Đề tài Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng

pdf 81 trang huongle 1270
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfde_tai_mot_so_giai_phap_nham_phat_trien_loai_hinh_du_lich_va.pdf

Nội dung text: Đề tài Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng

  1. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam là một dân tộc có bề dày lịch sử truyền thống với hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, đồng thời có truyền thống văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Những năm gần đây, vấn đề khai thác bản sắc văn hóa dân tộc trong sự phát triển du lịch đã được Đảng và Nhà nước quan tâm. Du lịch được xác định là một ngành có tầm chiến lược mang lại hiệu quả kinh tế cao trong thời kì hội nhập mở cửa hiện nay, trong đó du lịch văn hóa góp phần quan trọng vào sự phát triển du lịch nói chung. Du lịch văn hóa đang trở thành xu thế chủ đạo trong chiến lược phát triển của ngành du lịch thế giới. Trong Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII đã nêu rõ: “Phát triển du lịch tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của đất nước theo hướng du lịch văn hóa, sinh thái, môi trường; xây dựng các chương trình và các điểm hấp dẫn du lịch về văn hóa, di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh”. Trong những năm qua du lịch Hải phòng phát triển không ngừng, trong đó sản phẩm du lịch văn hóa góp một phần không nhỏ. Ngày nay, nhu cầu của con người không chỉ dừng lại ở sự giao lưu hội nhập về kinh tế mà còn có sự tiếp xúc, tìm hiểu về văn hóa, con người và phong tục tập quán giữa các quốc gia, đây chính là tiền đề cho du lịch văn hóa ngày càng phát triển. Để thỏa mãn những nhu cầu đó của khách du lịch đòi hỏi người làm công tác du lịch phải đáp ứng ngày càng lớn không chỉ bề rộng mà cả bề sâu, phải đưa ra được những sản phẩm du lịch đặc thù mang đậm đà bản sắc văn hóa Việt Nam để thu hút khách du lịch hơn nữa. Đẩy mạnh phát triển du lịch văn hóa ở Hải Phòng vừa là nhu cầu đòi hỏi khách quan vừa là mục tiêu phát triển kinh doanh du lịch góp phần phát triển kinh tế xã hội của thành phố. Tuy nhiên trong những năm vừa qua sự phát triển của du lịch văn hóa Hải Phòng chưa tương xứng với tiềm năng vốn có, còn mang tính tự phát và đơn điệu. Chủ yếu Hải Phòng mới chỉ phát triển một số điểm ở khu vực nội Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 1
  2. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng thành, khu vực ngoại thành được đánh giá là có nguồn tài nguyên du lịch nhân văn phong phú nhưng chưa được khai thác nhiều cho hoạt động du lịch. Để các tài nguyên này trở thành sản phẩm du lịch độc đáo và hấp dẫn cần có những định hướng và giải pháp cụ thể. Chính vì vậy việc nghiên cứu thực trạng khai thác du lịch văn hóa Hải Phòng, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp để du lịch văn hóa Hải Phòng thực sự trở thành loại hình du lịch hấp dẫn đối với khách du lịch là điều hết sức cần thiết đối với hoạt động du lịch của thành phố. Do đó, người viết đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng” mong được góp một phần nhỏ vào việc phát triển du lịch văn hóa của Hải Phòng. 2. Mục đích nghiên cứu Bước đầu luận giải những vấn đề về du lịch văn hóa nói chung, nghiên cứu tiềm năng và thực trạng phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm khai thác phát triển du lịch văn hóa Hải Phòng một cách hiệu quả và bền vững. 3. Tính mới, tính độc đáo và tính sáng tạo của đề tài Lần đầu điều tra thực trạng loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng một cách tổng hợp và khoa học nhất. Đặc biệt là đưa ra mối liên hệ mật thiết giữa văn hóa và du lịch nhằm khai thác các giá trị văn hóa lịch sử vào lĩnh vực kinh doanh du lịch. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các tài nguyên nhân văn trên địa bàn thành phố Hải Phòng, các giá trị văn hóa như các di tích lịch sử, lễ hội, làng nghề, văn hóa ẩm thực có thể khai thác và phát triển du lịch văn hóa. Phạm vi nghiên cứu: Thời gian: Từ năm 1990 trở lại đây Không gian: Thành phố Hải Phòng Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 2
