Đề tài Khai thác di tích thờ Hưng Đạo Đại Vương ở lưu vực sông Bạch Đằng phục vụ cho du lịch - Nguyễn Thế Vũ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Khai thác di tích thờ Hưng Đạo Đại Vương ở lưu vực sông Bạch Đằng phục vụ cho du lịch - Nguyễn Thế Vũ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- de_tai_khai_thac_di_tich_tho_hung_dao_dai_vuong_o_luu_vuc_so.pdf
Nội dung text: Đề tài Khai thác di tích thờ Hưng Đạo Đại Vương ở lưu vực sông Bạch Đằng phục vụ cho du lịch - Nguyễn Thế Vũ
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG ISO 9001 : 2008 ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KHAI THÁC DI TÍCH THỜ HƢNG ĐẠO ĐẠI VƢƠNG Ở LƢU VỰC SÔNG BẠCH ĐẰNG PHỤC VỤ CHO DU LỊCH Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Thế Vũ HẢI PHÒNG - 2013
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HÀI PHÒNG ISO 9001 : 2008 KHAI THÁC DI TÍCH THỜ HƢNG ĐẠO ĐẠI VƢƠNG Ở LƢU VỰC SÔNG BẠCH ĐẰNG PHỤC VỤ CHO DU LỊCH CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA DU LỊCH Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Thế Vũ HẢI PHÒNG -2013
- MỤC LỤC Mở đầu 1 1 Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Lí do chọn đề tài 2 3.Mục tiêu và nhiệm vụ 3 4. Phương pháp nghiên cứu 3 5. Khả năng triển khai ứng dụng triển khai kết quả của đề tài 4 6. Dự kiến kết quả của đề tài 4 7. Tài liệu tham khảo và tình hình nghiên cứu 4 Chương 1. Khái quát về di tích lịch sử và các di tích thờ Trần Hưng Đạo ở Việt Nam 6 1.1. Khái quát về di tích lịch sử 6 1.1.1. Định nghĩa về di tích lịch sử. 6 1.1.2. Đặc điểm của các di tích lịch sử 6 1.1.3. Ý nghĩa. 6 1.2. Vài nét về Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn 7 1.2.1. Thân thế 7 1.2.2. Sự nghiệp 9 1.2.3. Vị trí và vai trò của Hưng Đạo Đại Vương trong lịch sử dân tộc và đời sống tâm linh người Việt. 12 1.3. Các di tích thờ Trần Hưng Đạo trên cả nước 14 1.3.1. Mục đích , ý nghĩa của việc thờ tự 14 1.3.2. Những địa phươngcó di tích thờ Trần Hưng Đạo. 14 1.3.3. Các lễ hội gắn với Trần Hưng Đạo. 15 Chương 2. Thực trạng các di tích thờ Trần Hưng Đạo ở lưu vực sông Bạch Đằng: 17 2.1. Tìm hiểu về sông Bạch Đằng: 17 2.1.1. Vị trí địa lí - cảnh quan 17 2.1.2. Những chiến thắng lịch sử trên sông Bạch Đằng. 18 2.1.3. Chiến thắng của Trần Hưng Đạo trên sông Bạch Đằng 26 2.2. Tổng quan về một số di tích thờ Trần Hưng Đạo ở lưu vực sông Bạch Đằng. 31 A. Các di tích Quảng Yên – Yên Hưng- Quảng Ninh. 31 2.2.1 Đền Trần Hưng Đạo 31 2.2.2.Đền Trung Cốc. 34 2.2.3. Đình Trung Bản. 35 2.2.4. Đình Yên Giang 39
- 2.2.5. Các di tích liên quan 41 2.2.5.1. Bến Đò Rừng. 41 2.2.5.2. Hai Cây Lim Giếng Rừng. 41 2.2.5.3. Bãi cọc Bạch Đằng. 42 B. Các di tích tại Thủy Nguyên –Hải Phòng 43 2.2.6. Tràng kênh- Đền Trần Hưng Đạo. 43 2.2.7. Cụm di tích Liên Khê 45 2.2.7.1. Đền thụ khê 46 2.2.7.2 Chùa Mai Động 47 2.2.7.3 Chùa Thiểm Khê 48 2.3 Thực trạng các di tích thờ Trần Hưng Đạo ở lưu vực sông Bạch Đằng. 48 2.3.1 Thực trạng di tích 48 2.3.2. Thực trạng hoạt động du lịch ở các di tích. 49 Tiểu kết chương 2 52 Chương 3. Các giải pháp phát triển phục vụ du lịch 54 3.1. Giải pháp nâng cao khả năng khai thác các di tích cá di tích thờ Trần Hưng Đạo ở lưu vực sông Bạch Đằng phục vụ cho phát triển du lịch. 54 3.1.1. Giải pháp trùng tu tôn tạo. 54 3.1.2Giải pháp nâng cao giá trị tâm linh. 55 3.1.3 Giải pháp về tuyên truyền quang bá cho du lịch. 56 3.1.4 Giải pháp lien kết phát triển du lịch giữa hai bên bờ lưu vực sông Bạch Đằng. 56 3.1.5. Giải pháp về đào tạo những người phục vụ du lịch tại chỗ. 57 3.1.6. Đa dạng hóa nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch. 59 Tiểu kết chương 3 60 Phụ Lục: 1
- Mở đầu 1 tính cấp thiết của đề tài Du lịch trong những năm gần đây có những bước phát triển mạnh mẽ, là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Không chỉ là nguồn thu ngoại tệ quan trọng, du lịch còn tạo việc làm cho hàng chục vạn lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp trong xã hội. Ngoài ra du lịch phát triển còn thúc đẩy nhiều ngành kinh tế khác cùng phát triển tạo nên một diện mạo mới cho nền kinh tế Việt Nam. Việt Nam có điều kiện địa lý tự nhiên và tiềm năng du lịch đa dạng và phong phú, hấp dẫn về vẻ đẹp sinh thái tự nhiên, nền văn hoá đa dạng và truyền thống lịch sử lâu đời, phong phú về di sản văn hoá, các làng nghề và các lễ hội truyền thống gắn với các nhóm dân tộc của cả nước. Trong những năm qua, du lịch Việt Nam tăng trưởng tương đối ổn định với tốc độ trung bình ở mức tương đối cao (khoảng 20%), thu nhập từ ngành du lịch tăng lên nhiều lần. Đây là một thành công lớn góp phần giúp du lịch trở thành một trong những ngành quan trọng trong nền kinh tế. Điều đó nguồn tài nguyên du lịch của Việt Nam có rất nhiều lợi thế phát triển du lịch. Sông Bạch Đằng nằm giữa Hải Phòng và Quảng Ninh là có nhiều tài nguyên phát triển du lịch. Sông Bạch Đằng là dòng sông mang đậm những dấu ấn lịch sử, gắn với những chiến thắng oanh liệt của dân tộc như chiến thắng giặc Nam Hán của Ngô Quyền, chiến thắng giặc Tống của Lê Hoàn, chiến thắng giặc Nguyên Mông của Trần Hưng Đạo. Có thể nói chiến thắng giặc Nguyên Mông của Trần Hưng Đạo là chiến thắng nổi bật và làm rạng danh cho dân tộc Việt khi chiến thắng một trong những đội quân hùng mạnh nhất thế giới khi ấy. Chiến thắng ấy cũng làm nên tên tuổi của vị tướng tài, Trần Hưng Đạo- 10 vị tướng xuất sắc của thế giới. Hiện nay lưu vực sông Bạch Đằng còn lưu giữ rất nhiều những di tích thờ Trần Hưng Đạo. Cùng với những di tích lịch sử nổi tiếng trong cả nước, các di tích thờ Trần Hưng Đạo là một tài nguyên du lịch độc đáo, đầy tiềm năng đóng góp vào sự phát triển chung của ngành du lịch, phục vụ cho Năm du lịch quốc gia- Đồng bằng sông Hồng năm 2013. 1
- Nhưng trên thực tế trong những năm qua, việc khai thác những tài nguyên này phục vụ cho du lịch chưa được chú trọng và quan tâm đầu tư đúng mức, hoặc có một số công trình đã được đưa vào khai thác trong du lịch, nhưng không phải dưới tư cách một sản phẩm du lịch. Đồng thời hoạt động du lịch tại các điểm đến này còn diễn ra một cách tự phát, chưa có quy hoạch cụ thể đồng bộ, cũng như chưa có sự quản lý một cách chặt chẽ các nguồn tài nguyên từ phía cấp chính quyền địa phương, gây ra những lãng phí lớn về nguồn tài nguyên. Hơn thế nữa, những lợi ích về kinh tế do du lịch mang lại chưa tương xứng với tiềm năng, cụ thể đó là sự đóng góp vào sự phát triển kinh tế của địa phương còn rất hạn chế. 2. Lí do chọn đề tài Theo dòng chảy của lịch sử Việt Nam, các vương triều phong kiến đã tồn tại rất lâu đời, qua hàng ngàn năm. Mỗi triều đại qua đi đều để lại những dấu ấn thật đặc biệt qua từng thời kỳ họ trị vì đất nước. Dù hưng thịnh hay suy vong, đó đều là những yếu tố sự thật, không thể chối cãi qua nhiều giai đoạn thăng trầm trong mỗi thời đại. Việt Nam tuy chỉ là một đất nước nhỏ bé nhưng ngay từ khi ra đời đã luôn bị đế quốc phương Bắc dòm ngó, cùng với nhiều nỗi lo khác nhau. Thật là đặc biệt ở chỗ, mỗi một triều đại phong kiến của chúng ta, dường như nhà nào cũng gặp phải nạn ngoại xâm. Cũng từ đó, ý chí anh hùng quật cường của nhân dân ta được bộc lộ, đó là lòng yêu nước vô bờ bến của cả quân và dân. Lịch sử đã chỉ rõ, bằng lòng quyết tâm đánh và chiến thắng kẻ thù, được sự tin yêu, ủng hộ trong lòng dân chúng thì triều đại nào cũng đuổi được bè lũ cướp nước. Và điều này lại càng được thể hiện một cách xuất sắc ở thời đại nhà Trần. Bằng chứng xác thực nhất là sự đóng góp lớn lao của các đời vua và những danh tướng trong công cuộc gìn giữ sự thanh bình của quốc gia mà họ luôn sống với tinh thần “sinh vi tướng, tử vi thần” luôn được thế hệ sau tôn thờ. Trong phả hệ Trần triều, Trần Quốc Tuấn được nhắc đến như một vị tướng oai hùng nhất trong lịch sử các triều đại phong kiến. Cuộc đời và sự nghiệp của ông là những câu chuyện thú vị mang đậm chất giáo lí về tư cách đạo đức, làm người quân tử với đất nước, với dân tộc. Đó là tấm gương cho các triều đại về sau này, học hỏi về ông lòng trung quân ái quốc, con người tài năng bậc nhất trên mọi lĩnh vực: quân sự, y học, văn học Ngày nay khi nhắc đến ông, người ta không chỉ nhớ đến một vị tướng tài trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của vương triều Trần mà còn nhận định ngay đến một vị thánh linh thiêng: đức thánh Trần - Hưng Đạo Đại Vương. Ông được coi là Thánh, là Cha trong lòng dân chúng và 2
- được thờ ở mọi miền trên khắp Tổ quốc. Các di tích trân trọng thờ ông, dù là điện thờ chính hay chỉ là thờ phối tự nhưng không thể phủ nhận sự hiện diện của ông trong đền, chùa, miếu mạo vô cùng quan trọng với nhân dân mỗi vùng. Các di tích thờ Trần Hưng Đạo ở lưu vực sông Bạch Đằng vẫn còn lưu giữ được nhiều giá trị lịch sử văn hoá giúp cho thế hệ hôm nay có thể tìm hiểu kĩ hơn về thân thế và sự nghiệp của Ngài. Mỗi di tích ở lưu vực sông Bạch Đằng thờ đức thánh Trần, tuy đều có điểm chung là thờ vị anh hùng của dân tộc nhưng tại mỗi nơi lại cho người ta nhiều cảm giác khác nhau, đều để lại những ấn tượng sâu sắc. Cũng như các di tích khác, hệ thống di tích lịch sử văn hóa thờ Trần Hưng Đạo ở lưu vực sông Bạch Đằng đã trở thành gạch nối giữa quá khứ và hiện tại có ý nghĩa to lớn trong đời sống tinh thần của cộng đồng dân cư. Đó là những di tích thực sự có giá trị về lịch sử văn hoá, kiến trúc, mĩ thuật Thế nhưng, tính cho đến thời điểm này, một số các di tích trong đó không nhận được sự quan tâm cần thiết đối với giá trị của mình. Hơn nữa, những di tích đó đã từng được đánh giá rất có hữu ích trong việc phát triển du lịch văn hoá của thành phố này tồn tại một vấn đề lớn là chưa được khai thác thực sự hiệu quả cho hoạt động du lịch. 3.Mục tiêu và nhiệm vụ Mục tiêu: Nhằm khai thác các di tích thờ Trần Hưng Đạo ở lưu vực sông Bạch Đằng phục vụ cho du lịch. Quảng bá hình ảnh các di tích thờ Trần Hưng Đạo ở lưu vực sông Bạch Đằng- là nơi chiến thắng của Trần Hưng Đạo đánh tan quân Mông –Nguyên trên sông Bạch Đằng. Nhiệm vụ: Đưa ra một số giải pháp khai thác có hiệu quả các di tích thờ anh hùng dân tộc Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn ở lưu vực sông Bạch Đằng phục vụ phát triển du lịch. Qua đó đặt ra các biện pháp bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể trong kho tàng văn hóa Việt về tín ngường thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và các di tích thờ tự. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu (tiếp cận và phân tích hệ thống) Phương pháp thực địa Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp(phương pháp toán học) 3
- Phương pháp xã hội học. 5. Khả năng triển khai ứng dụng triển khai kết quả của đề tài Tài liệu nghiên cứu về các di tích lịch sử Tài liệu nghiên cứu văn hóa của sinh viên Tài liệu hướng dẫn du lịch . 6. Dự kiến kết quả của đề tài 1. Đóng góp về mặt khoa học, phục vụ công tác đào tạo: Tài liệu nghiên cứu về các di tích thờ Hưng Đạo Đại Vương ở lưu vực sông Bạch Đằng, có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử dân tộc Việt Nam, tài liệu giới thiệu và hướng dẫn du lịch. 2. Những đóng góp liên quan đến phát triển du lịch: - Định hướng khai thác phát triển tại các di tích thờ Hưng Đạo Đại Vương ở lưu vực sông Bạch Đằng phục vụ du lịch. - Một số gợi ý trong cách quản lý và khai thác hợp lý các di tích thờ Hưng Đạo Đại Vương ở lưu vực sông Bạch Đằng với tư cách là sản phẩm du lịch. 3. Những đóng góp về mặt xã hội (các giải pháp cho vấn đề xã hội): - Nâng cao ý thức người dân trong việc bảo tồn và giữ gìn các nét đẹp văn hóa, các di sản vật thể tại các di tích thờ Hưng Đạo Đại Vương ở lưu vực sông Bạch Đằng. 7. Tài liệu tham khảo và tình hình nghiên cứu Hiện cũng đã có nhiều tài liệu trong và ngoài nước nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Hưng Đạo Đại Vương nhưng đây là lần đầu tiên được nghiên cứu ở lưu vực sông Bạch Đằng với mục đích phục vụ cho du lịch. Những tài liệu tham khảo: 1. Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử kí toàn thư, Nhà xuất bản khoa học xã hội 1985: có viết về những trận đánh trên sông Bạch Đằng của Trần Hưng Đạo, diễn tả các chi tiết về trận đánh trên sông Bạch Đằng. 2. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nhà xuất bản Tân Việt 1968: có viết về Trần Hưng Đạo và các trận đánh trên sông Bạch Đằng. 3. Nguyễn Khắc Thuần, Danh tướng Việt Nam, Nhà xuất bản giáo dục năm 2006, viết về thân thế , sự nghiệp của Trần Hưng Đạo và chiến thắng giặc Nguyên Mông trên sông Bạch Đằng. 4. Kể chuyện lịch sử Việt Nam –Hưng Đạo Vương, tác giả Phan Kế Bính, Lưu Văn Phúc. 4
