4. Một số vấn đề khác 4.1. Sở hữu trí tuệ Tình trạng vi phạm bản quyền phần mềm ở Việt Nam vẫn ở mức cao và chưa có sự tiến bộ đáng kể nào so với năm 2003. Theo báo cáo năm 2003 và 2004 của Liên minh Phần mềm Doanh nghiệp (BSA) và IDC, năm 2002 tỷ lệ vi phạm bản quyền của Việt Nam là 94% - đứng đầu trong danh sách các nước có tỷ lệ cao nhất, năm 2003 Việt Nam cùng Trung Quốc có tỷ lệ vi phạm là 92% và tiếp tục đứng đầu danh sách trên. 20
  35. Bảng 1.5 Các nước dẫn đầu về vi phạm bản quyền năm 2003 Việt Nam 92% Trung Quốc 92% Ucraina 91% Indonesia 88% Nga 87% Zimbabue 87% Algieri 87% Nigieria 84% Pakistan 83% Paraguay 83% Tunisia 82% Thailand 80% Nguồn: First Annual BSA and IDC Global Software - Piracy Study 07/2004 Nguyên nhân chính của việc vi phạm bản quyền là do giá thành chi cho một công trình nghiên cứu phần mềm quá lớn trong khi các sản phẩm được sao chép đem bán ở thị trường lại rẻ mạt. Ví dụ hãng Microsoft trung bình mỗi năm phải chi 3 tỷ USD để đầu tư nghiên cứu phát triển phần mềm, vậy mà khi thành phẩm của họ bị sao chép, in lậu và bán ra thị trường, giá chỉ khoảng 10.000 đồng/đĩa tại thị trường Việt Nam. Ngoài lý do trên, sự thiếu hiểu biết về luật pháp, sự kém rành mạch, cụ thể trong hệ thống hành lang pháp lý cộng với việc kém gương mẫu của ngay chính các cơ quan nhà nước cũng dẫn đến tình trạng vi phạm quyền bảo hộ phần mềm nói trên. Nếu tình trạng cứ tái diễn như hiện nay thì ngành công nghiệp phần mềm còn non trẻ của Việt Nam sẽ rất khó phát triển. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng giảm bớt nhiệt tình đầu tư vào lĩnh vực này ở Việt Nam. 4.2. An ninh mạng Ngày 29/1/2004, Bộ Công an đã ra Quyết định số 71/2004/QĐ-BCA về việc ban hành Quy định về đảm bảo an toàn, an ninh trong hoạt động quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet tại Việt Nam. Quyết định này đặt ra yêu cầu về cấp phép, trang thiết bị, nhân sự, cơ chế hoạt động, vấn đề bảo mật, trách nhiệm báo cáo đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet (gồm cả các nhà cung cấp dịch vụ truy nhập, dịch vụ ứng dụng, dịch vụ cung cấp thông tin trên Internet) và đại lý cung cấp dịch vụ Internet. Người sử dụng Internet và tổ chức tham gia hoạt động Internet cũng phải có trách nhiệm thông báo cho cơ quan công an về nội dung thông tin gây phương hại tới an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội Những hành vi vi phạm sẽ chịu các mức phạt tiền tuỳ vào các mức độ nghiêm trọng. Tổng cục An ninh của Bộ Công an chịu trách nhiệm giám sát việc thực hiện. Quyết định 71 thể hiện quan điểm thắt chặt quản lý nhà nước đối với các loại hình dịch vụ Internet. Có khá nhiều ý kiến không thống nhất với quan điểm này, coi cách quản lý như vậy sẽ cản trở các ứng dụng Internet. 21
  36. Hộp 1.8 Ý kiến về quy định đảm bảo an toàn, an ninh trong hoạt động Internet Vài năm trở lại đây trong các văn bản quản lý viễn thông nói chung và Internet nói riêng đã có thay đổi về nhận thức, lấy phục vụ người dùng làm trung tâm, và điều này thể hiện ở cách nói "quản lý phải theo kịp sự phát triển". Tuy vậy vẫn còn những bất cập. Ví dụ, Điều 8 của Quyết định số 71/2004/QĐ-BCA về trách nhiệm của đại lý Internet có ghi: "Đại lý Internet có trách nhiệm: 2. Thông tin liên quan đến người sử dụng dịch vụ phải được lưu giữ lại tại máy chủ của đại lý