  3. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng 5. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp khảo sát thực địa đi đến một số di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu nhằm cảm nhận một cách đầy đủ và sâu sắc hơn các giá trị của những khu di tích như Đình Hàng Kênh, Đền Nghè, khu di tích đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm - Phương pháp thống kê các số liệu và tài liệu của hoạt động du lịch văn hóa Hải Phòng. - Phương pháp phân tích tổng hợp. 6. Bố cục đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung đề tài gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận về du lịch văn hóa và tiềm năng phát triển du lịch văn hóa ở Hải Phòng. Chương 2: Yêu cầu và thực trạng khai thác du lịch văn hóa ở Hải Phòng. Chương 3: Đề xuất giải pháp khai thác du lịch văn hóa ở Hải Phòng. Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 3
  4. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VĂN HÓA VÀ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HÓA Ở HẢI PHÒNG 1.1. Lý luận về du lịch văn hóa 1.1.1. Khái niệm du lịch Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Theo C.Mac: Thước đo văn minh của một con người là sử dụng khoảng thời gian rỗi bổ ích. Do đó có thể hiểu du lịch là sử dụng thời gian rỗi của con người vào việc tham quan, giao lưu văn hóa. Dưới con mắt các nhà kinh tế, du lịch không chỉ là một hiện tượng xã hội đơn thuần mà nó phải gắn chặt với hoạt động kinh tế. Nhà kinh tế học Kalfiotis cho rằng: “Du lịch là sự di chuyển tạm thời của cá nhân hay tập thể từ nơi ở đến một nơi khác nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần, đạo đức, do đó tạo nên các hoạt động kinh tế”. Tóm lại “Du lịch” có thể được hiểu là: 1. Sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi sức khỏe, nâng cao tại chỗ nhận thức về thế giới xung quanh, có hoặc không kèm theo việc tiêu thụ một số giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hóa và dịch vụ cho các cơ sở chuyên nghiệp cung ứng. 2. Một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu nảy sinh trong quá trình di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú với mục đích phục hồi sức khỏe, nâng cao nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh. Du lịch, theo nghĩa nguyên tiếng Hán là đi chơi có lịch trình, trong đó “du” có nghĩa là rong chơi, ngao du, còn “lịch” có nghĩa là lịch trình, là sự sắp xếp về thời gian. Chính vì nội dung này nên người ta mới có thể phân biệt Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 4
  5. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng được du lịch với các hình thức rời khỏi nơi cư trú thường xuyên khác như du học, đi học xa, làm xa Du lịch là một hoạt động xuất hiện từ rất lâu đời và hình thức ban đầu của nó có lẽ là hoạt động du mục, du canh, du cư đi tìm những nguồn thức ăn trong tự nhiên của người nguyên thủy, rồi đến các hoạt động đi khai phá, tìm kiếm những vùng đất lạ của các lãnh chúa phong kiến. Người ta thường coi Christophor Columbur là người đầu tiên đi du lịch khi ông khám phá ra Châu Mỹ. Ngày nay, các loại hình du lịch ngày càng được đa dạng hóa, chuyên môn hóa để đáp ứng một cách tốt nhất, đầy đủ nhất cho nhu cầu đi du lịch của du khách. Với sự phát triển mọi mặt về đời sống kinh tế xã hội, du lịch đã trở thành một nhu cầu quan trọng của người dân nhiều nước trên thế giới. Muốn du lịch thực sự phát triển, khách du lịch ngày càng đông hơn, thì đòi hỏi phải có sự nỗ lực từ nhiều mặt của nhiều bên. Trước tiên là phải phát triển kinh tế của người dân vì kinh tế là một phần thiết yếu cấu tạo nên hành trình du lịch. Sau đó là sự quản lý của nhà nước về du lịch, sự tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng cường quảng cáo tuyên truyền, thu hút khách của nhà nước, của các hãng lữ hành. Đối với nước ta là một nước đang phát triển do vậy có thể nói một cách khách quan là điều kiện xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở đón tiếp khách, các dịch vụ bổ sung và các loại hình du lịch như là du lịch mua sắm, du lịch tiêu dùng còn hạn chế. Nhưng bên cạnh đó, nước ta có những điều kiện thuận lợi đó là tài nguyên du lịch thiên nhiên như