- Chƣơng 1. Khái quát về di tích lịch sử và các di tích thờ Trần Hƣng Đạo ở Việt Nam 1.1. Khái quát về di tích lịch sử 1.1.1. Định nghĩa về di tích lịch sử. Di tích lịch sử-văn hóa là những không gian vật chất cụ thể, khách quan, trong đó có chứa đựng các điển hình lịch sử, do tập thể hoặc cá nhân con người trong lịch sử sáng tạo ra. Như vậy, ở một mức độ hẹp hơn có thể thấy rằng di tích lịch sử-văn hóa là những dấu tích, dấu vết hoạt động của con người trong quá trình lịch sử còn sót lại. 1.1.2. Đặc điểm của các di tích lịch sử - Di tích lịch sử là nhưng công trình kiến trúc do người xưa xây dựng nên, gắn liền với 1 nhân vật lịch sử , sự kiện lớn có đặc điểm như sau: - Là nơi thờ tự 1 nhân vật lịch sử, anh hùng có công với dân tộc, được nhân dân thờ tự và nhà nước công nhận như các di tích thờ Hai Bà Trưng, Lý Thái Tổ - Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu trong quá trình dựng nước và giữ nước. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này như: đền Hùng, chùa Một Cột, Cổ Loa, cố đô Hoa Lư . - Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân của đất nước. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này như: khu di tích Kim Liên, đền Kiếp Bạc - Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của các thời kỳ cách mạng, kháng chiến. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này như: khu di tích Điện Biên Phủ, địa đạo Củ Chi . 1.1.3 ý nghĩa. Các di tích lịch sử có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc giáo dục mọi người dân nhất là thế hệ trẻ về truyền thống dân tộc. Các di tích lịch sử như là những minh chứng cho sự nghiệp bảo vệ tổ quốc của dân tộc, làm tăng thêm về ý nghĩa quan trọng uống nước nhớ nguồn. Đồng thời qua đó làm tô đẹp cho đất nước với những công trình vĩ đại, nhưng chiến thắng hào hùng, rạng ngời non sông. 6
- 1.2. Vài nét về Hƣng Đạo Đại Vƣơng Trần Quốc Tuấn 1.2.1. Thân thế Sinh năm 1228, Trần Quốc Tuấn ra đời khi họ Trần vừa thay thế nhà Lý làm vua trong một đất nước đói kém, loạn ly. Trần Thủ Độ, một tôn thất tài giỏi đã xếp đặt bày mưu giữ cho thế nước chông chênh thành bền vững. Bấy giờ Trần Cảnh còn nhỏ mới 11 tuổi, vợ là Lý Chiêu Hoàng, vị vua cuối cùng của dòng họ Lý. Vì nhường ngôi cho chồng nên trăm họ và tôn thất nhà Lý dị nghị nhà Trần cướp ngôi. Trần Thủ Độ rất lo lắng. Bấy giờ Trần Liễu, anh ruột vua Trần Cảnh lấy công chúa Thuận Thiên, chị gái Chiêu Hoàng đang có mang. Trần Thủ Độ ép Liễu nhường vợ cho Cảnh để chắc có một đứa con cho Cảnh. Liễu nổi loạn. Thủ Độ dẹp tan nhưng tha chết cho Liễu. Song điều này không dẹp nổi lòng thù hận của Liễu. Vì thế Liễu kén thầy giỏi dạy cho con trai mình thành bậc văn võ toàn tài, ký thác vào con mối thù sâu nặng. Người con trai ấy chính là Trần Quốc Tuấn. Thuở nhỏ, có người đã phải khen Quốc Tuấn là bậc kỳ tài. Khi lớn lên, Trần Quốc Tuấn càng tỏ ra thông minh xuất chúng, thông kim bác cổ, văn võ song toàn. Trần Liễu thấy con như vậy mừng lắm, những mong Quốc Tuấn có thể rửa nhục cho mình. Song, cuộc đời Trần Quốc Tuấn trải qua một lần gia biến, ba lần quốc nạn và ông đã tỏ ra là một bậc hiền tài. Thù nhà ông không đặt lên trên quyền lợi dân nước, xã tắc. Ông đã biết dẹp thù riêng, vun trồng cho mối đoàn kết giữa tông tộc họ Trần khiến cho nó trở thành cội rễ của đại thắng. Bấy giờ quân Nguyên sang xâm chiếm Việt Nam. Trần Quốc Tuấn đã giao hảo hòa hiếu với Trần Quang Khải. Hai người là hai đầu mối của hai chi trong họ Trần, đồng thời một người là con Trần Liễu, một người là con Trần Cảnh, hai anh em đối đầu của thế hệ trước. Sự hòa hợp của hai người chính là sự thống nhất ý chí của toàn bộ vương triều Trần, đảm bảo đánh thắng quân Nguyên hung hãn. Chuyện kể rằng: thời ấy tại bến Đông, ông chủ động mời Thái sư Trần Quang Khải sang thuyền mình trò chuyện, chơi cờ và sai nấu nước thơm tự mình tắm rửa cho Quang Khải Rồi một lần khác, ông đem việc xích mích trong dòng họ dò ý các con, Trần Quốc Tảng có ý khích ông cướp ngôi vua của chi thứ, ông nổi giận định rút gươm toan chém chết Quốc Tảng. Do các con và những người tâm phúc xúm vào van xin, ông bớt giận dừng gươm nhưng bảo rằng: Từ nay cho đến khi ta nhắm mắt, ta sẽ không nhìn mặt thằng nghịch tử, phản thầy này nữa”. Trong chiến tranh, ông luôn hộ giá bên vua, tay chỉ cầm cây gậy bịt sắt. Thế mà vẫn có lời dị nghị, sợ ông sát vua. 7
- Ông bèn bỏ luôn phần gậy bịt sắt, chỉ chống gậy không khi gần cận nhà vua. Và sự nghi kỵ cũng chấm dứt. Giỏi tâm lý, chú ý từng việc nhỏ để tránh hiềm nghi, yên lòng quan để yên lòng dân, đoàn kết mọi người vì nghĩa lớn dân tộc. Một tấm lòng trung trinh son sắt vì vua, vì nước. Vua giao quyền tiết chế cho Trần Quốc Tuấn. Ông biết dùng người tài như các anh hùng Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng đều từ cửa tướng của ông mà ra. Ông rất thương binh lính, và họ cũng rất tin yêu ông. Đội quân cha con ấy trở thành đội quân bách thắng. Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng "cột đá chống trời". Ông đã soạn hai bộ binh thư: "Binh thư yếu lược", và "Vạn Kiếp tông bí truyền thư" để dạy bảo các tướng cách cầm quân đánh giặc. Trần Khánh Dư, một tướng giỏi cùng thời đã hết lời ca ngợi ông: " Lấy ngũ hành cảm ứng với nhau, cân nhắc cửu cung, không lẫn âm dương ". Biết dĩ đoản binh chế trường trận, có nghĩa là lấy ngắn chống dài. Khi giặc lộ rõ ý định gây hấn, Trần Quốc Tuấn truyền lệnh cho các tướng, răn dạy chỉ bảo lẽ thắng bại tiến lui. Bản Hịch tướng sĩ viết bằng giọng văn thống thiết hùng hồn, mang tầm tư tưởng của một bậc "đại bút". Trần Quốc Tuấn là một bậc tướng tài có đủ tài đức. Là tướng nhân, ông thương dân, thương quân, chỉ cho quân dân con đường sáng. Là tướng nghĩa, ông coi việc phải hơn điều lợi. Là tướng chí, ông biết lẽ đời sẽ dẫn đến đâu. Là tướng dũng, ông sẵn sàng xông pha vào nơi nguy hiểm để đánh giặc, lập công, cho nên trận Bạch Đằng oanh liệt nghìn đời là đại công của ông. Là tướng tín, ông bày tỏ trước cho quân lính biết theo ông thì sẽ được gì, trái lời ông thì sẽ bị gì. Cho nên cả ba lần đánh giặc Nguyên Mông, Trần Quốc Tuấn đều lập công lớn. Hai tháng trước khi mất, vua Anh Tông đến thăm lúc ông đang ốm, có hỏi: Nếu chẳng may ông mất đi, giặc phương Bắc lại sang xâm lấn thì kế sách làm sao? Ông đã trăn trối những lời cuối cùng, thật thấm thía và sâu sắc cho mọi thời đại dựng nước và giữ nước: Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách giữ nước. Mùa thu tháng Tám, ngày 20, năm Canh Tý, Hưng Long thứ 8 (1300) "Bình Bắc đại nguyên soái" Hưng Đạo đại vương qua đời. Theo lời dặn lại, thi hài ông được hỏa táng 8
- thu vào bình đồng và chôn trong vườn An Lạc, giữa cánh rừng An Sinh miền Đông Bắc, không xây lăng mộ, đất san phẳng, trồng cây như cũ Khi ông mất (1300), vua phong ông tước Hưng Đạo đại vương. Triều đình lập đền thờ ông tại Vạn Kiếp, Chí Linh, ấp phong của ông thuở sinh thời. Công lao sự nghiệp của ông khó kể hết . Vua coi như bậc trượng phu, trăm họ kính trọng gọi ông là Hưng Đạo đại vương. Trần Hưng Đạo là một anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa Việt Nam. 1.2.2 Sự nghiệp Ba lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông Danh tiếng lẫy lừng của Trần Hưng Đạo gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại hồi thế kỉ 13 chống quân xâm lược Nguyên Mông, một đế chế hùng mạnh từng một thời hoành hành khắp Á Âu. Đến nay, sau hơn 700 năm đại thắng Nguyên - Mông, các nhà nghiên cứu quân sự, sử gia, chính trị gia, các danh tướng mọi thời đại trong và ngoài nước vẫn không ngừng tìm hiểu và tôn vinh thiên tài quân sự Trần Quốc Tuấn. Cách dùng binh độc đáo, nghệ thuật quân sự kỳ tài, tấm gương đạo đức của ông mãi mãi là tài sản vô giá không riêng của dân tộc Việt Nam. Hưng Đạo vương đã lường trước những khó khăn trong các cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên - Mông. Khó khăn đã được ông giải quyết từng bước thấu đáo, triệt để, không những trong phương lược chống giữ mà còn biểu hiện rõ nét và thống nhất từng bước đi trước đó hàng chục năm. Tác chiến với một đội quân quá mạnh, vừa tinh nhuệ, vừa hiểm ác trong khi đó quân dân ta đã nhiều năm không quen chiến trận là một điều nan giải. Nhà Tống, một đế quốc phong kiến hùng mạnh với trăm vạn đại quân và hàng ngàn tướng giỏi vừa bại vong dưới vó ngựa Nguyên - Mông. Giải quyết bài toán này, Hưng Đạo vương đã khéo léo khi khích lệ lòng quân (bằng tổng duyệt binh tại Đông Bộ Đầu); lòng dân (bằng Hội nghị Diên Hồng); lòng tự tôn, tự trọng của giới tôn thất, tướng lĩnh, quí tộc triều Trần (Hội nghị Bình Than). Bằng ý chí kiên cường, trí tuệ thiên tài và đặc biệt là tâm đức một lòng một dạ vì Tổ quốc, Hưng Đạo vương chính là ngọn cờ đầu, vị thống soái quân sự, vị thủ lĩnh tinh thần kiệt xuất cùng nhân dân cả nước làm nên những chiến công lịch sử. 9
- Tháng 1 năm 1285, Thoát Hoan cầm đầu đội quân chủ lực cùng những tướng soái thạo chinh chiến dẫn đại quân từ Ung Châu - Trung Quốc tiến thẳng vào Lộc Châu - Đại Việt (nay là Lộc Bình - Lạng Sơn) gần như không phải gặp sự kháng cự nào đáng kể. Đúng như dự kiến, đại quân Nguyên - Mông đã dùng chiến tranh chớp nhoáng đánh Đại Việt. Ta sử dụng chiến lược từng bước lui binh, bảo toàn lực lượng, bỏ ngỏ kinh thành cho giặc dữ. Dưới quyền thái tử Thoát Hoan có không ít những tướng lĩnh, những tên Hán gian cáo già bắt đầu nghi ngờ chiến lược lui binh của Trần Quốc Tuấn. Chúng hết sức cảnh giác và thận trọng sau khi chiếm được kinh thành Thăng Long và hạ lệnh cho đại quân của nguyên soái Toa Đô, khi ấy được cử đi đánh Chiêm Thành bằng đường biển quay sang tiến công Nghệ An, dùng thế gọng kìm để bắt hai vua Trần và Trần Quốc Tuấn tại hành cung Thiên Trường. Toa Đô cùng quân tướng phá vỡ ải Nghệ An, hung hăng tiến đánh Thanh Hóa, kẹp các vua Trần và bộ chỉ huy quân sự tối cao của vương triều vào giữa trùng vây. Trần Quốc Tuấn thừa lệnh hai vua, cử Trần Quang Khải, người văn võ toàn tài, vào Thanh Hóa, Nghệ An chặn giặc, cầm chân đội quân Toa Đô. Mặt khác, ông điều phần lớn quân chủ lực rút ra mạn biển, vùng đất chưa xảy ra chiến sự, theo đường biển đi thẳng vào Thanh Hóa, khéo léo hành quân luồn trở lại sau lưng đội quân Toa Đô phá thế chiến lược của chúng. Cánh quân Toa Đô bị rơi vào thế bùng nhùng của cuộc chiến tranh, điều mà các tướng soái Nguyên -Mông hết sức ngán ngẩm. Đại quân Thoát Hoan lần chần có ý chờ vào thắng lợi của Toa Đô trong khi thời tiết ẩm thấp mùa hè phương Nam bắt đầu phát huy tác dụng ảnh hưởng xấu với giặc phương Bắc. Tháng 5 năm 1285, Trần Quốc Tuấn điểm binh tướng, chấn chỉnh đội ngũ, hạ lệnh hành binh tổng phản công. Đầu tháng 6 năm 1285, Hưng Đạo vương hạ lệnh tấn công A Lỗ và đại thắng. Vạn hộ hầu Lưu Thế Anh, chỉ huy các tướng lĩnh của địch ở đây đã phải bỏ đồn tháo chạy. Thời cơ chiến lược của Hưng Đạo vương là chủ động đánh tan liên quân Toa Đô - Ô Mã Nhi ngay tại đại bản doanh của chúng ở Hàm Tử. Chiến thắng Hàm Tử có tính bước ngoặt trong cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên - Mông lần thứ hai, tạo thế và lực mới có lợi cho ta, tạo đà cho một chuỗi các chiến thắng Tây Kết, Chương Dương, Thăng Long và Thoát Hoan phải rời bỏ kinh thành, 10
- ôm mối nhục của kẻ bại trận, hoảng loạn lui binh tạo ra một vết nhơ với đội quân Nguyên - Mông từng bách chiến bách thắng. Trong lần thứ ba đánh thắng quân xâm lược Nguyên - Mông (1287- 1288), một lần nữa, Hưng Đạo vương lại thể hiện vai trò quân sự kiệt xuất của mình cùng với quân và dân triều Trần đánh gục vĩnh viễn ý đồ xâm lược Đại Việt của chúng. Cũng như những lần trước, chiến thuật của Hưng Đạo vương lui binh nhường thế thượng phong cho đại quân Nguyên - Mông được triển khai ngay từ những ngày đầu. Một lần nữa thái tử Trấn Nam vương lại mắc mưu Hưng Đạo vương Đứng trước nguy cơ bị tập kích bất cứ lúc nào từ nhiều hướng, đám tướng lĩnh dưới quyền Thoát Hoan đã không có được cơ mưu nào chỉ còn nước bàn lùi: "Ở Giao Chỉ không có thành trì để giữ, không có lương thực để ăn mà thuyền lương của Trương Văn Hổ lại không đến, khí trời lại nóng nực, lương hết, quân mệt, không lấy gì để chống giữ lâu được, sẽ làm hổ thẹn triều đình, nên toàn quân mà về thì hơn”. Tâm trạng rối bời vừa sợ hãi vừa điên loạn, tháng 3 năm 1288, Thoát Hoan hạ lệnh triệt phá kinh thành Thăng Long, chia quân làm hai đạo thủy bộ rút về nước. Một mệnh lệnh hành quân ô nhục nhất của đạo quân xâm lược. Quốc công tiết chế Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, vị thánh tướng hiền minh của dân tộc, tầm vóc tài năng quân sự kiệt xuất vượt ra khỏi ranh giới Đại Việt, là một trong mười tướng lĩnh tài giỏi nhất mọi thời đại được thế giới tôn vinh. Tài năng quân sự của ông biểu hiện rõ nhất là giá trị sớm nhận thức được nguồn sức mạnh của nhân dân trong giữ nước, đánh giặc ngoại xâm. Trong sự nghiệp hiển hách ba lần chiến thắng quân xâm lược Nguyên - Mông, Hưng Đạo vương có vai trò đặc biệt quan trọng. Ông được vua Trần tin yêu, giao quyền tiết chế, thống suất cả vương hầu, tông thất, tướng lĩnh, dân binh, điều động toàn quân chống giặc. Bản lĩnh của Hưng Đạo vương thể hiện ở quyết tâm đánh địch và đánh thắng địch mạnh không gì lay chuyển, ngay cả những lúc thế nước ngàn cân treo sợi tóc đều tuyệt đối tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng, là ngọn cờ giữ vững lòng quân, lòng dân. Tài năng kiệt xuất của Hưng Đạo vương chính là việc nhận thức rõ nhân dân mới là nguồn sức mạnh giữ nước, nguồn sức mạnh vô địch, nguồn sức mạnh mà không một kẻ thù tàn bạo nào có thể khuất phục. Ông luôn chăm lo sức dân ngay từ thời bình cũng như trong thời chiến. Chủ trương sâu sắc của ông mà đỉnh cao là tư tưởng: "Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc mới là thượng sách giữ nước”. 11