trong thời gian 30 ngày, 3. Có sổ đăng ký sử dụng dịch vụ thống kê đầy đủ chi tiết thông tin về khách hàng gồm: Họ tên, địa chỉ, số CMND hoặc hộ chiếu, thời gian sử dụng dịch vụ. Phải có giải pháp ngăn chặn việc truy cập đến các trang web có nội dung xấu trên Internet và cài đặt chương trình phần mềm để quản lý tức thời nội dung thông tin của khách hàng". Theo tôi, các quy định như vậy là hoàn toàn bất khả thi và cản trở hoạt động kinh doanh và cũng không giúp được gì cho cơ quan quản lý. Do bất khả thi nên chẳng ai thực hiện và cơ quan quản lý đành phải nhắm mắt làm ngơ. Tuy vậy chúng lại biến rất nhiều người lương thiện thành kẻ phạm pháp mà không bị trừng trị (nhưng có thể bị bất cứ lúc nào nếu cơ quan quản lý muốn và như thế có thể tạo điều kiện cho lạm quyền và tham nhũng); tạo tâm lý coi thường pháp luật trong dân chúng. Lưu ý là tôi không phản đối việc kiểm soát, nhiều khi kiểm soát là tốt như chống phát tán thư rác, v.v , song tôi cho rằng cách kiểm soát như nêu trên là không có hiệu quả. Tiến sĩ Nguyễn Quang A, Báo Lao động số 357 ra ngày 22/12/2004 22
  37. PHẦN THỨ HAI MÔI TRƯỜNG CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 1. Tình hình chung Trước năm 2000, TMĐT còn là thuật ngữ pháp lý mới. Hệ thống pháp luật Việt Nam có quy định nhưng chưa thể hiện được bản chất và tầm quan trọng của TMĐT. Luật Thương mại năm 1997 nhắc tới hình thức hợp đồng bằng phương tiện điện tử như fax, telex, thư điện tử và coi chúng là văn bản (Điều 49). Quy định này chỉ mang tính hình thức và chưa cụ thể hoá các khía cạnh kỹ thuật đủ cho việc áp dụng hiệu quả. Một số vụ án kinh tế liên quan tới giá trị chứng cứ của thư điện tử, bản fax trong giao dịch hợp đồng nhưng các quy định pháp lý chưa đủ để giải quyết. Trong thời gian này, Bộ Thương mại, Bộ Tư pháp cũng đã có một số nghiên cứu và đề xuất xây dựng chính sách và pháp luật lên Chính phủ. Tuy nhiên, chưa có văn bản pháp quy về TMĐT nào của Chính phủ hoặc Thủ Tướng Chính phủ được ban hành và trở thành nền tảng pháp lý hỗ trợ cho sự phát triển của TMĐT. Trong giai đoạn 2000-2003, một số văn bản pháp lý chuyên ngành đã có những quy định khá cụ thể về giao dịch điện tử như Bộ luật Hình sự năm 2000, Luật Hải quan năm 2001, Pháp lệnh Quảng cáo năm 2001, những văn bản dưới luật trong lĩnh vực ngân hàng. Tuy nhiên, do nhận thức chưa toàn diện về TMĐT, các chế định pháp lý trên còn thiếu cơ sở pháp lý cụ thể, vì vậy dẫn tới việc khó áp dụng trên thực tế. Tháng 5 năm 2001, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 81/2001/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình hành động triển khai Chỉ thị số 58- CT/TW về việc đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Theo Quyết định này, Bộ Thương mại có trách nhiệm triển khai kế hoạch phát triển thương mại điện tử của Việt Nam. Tháng 1 năm 2002, Chính phủ đã giao Bộ Thương mại chủ trì xây dựng Pháp lệnh TMĐT nhằm hình thành cơ sở pháp lý toàn diện cho TMĐT. Sau gần hai năm xây dựng, tới cuối năm 2003, Bộ Thương mại đã hoàn thành Dự thảo 6 của Pháp lệnh và chuẩn bị trình Chính phủ. Tuy nhiên, do tầm quan trọng của giao dịch điện tử đối với mọi mặt của kinh tế xã hội nên Quốc hội đã quyết định xây dựng Luật Giao dịch điện tử bao trùm nội dung của Pháp lệnh TMĐT. Hộp 2.1 Quyết định của Quốc hội dừng triển khai Pháp