rừng, biển của nước ta rất phong phú và có giá trị, nước ta lại có bề dày lịch sử văn hóa với nhiều công trình kiến trúc tuy không to lớn đồ sộ nhưng rất tinh tế, độc đáo, nước ta còn có rất nhiều những phong tục tập quán đặc biệt có giá trị nhân văn sâu sắc. Đó chính là những điều kiện thuận lợi để nước ta phát triển thế mạnh của mình là du lịch nghỉ dưỡng, du lịch văn hóa. Với định hướng của Đảng và Nhà nước là phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc cùng với việc đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn thì việc phát triển du lịch đặc biệt là du Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 5
  6. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng lịch văn hóa đang trở thành điểm nóng, thành sự quan tâm của nhiều người, nhiều ngành. 1.1.2. Khái niệm văn hóa Lịch sử dạy rằng văn hóa luôn luôn là một điều kiện sống còn của dân tộc. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo đã nhấn mạnh “Nước Đại Việt ta từ trước, vốn sinh nền văn hiến đã lâu” và ông khẳng định sức mạnh của nền văn hóa trong chiến tranh giải phóng đất nước “ Lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”. Lịch sử chứng minh trong những bước hiểm nghèo nhất của dân tộc, văn hóa luôn luôn là sức mạnh phát huy tiềm năng vô tận của nhân dân ta về trí tuệ, tài năng, tình cảm và ý chí Văn hóa giữ một vai trò hết sức quan trọng trên con đường phát triển và tiến bộ của các dân tộc và loài người. “Văn hóa” có rất nhiều định nghĩa khác nhau. Trong Tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức, trình độ văn hóa, lối sống (nếp sống văn hóa); theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn (văn hóa Đông Sơn) Theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao động . Hầu như không có ranh giới rõ rệt giữa văn hóa và các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội. Văn hóa thể hiện ở tác phong, thái độ khi tiếp xúc của một cá thể hay một cộng đồng khi tiếp xúc với môi trường xung quanh, như với các cá thể, cộng đồng khác, với thiên nhiên, với đồ vật, với công việc .Chính với cách hiểu rộng này, văn hóa mới là đối tượng đích thực của văn hóa học. Tuy nhiên, ngay cả với cách hiểu rộng này trên thế giới cũng có hàng trăm định nghĩa khác nhau. Ta có thể đưa ra một vài định nghĩa tiêu biểu về văn hóa như sau: Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc rất quan tâm tới vấn đề văn hóa. Người định nghĩa văn hóa theo một cách rất riêng: “ Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích sống của loài người mới sáng tạo và phát sinh ra ngôn ngữ, chữ Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 6
  7. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. UNESCO nhìn nhận “ Văn hóa” với ý nghĩa rộng rãi nhất của từ này : Đó là một phức thể - tổng thể các đặc trưng - diện mạo về tinh thần, vật chất, trí thức và tình cảm .khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm, làng, vùng miền, quốc gia, xã hội Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà cả những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng Khái niệm “Văn hóa” theo nghĩa hẹp của UNESCO: “ Văn hóa” là một tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong một cộng đồng, khiến cộng đồng ấy có đặc thù riêng. Với Tylor, lần đầu tiên văn hóa có một định nghĩa. “ Văn hóa, hiểu theo nghĩa rộng nhất của nó, là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và những khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội”. Theo PGS.TS Trần Ngọc Thêm : “ Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sang tạo ra và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội”. Như vậy, thông qua những định nghĩa tiêu biểu trên, mặc dù có những khác biệt nhất định, song hầu hết các nhà nghiên cứu về văn hóa đều thống nhất với nhau ở một điểm: văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử. 1.1.3. Du lịch văn hóa Theo Luật Du lịch ban hành ngày 01 tháng 01 năm 2006 : “Du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa vào bản sắc dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn các giá trị văn hóa”. Du lịch văn hóa được xem là tổng thể Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 7