- Trong ba lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông này, công lao của Trần Hưng Đạo là vô cùng to lớn. Sử gia Nguyễn Khắc Thuần tóm lược như sau : “Trần Hưng Đạo đã tham gia việc cầm quân và huấn luyện quân sĩ. Khi chưa đầy 30 tuổi Trần Hưng Đạo đã là tổng chỉ huy quân đội của nhà Trần ở vùng đông bắc và có công rất lớn trong sự nghiệp chống quân xâm lăng Mông Cổ năm 1257-1258. Ông đã huấn luyện quân đội ngày càng tinh nhuệ, và chủ trương của Trần Hưng Đạo là một chủ trương rất tiến bộ mà giá trị câu nói của ông lúc sinh thời vẫn còn bất diệt với non sông, đó là “binh quí hồ tinh bất quí hồ đa”, nghĩa là “binh quí ở chổ tinh nhuệ chứ không phải ở số đông”. Chủ trương đó thật sự đúng đắn, đã phát huy được tác dụng to lớn trong sự nghiệp bảo vệ độc lập thế kỉ 13. Trần Hưng Đạo là tướng tổng chỉ huy lực lượng vũ trang của quân đội Đại Việt trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại thế kỉ 13 chống quân xâm lược Nguyên Mông. Đó là lần thứ hai vào năm 1285 và lầ thứ 3 vào năm 1287-1288. Trần Hưng Đạo đã chọn đúng người đúng việc. Trần Hưng Đạo đã tự tin và chuyển tải niềm tự tin đó đến với mọi người, dù đó là binh sĩ, dù đó là tướng lĩnh, thậm chí đến thái thượng hoàng hay hoàng đế cũng được ông chuyển tải niệm tự tin ấy mới có thể vững vàng trước thử thách của non sông. Trần Hưng Đạo đã khai thác hết mọi tài năng của con người, kể cả những người dưới đáy xã hội, đặc biệt là lực lượng gia nô. Chính ông đã có lời nói về hành vi của Yết Kiêu và Dã Tượng khi mà những người này bộc lộ niềm trung thành lớn lao và đức hi sinh cao cả. Ông nói rằng: “Chim hồng chim hộc sở dĩ bay cao bay xa là nhờ vào 6 trụ xương cánh. Nếu không có 6 trụ xương cánh thì chim hồng chim hộc cũng chỉ là chim thường thôi”. Ở đây chim hồng chim hộc chính là Trần Hưng Đạo và quý tộc họ Trần, những vị tướng cao cấp của quân đội nhà Trần, còn 6 trụ xương cánh ấy chính là những người như Yết Kiêu, Dã Tượng, Nguyễn Địa Lô và nhiều gia nô khác. Ông là nhà chỉ huy thiên tài, và thắng lợi trong cuộc chiến vệ quốc vĩ đại đã chứng tỏ thiên tài của Trần Hưng Đạo. Vì chúng ta biết rằng, đế quốc Mông Nguyên có diện tích khổng lồ, mình như con ác thú phủ kín từ Hắc Hải cho đến Thái Bình Dương”. 1.2.3. Vị trí và vai trò của Hưng Đạo Đại Vương trong lịch sử dân tộc và đời sống tâm linh người Việt. a, Trần Hưng Đạo trong lịch sử dân tộc. 12
- Trong lịch sử hiển hách của nhà Trần, Trần Quốc Tuấn - nhà quân sự, nhà chính trị kiệt xuất - có vai trò đặc biệt quan trọng. Ông là con An Sinh Vương Trần Liễu và cháu ruột vua Trần Thái Tông. Từ nhỏ đã có năng khiếu văn chương và võ nghệ, lớn lên, ông có học vấn uyên bác, hiểu thấu “lục thao tam lược”. Khi quân Nguyên Mông xâm lược nước ta lần đầu (năm 1258), ông được cử cầm quân giữ biên thùy phía Bắc. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 2 (năm 1285) và lần thứ 3 (năm 1287), ông được cử làm Quốc công Tiết chế thống lĩnh toàn quân đánh giặc. Ở cương vị này, ông vừa là nhà chiến lược vạch ra đường lối tiến hành cuộc chiến tranh giữ gìn độc lập cho Tổ quốc vừa là người trực tiếp tổ chức thực hiện cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược, giành được thắng lợi lẫy lừng. Công lao to lớn này đã đưa Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lên hàng một thiên tài quân sự có tầm chiến lược và một anh hùng dân tộc công lao bậc nhất của nhà Trần. Nhân dân kính trọng, ngưỡng mộ ông đã lập đền thờ sống ông ở Vạn Kiếp. Khi mất, ông được phong tặng là Thái sư Thượng Phụ Thượng Quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại vương. Tín ngưỡng dân gian đã đưa ông lên hàng các vị thánh - Đức Thánh Trần. Chính với tài năng chính trị và quân sự kiệt xuất, với tấm lòng tận trung với nước, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã cùng với quân dân nhà Trần đưa triều đại nhà Trần lên hàng những triều đại thịnh trị nhất trong lịch sử các nhà nước phong kiến Việt Nam. b, Trần Hưng Đạo trong đời sống tâm linh người Việt. Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn hiển nhiên là một nhân vật lịch sử. Ông đã được lịch sử tôn vinh là người có công và có tài cầm quân, là bậc tướng mưu lược vào bậc nhất trong lịch sử của dân tộc. Tên tuổi ông không chỉ ghi trong sử sách mà khắp nước còn lập đền thờ ông, dựng tượng ông, và ngày càng sùng kính ông, tới nay chưa có dấu hiệu phôi pha. Đó là về con người thực của nhân vật lịch sử kiệt xuất Hưng Đạo Đại vương. Tuy nhiên, Trần Hưng Đạo còn được dân chúng ngưỡng mộ suy tôn ông là một vị thánh. Trong lịch sử Việt Nam, các nhân vật lịch sử chỉ có Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn là người duy nhất được tôn vinh là Thánh. Vậy là ông từ những ngôi đền được dân chúng tri ân bước thẳng vào ngôi điện tâm linh trong tâm thức sùng kính của muôn dân. Vị Thánh ấy chính là khát vọng của quần chúng. Và một khi họ đã chấp nhận ông là Thánh của họ thì họ đắp điếm cho ông đủ thứ quyền uy mà họ cần. Điều 13
- đó giải thích vì sao nhân dân đặt Đức Thánh Trần Hưng Đạo vào hàng linh thiêng bậc nhất. Trần Hưng Đạo đã là, luôn và mãi mãi là biểu tượng cao đẹp của lòng yêu nước và ý chí quật cường của dân tộc. 1.3. Các di tích thờ Trần Hƣng Đạo trên cả nƣớc 1.3.1. Mục đích , ý nghĩa của việc thờ tự A, Mục đích : Việc thờ tự các di tích thờ Trần Hưng Đạo có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống nhân dân người Việt, làm tăng giá tri lịch sử, tín ngưỡng , lòng biết ơn của nhân dân với nhân vật lịch sử có thật Trần Hưng Đạo. Ngoài việc thể hiên đạo lý việc thờ tự còn mang mục đích quảng bá các di tích với các du khách trong và ngoài nước, quảng bá văn hóa Việt Nam. B, ý nghĩa : Việc thờ tự có ý nghĩa thể hiện đạo lí uống nước nhớ nguồn của dân tộc, tâm thức dân gian coi Trần hưng Đạo là 1 vị Thánh, giữ gìn bản sắc dân tộc, truyền bá cho thế hệ mai sau biết về chiến thắng lịch sử, truyền thống dân tộc, anh hùng người có công với dân tộc. Lưu giữ những giá trị lich sử, kiến trúc cổ, với thời gian và quang bá với bạn bè trên thế giới. 1.3.2. Những địa phươngcó di tích thờ Trần Hưng Đạo. Các di tích thờ Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn bao gồm hệ thống đình, đền, phủ, miếu, điện, chùa làng và theo lối thờ “vong”, “rước chân nhang”. Chỉ tính riêng tại Nam Định và Hà Nam đã có gần 230 di tích thờ Hưng Đạo Đại Vương như Đền Cố Trạch (Đền Hạ) nơi thờ tự Trần Hưng Đạo cùng gia tộc và bộ tướng của ông. Đền Bảo Lộc xưa là khu thái ấp của An Sinh Vương Trần Liễu (thân phụ của Trần Hưng Đạo), nay là nơi thờ Hưng Đạo Đại Vương. Bên cạnh hệ thống di tích được dựng lên để tưởng niệm các vua Trần và Trần Hưng Đạo, Nam Định còn có nhiều di tích kiến trúc nghệ thuật, minh chứng của một thời kỳ phát triển của đạo Phật và sức sáng tạo tài hoa của nhân dân thời Trần. Những phế tích cung điện Trùng Quang, Trùng Hoa và các khu thái ấp, cùng số lượng lớn những thần phả, đạo sắc phong, hoành phi, câu đối, những câu chuyện truyền miệng được sưu tầm là những giá trị to lớn kết tạo nên những giá trị di sản văn hóa Nam Định xưa và nay. “Tháng Tám hội Cha” đã trở thành “ngày lịch” của mọi người, mọi nhà cùng tìm về 14
- quê hương Vương triều Trần. Đó cũng là đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” cao đẹp của nhân dân và dân tộc Việt Nam từ bao đời nay. Các di tích thờ Trần Hưng Đạo trên cả nước Đền Bảo Lộc, tỉnh Nam Định Đền Tân Phẩm, tỉnh Thừa Thiên Huế Đền Trần Thương, tỉnh Hà Nam Đền Đức Thánh Trần, 36 Võ Thị Sáu, phường Tân Định, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh Đền A Sào, xã An Thái, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình Điện Thờ Đức Thánh TRần, thôn Quang Trung , xã Diên Hông, huyện Thanh Miện,tỉnh Hải Dương. Chùa Vẽ - thành phố Hải Phòng. Đền Phú Xá- thành phố Hỉa Phòng. Đền Cố Trạch- tỉnh Hà Nam. Đền Thượng. 1.3.3. Các lễ hội gắn với Trần Hưng Đạo. - Lễ hội Bạch Đằng tại phường Yên Giang TX Quảng Yên. Lễ hội Bạch Đằng gắn liền với Bạch Đằng giang, con sông đã chứng kiến chiến thắng lẫy lừng của quân dân Đại Việt thời Trần do Trần Hưng Đạo làm Tổng chỉ huy, đập tan giấc mộng xâm lược của kẻ thù hung hãn phương Bắc thế kỷ XIII (1288). Lễ hội được tổ chức hàng năm kỷ niệm chiến công xưa như ôn lại bài học ngời sáng để đời đời con cháu noi theo gương sáng của ông cha, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc thân yêu - Lễ hội Đền Kiếp Bạc thuộc địa phận hai thôn Dược Sơn và Vạn Kiếp, xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương là nơi thờ phụng Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Vào thế kỷ 13, đây là nơi Hưng Đạo Đại VươngTrần Quốc Tuấn lập căn cứ, tích trữ lương thực, huấn luyện quân sĩ trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Sang thế kỷ 14, đền thờ ông được xây dựng tại nơi đây và là nơi tổ chức các lễ hội hàng năm để dâng hương tưởng niệm vị anh hùng của dân tộc Việt, lễ hội chính tổ chức từ ngày 15 đến ngày 20 tháng 8 âm lịch. - Lễ hội Đền Thượng tại phường Lào Cai tp Lào Cai. Đền được lập nên để thờ Đức thánh Trần (Trần Hưng Đạo), người đã có công ba lần đánh thắng quân Nguyên. Khác với lễ hội ở các di tích là nơi thờ Trần Hưng Đạo, đền Thượng ngoài ngày lễ chính là 15
- ngày 20 tháng 8 Âm lịch (ngày kỵ của Đức thánh Trần), từ ngày tái lập tỉnh Lào Cai (1991) đến nay, vào ngày rằm tháng Giêng hằng năm đều tổ chức lễ hội, với những hoạt động phong phú và đặc sắc. 16
- Chƣơng 2. Thực trạng các di tích thờ Trần Hƣng Đạo ở lƣu vực sông Bạch Đằng: 2.1. Tìm hiểu về sông Bạch Đằng: Một dòng sông có thể khiến tâm hồn thơ Nguyễn Trãi xao động, nhưng cũng có thể tạc trên sử sách những chiến công vĩ đại của những người anh hùng đất Việt. Đó chính là con sông của huyền thoại lịch sử: Bạch Đằng Giang hay sông Bạch Đặng. Sông Bạch Đằng có vị trí quan trọng không chỉ trong giao thông mà còn mang dấu ấn sâu đậm trong suốt chiều dài lịch sử, văn hóa ngàn năm qua của dân tộc Việt Nam. 2.1.1. Vị trí địa lí - cảnh quan Sông Bạch Đằng có nguồn chính chảy từ sông Lục Đầu, có các chi mạch từ Đông Triều về gặp sông Giá và sông Đá Bạc, chảy xuống dưới và đổ ra biển bằng hai cửa: dòng chính dài khoảng 20km, đổ ra cửa Nam Triệu, xưa gọi là cửa Bạch Đằng. Hai chi lưu là sông Chanh dài khoảng 18km, đổ ra cửa Lạch Huyện và chi lưu sông Rúp (còn gọi là sông Nam) dài khoảng 16km, hợp với dòng chính đổ ra cửa Nam Triệu. Trong dư địa chí, Nguyễn Trãi từng mô tả: “sông Vân Cừ tức sông Bạch Đằng rộng 2 dặm linh 69 trượng, sâu 5 thước, núi non cao vót, nước suối giao lưu, song tung lên tận trời, cây cối nấp bờ, thật là nơi hiểm yếu”. Tên Vân Cừ được giải thích là bởi khi nước triều lên có gió bắc thổi, hoặc nước triều xuống có gió nam thổi, dòng sông cuộn lên những con sóng lớn bạc đầu như mây trắng. Ngoài ra sông Bạch Đằng còn có tên gọi khác là sông Rừng, ngày nay vẫn còn tên bến Rừng, phà Rừng trên đường sang Hải Phòng. Người Quảng Yên trước đây từng mưu truyền câu: “Con ơi nhớ lấy lời cha Gió nồm, nước rặc chớ qua sông rừng” Để nói lên sự hiểm yếu của sông là vậy. Sông Bạch Đằng có điểm đầu là phà Rừng Hải Phòng „ranh giới Hải Phòng và Quảng Ninh‟, điểm cuối là cửa Nam Triệu Hải Phòng. Sông có chiều dài 32km. Các loại tàu thuyền có tải trọng 300-400 tấn tham gia vận tải được cả hai mùa. Sông Bạch Đằng là con đường thủy tốt nhất để đi vào Hà Nội, Thăng Long ngày xưa từ miền Nam Trung Quốc, từ cửa sông Nam Triệu các chiến thuyền đi vào sông Kinh Thày, sông Đuống và cuối cùng là sông Hồng đoạn chảy qua Hà Nội. 17