lệnh TMĐT Ngày 18/10/2004, Văn phòng Quốc hội đã ra Quyết định số 1791/VPQH-KHCNMT thông báo ý kiến của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Thương mại và các cơ quan liên quan với hai nội dung sau: 1. Kết thúc nhiệm vụ của Ban Soạn thảo Dự án Pháp lệnh TMĐT; tiến hành tổng kết, quyết toán kinh phí các hoạt động của Ban Soạn thảo đến thời điểm hiện tại; chuyển giao cho Ban Soạn thảo Dự án Luật GDĐT dự thảo và các tài liệu liên quan của Pháp lệnh TMĐT để nghiên cứu, tiếp thu 23
  38. đưa nội dung này vào Dự thảo luật. 2. Để kịp thời với tiến độ soạn thảo và đảm bảo thực thi Luật GDĐT khi thực hiện các giao dịch (nhất là trong lĩnh vực thương mại) trong nước cũng như quốc tế, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành hữu quan chuẩn bị các dự thảo Nghị định đi kèm Luật GDĐT thuộc lĩnh vực mà Bộ, ngành mình quản lý. 2. Tình hình xây dựng các chiến lược, kế hoạch liên quan tới TMĐT 2.1. Chiến lược phát triển Công nghệ thông tin và Truyền thông (CNTT&TT) Mặc dù đường lối lớn về CNTT đã hình thành trong giai đoạn 2000 – 2002 nhưng Việt Nam vẫn cần phải ban hành một chiến lược phát triển dài hạn cụ thể hoá đường lối đã vạch ra. Ngay sau khi được thành lập và được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về CNTT, từ năm 2003 Bộ Bưu Chính Viễn thông đã tập trung xây dựng Chiến lược phát triển CNTT&TT tới năm 2010. Trong năm 2004 Dự thảo Chiến lược đã được đưa ra thảo luận tại một số cuộc họp của Ban Chỉ đạo 58. Theo Dự thảo Chiến lược, CNTT&TT được xác định là nòng cốt cho Việt Nam chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế - xã hội, trở thành nước có trình độ tiên tiến về phát triển xã hội thông tin trong khu vực ASEAN. Với tầm nhìn trên, Chiến lược đề ra quan điểm phát triển, thể hiện trên bốn khía cạnh gồm: (a) coi CNTT&TT là công cụ quan trọng hàng đầu để thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ, từng bước hình thành xã hội thông tin - cơ sở để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; (b) coi Công nghiệp CNTT&TT là ngành kinh tế mũi nhọn, được nhà nước ưu tiên hỗ trợ và khuyến khích phát triển; (c) ưu tiên phát triển hạ tầng thông tin và truyền thông, tạo cơ sở cho các ứng dụng CNTT&TT trong mọi lĩnh vực của toàn xã hội; (d) phát triển nguồn nhân lực có chất lượng, đồng bộ, chuyển dịch nhanh về cơ cấu theo hướng tăng nhanh tỷ lệ nguồn nhân lực có tri thức, phát triển mạnh mẽ năng lực công nghệ quốc gia. Dự thảo Chiến lược xác định bốn trụ cột phát triển là xã hội điện tử, chính phủ điện tử, kinh doanh điện tử và thương mại điện tử. Các tiêu chí phát triển khá cụ thể, bao gồm: (1) 1 triệu máy tính cá nhân giá rẻ cho cộng đồng; (2) xóa mù tin học cho 20 triệu người dân; (3) đào tạo, bồi dưỡng 1.000 cán bộ lãnh đạo phụ trách CNTT và truyền thông; (4) chứng minh thư điện tử cho toàn dân; (5) thúc đẩy 50% doanh nghiệp ứng dụng CNTT và truyền thông để nâng cao năng lực cạnh tranh; (6) 100% trường trung học sử dụng Internet; (7) điện tử hóa 50% văn bản nhà nước; (8) 1 triệu trang thông tin điện tử phục vụ công ích; (9) 50% dịch vụ hành chính công cơ bản trực tuyến; (10) 30.000 chuyên gia CNTT và truyền thông. Giai đoạn cuối năm 2003 và đầu năm 2004, hoạt động xây dựng Chiến lược phát triển CNTT & TT thu hút được sự chú ý đáng kể của các bộ ngành và dư luận. Tuy nhiên, nửa cuối năm 2004 hoạt động xây dựng Chiến lược trở nên trầm lắng. Cho tới cuối năm 2004 không thấy có thông báo chính thức nào từ Bộ Bưu Chính Viễn thông về kế hoạch hoàn thành và trình Chính phủ Chiến lược này. Điều đáng 24