  8. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng của du lịch – xem đó là một hiện tượng văn hóa nhằm thu hút khách ở các điểm du lịch phải mang tính văn hóa. Du lịch văn hóa dựa trên tài nguyên du lịch là các giá trị văn hóa của một quốc gia, đó là các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể. Du lịch văn hóa chủ yếu dựa vào những sản phẩm văn hóa, những lễ hội truyền thống dân tộc, kể cả những phong tục tín ngưỡng để tạo sức hút đối với khách du lịch bản địa và từ khắp nơi trên thế giới. Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển con người ngày càng có nhu cầu cao trong việc nâng cao trình độ văn hóa, trình độ hiểu biết của cá nhân. Con người dùng thời gian rỗi của mình vào việc nghỉ ngơi tinh thần một cách tích cực, có thể xem các triển lãm, tham quan các viện bảo tàng, ca hát, chơi các loại nhạc cụ đó là lí do du lịch văn hóa ngày càng phát triển. Phần lớn hoạt động du lịch văn hóa gắn liền với địa phương - nơi lưu giữ nhiều lễ hội văn hóa và cũng là nơi tồn tại đói nghèo. Khách du lịch ở các nước phát triển thường lựa chọn những lễ hội của các nước để tổ chức những chuyến du lịch nước ngoài. Bởi thế, thu hút khách du lịch tham gia du lịch văn hóa tức là tạo ra dòng chảy mới và cải thiện cuộc sống của người dân địa phương. Đã là du lịch thì du lịch văn hóa cũng mang trong đó những tính chất nhất định của du lịch, song du lịch văn hóa tất nhiên cũng phải có những nét riêng biệt của nó. Trước tiên, đó là sự đặc trưng về tài nguyên - yếu tố đầu tiên quyết định đến việc xây dựng một chương trình du lịch – tài nguyên của du lịch văn hóa đương nhiên là những đặc điểm văn hóa đặc trưng của một vùng, một quốc gia, mà đã là văn hóa đặc trưng thì đương nhiên là mỗi nơi mỗi khác, trong khi tài nguyên của các loại hình du lịch khác có thể là giống nhau, ví dụ như du lịch biển thì hầu như ở mọi nơi đều giống nhau bởi chỉ cần có bãi biển đẹp và cơ sở phục vụ tốt là có thể tiến hành du lịch biển. Việc phát triển du lịch văn hóa cũng như phát triển du lịch mang một ý nghĩa hết sức quan trọng. Nếu phát triển du lịch văn hóa thì có thể góp phần khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống tạo việc làm cho người Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 8
  9. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng dân địa phương, thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Du lịch văn hóa là một trong những lĩnh vực xuất khẩu tại chỗ có hiệu quả cao, tăng lượng ngoại tệ cho đất nước. Ngoài lợi ích về mặt kinh tế, du lịch văn hóa còn mang lại cho quốc gia, cho vùng và cho nhà kinh doanh du lịch rất nhiều lợi ích mà không phải bất cứ loại hình du lịch nào hay ngành nghề nào cũng có thể mang lại được đó là việc nâng cao hiệu quả về mặt xã hội. Chỉ có du lịch văn hóa mới có thể nâng cao cái “chất” trong du lịch, nâng cao nét đẹp, giữ gìn tính văn hóa đối với cả du khách cũng như đối với cư dân địa phương hay với nhà kinh doanh du lịch. Chính vì thế, qua du lịch văn hóa, Nhà nước có thể điều chỉnh và giữ gìn, phát huy một cách tốt nhất nền văn hóa riêng của quốc gia mình. Du lịch là phương tiện, là cơ hội để văn hóa khẳng định tính độc lập của nó là được hòa nhập, nâng cao và phát triển. Phát triển du lịch văn hóa góp phần mở rộng, củng cố mối quan hệ quốc tế, tăng cường tình đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc, đồng thời giúp các quốc gia giảm bớt sức ép của các trung tâm đô thị. Sự phát triển của du lịch văn hóa đã góp phần khai thác các di sản văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường tự nhiên và xã hội, đồng thời cũng là nơi tạo ra nguồn kinh phí tốt nhất để bổ sung, bảo vệ, phát triển các di sản văn hóa thực hiện phát triển du lịch bền vững. Do vị trí quan trọng và ý nghĩa nhiều mặt về kinh tế xã hội mà Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương phát triển du lịch tương xứng tiềm năng du lịch to lớn của đất nước, đặc biệt là tiềm năng du lịch văn hóa theo hướng du lịch - văn hóa – sinh thái – môi trường, xây dựng các chương trình du lịch, các điểm du lịch, khu du lịch hấp dẫn về văn hóa, về di tích lịch sử và các danh lam thắng cảnh, huy động các nguồn lực tham gia kinh doanh du lịch ưu tiên xây dựng kết cấu hạ tầng ở các khu du lịch tập trung và ở các trung tâm lớn. Với tiềm năng to lớn về du lịch văn hóa như vậy, song trên thực tế ta vẫn chưa khai thác một cách thích đáng thể loại này mà chỉ dừng lại ở những chương trình du lịch còn hạn chế về số lượng, thiếu hoàn hảo về chất lượng. Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 9