- Về lịch sử dòng sông, trong cuốn đất nước Việt Nam qua các đời „nhà xuất bản Thuận Hóa, 1997‟, tác giả nhà sử học Đào Duy Anh đã phân tích chứng minh và đưa ra các nhận định rằng do hậu quả của những thay đổi của sông Hồng phía trên sông Lục Đầu diễn ra âm thầm hàng trăm năm, thế nước của sông Giá và sông Bạch Đằng đã suy yếu thì thế nước của sông Đá Bạc tuy cũng yếu đi nhưng nhờ có nhiều suối ở các huyện Yên Hưng đổ vào nên lại tương đối mạnh hơn dòng sông Giá. Nước sông Đá Bạc mạnh hơn đã xô nước sông Giá khi vào ngã tư xuống thẳng phía nam và làm cho dòng sông ra cửa Nam Triệu to lên nhiều mà được người ta nhận lầm là dòng chính của sông Bạch Đằng. Sông Bach Đằng cũ theo dòng sông Chanh đã nhỏ dần đi theo sông Giá, một phần lòng sông đã thành bãi Sú, chỉ còn dải nước nhỏ ở giữa. Dòng Bạch Đằng cũ trở thành lòng sông nước lớn của sông Chanh. Chỗ đào được cọc lim tức bãi cọc Yên Giang chính là nằm trong lòng sông Bạch Đằng xưa. Thế là sông Bạch Đằng, chỉ khúc sông từ ngã tư trở đi đã thay một khúc sông khác và tên cửa Bạch Đằng đã được đồng nhất với tên cửa Nam Triệu có từ trước- nhà sử học Đào Duy Anh kết luận. 2.1.2. Những chiến thắng lịch sử trên sông Bạch Đằng. Sông Bạch Đằng là một địa danh nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Với ba lần là chiến trường, chứng kiến những thắng lợi to lớn của quân dân Đại Việt chống giặc phương Bắc vào các năm 938– Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, năm 981- Lê Hoàn đánh thắng quân Tống và đặc biệt là năm 1288- Trần Hưng Đạo lại áp dụng chiêu thức “đóng cọc nhọn” đánh thắng oanh liệt quân Nguyên Mông, sông Bạch Đằng có lẽ là con sông oai hùng được sử sách ghi chép, thi phú ngợi ca nhiều nhất Việt Nam. Nhiều tác phẩm thi ca, tiêu biểu là phú Bạch Đằng Giang của Trương Hán Siêu thời Trần được ví như một áng thiên cổ hùng văn trong lịch sử văn học yêu nước Việt Nam, một áng văn chứa chan niềm tự hào dân tộc, có ý nghĩa tổng kết lại chiến thắng Bạch Đằng thời bấy giờ. -Trận thủy chiến sông Bạch Đằng năm 938: Ngô Quyền đánh thắng quân xâm lược Nam Hán. Ngô Quyền là vị vua họ Ngô đầu tiên của nước ta. Ông là người lãnh đạo quân ta đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, chấm dứt thời kỳ hơn 1.000 năm Bắc thuộc và mở Ở Trung Quốc, năm 907 nhà Đường sụp đổ. Các tập đoàn phong 18
- kiến quân phiệt phương Bắc vừa thôn tính, tiêu diệt nhau đẫm máu, vừa tận dụng mọi cơ hội bành trướng xâm lược ra bên ngoài. Vua Nam Hán là Lưu Nghiễm (sau đổi là Lưu Cung) đã đặt tên nước là Đại Hán với tham vọng kế tục mộng bành trướng của đế chế Đại Hán hồi đầu Công nguyên. Hướng bành trướng chủ yếu của Nam Hán là phương Nam, nhằm vào đất nước ta, một đất nước giàu có và giữ vị trí trọng yếu của vùng Đông Nam Á, lại vừa qua hơn nghìn năm Bắc thuộc. Thực hiện mộng bành trướng đó, năm 930, vua Nam Hán đã mở cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ nhất. Chúng đã đánh bại được chính quyền họ Khúc, chiếm được phủ thành Đại La. Năm 931, một tướng của họ Khúc là Dương Đình Nghệ đã dấy quân từ châu Ái, nhanh chóng quét sạch quân giặc ra khỏi nước nhà, giành lại chủ quyền dân tộc. Năm 937, Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn ám hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Kiều Công Tiễn đã cho người sang cầu cứu vua Nam Hán. Nhân thời cơ đó, Nam Hán phát động cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Lần này, vua Nam Hán sai con trai là Thái tử Giao Vương Lưu Hoằng Tháo thống lĩnh quân thủy vượt biển tiến vào nước ta. Vua Nam Hán cũng đích thân đem quân áp sát biên giới để yểm trợ, gây thanh thế cho con và sẵn sàng tiếp ứng khi cần thiết. Đến tháng 10 năm 938, Ngô Quyền từ vùng châu Ái đem quân ra đánh Kiều Công Tiễn, trừ mối họa bên trong và làm thất bại ngay từ đầu âm mưu dùng nội ứng của Nam Hán. Sau đó, ông huy động nhân dân cả nước khẩn trương bước vào cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nam Hán. Trên cơ sở phát huy sức mạnh đoàn kết và khí thế độc lập của dân tộc, phân tích và đánh giá chỗ mạnh, chỗ yếu của ta và của địch, Ngô Quyền bày một thế trận hết sức kiên quyết, chủ động và lợi hại để nhanh chóng phá tan quân giặc. Ông huy động nhân dân đẵn gỗ, vót nhọn, bịt sắt, đóng thành một bãi cọc ở cửa sông Bạch Đằng. Quân thủy bộ với sự tham gia của các lực lượng dân binh, bố trí mai phục sẵn ở phía trong bãi cọc, vùng hạ lưu sông Bạch Đằng. Một đội thuyền nhẹ dưới quyền chỉ huy của người thanh niên Gia Viện (Hải Phòng) là Nguyễn Tất Tố, giỏi bơi lội và quen thuộc sông nước, được giao nhiệm vụ khiêu chiến, nhân lúc nước triều lên nhử địch vượt qua bãi cọc, dấn thân vào cạm bẫy mai phục bên trong của ta. 19
- Bạch Đằng là cửa ngõ phía Đông Bắc của Tổ quốc ta, như tác giả bộ sử "Cương mục": "Sông rộng hơn hai dặm, ở đó có núi cao ngất, nhiều nhánh sông đổ lại, sóng cồn man mác giáp tận chân trời, cây cối um tùm che lấp bờ bến". Ngô Quyền không những biết lợi dụng địa hình thiên nhiên, để ém quân mai phục, phối hợp bộ binh với thủy binh, ông còn là người biết lợi dụng thủy triều sớm nhất trong lịch sử quân sự nước ta, gắn với việc bố trí bãi cọc ngầm nổi tiếng. Trong thế trận của Ngô Quyền, trận địa mai phục bên trong bãi cọc giữ vai trò quyết định, chặn đứng đoàn thuyền địch và giáng cho chúng một đòn tiêu diệt bất ngờ, nặng nề. Trận địa cọc giữ vai trò quan trọng, khóa đường tháo chạy của chiến thuyền địch và bao vây tiêu diệt triệt để quân giặc. Sự phối hợp giữa hai trận địa chứng tỏ quyết tâm chiến lược của Ngô Quyền là phen này không chỉ đánh bại quân giặc mà còn bao vây, tiêu diệt toàn bộ binh thuyền của giặc, giành thắng lợi oanh liệt, đập tan mộng xâm lược bành trướng của triều Nam Hán. "Trận địa cọc" là một nét độc đáo của trận Bạch Đằng, cũng là một sáng tạo rất sớm trong nghệ thuật quân sự Việt Nam mà người khởi xướng là Ngô Quyền. Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nam Hán trên sông Bạch Đằng đã diễn ra ác liệt và kết thúc rất nhanh gọn. Ngô Quyền trực tiếp chỉ huy quân mai phục sẵn ở phía trong bãi cọc, dấu quân trong các nhánh sông và bên hữu ngạn sông Bạch Đằng. Khi cả binh đoàn thuyền lớn của Hoằng Tháo ào ạt vượt cửa biển An Bang tiến vào cửa ngõ Bạch Đằng, Ngô Quyền cho bộ phận tiên phong dùng thuyền nhẹ ra đón đánh địch từ xa, nghi binh dụ địch. Lúc thủy triều lên to ngập trận địa cọc, bộ phận này giả thua rút chạy nhử địch vào trận địa đúng lúc, đúng chỗ. Tướng Hoằng Tháo kiêu ngạo thúc đại quân đuổi gấp, trúng kế, mắc mưu, vượt qua bãi cọc ngầm. Đợi thủy triều xuống, Ngô Quyền mới cho quân mai phục đổ ra bao vây thuyền địch. Thuyền địch va vào cọc nhọn bịt sắt bị đâm thủng, chìm đắm gần hết, quân chết đuối quá nửa. Hoằng Tháo bị giáo đâm, lăn xuống nước chết tại trận. Quân ta giết và bắt sống hầu hết quân Nam Hán. Thời gian trận đánh chỉ diễn ra trong phạm vi một ngày. Chiến thắng Bạch Đằng nhanh gọn, bất ngờ đến mức vua Nam Hán đang cầm quân tiếp ứng đóng ở biên giới mà không kịp trở tay đối phó. Hắn kinh hoàng, khủng khiếp, đành"thương khóc thu nhặt quân còn sót lại mà rút lui" (Đại Việt sử ký toàn thư) và "đem dư chúng quay trở lại" (Ngũ đại sử ký). 20
- Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đã ghi vào lịch sử dân tộc nói chung và lịch sử chống ngoại xâm nói riêng, như một sự kiện trọng đại có vị trí và ý nghĩa lịch sử hết sức lớn lao. Đây được coi là cột mốc quan trọng trong tiến trình lịch sử Việt Nam. Chiến thắng đã giúp phá bỏ nền thống trị hơn 1.000 năm của phong kiến phương Bắc, mở ra thời kỳ độc lập thực sự và lâu dài của dân tộc ta. Ngô Quyền - người anh hùng của chiến thắng oanh liệt trên sông Bạch Đằng năm 938 - trở thành vị vua có "công tái tạo, vua của các vua" theo như nhận định của Đại Việt sử ký toàn thư. Mùa xuân năm Kỷ Hợi (939), Ngô Quyền quyết định bỏ chức Tiết độ sứ, tự xưng vương lấy hiệu là Ngô Vương Quyền, thành lập một vương quốc độc lập. Chọn kinh đô cũ của Âu Lạc là Cổ Loa làm kinh đô nước Việt để tỏ ý nối tiếp truyền thống của các vua Hùng, vua Thục. Ngợi ca Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng, nhà sử học Lê Văn Hưu viết trong "Đại Việt sử ký toàn thư": "Tiền Ngô vương có thể lấy quân mới họp của nước Việt ta mà đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một lần nổi giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi đế, đổi niên hiệu, nhưng chính thống của nước Việt ta, ngõ hầu đã nối lại được". -Trận thủy chiến Bạch Đằng năm 981: Lê Hoàn đánh tan quân xâm lược Tống. Chiến tranh Tống-Việt năm 981 là một cuộc chiến tranh giữa Đại Tống thời Tống Thái Tông và Đại Cồ Việt thời Lê Đại Hành diễn ra từ tháng 1 đến tháng 4 năm 981 trên lãnh thổ Đại Cồ Việt. Kết quả, quân và dân Đại Cồ Việt đã đánh bại quân đội Đại Tống. Sau cuộc chiến này, năm 986, hoàng đế Đại Tống chấp nhận nhà Tiền Lê và ban chế phong cho Lê Đại Hành. Cuối năm 979, Đinh Tiên Hoàng và thế tử Đinh Liễn bị ám sát. Tháng 5 năm 980 (dương lịch), sứ nhà Tống ở Đại Cồ Việt là Lư Tập về nước báo cáo; triều đình nhà Tống biết được tình hình rối ren ở Đại Cồ Việt. Tháng 8 năm 980, Hầu Nhân Bảo, quan trấn thủ châu Ung của Đại Tống dâng thư lên hoàng đế Đại Tống báo cáo việc Đại Cồ Việt có nổi loạn và là thời cơ để đánh chiếm và xin được về kinh đô để trình bày rõ hơn. Hoàng đế Đại Tống theo lời khuyên của Lư Đa Tốn không triệu Hầu Nhân Bảo về kinh đô để giữ bí mật việc chinh phạt Đại Cồ Việt. Thay vào đó, Hữu Tráng là quan cai quản lộ Quảng Nam Tây (thuộc vùng Quảng Đông và Quảng Tây ngày nay) 21
- được gọi về kinh đô báo cáo tình hình Đại Cồ Việt. Hữu Tráng tâu rằng: "ở Giao Châu thì vua cuối họ Đinh là Đinh Toàn còn nhỏ dại, bị giặc hãm hại, nước loạn mãi chưa yên, dân không biết dựa vào ai làm chủ. Ta nên kíp sai quân sang, nói là đến cứu "trích trong Đại Việt sử kí toàn thư. Nắm được tình hình Đại Cồ Việt rồi, Tống Thái Tông phong Hầu Nhân Bảo làm Giao Châu lộ thủy lục kế độ chuyển vận sứ, Tôn Toàn Hưng, Trần Khâm Tộ, Lưu Trừng, Giả Thực giữ chức Binh mã đô bộ thự lập tức chuẩn bị chiến tranh với Đại Cồ Việt. Đồng thời ban chiếu chinh phạt Đại Cồ Việt. Nội dung như sau: “Thanh giáo và oai linh của nước nhà vang khắp cả mọi nơi, gần đây đất Diên-Chỉ, chưa sáp nhập vào địa đồ Trung Quốc, chúng ở một phương, gần nơi Ngũ Lĩnh. Từ cuối đời Đường rối loạn, chia sẻ đất đai, rồi chúng làm ra một nước tiếm ngụy, ở xa thanh giáo thành ra phong tục như đứa mù đứa điếc. Kịp khi Phiên-Ngung đã bình định, mới ban cho Chính-Sóc mà tuân hành, tuy đã phục tùng chịu làm phiên thuộc, nhưng cứ tu luyện binh lính, có ý quật cường. Lễ thờ phụng nước trên, lẽ nào như thế? Vậy ta bất đắc dĩ phải trị tội gian nguỵ để cứu dân, phải cử binh qua đánh để khai hoá xứ mọi rợ; nay cho bọn Tôn Toàn Hưng xuất quân qua đánh. ” Lời chiếu cho thấy việc vua Đinh và thế tử bị ám sát thực tế không liên quan đến việc Đại Tống muốn chinh phạt Đại Cồ Việt. Mùa thu năm 980, quan trấn thủ châu Lạng (Lạng Sơn) báo tin cho triều đình việc quân Tống chuẩn bị đánh xuống Đại Cồ Việt. Lê Hoàn liền lên ngôi vua và gấp rút chuẩn bị kháng chiến. Mùa Đông năm 980, Tống đế gửi thư tuyên chiến. Trong thư có đoạn: "Hiện nay ta đã sửa sang binh xa và bộ tốt, hiệu lệnh chiêng trống rất nghiêm minh; nếu vâng theo giáo hóa thì được tha; nếu chống lại mệnh lệnh thì sẽ bị trị tội".[3] Lê Đại Hành một mặt chuẩn bị kháng chiến, một mặt vẫn sai sứ mang thư sang triều đình Đại Tống báo cáo việc đã lập Đinh Toàn nối ngôi Đinh Tiên Hoàng. Nhà Tống không đồng ý. Tống Thái Tông sai Lư Đa Tốn viết thư trả lời Lê Hoàn. Thư có đoạn: “Nay chín châu bốn biển đã yên, chỉ còn Giao Châu của ngươi ở xa cuối trời Ngươi định về theo ta, hay muốn chuộc lấy tội. Ta đang chuẩn bị xe ngựa, binh lính, cờ lệnh, chiêng trống nếu ngươi quy hàng ta tha, nếu trái mệnh thì ta đánh. Theo hay không, lành hay dữ, ngươi tự nghĩ lấy ” Trận Bạch Đằng thứ nhất 22
- Khâm định Việt sử thông giám cương mục và Việt Nam sử lược có chép về một trận Bạch Đằng. Tại đó, quân Đại Cồ Việt chịu thất bại vì quân Tống đông quá. Đại cương lịch sử Việt Nam tập I thì lại chép rằng ngay trận đầu này, quân Đại Cồ Việt đã thắng, đạo thủy quân của Tống bị đánh tan. Theo các nghiên cứu lịch sử hiện đại, thì ngày 24 tháng 1 năm 981 cánh quân thủy do Hầu Nhân Bảo chỉ huy ồ ạt tiến vào cửa Bạch Đằng. Trong trận Bạch Đằng đầu tiên này, quân Đại Cồ Việt đã thất bại, không những không ngăn được quân Tống mà còn bị thương vong nhiều. Quân Tống lấy được 200 thuyền, tiêu diệt hơn 1.000 quân lính Đại Cồ Việt. Lê Đại Hành phải rút về vùng Xạ Sơn (huyện Kinh Môn), An Lạc (huyện Chí Linh (Hải Dương)) củng cố lại thế trận, đồng thời gửi thư trá hàng Sau khi thủy quân Tống đánh trận Bạch Đằng khoảng 5 ngày, tức là vào 30 tháng 1 năm 981, lục quân Tống dưới sự chỉ huy của Hầu Nhân Bảo mới tới Hoa Bộ. Về địa danh Hoa Bộ, Trần Bá Chí (2003) cho biết Hoa Bộ là địa danh do nhà Tống gọi có nghĩa là nơi có nhiều người Hoa sinh sông và nghiên cứu này còn cho biết có nhiều quan điểm khác nhau về vị trí của địa danh Hoa Bộ. Có quan điểm cho rằng Hoa Bộ ở vùng Kép, tức là gần sông Thương. Có quan điểm cho đó là gần sông Cầu. Các quan điểm này thống nhất với quan điểm cho rằng lục quân Tống tiến vào Đại Cồ Việt qua đường Lạng Sơn. Bản thân Trần Bá Chí (2003) dẫn các nghiên cứu về khảo cổ và quan điểm quân sự cho rằng Hoa Bộ gần sông Bạch Đằng, ở khoảng huyện Thủy Nguyên ngày nay. Quan điểm cho rằng Hoa Bộ ở gần sông Bạch Đằng thống nhất với quan điểm cho rằng lục quân Tống tiến vào Đại Cồ Việt qua đường ven biển Đông Bắc. Đại cương lịch sử Việt Nam tập I lại cho rằng Hoa Bộ là địa danh ở Nam Quảng Đông (Trung Quốc) và Tôn Toàn Hưng đóng quân lỳ ở đó không chịu tiến vào Đại Cồ Việt. Tại Hoa Bộ, lục quân Tống đã gặp và giao tranh với quân Đại Cồ Việt. Tục tư trị thông giám trường biên của Lý Đào chép rằng quân Tống đã đánh bại "hơn vạn quân Giao Chỉ, chém được 2.345 đầu giặc". Tuy nhiên, lục quân Tống đã không thể tiến tiếp để gặp thủy quân. Hầu Nhân Bảo chiếm được sông Bạch Đằng và các làng mạc xung quanh, đặt Giao Châu hành doanh tại đó để phối hợp quân thủy bộ, bước tiến sâu vào nội địa Đại Cồ Việt. Tuy nhiên, hai đạo thủy lục quân của Tống không thể liên lạc được. Tôn Toàn Hưng viện cớ chờ Lưu Trừng đưa viện binh (thủy quân) sang cùng tiến quân một thể. Đến tháng 3 năm 981, sau hơn 2 tháng chiếm Bạch Đằng – Hoa Bộ, cả 2 cánh 23