  39. lưu ý khác là Dự thảo Chiến lược chưa được công bố rộng rãi nhằm thu hút các ý kiến góp ý từ đông đảo các tổ chức, doanh nghiệp và công dân. 2.2. Kế hoạch tổng thể Phát triển Thương mại điện tử giai đoạn 2006 - 2010 Thực hiện chức năng thống nhất quản lý nhà nước về TMĐT và Quyết định số 81/2001/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ, năm 2004 Bộ Thương mại bắt đầu xây dựng Kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT giai đoạn 2006 - 2010. Tháng 12 năm 2004, Bộ Thương mại đã hoàn thành Dự thảo 1 của Kế hoạch tổng thể và xin ý kiến chỉ đạo tại Phiên họp 8 của Ban Chỉ đạo quốc gia về CNTT. Theo Chương trình công tác năm 2005 của Chính phủ và Thủ Tướng Chính phủ, Bộ Thương mại phải hoàn thành Kế hoạch này và trình Thủ Tướng Chính phủ xem xét vào giữa năm 2005. Với quan điểm coi TMĐT là động lực quan trọng giúp tăng trưởng kinh tế - thương mại và góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, Dự thảo xác định bốn mục tiêu phát triển TMĐT tới năm 2010 gồm: (1) Phần lớn (khoảng 70%) các doanh nghiệp lớn tiến hành giao dịch B2B (doanh nghiệp với doanh nghiệp) và ứng dụng TMĐT ở mức cao; (2) Hầu hết (khoảng 90%) các doanh nghiệp vừa và nhỏ biết tới lợi ích của TMĐT và có ứng dụng nhất định; (3) Một bộ phận đáng kể (khoảng 15%) hộ gia đình và cá nhân có thói quen mua hàng trên mạng (B2C); và (4) Tất cả các chào thầu mua sắm chính phủ được công bố trên các trang tin điện tử của các cơ quan Chính phủ và 30% mua sắm chính phủ được tiến hành trên mạng (B2G). Để đạt được mục tiêu trên, nhà nước sẽ đẩy mạnh tuyên truyền, đào tạo về TMĐT cho các doanh nghiệp, kịp thời xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi cho TMĐT và phát huy vai trò tiên phong của các cơ quan nhà nước trong việc ứng dụng TMĐT trong mua sắm công. Dự thảo đề ra sáu chính sách lớn. Chính sách thứ nhất là triển khai mạnh mẽ và liên tục hoạt động phổ biến, tuyên truyền, đào tạo về TMĐT. Chính sách thứ hai là nhanh chóng tạo lập môi trường thuận lợi cho TMĐT với việc ban hành đầy đủ và đồng bộ các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới TMĐT. Chính sách tiếp theo là các cơ quan chính phủ ở mọi cấp cần phải đi tiên phong trong việc hỗ trợ và ứng dụng TMĐT. Chính sách thứ tư và thứ năm là phát triển hạ tầng kỹ thuật cho TMĐT trên cơ sở chuyển giao công nghệ từ nước ngoài, tổ chức thực thi các quy định pháp luật liên quan tới TMĐT một cách cương quyết, kịp thời. Cuối cùng, chính sách thứ sáu là tích cực tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế về TMĐT. Trên cơ sở các chính sách lớn này, Dự thảo đã đề xuất nhiều chương trình, dự án cụ thể. Mỗi chương trình, dự án sẽ do một cơ quan chịu trách nhiệm chủ trì song song với sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan khác. Kinh phí triển khai các chương trình, dự án chủ yếu huy động từ toàn xã hội và nguồn ngân sách hàng năm cấp cho từng cơ quan nhà nước. Dự thảo cũng đề xuất Nhà nước cần thiết lập Quỹ phát triển TMĐT từ ngân sách nhà nước để tài trợ cho những dự án khó xác định thuộc thẩm quyền của một cơ quan cụ thể, hoặc những dự án chỉ cần đầu tư nhỏ nhưng sẽ kích thích mạnh mẽ mọi đối tượng ứng dụng TMĐT. 2.3. Kế hoạch tổng thể Phát triển Chính phủ điện tử tới năm 2010 25