  10. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng Đồng thời việc bảo tồn và tái tạo còn là vấn đề vô cùng bức xúc, làm ảnh hưởng không nhỏ đến nền văn hóa quốc gia, mặc dù gần đây các chương trình du lịch lễ hội đang được triển khai với quy mô và chất lượng khá tốt. 1.1.4. Mối quan hệ giữa văn hóa và du lịch Du lịch và văn hóa có mối quan hệ mật thiết với nhau, du lịch tác động tích cực tới văn hóa đồng thời cũng có những tác động tiêu cực. Mặt khác văn hóa cũng có những tác động tích cực và tiêu cực đến du lịch. Du lịch muốn phát triển phải dựa vào tài nguyên du lịch trong đó tài nguyên nhân văn đóng vai trò quan trọng. Nền văn hóa càng phong phú càng có điều kiện thu hút du khách đến thăm quan du lịch. Nói về mối quan hệ giữa văn hóa và du lịch, giáo sư Hoàng Chương đã nói: “Văn hóa là hồn của du lịch, du lịch chỉ là một cái xác, nếu không có hồn không tồn tại được”. Hay nói cách khác du lịch và văn hóa có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ, bổ sung cho nhau, không thể tách rời: văn hóa là nguồn tài nguyên nhân văn quan trọng để phát triển du lịch bền vững, đồng thời phát triển du lịch góp phần bảo vệ, phát huy văn hóa dân tộc, giao lưu văn hóa. Các đối tượng văn hóa được coi là tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn. Nếu như tài nguyên thiên nhiên hấp dẫn du khách bởi sự hoang sơ, độc đáo và hiếm hoi của nó thì tài nguyên du lịch nhân văn thu hút khách bởi tính phong phú, đa dạng, độc đáo và tính truyền thống cũng như tính địa phương của nó. Các đối tượng văn hóa – tài nguyên du lịch nhân văn – là cơ sở để tạo nên các loại hình du lịch văn hóa phong phú. Mặt khác, nhận thức văn hóa còn là yếu tố thúc đẩy động cơ du lịch của du khách. Như vậy xét dưới góc độ thị trường thì văn hóa vừa là yếu tố cung vừa góp phần hình thành yếu tố cầu của hệ thống du lịch. Nhờ có văn hóa truyền thống mà du lịch có thêm những sản phẩm du lịch hết sức độc đáo. Đồng thời du lịch Việt Nam hiện nay xét về bản chất là du lịch văn hóa, do vậy cần biết khai thác sử dụng các giá trị của văn hóa truyền thống để phát triển du lịch. Đây là một tiềm năng vô cùng to lớn và là Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 10
  11. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng một thế mạnh của du lịch Việt Nam vì không có một nước nào có nhiều lễ hội cổ truyền như người Việt, không có một nước nào mang dấu ấn bản sắc sâu sắc như lễ hội Việt Nam. Bên cạnh những mặt tích cực cũng có những mặt hạn chế. Một trong những chức năng của du lịch là giao lưu văn hóa giữa các cộng đồng. Khi đi du lịch, du khách luôn muốn được thâm nhập vào các hoạt động văn hóa của địa phương, song nhiều khi sự thâm nhập với mục đích chính đáng bị lạm dụng và sự thâm nhập biến thành sự xâm hại. Ai đến Sa Pa cũng muốn được đi chợ tình , song chợ tình Sa Pa, một nét sinh hoạt văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc đang bị những du khách tò mò, ít văn hóa xâm hại bằng những cử chỉ thô bạo như rọi đèn vào cặp tình nhân, lật nón các thanh nữ để xem mặt, trêu ghẹo Mặt khác, để thỏa mãn nhu cầu của du khách, vì lợi ích kinh tế to lớn trước mắt nên các hoạt động văn hóa truyền thống được trình diễn một cách thiếu tự nhiên, thiếu chuyên nghiệp, hoặc mang ra làm trò cười cho du khách. Nhiều trường hợp, do thiếu hiểu biết về nguồn gốc, ý nghĩa của các hành vi lễ hội, người ta giải thích một cách sai lệch hoặc thậm chí bậy bạ. Giá trị truyền thống bị lu mờ dần do sự lạm dụng vì mục đích kinh tế. Do chạy theo số lượng, không ít mặt hàng truyền thống làm hàng lưu niệm cho du khách sản xuất cẩu thả đã làm méo mó giá trị chân thực của truyền thống, làm sai lệch hình ảnh của một nền văn hóa bản địa. “Nghệ thuật sân bay” là thuật ngữ để chỉ cho hiện tượng trên. Một trong những xu hướng thường thấy là người dân bản xứ nhất là giới trẻ ngày càng chối bỏ truyền thống và thay đổi cách sống theo mốt du khách. Đó chỉ là những nét điển hình nhất trong mối quan hệ giữa du lịch và văn hóa, vì tương lai phát triển du lịch lâu bền, ngành du lịch nói chung, người làm du lịch nói riêng phải biết tận dụng khai thác phát huy những mặt tích cực, đồng thời ngăn chặn đẩy lùi và khắc phục những mặt tiêu cực để xây dựng những sản phẩm du lịch văn hóa độc đáo thu hút khách du lịch. Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 11
  12. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng 1.2. Tiềm năng phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng 1.2.1. Tiềm năng các tài nguyên văn hóa vật thể phát triển du lịch Hải phòng là mảnh đất giàu truyền thống lịch sử văn hóa. Là nơi được thiên nhiên ưu đãi, có lịch sử lâu đời gắn liền với sự thăng trầm của lịch sử dân tộc, cho nên có những loại hình văn hóa vật chất, tinh thần khá phong phú và độc đáo. Với mật độ các di tích dày đặc, có 542 di tích các loại, trong đó có 96 di tích cấp quốc gia và trên 100 di tích được xếp hạng cấp thành phố, chủ yếu là đình, chùa, miếu mạo, nhà thờ, các công trình kiến trúc và một số di tích khác như di chỉ khảo cổ Trên địa bàn tỉnh Hải Phòng có rất nhiều di tích lịch sử văn hóa, đặc biệt trong đó có những di tích đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Số lƣợng và phân bổ các di tích ở Hải Phòng Số lượng di Công nhận Quận / Huyện Diện tích tích Quốc gia Thành phố Hồng Bàng 15,2 18 2 9 Ngô Quyền 10,9 21 3 4 Lê Chân 12,5 16 8 2 Hải An 88,4 91 11 5 Kiến An 26,7 38 2 7 An Dương 125,5 103 10 4 Thủy Nguyên 242,7 136 23 18 Tiên Lãng 168 49 4 13 Vĩnh Bảo 181,1 172 16 16 An Lão 110,8 83 3 21 Kiến Thụy 159,5 56 14 16 Đồ Sơn 39,5 15 0 6 Cát Hải 322,3 32 0 6 Bạch Long Vĩ 4,5 0 0 0 Tổng 1507,6 830 96 127 (Nguồn: Sở Du lịch Hải Phòng) Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 12
  13. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng Phần lớn các di tích ở Hải Phòng đều gắn liền với các lễ hội đặc sắc. Nơi có mật độ di tích lịch sử văn hóa dầy đặc nhất là khu vực nội thành Hải Phòng với nhiều di tích độc đáo như Nhà hát lớn thành phố, Quán hoa, Bảo tàng thành phố, đền Nghè, đình Hàng Kênh, chùa Dư Hàng, bến tàu không số, đền Bà Đế Ngoài ra các di tích lịch sử văn hóa ở Hải Phòng còn tập trung nhiều ở các huyện ngoại thành như Vĩnh Bảo – quê hương của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, huyện Kiến Thụy với quần thể Dương Kinh nhà Mạc, huyện An Lão với danh thắng Núi Voi, huyện Thủy Nguyên với sông Bạch Đằng lịch sử Các di tích này không chỉ có giá trị về mặt lịch sử mà còn cả về mặt kiến trúc nghệ thuật, văn hóa Phật giáo phương Đông nên nó đã hướng người dân về gốc rễ cội nguồn, các giá trị văn hóa được bảo vệ, bản sắc dân tộc được giữ gìn. Từ đó các di tích tạo thành điểm du lịch văn hóa hấp du khách, đặc biệt nhiều di tích nằm ngay trong các khu vực danh thắng, hoặc bản thân di tích cũng là một danh thắng nên càng hấp dẫn du khách hơn. Ví dụ Hang Vua, Núi Voi, đền Trần Quốc Bảo đang là những điểm du lịch thu hút nhiều du khách. Các di tích xếp hạng quốc gia được phân bố ở khu danh thắng có ý nghĩa du lịch rất to lớn. Một số di tích tuy không được xếp hạng quốc gia, song dưới góc độ du lịch lại rất hấp dẫn du khách, ví dụ đền Bà Đế, đền Thần Hải Đại Vương (Đồ Sơn). Ngoài ra, Hải Phòng được hình thành trên miền đất cổ, có nền tảng văn hóa xã hội lâu đời. Trên đất Hải Phòng các nhà khảo cổ đã phát hiện ra 3 di chỉ khảo cổ tiêu biểu xuyên suốt thời tiền sử chứng minh sự có mặt liên tục của người Việt cổ ở đây. Di chỉ Cái Bèo (Cát Hải) thuộc nền văn hóa tiền Hạ Long, cách ngày nay khoảng 6000 năm. Di chỉ Tràng Kênh (thị trấn Minh Đức – Thủy Nguyên) thuộc văn hóa Phùng Nguyên, cách ngày nay khoảng 3000 năm. Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 13