- quân Tống vẫn dậm chân tại chỗ. Quân Tống liên tục bị quân chủ lực và dân binh các làng xã tập kích quấy rối, làm cho lực lượng bị tiêu hao, tinh thần binh lính suy giảm. Khi Lưu Trưng đưa quân tới nơi, Tôn Toàn Hưng cùng Lưu Trừng tiến quân, nhưng không gặp đối phương lại quay về Hoa Bộ. Sau khi phát hiện quân Đại Cồ Việt có chiến lũy Bình Lỗ kiên cố, quân Tống chủ trương đánh chiếm Đại La để làm bàn đạp tiến đánh Hoa Lư. Ngày Tất niên năm Canh Thìn (tức 7 tháng 2 năm 981), Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng chỉ huy thủy lục quân tiến theo sông Kinh Thầy vào sông Lục Đầu. Phía Đại Cồ Việt trinh sát được sự di chuyển của quân Tống, liền kéo một bộ phận lớn về giữ sông Lục Đầu dưới sự chỉ huy của đích thân Lê Đại Hành cùng các tướng Trần Công Tích, Trần Bảo Trung, Trần Minh Khiết. Quân Đại Cồ Việt bố trí dọc tuyến sông từ Đại La tới sông Lục Đầu để ngăn cản đối phương vào Đại La. Tại sông Lục Đầu, quân Đại Cồ Việt có một căn cứ là Phù Lan. Trên sông có nhiều bãi cọc để ngăn thuyền bè của Tống. Thủy quân Tống dàn quân chiếm sông Lục Đầu. Lục quân được vận chuyển bằng thuyền rồi đổ bộ lên bờ lập trại. Hai bên Tống - Việt giao chiến ác liệt. Quân Tống nhiều lần tìm cách chọc thủng phòng tuyến của quân Đại Cồ Việt để tiến về Đại La nhưng đều thất bại. Quân Tống bị thua to ở sông Lục Đầu, quân số hao hụt; vũ khí, chiến thuyền hư hỏng, mất mát nhiều, lương thực khó khăn thêm. Cuối cùng, quân Tống đành phải rút về vùng xung quanh sông Bạch Đằng , Sông Lục Đầu vì thế còn được gọi là sông Đồ Lỗ. "Đồ" nghĩa là giết, "Lỗ" chỉ quân Tống. Sau trận Lục Đầu, tinh thần của quân Tống bị sa sút. Tôn Toàn Hưng sau khi quay về Hoa Bộ thì đóng lỳ ở đó bắt chấp sự thúc giục của Hầu Nhân Bảo, lấy cớ chờ quân tăng viện sang mới tiến được. Khoảng giữa tháng 4 năm 981, mặc kệ việc Tôn Toàn Hưng không chịu phối hợp, Hầu Nhân Bảo tiến quân vào sông Hồng qua đường sông Hóa và sông Lục Giang (tức sông Luộc) để tìm cách tiến về Hoa Lư. Hai bên Tống - Việt đã giao chiến nhiều trận. Quân Tống không thể chọc thủng phòng tuyến Bình Lỗ, chịu thiệt hại, lại quay về sông Bạch Đằng. Sau này, khi lâm chung, Trần Quốc Tuấn đã lưu ý vua Trần việc nhà Lê nhờ biết xây thành Bình Lỗ mà ngăn được quân phương Bắc. Trận Bạch Đằng thứ hai 24
- Các chính sử cũ của Việt Nam và cả một số nghiên cứu lịch sử hiện đại không hề nhắc đến trận này, tuy nhiên các nghiên cứu lịch sử mới hơn lại khẳng định có và còn cho rằng đây là trận đánh quyết định tiêu diệt chủ tướng và bộ phận lớn quân Tống. Sau thất bại ở phòng tuyến Bình Lỗ, trở lại sông Bạch Đằng, đạo thủy binh Hầu Nhân Bảo rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Tuy viện binh Tống do Lưu Trừng chỉ huy đã kéo sang từ tháng 4 năm 981, nhưng "Giao Châu hành doanh" vẫn không sao thực hiện được kế hoạch hợp điểm, hội sư để cùng tiến chiếm Hoa Lư. Liên quân Lưu Trừng – Tôn Toàn Hưng tiến quân đến thôn Đa Ngư nhưng không gặp chủ quân Đại Cồ Việt để giao chiến, lại vội vã rút quân về Hoa Bộ. Cánh quân bộ do Trần Khâm Tộ chỉ huy tiến xuống Tây Kết cũng trở thành đạo quân bị cô lập, ở vào tình thế dễ bị đối phương truy kích tiêu diệt. Cánh quân thủy của Hầu Nhân Bảo từ sau trận Lục Giang vốn đã bị tiêu hao sinh lực, phương tiện chiến đấu, lại bị chia cắt khỏi thế trận liên kết chung. Ý đồ tiêu diệt quân chủ lực của Đại Cồ Việt hoàn toàn thất bại. Trong khi đó, Lê Đại Hành bí mật tăng cường lực lượng chuẩn bị 1 trận quyết chiến giáng đòn quyết định. Ông chọn 1 khúc sông hiểm yếu rồi bố trí quân mai phục chờ sẵn. Ngày 28 tháng 4 năm 981, trận quyết chiến Bạch Đằng diễn ra. Có nghiên cứu cho rằng Lê Đại Hành đã cho 1 cánh quân ra khiêu chiến với quân Hầu Nhân Bảo. Chiến sự đang diễn ra quyết liệt thì quân Đại Cồ Việt “thua chạy”, quân Tống “thừa thắng” đuổi theo. Khi chiến thuyền của Hầu Nhân Bảo lọt vào trận địa mai phục, Lê Đại Hành tung quân ra đánh ráo riết. các chiến binh Đại Cồ Việt từ khắp các trận địa mai phục và từ các nẻo đường đổ về sông Bạch Đằng vây đánh quân Tống quyết liệt. Hầu Nhân Bảo bị giết chết trong đám loạn quân. Lưu Trừng vội vã dẫn đám tàn quân tháo lui ra biển.[19] Tuy nhiên, Trần Bá Chí (2003) dẫn một số sử liệu của Trung Quốc và Việt Nam cho rằng Lê Đại Hành đã gửi thư trá hàng và lập đài tuyên thệ. Hầu Nhân Bảo tưởng thật, đi thuyền tới đài tuyên thệ thì bất ngờ bị thủy quân Đại Cồ Việt chia cắt khỏi lực lượng bảo vệ và bị lính tinh nhuệ của Đại Cồ Việt giết chết. Những người có công giết Hầu Nhân Bảo có thể là các tướng Đào Công Mỹ, người làng Dịch Sứ (Hà Bắc) và Phạm Công Quang, người trang Hoa Chương huyện Thủy Đường (Thủy Nguyên, Hải Phòng). Các mũi quân Đại Cồ Việt cũng đồng thời tấn công thủy quân Tống và tiêu diệt một bộ phận lớn. 25
- Nghe tin Hầu Nhân Bảo bị giết trên sông Bạch Đằng, Tôn Toàn Hưng hoảng hốt dẫn quân bỏ chạy, đạo quân Trần Khâm Tộ ở Tây Kết lo sợ rút lui, bị quân Đại Cồ Việt truy kích tiêu diệt quá nửa. Tướng Tống là Triệu Phụng Huân bị bắt sống tại trận.[19] Một số sử liệu cũ của Việt Nam chép rằng viên tướng Quách Quân Biện cũng bị bắt trong trận Tây Kết. Tuy nhiên, Trần Bá Chí (2003) dựa vào kết quả nghiên cứu điền dã mà cho rằng Quách Quân Biện đã thoát trận Tây Kết và tìm cách rút về qua đường Sóc Sơn, Phổ Yên hướng về Vũ Nhai. Quân Đại Cồ Việt truy kích đến tận Vũ Nhai thì bắt được Quách Quân Biện. Các sử liệu của Trung Quốc chép về các chiến thắng của quân Tống giai đoạn đầu khá rõ ràng, nhưng khi chép và các thất bại rất sơ lược. Tục tư trị thông giám trường biên của Lý Đào chép việc các tướng lĩnh chinh phạt Đại Cồ Việt thất bại bị trị tội. Theo đó Lưu Trừng cùng Giả Thực đều bị giết bêu đầu ở chợ Ung Châu. Tôn Toàn Hưng bị hạ ngục rồi bị tội chết. Trần Khâm Tộ, Hác Thủ Tuấn, Thôi Lượng đều bị trách phạt, giáng chức. Các tướng lĩnh Tống cao cấp bị chết hay bị bắt tại trận gồm tổng tư lệnh Hầu Nhân Bảo, Chu Vị, Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân. Sau cuộc chiến này, Đại Tống chấp nhận xuống nước, thừa nhận Lê Hoàn là người cai trị Đại Cồ Việt. Hai bên giao hảo, cứ 2 năm một lần Đại Cồ Việt triều cống Đại Tống còn Đại Tống ban sắc phong cho Lê Hoàn. Sau này, vào năm 995, quân Đại Cồ Việt đã có hành động tiến quân sang đất Tống, như ở trấn Như Hồng thuộc địa phận châu Khâm. Nhà Tống gửi thư trách, nhưng Lê Hoàn đã trả lời khá "ngạo mạn": “Việc cướp trấn Như Hồng là do bọn giặc biển ở cõi ngoài, hoàng đế có biết đó không phải là quân của Giao Châu không? Nếu Giao Châu có làm phản thì đầu tiên đánh vào Phiên Nhung, thứ đến đánh Mân Việt, há chỉ dừng ở trấn Như Hồng mà thôi? ” 2.1.3. Chiến thắng của Trần Hưng Đạo trên sông Bạch Đằng Trận Bạch Đằng năm 1288 xảy ra trên sông Bạch Đằng thuộc đất Đại Việt, đây là một trận đánh quan trọng trong các cuộc Kháng chiến chống Nguyên Mông trong lịch sử Việt Nam. Đây là chiến thắng vẻ vang của quân Đại Việt do Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo cùng với Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông chỉ huy trước quân xâm lược Nguyên Mông. Quân Nguyên bị thiệt hại vô cùng nặng (với khoảng hơn 4 vạn quân sĩ bị loại khỏi vòng chiến), và nhiều tướng Nguyên trong đó có cả Ô Mã Nhi, Phạm Nhàn và Phàn Tiếp cũng bị bắt sống và dâng lên Thượng hoàng Thánh Tông. Ngoài ra, có những 400 chiến thuyền của quân Nguyên 26
- rơi vào tay quân Trần thắng lớn.Đại thắng trên sông Bạch Đằng được xem là trận thủy chiến lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, và là thắng lợi tiêu biểu nhất của Đại Việt trong ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên-Mông. Đại thắng này là một chiến quả của kế cắm cọc trên sông Bạch Đằng của Hưng Đạo Vương, mở đầu với việc quân sĩ của ông lừa được địch vào trận địa cọc nhân triều rút. Quân Nguyên vấp phải sự chiến đấu mãnh liệt của quân Thánh Dực dưới quyền Nguyễn Khoái (Bình chương Áo Lỗ Xích của Nguyên Mông bị bắt trong trận này), tiếp theo đó các vua Trần đem binh tới ác chiến, đập tan nát quân Nguyên. Tiếp theo đó, quân Trần mai phục hai bên cũng dũng vũ xông ra, tiếp tục diệt tan quân địch. Khi nước triều rút, quân Nguyên hoàn toàn lâm vào thảm họa.Với sự hoàn tất sứ mệnh phá hủy đoàn binh thuyền của Ô Mã Nhi, toàn thắng này dẫn đến thắng lợi hoàn toàn của Đại Việt trong cuộc Chiến tranh Nguyên Mông- Đại Việt lần 3 và hoàn toàn phá tan âm mưu xâm chiếm Đại Việt của nhà Nguyên. Chiến tích vẻ vang này của Trần Hưng Đạo cùng với hai vị minh quân triều Trần đã lưu danh trong lịch sử Việt Nam, và là đề tài cho nhiều tác phẩm văn học Việt Nam thời Trung đại, dưới ngòi bút của các danh sĩ Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi, Vào năm 1287, nhà Nguyên mở đầu cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ ba, nhưng chỉ chiếm được kinh thành Thăng Long không một bóng người, và thủy quân Đại Việt do Phó tướng Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư chỉ huy đã đánh tan nát đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ trong trận Vân Đồn.Trước tình hình bất lợi, quân Nguyên định tổ chức rút về Trung Quốc theo nhiều hướng khác nhau. Ngày 3 tháng 3 năm Mậu Tí (1288), Hữu thừa Trình Bằng Phi, Thiên tỉnh Đạt Mộc thống lĩnh kị binh đi đón các cánh quân di chuyển bằng đường thủy (đoàn thuyền của Trương Văn Hổ). Tuy nhiên khi qua chợ Đông-Hồ thì bị dòng sông chắn ngang, phải quay lại, nhưng cầu cống đã bị quân nhà Trần bám theo sau phá hủy. Quân Nguyên rơi vào thế nguy, trước mặt thì bị quân Trần chận đường, sau lưng là chướng ngại thiên nhiên. Tuy nhiên quân Nguyên do tra hỏi những tù binh nên đã tìm được đường thoát, nửa đêm hôm đó cánh quân này đột phá vòng vây chạy trốn theo con đường khác, phối hợp với một cánh quân Nguyên đang rút lui để cùng nhau ra khỏi ải Nội Bàng. Tuy bị bất ngờ bởi sự thay đổi lộ trình của quân Nguyên, quân đội nhà Trần đuổi theo đánh rất sát vào cánh quân đoạn hậu. Tướng Nguyên là Vạn hộ Đáp Thứ Xích và Lưu Thế Anh phải dẫn quân quay trở lại phía sau đối phó với quân Trần, sau một trận giao chiến bắt được 27
- và giết các tướng Trần chỉ huy toán quân tập kích là các tướng Phạm Trù và Nguyễn Kị. Ngày 7 tháng 3 năm 1288, cánh quân Mông Cổ rút bằng đường thủy đi tới Trúc Động, tại đây họ bị quân nhà Trần chặn đánh, nhưng tướng Nguyên là Lư Khuê chỉ huy quân này đánh lui quân nhà Trần và chiếm được 20 thuyền chiến. Ngày 8 tháng 3 năm 1288, Ô Mã Nhi không cho quân rút về bằng đường biển mà đi theo sông Bạch Đằng, vì tính rằng đường biển đã bị thủy quân nhà Trần vây chặt thì phòng bị đường sông có thể sơ hở, hơn nữa sông Bạch Đằng nối liền với nội địa Trung Quốc bằng thủy lộ, thuận lợi cho việc rút lui. Khi Ô Mã Nhi dẫn đoàn thuyền tiến vào sông Bạch Đằng nhân lúc nước lớn, thủy quân nhà Trần tràn ra giao chiến, rồi giả thua chạy vào sâu bên trong. Ô Mã Nhi trúng kế khích tướng nên thúc quân ra nghinh chiến, các tướng Phàn Tham Chính, Hoạch Phong cũng ra tiếp ứng. Khi thuyền quân Nguyên đã vào sâu bên trong sông Bạch Đằng, tướng Nguyễn Khoái dẫn các quân Thánh Dực ra khiêu chiến và nhử quân Nguyên tiến sâu vào khúc sông đã đóng cọc, trong khi quân Trần đợi cho thủy triều xuống mới quay thuyền lại và đánh thẳng vào đội hình địch. Bình chương Áo Lỗ Xích của Nguyên Mông đã bị bắt sống trong cuộc chiến đấu quyết liệt của quân Thánh Dực Thủy quân Đại Việt từ Hải Đông - Vân Trà từ các phía Điền Công, Gia Đước, sông Thái, sông Giá nhanh chóng tiến ra sông Bạch Đằng, với hàng trăm chiến thuyền cùng quân lính các lộ dàn ra trên sông và dựa vào Ghềnh Cốc thành một dải thuyền chặn đầu thuyền địch ngang trên sông. Trong lúc thủy chiến đang diễn ra dữ dội thì đoàn chiến thuyền của hai vua Trần đóng ở vùng Hiệp Sơn (Kinh Môn, Hải Dương) bên bờ sông Giáp (sông Kinh Thần, vùng Kinh Môn, Hải Dương) làm nhiệm vụ đánh cầm chừng và cản bước tiến của địch, cũng tấn công từ phía sau khiến quân Nguyên càng lúng túng và tổn thất rất nặng. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, "nước sông do vậy đỏ ngầu cả". Bị bất lợi hoàn toàn, rất nhiều thuyền chiến của quân Nguyên bị cháy rụi. Bị tấn công tới tấp trên sông, một số cánh quân Nguyên bỏ thuyền chạy lên bờ sông bên trái của Yên Hưng để tìm đường trốn thoát, nhưng vừa lên tới bờ họ lại rơi vào ổ phục kích của quân Trần, bị chặn đánh kịch liệt. Trời về chiều khi giao tranh sắp kết thúc, Ô Mã Nhi cùng với binh lính dưới quyền chống cự tuyệt vọng trước sự tấn công của quân Trần, vì quân Nguyên của Thoát Hoan không tới cứu viện, nên đạo quân này hoàn toàn bị quân Trần tiêu diệt. Theo Nguyên sử, truyện của Phàn Tiếp chép rằng 28