  40. Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về CNTT năm 2004 Bộ Bưu chính Viễn thông đã tích cực xây dựng Kế hoạch tổng thể phát triển CPĐT tới năm 2010. Cuối năm 2004, Dự thảo Kế hoạch đã hoàn thành. Dự thảo này đề ra các quan điểm sau: (1) coi CPĐT là công cụ giúp Chính phủ trong sạch, minh bạch, hiệu lực và hiệu quả hơn; (2) lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm; (3) gắn với hoạt động cải cách hành chính; (4) coi CPĐT là động lực thúc đẩy quá trình đổi mới, nâng cao năng lực và chất lượng cuộc sống. Dự thảo đặt ra các mục tiêu nhằm nâng cao năng lực điều hành, quản lý của các cơ quan Chính phủ; phục vụ người dân và doanh nghiệp; huy động nguồn vốn nhà nước (1% ngân sách từ năm 2006) cho phát triển Chính phủ điện tử. Dự thảo cụ thể các nhóm kế hoạch thực hiện gồm: (1) nâng cao năng lực điều hành, quản lý của cơ quan Chính phủ; (2) cung cấp thông tin cho các cơ quan, người dân và doanh nghiệp; (3) xây dựng dịch vụ công phục vụ người dân và doanh nghiệp; (4) xây dựng hạ tầng và môi trường pháp lý. Tương ứng từng nhóm kế hoạch thực hiện là những dự án trọng điểm. Dự kiến Bộ Bưu chính Viễn thông sẽ trình Dự thảo Kế hoạch tổng thể Phát triển Chính phủ điện tử lên Thủ tướng Chính phủ xem xét vào đầu năm 2005. Thực hiện chính phủ điện tử là một yếu tố không thể tách rời với thương mại điện tử vì rất nhiều dịch vụ công liên quan tới thương mại điện tử do các cơ quan chính phủ thực hiện như hải quan điện tử, thuế điện tử, cấp phép xuất nhập khẩu điện tử, mua sắm công điện tử, v.v 3. Pháp lệnh TMĐT và Luật GDĐT 3.1. Pháp lệnh Thương mại điện tử Tháng 1/2002, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Thương mại chủ trì Dự án Pháp lệnh TMĐT. Để thực hiện nhiệm vụ được giao, Bộ Thương mại đã thành lập Ban soạn thảo và Tổ biên tập Pháp lệnh TMĐT với thành viên là cán bộ, chuyên viên và chuyên gia từ các Bộ, ngành và khối doanh nghiệp liên quan. Cuối năm 2003, Bộ Thương mại đã hoàn thành xong dự thảo cuối cùng (Dự thảo 6) của Pháp lệnh TMĐT và chuẩn bị thủ tục trình Chính phủ và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Văn bản này có mục đích tạo cơ sở pháp lý cho việc sử dụng thông điệp dữ liệu trong các hoạt động thương mại, từ đó gián tiếp thúc đẩy các ứng dụng khác nhau của TMĐT. Tuy nhiên, cuối năm 2003, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2004, trong đó không có Pháp lệnh TMĐT. Nghị quyết đã bổ sung Dự án Luật Giao dịch điện tử vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XI (2002-2007). Tháng 10/2004, Văn phòng Quốc hội đã thông báo ý kiến chỉ đạo của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về việc ngừng xây dựng Pháp lệnh TMĐT và thu hút nội dung Pháp lệnh vào Luật Giao dịch điện tử. Hộp 2.2 Ngừng ban hành Pháp lệnh TMĐT là một sự kiện CNTT năm 2004 Doanh nghiệp mong có luật về TMĐT Một trong 10 sự kiện CNTT-VT năm 2004 do Tạp chí Thế giới vi tính B số tháng 1/2005 bình bầu 26