  14. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng Di chỉ Việt Khê (Thủy Nguyên) và Núi Voi (An Lão) thuộc văn hóa Đông Sơn, cáh ngày nay khoảng 2000 năm. Có thể khẳng định tài nguyên du lịch văn hóa vật thể ở Hải Phòng rất đa dạng, đặc sắc và có giá trị văn hóa, lịch sử cao, có ý nghĩa du lịch to lớn có thể khai thác trở thành sản phẩm du lịch văn hóa. Trong phạm vi bài viết xin giới thiệu một số di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu. Đình Hàng Kênh Đình Hàng Kênh (tên chữ là Nhân Thọ đình), nằm trên đường Nguyễn Công Trứ phường Hàng Kênh, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng. Theo bia ký còn lưu giữ tại di tích, đình Hàng Kênh ngày nay khởi dựng vào năm 1719, đời vua Lê Dụ Tông và được trùng tạo từ năm 1841 đến 1850. Nằm cách trung tâm thành phố Hải Phòng 2km về phía Đông, đình Hàng Kênh được coi là công trình kiến trúc mang đầy đủ dáng dấp và phong cách nghệ thuật của một ngôi đình cổ Việt Nam. Ngoài vẻ đẹp về kiến trúc, đình Hàng Kênh còn có giá trị về điêu khắc. Những mảng chạm khắc rồng, mây, hoa lá cách điệu nổi trên mặt các tấm ván, dưới chân các chấn song như thách thức cùng thời gian. Gian chính của đình có cửa võng sơn son thiếp vàng được chạm thủng cân xứng. Cửa võng này giống như một bức tranh điêu khắc sống động có hình ảnh lưỡng long chầu nguyệt, đôi chim phượng xoè cánh, ngựa qua sông, rùa sải chân cùng hồ nước hoa sen. Trong đình có hơn 100 mảng chạm khắc mà hình tượng con rồng - một trong "tứ linh" của người Việt là đề tài chủ yếu. Nét độc đáo là 308 con rồng trong các mảng chạm khắc mỗi con một vẻ, mỗi tư thế khác nhau và được tạc theo từng ổ, rồng mẹ rồng con quấn quýt bên nhau giữa cỏ cây hoa lá. Hiếm có nơi nào các nghệ nhân lại dùng lối "bong hình" hay "chạm lộng" để chạm khắc như nơi đây. Hơn ba thế kỷ đã trôi qua, nhưng đình Hàng Kênh vẫn còn nguyên vẹn nét cổ xưa: mái đình cong cong, cây đa cổ thụ nghiêng mình dưới làn nước trong xanh của hồ bán nguyệt. Đặc biệt là lễ hội tưởng niệm người anh hùng Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 14
  15. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng dân tộc Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng vào năm 938 vẫn được duy trì từ thế kỷ 17 tới nay. Đây là điểm du lịch thu hút đông đảo du khách thập phương. Đình Hàng Kênh là di tích đặc biệt, tiêu biểu của Thành phố Hải Phòng, được Nhà nước xếp hạng năm 1962. Đền Bà Đế Tương truyền rằng vào năm 1718 ở phía Đông Nam vụng Ngọc Đồ Sơn có đôi vợ chồng họ Đào, suốt 20 năm hiếm con, làm ăn tu tâm tích đức cầu xin Trời Phật ứng độ cho một người con. Trời Phật chứng giám đã báo mộng cho người vợ được mang thai. Tròn ngày tròn tháng của đất trời Đế Bà ra đời, người bà có mùi hương thơm ngát. Bà được đặt tên là Đào Thị Hương. Tuổi trưởng thành sắc đẹp của bà nổi tiếng khắp vùng. Câu đối trong Đền thờ bà đã ca ngợi: Bẩm sinh quốc sắc thiên hương tiên nữ uy dung chân thể phách Cố hữu băng cơ Ngọc cốt Đế Bà nghi biểu hạo tinh anh Bà rất khéo tay, siêng năng mọi việc. Hàng ngày bà thường xuống vụng Ngọc chăn trâu cắt cỏ. Bà tay cầm liềm miệng hát rằng: Tay cầm bán nguyệt xênh xang Bao nhiêu thảo mộc lai hàng tay ta Tiếng hát ngân vang cả núi rừng, người ta nói rằng mỗi lần nàng cất giọng hát chim như ngừng hót, sóng ngừng vỗ và đất trời như lặng đi để thắm đượm hết tiếng hát của nàng. Cứ thế giọng hát của nàng hòa quyện vào đất trời, sông núi khiến mọi ngư dân trong vùng quên đi mọi nhọc nhằn vất vả, an lòng, vững tâm, vui vẻ. Vào năm 1736 Chúa Trịnh Doanh về kinh lý Đồ Sơn. Chúa cùng đoàn quân dạo cảnh bằng thuyền rồng trên biển vùng núi Độc, Chúa nghe tiếng hát truyền lệnh cho quân lính đi tìm người hát, gặp Bà Chúa mang lòng thương mến. Chúa quyến luyến bên Bà suốt cả tháng không rời xa. Khi Chúa về kinh có hẹn Bà chờ đợi ít ngày, Chúa sẽ đem thuyền hoa quý rước Bà lên kinh. Từ đó Bà mang thai, trong lòng rất lo sợ với làng xóm. Ngày đêm Bà trông Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 15