- kịch chiến xảy ra từ giờ mão đến giờ dậu, tức là từ sáng kéo dài đến chiều tối mới kết thúc. Nguyên Sử có chép về tướng Nguyên Phàn Tiếp: "Tiếp cùng Ô Mã Nhi đem quân thủy trở về, bị giặc đón chặn. Triều sông Bạch Đằng xuống, thuyền Tiếp mắc cạn. Thuyền giặc dồn về nhiều, tên bắn như mưa. Tiếp hết sức đánh từ giờ mão đến giờ dậu. Tiếp bị súng bắn, rớt xuống nước. Giặc móc lên bắt, dùng thuốc độc giết". Sông Bạch Đằng nước ròng, tức nước lớn rất nhanh mà nước rút cũng mạnh, nên khi nước rút thuyền của quân Nguyên bị cọc gỗ đâm trúng, lật đỗ, quân Nguyên chết đuối hoặc bị giết vô số. Quân nhà Trần đại thắng, bắt được hơn 400 chiến thuyền, tướng Đỗ Hành bắt được tướng Nguyên là Tích Lệ Cơ và Ô Mã Nhi dâng lên Thượng hoàng Trần Thánh Tông. Thượng hoàng đã vui vẻ hậu đãi những viên bại tướng này. Khoảng hơn 4 vạn tướng sĩ Nguyên Mông đã bị loại ra khỏi vòng chiến. Tướng Nguyên là Phàn Tiếp bị bắt sống, rồi bị bệnh chết, trong khi một bại tướng khác là Phạm Nhan thì đã bị Trần Quốc Tuấn cho trảm quyết. Cánh thủy quân của quân Nguyên hoàn toàn bị tiêu diệt. Chiến thắng vinh quang của quân Đại Việt trong trận sông Bạch Đằng năm 1288 được xem là một trận đánh hủy diệt và thủy chiến lớn nhất trong lịch sử kháng chiến của dân tộc Việt Nam, và cũng được xem là thắng lợi tiêu biểu nhất của quân Đại Việt trong ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên-Mông, dẫn đến chấm dứt thắng lợi cho Đại Việt trong cuộc Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần thứ ba. Mặc dầu về sau này, "Giao Chỉ" hãy còn "ngứa ngáy trong tim Hốt Tất Liệt", đại thắng của Quân đội Đại Việt trong trận sông Bạch Đằng không chỉ hoàn tất mục đích đập vỡ đoàn binh thuyền của Ô Mã Nhi, mà còn hoàn toàn phá vỡ âm mưu xâm lược Đại Việt, và qua đó Đế quốc Mông Cổ không thể nào làm chủ cả Đông Nam Á. Chiến công trên sông Bạch Đằng vào năm 1288 của các vua Trần và Trần Quốc Tuấn, cùng với đại thắng của Ngô Quyền trong trận đánh tại đây thuở xưa, đã khiến cho dòng sông này trở nên gắn bó sâu sắc với lịch sử dân tộc Việt Nam. Có thể kể đến bài Phú sông Bạch Đằng của một môn khách của Hưng Đạo Đại Vương là Trương Hán Siêu được coi là một bản hùng văn trong lịch sử văn học Việt Nam. Qua tác phẩm này, Trương Hán Siêu đã ca ngợi công đức của hai vị minh quân Trần Thánh Tông cùng với Trần Nhân Tông ("Nhị Thánh hề tịnh minh, tựu thử giang hề tẩy giáp binh" - dịch là : "Hai vua thật anh minh, đến sông này dẹp đạo binh".), và đề cao Hưng Đạo Đại Vương ("Duy thử giang nhi đại tiệp, do Đại Vương chi tặc nhàn", dịch 29
- nghĩa : "Nghĩ có đại thắng trên sông này, do bởi Đại Vương [biết thế] giặc nhàn"). Tác giả cũng nêu cao khí phách của Vương triều nhà Trần - "hào khí Đông A" - đại thắng hiển hách trong trận Bạch Đằng. Vua Trần Minh Tông về sau cũng viết bài thơ "Bạch Đằng Giang", trong đó có đoạn : "Non sông này xưa nay đã hai lần mở mắt," "Cuộc hơn thua giữa Hồ và Việt thoáng qua như một lúc dựa vào lan can." "Nước sông chan chứa rọi bóng mặt trời cuối ngày đỏ ối," "Còn ngỡ là máu chiến trường thuở trước chưa từng khô." Nguyễn Trãi - vị anh hùng dân tộc của Đại Việt dưới triều Hậu Lê, cũng có bài thơ "Bạch Đằng Hải Khẩu", trong đó có đoạn : "Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc;" "Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng." "Quan hà bách nhị do thiên thiết ;" "Hào kiệt công danh thử địa tằn" Dịch nghĩa : "Như cá sấu bị chặt, cá kình bị mổ, núi chia từng khúc một ;" "Như mũi qua chìm, cây xích gãy, bên bờ lớp lớp chồng". "Quan hà hiểm hai người chống trăm người do trời xếp đặt ;" "Hào kiệt lập công danh đất ấy từng là nơi." Cũng trong thời kỳ ấy, danh sĩ Nguyễn Mộng Tuân có bài "Hậu Bạch Đằng Giang Phú", ca ngợi toàn thắng này, với phần đầu ghi là : "Ngắm sông Đằng bát ngát ; nhớ Hưng Đạo oai phong/Miền Hải Đông vang lừng nhờ có sông Đằng oanh liệt/Dòng họ Trần bất diệt nhờ có chiến công Bạch Đằng bất hủ vậy". Bài thơ ấy đã tôn vinh công đức của các vua Trần, cũng với biết bao vị kiệt tướng cùng với toàn dân đồng lòng chiến đấu, gây nên thảm họa Bạch Đằng cho quân xâm lược Nguyên Mông, đến mức mà : "Tiếng thét vang trời, núi non tưởng chừng sạt đỉnh; thây trôi đầy biển, tôm cá được dịp đầy nang!/Thế ta bừng bừng, trận Xích Bích nào sánh kịp; cảnh giặc hoảng loạn, gió Hoài,Phì nọ truyền sang!". 30
- 2.2. Tổng quan về một số di tích thờ Trần Hƣng Đạo ở lƣu vực sông Bạch Đằng. A.Các di tích Quảng Yên – Yên Hƣng- Quảng Ninh. 2.2.1 Đền Trần Hưng Đạo Đền Trần Hưng Đạo tên chữ là “đền Bạch Đằng” đền trước kia nằm ở Đồng Hậu, bên cạnh con sông Bạch Đằng thuộc làng Rừng xã An Hưng HUyện Yên Hưng phủ Đông Hải (phủ Hải Đông sau đổi thành trấn Quảng Yên rồi sau đổi thành tình Q uảng Yên). Đến 1934 đời vua Bảo Đại năm thứ 9 do ngôi đền xuống cấp trật hẹp, vị trí chưa thích nghi nên nhân dân trong xã đã chuyển ngôi đền đến dựng trên doi đất cổ nằm ở giữa ngã 3 sông Bạch Đằng, sông Giá và sông Đá Bạc, nơi trung tâm chiến trận Bạch Đằng 1288, nơi thấm máu quân dân nhà Trần và xác giặc Mông-Nguyên. Như vậy doi đất cổ là nguyên gốc di tích trên công trình tưởng niệm Trần Hưng Đạo, người anh hùng đã làm nên chiến thắng lẫy lừng lịch sử, chiến thắng chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Đền Trần Hưng Đạo dựng ngay bên sông Bạch Đằng nơi diễn ra trận chiến Bạch Đằng 1288. Trong bia đá “Bạch Đằng linh từ bí kí” có ghi : “Dựng ngôi đền ở nơi không chỉ có tín ngưỡng cầu sự linh thiêng mà mỗi lần nhìn dòng sông cuồn cuộn là nhớ thánh đức kia ngời ngời.” Doi đất cổ có đền Trần Hưng Đạo nay thuộc xóm 6 xã Yên Giang huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh. Phía Tây giáp sông Bạch Đằng , phía đông là cánh đồng lúa, phía nam giáp đường 10, xa hơn ngôi đền nhìn thẳng ra bãi cọc Bạch Đằng thuộc xã Yên Giang cách chừng 3 km, phía bắc ngôi đền là phần còn lại của doi đất cổ. Đền Trần Hưng Đạo thờ người anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn, người có công lớn trong hai lần kháng chiến chống quân Nguyên- Mông xâm lược. Trần Hưng Đạo tên thật là Trần Quốc Tuấn, ông sinh ngày 10 tháng 12 năm Mậu tý năm 1288, nguyên quán ở làng Tức Mạc huyện Mỹ Lộc tỉnh Nam Định. Ông là con của An Sinh Vương Trần Liễu và bà Nguyệt, là cháu ruột của vua Trần Thái Tông. Ông vốn thông minh hơn người, diện mạo tuấn kiệt. Lúc mới sinh ra có thầy tướng xem nói rằng: “Người này sau có thể giúp nước cứu đời”. Ngay từ nhỏ ông đã được giáo dục và rèn luyện toàn diện nên đã sớm trở thành người “võ công văn trí”. Sinh thời ông là tôi trung, là con hiếu, là trung tâm đoàn kết của triều đình và quân đội, là người rất mực thương dân. 31
- Về văn, Quốc Tuấn thấu hiểu mọi kinh nghĩa, văn thơ cổ kim, thông tuệ binh pháp. Ông đã soạn hai bộ binh thư: “Binh thư yếu lược” và “Vạn kiếp tổng bí truyền thư” để răn dạy các tướng cầm quân đánh giặc. Ông còn giáo dục họ và muôn dân bằng bài “Hịch Tướng Sĩ”. Bài hịch rất hùng hốn thống thiết khẳng định văn chương của một bậc tài bút. Về võ, ông là nhà chiến lược, chiến thuật tài ba. Tư tưởng của ông là: nước Đại Việt ta nhỏ và yếu hơn nước Đại Nguyên của Mông Cổ. Vì vậy phải lấy ít đánh nhiều, lấy yếu chống mạnh, khi quân giặc mới đến thế chúng còn mạnh thì ta phải rút lui để bảo toàn lực lượng nhử cho chúng vào sâu và dàn mỏng lực lượng ra nhiều nơi chờ khi nào có điều kiện thuận lợi thì mới tấn công. Khi ta rút lui cũng phải chủ động khiến giặc đánh vào cũng không đánh được. Với chiến thuật “vườn không nhà trống”, “chiến tranh nhân dân”, ông đã cùng quân dân nhà Trần đã hai lần đánh bại quân xâm lược Nguyên Mông vào năm 1285 và 1288. Đặc biệt chỉ trong một ngày mồng 8 tháng 3 năm Mậu Tý 1288 toàn bộ 600 chiến thuyền và hơn 4 vạn quân xâm lược Nguyên Mông đã bị quân và dân nhà Trần dưới sự lãnh đạo của Trần Quốc Tuấn tiêu diệt và bắt sống toàn bộ tạo nên một sự kiện lịch sử vĩ đại có tầm quan trọng và ý nghĩa lớn lao. Ngày 20 tháng 8 Hưng Long thứ 8 Canh Tý 1300 Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn mất ở phủ đệ riêng của mình ở Vạn Kiếp. Theo lời ông dặn, thi hài ông được hỏa tang thu vào bình đồng chôn trong vườn An Lạc gần cánh rừng An Sinh, không xây lăng mộ mà đắp đất san phẳng trồng cây như cũ. Triều đình lập đền thờ ông ở Vạn Kiếp, Chí Linh, Hải Dương, ấp phong của ông lúc sinh thời. Đền Trần Hưng Đạo được xây theo lối kiến trúc nhà Trần. Ngay từ ngoài quốc lộ vào đền chúng ta đã thấy một bức họa rất lơn được vẽ trên một bức tường lớn. Bức tranh vẽ lại khí thế của quân và dân ta trước trận đánh. Từ ngoài đi vào phải cổng tam quan, cổng chính chỉ để dành cho rước lễ, hai cổng bên là dành cho khách tham quan và nhân dân đi vào. Trên mỗi trụ là tường thành, bên trong tam quan là sân đền lát gạch đỏ mở ra một không gian thoáng đãng. Giữa sân đền là một lư hương bằng đá xanh to dùng để đốt tiền vàng, góc bên trái đền có nhà bia được xây dựng theo lối kiến trúc cổ rất đẹp là nơi để các bài văn bia. 32
- Đền Trần Hưng Đạo được Nhà nước đầu tư tôn tạo theo dự án bảo tồn, tôn tạo cụm di tích Bạch Đằng. Đền được khởi công trùng tu, tôn tạo từ năm 1999 đến tháng 3 năm 2003 thì hoàn thành đền gồm: tiền đường, hậu đường, hậu cung. Tiền đường là nơi khánh tiết hành lễ trình gồm 5 gian 2 chái, có kích thước dài 21m rộng 8,5m gồm 4 mái lợp ngói mũi hài có đầu đao góc mái. Toàn bộ các cấu kiện vì kèo và mái được làm bằng gỗ lim, lối kiến trúc cổ thời Nguyễn, bào trơn đóng bén. Gian giữa cửa tiền đường có bô bát cửu cắm trên giá, hai bên tường có hai tấm bia, bên trong có đèn có chuông đồng cao 1m đúc năm 1988. Hậu đường có kích thước dài 4m rộng 7,8m nối với Hậu cung dài 6,6m rộng 5,6m. Hậu đường cũng bao gồm bốn mái. Toàn bộ vè kèo và mái được làm bằng gỗ lim kiến trúc mang phong cách thời Nguyễn bào trơn đóng bén. Hậu đường một bên là thờ 4 người con trai của Trần Hưng Đạo, một bên thờ Đệ Nhất Khâm Từ Hoàng Thái Hậu Quyên Thanh Công Chúa (con gái thứ nhất vợ vua Trần Nhân Tông) và Đệ Nhất Nữ Đại Hoàng Anh Nguyên Quận Công Chúa (con gái thứ hai vợ Phạm Ngũ Lão). Hậu cung đi sâu vào bên trong là nơi thờ Trần Hưng Đạo, hai bên tả hữu thờ quan văn và võ của Ngài. Bên trên có bức đại tự và câu đối ca ngợi công lao của Trần Hưng Đạo. Tất cả đều tôn thêm vẻ uy linh thành kính thâm nghiêm của ngôi đền. Nơi đây thật là một báu vật quý giá còn giữ lại những nét đẹp truyền thống của thế hệ trước. Nó có giá trị về mặt khoa học, về nhân văn, đồng thời nó cũng phản ánh dấu ấn thời đại rõ nét. Những giá trị văn hóa của đền Trần Hưng Đạo có ý nghĩa rất lơn đối với địa phương, vùng đất bởi nó vừa giáo dục cho nhân dân lòng yêu nước niềm tự hào dân tộc, ý thức giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa, giá trị vật chất cũng như giá trị tinh thần mà ông cha ta đã để lại. Mặt khác với giá trị lịch sử của mình đền Trần Hưng Đạo góp phần thu hút khách du lịch trong và ngoài nước thúc đẩy ngành kinh tế địa phương cũng như khu vực phát triển. Di tích lịch sử văn hóa đền Trần Hưng Đạo được Đảng và chính phủ quan tâm từ rất sớm thể hiện chuyến thăm của các vị lãnh đạo Nhà nước như Chủ tịch nước Lê Đức Anh thăm đền vào tháng 4 năm 1994 và trồng cây đa lưu niệm; Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm đền vào ngày 28 tháng 4 năm 1994 và trồng cây đa lưu niệm. Các vị lãnh đạo tỉnh như đồng chí Hồ Đức Việt Ủy viên trung Ương Đảng, Bí thư tỉnh Ủy Quảng Ninh về thăm đền vào 26 tháng 3 năm 1998 và trồng cây đa lưu niệm; đồng 33
- chí Nguyễn Hồng Quân Bí thư tỉnh đoàn thanh niên tỉnh Quảng ninh về thăm và trồng cây đa lưu niệm vào năm 1993. Đền Trần Hưng Đạo được Bộ văn hóa thông tin xếp hạng di tích lịch sử ngày 23 tháng 3 năm 1988, Quyết định số 191-1988/ QĐ- BVHTT. 2.2.2. Đền Trung Cốc. Đền được xây dựng trên một gò đất cao giữa thôn Đồng Cốc xan Nam Hòa huyện Yên Hưng. Phía nam giáp dân cư thôn Đông Cốc; phía đông giáp với đồng lúa, Đồng Vạn Muối, đây là bãi cọc lớn thứ hai có quy mô lớn góp phần quan trọng làm nên chiến thắng Bạch Đằng năm 1288. Đền thờ hai vị anh hùng dân tộc chống giặc ngoại xâm ở thế kỷ XIII, đó là Trần Hưng Đạo và Phạm Ngũ Lão. Đồng thời mảnh đất dựng đền cũng là nơi lưu niệm sự kiện vĩ đại trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Đền Trung Cốc được xây dựng bên cạnh bãi cọc Vạn Muối là nguyên gốc di tích lưu niệm sự kiện trong dân gian nhân dân vùng đảo Hà Nam vẫn còn lưu truyền câu chuyện Trần Hưng Đạo và Phạm Ngũ Lão dùng thuyền đi đôn đốc quân sĩ, dân binh cắm bãi cọc Yên Giang, bãi cọc Đồng Vạn Muối để làm thành một phòng tuyến bịt chặt họng sông Bạch Đằng buộc thuyền chiến của giặc Nguyên phải dừng lại chiến đấu cho đến khi bị tiêu diệt và bắt sống toàn bộ. Một hôm Trần Hưng Đạo và Phạm Ngũ Lão đi thuyền đến khu vực Đồng Vạn Muối để thị sát địa hình chuẩn bị trận địa cọc thì bị cạn thuyền ở gò đất thôn Đồng Cốc nhân dân bèn đến và kéo thuyền của hai ông ra khỏi chỗ mắc cạn. Sau chiến thắng Bạch Đằng nhân dân trong vùng bèn lập đền thờ hai ông gọi là đền Trung Cốc ngay trên gò đất hai ông bị mắc cạn. Đền Trung Cốc có kiến trúc hình chữ J quay hướng Đông Nam gồm Bái đường, Hậu cung. Tại đây cũng diễn ra lễ hội Bạch Đằng vào ngày mòng 8 tháng 3 âm lịch. Bái đường gồm 3 gian hai hồi xây bít đốc gồm có hai cái cột làm bằng bê tông, hai cột quân xây trụ bằng gạch. Trên câu đầu có các chữ công làm bằng gỗ dể đỡ hoành. Chính giữa bái đường có một hương án làm bằng gỗ sơn son thiếp vàng, trên hương án là bát hương và mâm bồng. Hai bên bát hương có hai lộc bình làm bằng gỗ, phía trước hương án là một chiếc bàn gỗ dùng để đặt đồ cúng lễ. Ngoài ra hai bên còn có câu đối ngợi ca công lao to lớn của Trần Hưng Đạo. Gian bái đường dùng để tế lễ của mọi người dân và khách thập phương. 34