  41. là việc "Dừng soạn thảo Pháp lệnh TMĐT, chuyển sang soạn thảo Luật Giao dịch điện tử, trong khi doanh nghiệp TMĐT đang mỏi mắt chờ luật". Có nhiều ý kiến khác nhau đối với quyết định ngừng ban hành Pháp lệnh TMĐT. Một số ý kiến cho rằng nên ban hành Pháp lệnh TMĐT vì đã hoàn thành về cơ bản nội dung Dự thảo, mặt khác, việc thi hành Pháp lệnh trên thực tế sẽ là kinh nghiệm quý giúp cho việc xây dựng Luật Giao dịch điện tử mang tính khả thi hơn. 3.2. Luật Giao dịch điện tử Đầu năm 2004, Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội khởi động Dự án xây dựng Luật Giao dịch điện tử (GDĐT). Tới cuối năm 2004, Ban Soạn thảo đã hoàn thành Dự thảo 6 với cấu trúc gồm 9 chương, 57 điều, quy định về: (1) giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu; (2) giá trị pháp lý của chữ ký điện tử và thị trường chứng thực điện tử; (3) hợp đồng điện tử; (4) GDĐT của các cơ quan nhà nước; (5) vấn đề bảo mật, an toàn, an ninh; (6) vấn đề sở hữu trí tuệ trong GDĐT thuộc các lĩnh vực dân sự, thương mại, hành chính và lĩnh vực khác do pháp luật quy định. Nếu kế hoạch xây dựng Luật GDĐT được thực hiện tốt thì cuối năm 2005 Quốc hội sẽ thông qua Luật này. Đây được coi là thời điểm lịch sử của các giao dịch điện tử tại Việt Nam, bao gồm các giao dịch điện tử trong lĩnh vực thương mại. Luật GDĐT sẽ thừa nhận giá trị pháp lý của các thông điệp dữ liệu và chữ ký điện tử được sử dụng trong các quan hệ dân sự, thương mại và hành chính; đồng thời cụ thể hoá các quy định áp dụng cho hợp đồng điện tử và các giao dịch điện tử của khối cơ quan nhà nước. Tổ chức, cá nhân sẽ yên tâm khi tiến hành các giao dịch điện tử, vừa giảm các chi phí giao dịch, tiết kiệm thời gian xử lý và vẫn có thể yêu cầu toà án bảo vệ quyền lợi của mình một khi có tranh chấp xẩy ra. Hộp 2.3 Xu hướng xây dựng pháp luật về GDĐT trên thế giới Pháp luật về GDĐT quy định ba nhóm vấn đề cơ bản: (1) Thừa nhận các giao dịch điện tử (qua việc thừa nhận giá trị pháp lý của các thông điệp dữ liệu) ; (2) Thừa nhận chữ ký điện tử (chữ ký số) nhằm đảm bảo tính an toàn và bảo mật của các hệ thống thông tin ; (3) quy định về những khía cạnh liên quan tới GDĐT gồm: quyền và nghĩa vụ của các nhà cung cấp dịch vụ mạng; thanh toán trực tuyến, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trên mạng, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên mạng, bảo vệ bí mật cá nhân trên mạng, tội phạm, vi phạm trên mạng và cơ chế giải quyết tranh chấp trên mạng. Tuỳ thực tế phát triển của mình, từng nước sẽ hình thành các chế định pháp lý về GDĐT theo năm khuynh hướng sau: 1. Xây dựng một luật độc lập bao quát cả 03 nhóm vấn đề nêu trên. Cách này tránh khỏi việc sửa đổi, bổ sung những văn bản luật hiện hành và kịp thời đưa ra các quy định điều chỉnh các GDĐT. Tuy nhiên, một luật như trên liên quan tới nhiều lĩnh vực, việc xây dựng không đơn giản, do đó đòi hỏi trình độ lập pháp cao. Hàn Quốc đã xây dựng Luật cơ bản về TMĐT bao quát cả 03 nhóm vấn đề trên, tuy nhiên đối tượng điều chỉnh chỉ là các giao dịch thương mại, không mở rộng cho mọi GDĐT. 2. Xây dựng nhiều luật độc lập quy định về từng vấn đề cụ thể trong 03 nhóm vấn đề trên. Điển hình là Malaysia với các luật chữ ký số, luật chữa bệnh từ xa, luật truyền thông và đa phương tiện Cách này không đòi hỏi phải sửa đổi pháp luật chuyên ngành, có khả năng nhanh chóng xây 27