- Hậu cung được xây dựng bằng gạch lợp ngói có hoành, rui, li tô bằng gỗ không có vì kèo. Trong hậu cung có tượng Trần Hưng Đạo và Phạm Ngũ Lão sơn son thiếp vàng và một đôi câu đối có từ lâu đời nhân dân ai ai cũng thuộc “phụ Trần lẫm liệt đan tâm tại; Sát thái uy danh xích kiếm tồn” (lòng son giúp nhà Trần công lớn còn đó; Tấc kiếm giết giặc Nguyên uy danh còn đây). Ngoài ra còn có bồn đạo sắc của các triều vua ban cho. Sắc phong của vua Gia Long tam niên cửu nguyệt sợ thập nhật (ngày 10 tháng 9 năm 1804) phong cho Hưng Đạo Đại Vương Thượng Đẳng Thần khai quốc an dân, hộ quốc bảo vệ dân, giao cho các xã: Xã Vạn An huyện Nhưỡng Nhơn tỉnh Bắc Ninh. Xã Dược Sơn huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương. Khu Đồng Cốc xã Phong Cốc tổng Hà Nam huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh. Toàn dân của ba xã phụng sự. Sắc sao của vua Tự Đức năm thứ 3 (1850) phong cho Phạm Ngũ Lão “Phạm điện súy Thượng úy tướng quân thời Trần làm Thượng Đẳng linh phù tôn thần”. Ngoài ra còn có sắc sao của vua Tự Đức và vua Duy Tân phong cho các con của Trần Hưng Đạo. Đền Trung Cốc được Bộ văn hóa thông tin công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia theo Quyết định số 310/ QĐ- BVHTT, ngày 13 táng 2 năm 1996. 2.2.3. Đình Trung Bản. Đình Trung Bản thuộc xóm Thượng thôn Trung Bản xã Liên Hòa huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh. Năm 1288 đảo Hà Nam còn là một vùng đất mênh mông ở cửa sông Bạch Đằng, chỉ nổi lên một số đượng đất cao trên triều ở khu vực Hưng Học, Hải Yến, Phong Cốc, Trung Bản, Lưu Khê, Vị Dương, Vị Khê. Các đượng đất cao trên triều này là những nơi xảy ra trận đánh quyết liệt tiêu diệt quân Nguyên- Mông. Trong nhân dân ta ở đây vẫn còn lưu truyền câu ca dao: “Sông Bạch Đằng là nơi cửa ải Tổng Hà Nam là bãi chiến trường”. Theo truyền thuyết kể lại rằng sau khi chuẩn bị xong bãi cọc Yên Giang và bãi cọc Đồng Vạn Muối hợp với ghềnh Cốc và ghềnh Chanh (hai giải đá ngầm) tạo thành một phòng tuyến bịt chặt họng sông Bạch Đằng. Trần Hưng Đạo đã cho quân sĩ mai phục trên các đượng đất cao, phía trên trận địa cọc nhằm tiêu diệt và bắt sống toàn bộ 35
- quân giặc và không cho tên nào chạy thoát về nước. Ngày mùng 8 tháng 3 Mậu Tý 1288 giặc Nguyên- Mông vừa đến khu vực, núi Tràng Kênh Trần Hưng Đạo cho thuyền nhỏ khiêu chiến rồi giả vờ thua chạy, khi nước triều rút giải đá ngầm và trận địa cọc có tác dụng dâng lên đốt lửa làm hiệu cho quân sĩ mai phục hai bên dòng sông nhất loạt tiến công. Trận đánh quyết liệt diễn ra từ Tràng Kênh đến Trung Bản, trong khói lửa mịt mù Trần Hưng Đạo cưỡi rồng to lớn trên gò đất Trung Bản, đốc thúc quân sĩ tiêu diệt quân giặc, mải mê đánh trận tóc của ông sổ ra Trần Hưng Đạo bèn xuống ngựa chống kiếm buộc lại tóc. Chiến trận Bạch Đằng thắng trận những người dân chài lưới quanh vùng bèn lập đền thờ ông ngay trên gò đất, ngôi đền đó sau này được dân làng lập thành đình Trung Bản. Đình Trung Bản nằm trên gò đất cao nhất của làng Trung Bản. Đình quay về hướng Tây Nam. Phía Bắc giáp ruộng lúa, phía Đông là khu dân cư. Bố cục đình theo kiểu chuôi vồ gồm các hạng mục sân đình, đình ngoài (tiền đường), đình trong và hậu cung. Không gian đình tương đối rộng, cổng được xây theo kiểu tam quan. Một cổng chính to và hai cổng phụ hai bên, bước qua cổng là tới sân đình. Sân đình lát gạch, xung quanh có hệ thống tường bao quanh mới được xây. Tiền đường (đình ngoài) kiến trúc kiểu năm gian kiểu hai thò ba thụt. Vì kèo cấu trúc theo kiểu trồng rường gồm bốn hàng cột thượng thu hạ khách. Hệ thống cột khá lớn đầu bấy được trạm khắc các hình rồng cá. Tại gian giữa và gian trái, phải có ba bức đại tự sơn thiếp vàng và chạm khắc ở các cột của gian thờ giữa được bố trí ba cặp câu đối. Chính giữa tiền đường có một án gian (bàn thờ tự) sơn son thiếp vàng và chạm khắc tinh xảo. Sau án gian là một bệ xây được sử dụng làm nơi để đồ thờ tự, hồi trái đình có hai bia thời Hồng Đức về vụ chia ruộng đất của triều đình cho nhân dân trong vùng. Tiếp theo là đình trong hay còn gọi là đại đình. Đình trong cách đình ngoài một số bậc. Cấu trúc kiểu trồng rường với bốn hàng cột thượng thu hạ khách, các con rường đều chạm các chi tiết đơn giản hơn đình ngoài. Gian giữa đình có một bức đại tự sơn son thiếp vàng. Khu vực giữa đình bố trí án gian được sơn son thiếp vàng, chạm khắc rất đẹp với hai lục bình sứ cổ và hai lọ bình gỗ sơn. Sau án gian là sập thờ cũng được sơn son thiếp vàng và chạm khắc bên trên để các đồ thờ bằng gỗ. Hai bên giữa có hai án gian sơn son thiếp vàng cùng kích thước, phía bên phải đại đình là bia công đức 36
- khắc vào thời Quang Trung kích thước khá to dùng để ghi chép lại sự đóng góp của dân làng vào việc cải tạo xây dựng đình. Cuối cùng là hậu cung ở đằng sau đình, cấu trúc một gian hai vì kèo theo kiểu chồng rường có chạm khắc. Hậu cung có hai bức đại tự sơn son thiếp vàng bố trí trong và đầu nhà. Đồ thờ của hậu cung cũng được phân bố gồm: Phía ngoài kiệu bát cống (thời Hậu Lê) sơn son thiếp vàng chạm khắc hình rồng. Trên kiệu là sập có từ thời Hậu Lê được chạm khắc rất tỉ mỉ với các hoa văn lá cây hình rồng. Hậu cung còn có hai kiếm gỗ, bát hương được sơn son thiếp vàng, mâm thờ, quạt thờ, chuông đồng Ở gian chính giữa, thờ tượng Trần Hưng Đạo, tượng bằng gỗ cao khoảng 1,1m, tư thế ngồi trong ngai, sơn son thiếp vàng rực rỡ. Mặt tượng quắt thước, trầm tĩnh, nhân hậu mang đậm ắc thai Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Vương. Một tay tượng chống kiếm tay kia đặt lên ngang đùi, như muốn tái hiện lại hình ảnh Trần Hưng Đạo chống kiếm, búi tóc năm xưa. Tạc Trần Hưng Đạo trong tư thế ngồi, mặc áo bào thêu rồng, phượng, đầu đội mũ cánh chuồn là những trang phục do vua ban, nét mặt bình thản mà nghiêm nghị, oai phong mà hiền từ. Niên đại của tượng là thế kỉ XIX. Theo nhiều nhà nghiên cứu nghệ thuật cho rằng tượng Trần Hưng Đạo thờ ở đình Trung Bản là pho tượng đẹp, có hồn hơn cả trong những pho tượng tạc về ông thờ ở các đình, chùa, đền. Điều đặc biệt là pho tượng được thể hiện gắn liền với câu chuyện chống kiếm búi tóc của Trần Hưng Đạo khi xưa, đó là phía sau tượng có cả mái tóc dài tới gần hông, còn trong lòng bàn tay phải là chiếc trâm cài tóc như thể Ngài đang chuẩn bị búi lại tóc. Chi tiết đó làm cho câu chuyện dân gian xưa như gần gũi với hiện thực, làm cho cái “thần” của tượng như rõ hơn. Ngoài ra còn phải kể đến chiếc ngai đặt tượng cũng là một tác phẩm nghệ thuật đẹp: Đầu tay ngai, song ngai chạm rồng, hoa lá cách điệu, mây lửa. Tất cả đều được sơn son thiếp vàng và vẫn còn như nguyên vẹn. Ngay phía trước tượng Trần Hưng Đạo là một tác phẩm nghệ thuật đáng chú ý khác, đó là chiếc kiệu bát cống (chuyên dùng cho việc rước tượng, bài vị thần). So với các hiện vật cùng loại trong số các di tích ở Yên Hưng hiện nay thì đây là chiếc kiệu khá lớn. Phần trên của kiệu có hình chữ nhật, giống như một chiếc sập tinh xảo. Đòn khiêng kiệu được thiết kế cho 8 người khiêng (kiệu bát cống), hai đòn dọc phía trước trang trí hình đầu rồng, phía sau là đuôi rồng, 8 đầu đòn ngang là phần đặt lên vai cũng đều được chạm hình đầu rồng. Điều đáng chú ý là những chiếc kiệu thời Lê như thế này không còn lưu giữ lại được nhiều trong các di tích trên địa bàn tỉnh, hơn nữa lại 37
- còn khá nguyên vẹn, dù trải qua bao thời gian, chiến tranh và sự xâm hại của thiên nhiên. Cũng có niên đại thời Lê như kiệu bát cống và độc đáo không nơi nào có ngoài đình Trung Bản, đó là chiếc quấn tẩy. Đây là vật chuyên dùng đựng nước phép để các chủ tế rửa tay, như một sự gột sạch bụi bẩn trước khi tế thần. Chiếc quấn tẩy làm bằng gỗ, cao khoảng 1,4m, trông gần giống với cây đèn nến, dọc thân được chạm trổ hình rồng, hoa lá theo lối kênh bong, ở đoạn gần giữa quấn tẩy có gắn chiếc đĩa gỗ nhỏ dùng để đựng nước phép cho chủ tế. Toàn bộ quấn tẩy được sơn son thiếp vàng và vẫn còn gần như nguyên vẹn. Ngoài các hiện vật giá trị trên, đình Trung Bản còn lưu giữ lại được gần chục sắc phong, chủ yếu là của các vua nhà Nguyễn phong thần cho Trần Hưng Đạo là Thành hoàng của làng Trung Bản. Trong đình Trung Bản có một số câu đối, hoành phi nói về chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 vang dội và công lao của triều đại nhà Trần. Một trong những câu đối như sau: “Đằng thủy thực thung vạn thế phong công thủy vũ trụ Dược sơn minh kiếm thiên thu chính khí thượng luân cao”. Dịch là: “Sông Bạch Đằng đóng cọc, muôn thuở công to cùng vũ trụ Núi Dược Sơn kiếm vang, năm chính khí vẫn tôn thờ.” Đáng chú ý là trong đình Trung Bản còn giữ được hai tấm bia đá dựng năm Hồng Đức thứ 26 tức ngày 15- 3- 1495. Bia cao 0,6m, rộng 0,39m, dày 0,14m, chữ khắc trên 3 mặt. Người chủ trì dựng hai tấm bia này là hai ông Hoàng Nông, Hoàng Nênh, những người trong số các Tiên Công đến khai phá vùng Hà Nam buổi đầu tiên. Nội dung của bia như sau: Triều đình nhà Lê (thời Hồng Đức) ban sắc chỉ ngày 10- 3- 1471 sai các quan Nguyễn Huy Diệu, giám sát ngự sử đạo Tam Giang, Nguyễn Tông Quý, Cẩm y vệ hiệu úy, đến xứ Bản Động (tức Trung Bản, xã Phong Lưu, huyện An Hưng, phủ Hải Đông, đạo An Bang) cùng các quan thừa ty kiểm tra phá ruộng đất ở xứ này trên diện tích 4.020 mẫu 5 sào 10 thước 2 tấc nằm trong đê, đều do các công Hoàng Nông, Hoàng Nênh xa Phong Lưu; Hoàng Kim Bảng, Đồng Đức Hấn xã Vị Dương; Đỗ Độ, Đào Bá Lệ xã Lương Quy, khai phá đất mặn mà thành. Vì thế chuẩn cấp cho xã Vị Dương hơn 1.343 mẫu, cấp cho xã Phong Lưu hơn 1.599 mẫu, cấp cho xã Lương Quy hơn 1.817 mẫu, có quy định rõ vị trí ruộng kèm theo số người, độ dài 38
- đê nằm trên ruộng đất đã cấp cho các Tiên Công trên. Đình Trung Bản thờ Thành Hoàng làng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, vị Tổng chỉ huy đã lập nên đại thắng Bạch Đằng lừng lẫy, lại lưu giữ tấm bia đá cổ nói về việc khai khẩn và chia ruộng đất của các Tiên Công dưới thời vua Lê Thánh Tông, như là một biểu tượng đẹp của tổ tiên về sự kết hợp khăng khít giữa công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, một bài học lịch sử nhưng mãi mãi có tính thời sự. Ngoài ra đình còn lưu giữ đươc một hòm sắt, trong đó có 6 đạo sắc phong của các triều vua ban cho: Thiệu Trị lục niên bát nguyệt thập tam nhật Thiệu Trị lục niên cửu nguyệt thập tứ nhật Tự Đức tam niên thập nhất nguyệt tam nhật Tự Đức thập tam niên thập nhất nguyệt nhị thập tứ nhật Đồng Khánh nhị niên thất nguyệt sơ nhất nhật Duy Tân tám niên bát nguyệt thập nhất nhật. Cả 6 đạo sắc phong đều có nội dung: Quảng Yên tỉnh, Yên Hưng huyện, Phong Lưu xã, Trung Bản thôn. Sắc phong: Trí trung đại nghĩa phong huân vị hiệu linh tác vĩ Hưng Đạo Thượng Đẳng Thần. Trải qua thời gian đình được tu sửa xây dựng lại nhiều lần nhưng nhìn chung vẫn giữ nguyên gốc. Tuy nhiên kiểu cấu trúc vẫn biến đổi cơ bản, pha tạp nhiều phong cách. Đình có giá trị như một di tích lưu niệm danh nhân của dân tộc lưu niệm sự chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 và di tích gốc về lịch sử của các công trình kiến trúc trước đây. Đình Trung Bản đã được Bộ văn hóa thông tin công nhận xếp hạng là di tích lịch sử theo quyết định số 1548/ QĐ 30/8/1991. 2.2.4. Đình Yên Giang Đình Yên Giang nằm trên một gò đất cao, rộng 918m2, ở trung tâm xã Yên Giang, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh. Theo gia phả của các dòng họ ở Yên Giang và lưu truyền trong nhân dân thì đình Yên Giang thờ Thành Hoàng làng là Trần Hưng Đạo. 39
- Vào ngày sinh, ngày hóa của Trần Hưng Đạo, ngày giỗ trận Bạch Đằng mồng 8 tháng 3 âm lịch hàng năm và ngày lễ hội Đại kỳ phước dân làng rước tượng Trần Hưng Đạo từ Đền Trần Hưng Đạo về Đình Yên Giang để tế lễ, cầu xin Thành hoàng che chở cho dân làng. Ngoài những ngày lễ trên, vào các dịp trong làng có việc hội họp tế lễ, dân làng cũng tụ họp ở Đình làng rất đông, thể hiện một nếp sống văn hóa truyền thống của người dân vùng cửa Sông Bạch Đằng. Đình Yên Giang được xây dựng thế kỷ 16 nhưng đã trải qua nhiều lần trùng tu xây dựng năm 1952; năm 1993 được xây dựng lại như ngày nay. Tuy nhiên qua nhiều lần trùng tu nhưng đình Yên Giang vẫn giữ được nét kiến trúc cổ vốn có của nó. Đình có kiến trúc kiểu chữ “Đinh”, gồm 5 gian tiền đường, 3 gian bái đường, 1 gian hậu cung và một số kiến trúc phụ khác, diện tích công trình là 186m2. Kiến trúc đơn giản nhưng bề thế, vững chắc. Đình Yên Giang đến nay vẫn còn lưu giữ được nhiều di vật cổ: Bia đá, đồ tế khí và 6 đạo sắc phong của các triều vua phong cho Trần Hưng Đạo. Cùng với Bãi cọc Bạch Đằng, Đền Trần Hưng Đạo, Miếu Vua Bà, Hai cây lim Giếng Rừng, Đình Đền Công, Đình Trung Bản, Đền Trung Cốc, Đình Yên Giang đã góp phần làm phong phú Cụm di tích Bạch Đằng, gắn liền vớ vị anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn và có tác dụng giáo dục truyền thống sâu sắc đối với các thế hệ con cháu đời sau. Lễ hội Đình Yên Giang cũng là ngày hội tưng bừng của nhân dân vùng cửa Sông Bạch Đằng và du khách thập phương vào ngày mồng 8 tháng 3 âm lịch hàng năm, ngày kỷ niệm chiến thắng Bạch Đằng – 1288. Ngoài ngày lễ trọng đại trên, Đình Yên Giang còn tổ chức những ngày lễ khác, như ngày mất của Trần Hưng Đạo ngày 20 tháng 8 âm lịch năm 1300, lễ Đại kỳ phước vào các ngày 24, 25, 26 tháng 11 hàng năm. Đây là dịp lễ tạ ơn Thành hoàng, Thổ địa đã ban phước cho đồn điền “phong đăng hòa cốc”, mừng vụ mùa bội thu. Đình Yên Giang đã được Bộ Văn hóa thông tin xếp hạng là Di tích lịch sử Quốc gia, bổ sung cho Cụm di tích Bạch Đằng theo Quyết định số 310/ QĐ- BT, ngày 13/2/1996. Năm 2012 được xếp vào cụm di tích Bạch Đằng- di tích quốc gia đặc biệt. 40
- 2.2.5 Các di tích liên quan 2.2.5.1. Bến Đò Rừng. Bến Đò Rừng, tên thường gọi là Bến Rừng nằm ở trước cửa di tích Miếu Vua Bà, cạnh di tích Đền Trần Hưng Đạo thuộc Cụm di tích Chiến thắng Bạch Đằng 1288. Từ thời Lý- Trần đến trước năm 1960 Bến Đò Rừng là nơi đưa khách qua Sông Bạch Đằng. Sông Bạch Đằng còn có tên gọi là Sông Vân Cừ (Sông Rừng). Bến Đò Rừng mang tên gọi của dòng sông . Năm 1960 Bến Đò Rừng được xây dựng quy mô thành Bến Phà Rừng ở địa điểm mới cách Bến Đò Cổ khoảng 1km về phía Nam để đáp ứng phục vụ khách qua Sông Bạch Đằng. Di tích Bến Đò Rừng (Bến Rừng) là nơi lưu niệm một sự kiện vĩ đại trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta: “Chiến thắng Bạch Đằng 1288”. Bến Đò Rừng cổ là nơi Trần Hưng Đạo chọn để đốt lửa làm hiệu lệnh cho quân sỹ trên một chiến trường rộng lớn nhất loạt tiến công địch. Bến Đò Rừng còn là nơi có Bà hàng nước- người đã cung cấp cho Trần Hưng Đạo lịch con nước triều, địa thế lòng sông để tổ chức trận địa cọc Bạch Đằng và kế hỏa công làm nên Chiến thắng Bạch Đằng- 1288. Bến Đò Rừng xưa kia nằm trên một doi đất cổ hình tay áo từ Trại An Hưng chạy ra giữa dòng Sông Bạch Đằng, nơi đây là trung tâm chiến trường của Đại thắng Bạch Đằng- 1288 là nguyên gốc di tích. Bến Đò Rừng đang được Sở VHTT Quảng Ninh lập hồ sơ khoa học đề nghị Bộ Văn Hóa Thông tin xếp hạng di tích Quốc gia bổ sung vào Cụm di tích lịch sử Chiến thắng Bạch Đằng. 2.2.5.2. Hai Cây Lim Giếng Rừng. Thị trấn Quảng Yên xưa kia là một vùng đất cổ gắn liền với những địa danh còn lưu lại đến ngày nay như: Sông Rừng, Chợ Rừng, Bến Rừng và những cánh rừng đại ngàn cổ thụ. Năm 1287- 1288, giặc Mông- Nguyên sang xâm lược nước ta lần thứ 3. Để chuẩn bị cho chiến trận Bạch Đằng năm 1288, Trần Quốc Tuấn đã cho quân vào những cánh rừng ven cửa Sông Bạch Đằng đẵn gỗ, xây dựng trận địa cọc vớ hàng ngàn cọc gỗ cắm xuống lòng Sông Bạch Đằng, nhử quân giặc vào thế trận. Khi nước thủy triều xuống, những cọc gỗ nhô cao tạo thành một phòng tuyến không cho thuyền giặc chạy thoát. Quân ta mai phục từ các nhánh sông lao ra tiến công tiêu diệt và bắt sống hàng trăm chiến thuyền của giặc. 41
- Trải qua hơn 700 năm, những cánh rừng xưa không còn nữa. Duy chỉ còn hai cây lim cổ thụ cạnh Giếng Rừng là dấu ấn minh chứng cho một vùng đất cổ có cánh rừng lim mà Trần Quốc Tuấn cho quân sỹ chặt làm trận địa cọc nổi tiếng trong lịch sử. Hai Cây Lim Giếng Rừng nằm trên một khu đất rộng 1300m2, trong đó có hai giếng nước (gọi là Giếng Rừng). Hai cây lim cao khoảng 35m, tán rộng 30m, một cây có chu vi gốc 5,5m, thân chính cao 6m; cây thứ hai có chu vi 7,2m, thân chính cao gần 7m. Thuộc địa phận phố Đoàn Kết, thị trấn Quảng Yên. Mặc cho thời gian và khí hậu khắc nghiệt nhưng cây vẫn xanh tươi, như một tượng đài chiến thắng giản dị, đơn sơ và đầy sinh lực. Hai Cây Lim Giếng Rừng đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử Quốc gia, bổ sung cho Cụm di tích Bạch Đằng theo Quyết định số 191 VH/QĐ, ngày 2/3/1988. 2.2.5.3. Bãi cọc Bạch Đằng. Từ khi bãi cọc đầm nước xã Yên Giang được phát hiện và nghiên cứu, người ta quen gọi luôn là “Bãi cọc Bạch Đằng”. Bãi cọc có hình chữ nhật dài khoảng 120m, chiều rộng khoảng 30m, nằm theo hướng Đông - Đông Bắc, Tây - Tây Nam. Cách thị trấn Quảng Yên khoảng 2000m, nằm sát bờ đê sông Chanh trong khu vực đầm nước xã Yên Giang vì vậy nhân dân địa phương còn gọi khu vực này là đầm Nhữ. Đa số các nhà nghiên cứu đều nhận định bãi cọc Yên Giang là một phần của trận địa cọc trên sông Bạch Đằng lúc bấy giờ do Trần Hưng Đạo xây dựng để tham gia vào trận chiến Bạch Đằng năm 1288, đây là nửa phía Bắc của trận địa cọc, còn nửa phía Nam là bãi cọc Đồng Vạn Muối. Giữa hai bãi cọc Yên Giang và Đồng Vạn Muối là dòng sông Chanh ngày nay, ở giữa có một dải cồn đá cao khi nước triều xuống thuyền không qua được buộc phải đi vào sát bờ mới xuôi ngược dòng được vì vậy Trần Quốc Tuấn đã chọn vị trí cắm cọc ở hai bên cồn đá, nơi các thuyền bè buộc phải đi qua tạo thành một phòng tuyến hình chữ V bịt chặt lấy họng sông Bạch Đằng để chặn đường rút lui của quân địch tạo nên chiến thắng vẻ vang của trận chiến trên sông Bạch Đằng năm 1288. Ngày mồng 7 tháng 3 năm Mậu Tý 1288 đoàn thuyền chiến của Ô Mã Nhi rút đến khu vực kinh môn vào sông Đá Bạc và sông Giá, Trần Hưng Đạo cho quân mai phục hai bên bờ chặn đánh làm giảm sự rút quân của giặc sao cho chúng đến sông Bạch Đằng vào lúc nước triều xuống thấp để phát huy tác dụng của trận địa cọc. Ngày 42
- mồng 8 tháng 3 âm lịch năm 1288, đoàn thuyền chiến của Ô Mã Nhi tới sông Bạch Đằng, thuyền giặc tới khu vực Tràng Kềnh. Trần Hưng Đạo đốt lửa làm hiệu lệnh, quân sỹ hai bên bờ lao ra, vua Trần dẫn quân tiếp ứng làm địch không kịp trở tay. Thuyền giặc bỏ chạy gặp các bãi cọc gỗ và ghềnh đá ngang qua sông Bạch Đằng nhô lên chăn lại, thuyền giặc dồn lại, bốc cháy. Giặc Nguyên chết đuối không kể xiết, nước sông đến nỗi đỏ ngầu. Ta bắt được 400 chiến thuyền; bắt sống Ô Mã Nhi, Phạm Nhan, Tích Lệ Cơ Ngọc, Phàn Tiếp. Bãi cọc Bạch Đằng (bãi cọc Yên Giang) đã góp một phần quan trọng tạo nên chiến thắng vẻ vang của trận chiến trên sông Bạch Đằng năm 1288. B. Các di tích tại Thủy Nguyên –Hải Phòng 2.2.6. Tràng kênh- Đền Trần Hưng Đạo. Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, vùng đất này được coi là một phên dậu chống giặc ngoại xâm. Dấu ấn lịch sử để lại đến nay cho biết, Tràng Kênh là một trận địa quan trọng trong trận thủy chiến Bạch Đằng năm 1288 do Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo chỉ huy, đánh tan đội quân xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ XIII. Với các địa danh đã đi vào sử sách dân tộc như núi U Bò, Hoàng Tôn, Phượng Hoàng hay cửa Bạch Đằng, nơi hợp lưu của 3 con sông đổ về, cùng các dấu tích về những trận địa cọc hay những địa danh như Áng Hồ, Áng Lác cho biết vùng đất này đã ghi dấu về một chiến trường do quân và dân triều Trần bày trận đón đánh quân thù. Ngày nay dưới chân núi Hoàng Tôn trong hệ thống núi đồi ở Tràng Kênh còn ngôi đền thờ một vị tướng của vương triều Trần. Đó là đền thờ Trần Quốc Bảo. Ông thuộc tôn thất nhà Trần có công trong trận Bạch Đằng năm 1288, khi mất được nhân dân địa phương lập đền thờ. Theo nội dung tấm bia dựng vào niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 8 (1626) đời vua Lê Thần Tông, ngôi đền được xây dựng ở nơi có thắng cảnh đẹp vào hạng thứ nhất của xứ Hải Dương. Tràng Kênh - Bạch Đằng, một địa danh lịch sử từ lâu đã đi vào tiềm thức của người dân thành phố Hải Phòng như một ký ức không thể nào quên về một chiến công vĩ đại chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta cách đây trên 7 thế kỷ. Cùng với nhiều di sản mang những nội dung lịch sử văn hóa có giá trị, Tràng Kênh - vùng đất thuộc thị trấn Minh Đức, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng đã được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh năm 1962. 43
- Đền Trần Hưng Đạo nằm trong cụm di tích Tràng Kênh tại thị trấn Minh Đức huyện Thủy Nguyên thành phố Hải Phòng. Được xây dựng vào năm 2009 do công ty Xi măng Hải Phòng xây dựng và quản lý. Đền Trần Hưng Đạo được xây dựng tại núi Tràng Kênh, nơi năm xưa diễn ra trận đánh của quân dân nhà Trần chống quân Nguyên- Mông. Và nổi lên với chiến thắng lừng lẫy của dân tộc Việt đó là trận Bạch Đằng năm 1288 do Trần Hưng Đạo chỉ huy. Đền Trần Hưng Đạo thờ người anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn, người có công lớn trong hai lần kháng chiến chống quân Nguyên- Mông xâm lược. Trần Hưng Đạo tên thật là Trần Quốc Tuấn, ông sinh ngày 10 tháng 12 năm Mậu tý năm 1288, nguyên quán ở làng Tức Mạc huyện Mỹ Lộc tỉnh Nam Định. Ông là con của An Sinh Vương Trần Liễu và bà Nguyệt, là cháu ruột của vua Trần Thái Tông. Ông vốn thông minh hơn người, diện mạo tuấn kiệt. Lúc mới sinh ra có thầy tướng xem nói rằng: “Người này sau có thể giúp nước cứu đời”. Ngay từ nhỏ ông đã được giáo dục và rèn luyện toàn diện nên đã sơm trở thành người “võ công văn trí”. Sinh thời ông là tôi trung, là con hiếu, là trung tâm đoàn kết của triều đình và quân đội, là người rất mực thương dân. Đền Trần Hưng Đạo nằm trong quần thể di tích núi Tràng Kênh, bao gồm đền thờ vua Lê Đại Hành, đền thờ Đức Vương Ngô quyền, và đền thờ Trần Hưng Đạo. Đền Trần Hưng Đạo nằm trong khuôn viên hài hòa, phong thủy hữu tình lưng tựa núi Tràng Kênh mặt nhìn sông Bạch Đằng. Đình có kiến trúc kiểu chữ “Đinh”, gồm 5 gian tiền đường, 3 gian bái đường, 1 gian hậu cung và một số kiến trúc phụ khác. Cột kèo và cửa đều được tạc từ gỗ lim với trạm trổ tinh xảo mang phong cách thời Trần, ở gian chính giữa có hoành phi và câu đối sơn son thếp vàng, trên điện thờ có tượng của 4 con trai và 1 con rể của Trần Hưng Đạo là : Trần Quốc Hiến, Trần Quốc Nghiễn, Trần Quốc Tảng, Trần Quốc Úy và Phạm Ngũ Lão. Năm bức tương cao 1m 2 đều được sơn son thiếp vàng, thần thái uy nghi, hai bên là ban thờ quan văn và quan võ. Bên trong là hậu cung nơi thờ Trần Hưng Đạo, phụ thân phụ mẫu và 2 cô con gái. Trần Hưng Đạo được đặt ở giữa với thần thái uy nghi thể hiện phong thái của 1 vị tướng tài 1 đức thánh được nhân dân ca ngợi. Toàn bộ hệ thống tường bao , cổng tam quan, móng đền đều được tạc từ đá xanh nguyên khối trạm trổ tinh xảo. Ở bên ngoài cổng tam quan là 44
- 2 cây đa do thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trồng trong 1 lần về thăm đền năm 2011. Trước mặt cổng đền là bến nước có trạm trổ rồng hai bên. 2.2.7. Cụm di tích Liên Khê Nơi đây còn lưu truyền nhiều câu chuyện, huyền tích lịch sử đầy thú vị cách đây hơn 700 năm, kể từ khi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lấy Trúc Động (tên cũ của Liên Khê) làm căn cứ để tiến ra cửa sông Bạch Đằng, sông Chanh tiêu diệt và bắt sống đạo thuỷ binh của đế quốc Nguyên Mông, viết lên một trang sử hào hùng của dân tộc. Liên Khê xưa kia thuộc tổng Trúc Động, huyện Thuỷ Đường phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương. Liên Khê là vùng đất phù sa có lịch sử lâu đời, nằm trên mạch núi già của vòng cung Đông Triều. Con người đến sinh cơ lập nghiệp tại mảnh đất này từ rất sớm. Những hiện vật khảo cổ học tìm thấy dưới lòng đất Liên Khê gồm đồ gốm và đồ đá mách bảo về một nền văn minh cách đây trên 2000 năm. Thư tịch cổ cho thấy vào những năm tháng đầu công nguyên, nhân dân Liên Khê dưới sự lãnh đạo của ba anh em họ Trương, người trang Thiểm Khê đã kéo về Mê Linh (Vĩnh Phúc) theo Hai Bà Trưng đánh đuổi quân Đông Hán. Ba mặt của Liên Khê được bao bọc bởi sông Đá Bạc, sông Giá (tên cổ là Đô Lý), phía đông bắc có tám dãy núi đá cao nằm sát sông Đá Bạc, tạo thành tấm bình phong thiên nhiên kỳ vĩ. Mười quả núi đất liền nhau chạy dọc theo chiều dài của xã là chỗ dựa cho các ngôi nhà và vườn đồi bậc thang qui tụ thành những xóm thôn trù mật. Lịch sử đã đi qua mảnh đất này và để lại những nét son oanh liệt. Không những đẹp về cảnh, có lịch sử lâu đời, Liên Khê còn có vị trí chiến lược quan trọng. Các triều đại nhà Trần, nhà Mạc, nhà Nguyễn và thời Pháp thuộc đều nhận thấy điều đó và đặt đồn luỹ ở đây. Lịch sử kể rằng, trước nguy cơ bị quân dân Đại Việt tiêu diệt, Thoát Hoan viên tướng cầm đầu đạo quân viễn chinh Nguyên Mông phải tìm cách rút quân về nước. Quân Nguyên Mông chia làm hai đạo rút binh, cánh quận bộ do Thoát Hoan trực tiếp chỉ huy chạy theo đường Lạng Sơn, cánh quân thuỷ do Ô Mã Nhi cầm đầu tháo lui theo đường cửa sông Bạch Đằng. Do vị trí hiểm yếu nên Liên Khê được chọn là trận địa chốt giữ, đánh chặn không cho thuyền giặc lọt vào sông Giá. Tương truyền trận đánh này trực tiếp do Trần Quốc Tuấn chỉ huy. Ngày mồng 7 tháng 3 âm lịch (tức ngày 8-4- 1288), đoàn chiến thuyền của Ô Mã Nhi sau nhiều ngày đánh nhau liên tục với phục 45