  42. dựng các văn bản pháp lý điều chỉnh các khía cạnh khác nhau của GDĐT. Tuy nhiên, đòi hỏi phải hình thành một cơ quan chuyên nghiên cứu và đề xuất chính sách liên quan tới CNTT (Malaysia đã thành lập MSC - Multimedia Super Corridor có trách nhiệm đề xuất và xây dựng nội dung các vấn đề pháp lý liên quan tới CNTT). 3. Xây dựng luật riêng thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu và/hoặc chữ ký điện tử (chữ ký số). Các vấn đề khác liên quan tới GDĐT được quy định bằng cách sửa đổi, bổ sung pháp luật chuyên ngành. UNCITRAL (Uỷ ban Liên hợp quốc về pháp luật thương mại quốc tế) khuyến nghị các nước theo hướng này với việc ban hành luật mẫu về TMĐT (phạm vi điều chỉnh có thể được mở rộng cho mọi GDĐT) và Luật mẫu về chữ ký điện tử. Phillippines cũng theo hướng này với việc hợp nhất nội dung 02 luật mẫu của UNCITRAL. 4. Xây dựng luật riêng thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu và/hoặc chữ ký điện tử (chữ ký số). Luật này cũng bao gồm cả một số vấn đề được coi là quan trong như quyền và nghĩa vụ của các nhà cung cấp dịch vụ trực tuyến, thanh toán điện tử. Các vấn đề còn lại liên quan tới GDĐT được quy định bằng cách sửa đổi, bổ sung pháp luật chuyên ngành. Điển hình là Mỹ với Luật Thống nhất giao dịch điện tử (1999) và Luật eSign (Luật về chữ ký điện tử trong pháp luật thương mại quốc gia và quốc tế), Canada, Úc, Singapore 5. Không xây dựng luật mới mà chỉ sửa đổi, bổ sung pháp luật hiện hành và đưa các quy định dưới luật. Pháp đã sửa đổi Bộ luật Dân sự (Điều 1316-4) để thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu và chữ ký điện tử, dựa vào Điều 1316-4 và Chỉ thị về chữ ký điện tử của Châu Âu, Pháp cũng đã xây dựng một Nghị định về chữ ký điện tử. 4. Một số luật và chính sách liên quan tới TMĐT 4.1. Pháp luật về quảng cáo Ngày 16/11/2001, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Quảng cáo 39/2001/PL-UBTVQH, trong đó Điều 9 đề cập tới phương tiện quảng cáo Báo điện tử và Mạng thông tin máy tính, Điều 10 quy định: “Báo điện tử được quảng cáo như đối với báo in” và Điều 11 đưa ra yêu cầu đối với việc quảng cáo trên mạng thông tin máy tính. Ngày 31/3/2003, Chính phủ ban hành Nghị định 24/2003/NĐ hướng dẫn Pháp lệnh có những quy định tạo cơ sở cấp giấy phép quảng cáo trên mạng thông tin máy tính. Ngày 21/11/2002, Bộ Văn hoá Thông tin cũng đã ban hành Quyết định số 28/2002/QĐ-BVHTT ban hành Quy chế xuất bản bản tin, tài liệu, tờ rơi; phát hành thông cáo báo chí; đăng, phát bản tin trên màn hình điện tử của các cơ quan, tổ chức nước ngoài, pháp nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam. Ba văn bản trên đã quy định về quảng cáo trên mạng, tuy nhiên, mới mang tính hình thức, đề cập dưới góc độ quản lý nhà nước trong quảng cáo nói chung. Quảng cáo thương mại với ý nghĩa là một hoạt động thương mại chưa có quy định pháp lý điều chỉnh cụ thể. Bộ Thương mại đang xây dựng Dự thảo Luật Thương mại (sửa đổi), trong đó quy định về hoạt động quảng cáo thương mại. Đây sẽ là cơ sở pháp lý chung cho phát triển dịch vụ quảng cáo trực tuyến. Tuy nhiên, để định hướng, khuyến khích quảng cáo trực tuyến, sẽ cần những quy định cụ thể hơn. Hiện nay tại Việt Nam đã có nhiều hình thức tiến hành quảng cáo trực tuyến. Doanh nghiệp có thể hình thành một website riêng, đặt đường dẫn website của mình tại những trang web có nhiều người xem, đăng hình quảng cáo tại những website tin tức nổi tiếng hay trực tiếp gửi thư điện tử tới từng khách hàng, đối tác tiềm năng 28