  16. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng ngóng thuyền hoa của Chúa. Hàng Tổng biết chuyện đòi ăn khoán phạt tiền, vì nghèo khó không có tiền phạt, họ Đào đem Bà xuống biển khu vực núi Độc dìm xuống biển. Biết sẽ chết, nước mắt oan ức, Bà ngửa mặt lên trời khóc than rằng: “Phận gái thân cô, gặp Chúa yêu thương tôi đâu dám chống, nghĩa cha mẹ họ hàng tôi đâu dám quên. Xin trời Phật chứng giám cho lòng con! Khi con bị dìm xuống nước, nếu con có oan ức Trời Phật cho con nổi lên ba lần, họ hàng hãy cho con được sống, nếu con dối trá thân này sẽ chìm xuống để làm gương cho đời”. Quả nhiên Bà nổi lên ba lần, mọi người ai nấy đều kinh sợ, họ Đào cùng bọn cường hào, ác bá lấy dây thừng cối đá thủng buộc vào bụng Bà quấn vào cây sào cắm xuống biển. Họ, hàng Tổng ra về cũng là lúc sóng to gió lớn, nước dâng lên vỗ vào chân núi Độc, có một cái hang to, dây thừng cối đá, cây sào trôi vào miệng hang. Đêm đêm trên bãi đá hầu, hồn Bà linh thiêng hiện về trừng trị những kẻ đã giết Bà, đã gây nên nhiều tội ác với người dân lương thiện. Thấy sự linh thiêng nên lập ngay Đền thờ có dây thừng, cối đá thủng, hàng năm họ Bà phải nhuộm lại dây thừng một lần. Lời Bà nguyền khi nào dây mục đá tan mới hết hận thù này. Sau một tháng thuyền hoa của Chúa về rước Bà. Khi ấy oan nghiệp tăng lên gấp bội. Thân Mẫu Bà vì quá thương con nên cũng mất theo. Biết chuyện, Chúa Trịnh Doanh truyền Hàng Tổng xây đền lập đàn giải oan Đế Bà. Đền Bà được vua Tự Đức về thăm ban sắc trọng phong cho Đế Bà là: “ ĐÔNG NHẠC ĐẾ BÀ TRỊNH CHÚA PHU NHÂN”. Người đời sau thương tiếc và khâm phục lòng thủy chung của Bà. Nhiều danh nhân sau này đã để lại bút tích trong ngôi Đền thờ Bà. Nhất phiến băng tâm thiên địa bạch Kính thành nhĩ tự quỷ thần tri Đế Bà hương hỏa thiên thu tại Trịnh Chúa xe loan kiệu tích truyền Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 16
  17. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng Tạm dịch: Lòng sạch như băng trời đất biết Nỗi niềm thành kính quỷ thần hay Đế Bà hương lửa, nghìn thu ấy Trịnh Chúa xa loan chuyện để đời Thời gian trôi qua cối đá dây thừng đã mất, hồn Bà thanh thản linh thiêng ứng nghiệm ban điều lành cho những người thiện tâm ở bốn phương về làm lễ cầu xin đúng như ý nguyện. Hàng năm sau tết Nguyên Đán, người Hải Phòng, người Hà Nội và nhiều miền quê trên cả nước tấp nập, nhộn nhịp đi Đền Bà Đế. Người ta đến để xin tài, xin lộc và đặc biệt đến để xin được giải mọi nỗi oan khuất mà mình và gia đình phải gánh chịu nếu có. Khách thập phương tới đây mỗi ngày một đông và không hẳn chỉ vào mùa xuân, người ta đến đền quanh năm. Người ta đến đền còn là để chia sẻ và đồng cảm với thân phận một người con gái xinh đẹp, hiền thảo, thủy chung mà phải chịu bất hạnh nơi vùng đất có ba con sông đổ ra biển. Đền Bà Đế lấy ngày khai xuân cúng cơm Đức Bà vào ngày 26 tháng Giêng âm lịch và lễ tạ Đức Bà vào ngày 24, 25, 26 tháng 2 âm lịch. Tháp Tƣờng Long Khu du lịch Đồ Sơn, Hải Phòng nổi tiếng với những bãi tắm lý tưởng và phong cảnh hữu tình. Nhưng ít người biết rằng trên đỉnh Long Sơn (phường Ngọc Xuyên), ngọn núi đầu tiên trong 9 ngọn chạy dọc bán đảo Đồ Sơn còn có một di tích văn hóa lịch sử với cả nghìn năm tuổi - đó là tháp TườngLong. Tháp Tường Long (còn gọi là tháp Đồ Sơn) xây thời Lý Thánh Tông. Công trình kiến trúc Phật giáo này đuợc xây trên bãi đất rộng khoảng 2.000m2, thuộc địa phận phường Vạn Sơn, thị xã Đồ Sơn. Bốn góc tháp đều nghiêng vào tâm 190. Lòng tháp rỗng và là nơi đặt pho tuợng A di đà. Công trình đuợc xây bằng gạch và đá có kích thuớc khác Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 17
  18. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng nhau. Ngoài loại gạch xây, còn có loại gạch ốp ngoài vỏ tháp với nghệ thuật trang trí độc đáo như hoa sen, hoa cúc, hoa chanh. Cách trang trí này biểu hiện nghệ thuật điển hình thời Lý. Theo sách "Đại Việt sử lược" thì năm Mậu Tuất 1058, vua Lý Thánh Tông sau khi ngự giá qua biển Ba Lộ đã dừng chân ghé lại nơi đây xây tháp. Sau ngài nằm mộng thấy rồng vàng bèn ban cho ngọn tháp cái tên Tường Long, nghĩa là "Thấy rồng vàng hiện lên" để ghi nhớ điềm lành. Lại có người cho rằng cửa biển Đồ Sơn là một trong những cái nôi tiếp nhận cho dựng tháp ở đây để thờ Phật. Khi xưa, có thể nơi đây còn là một đài quan sát nằm trong hệ thống "truyền đăng". Mỗi khi có biến, các trạm quan sát ven biển liền đốt cỏ khô cho khói bay lên trời, truyền tín hiệu báo động về kinh thành. Qua những di vật còn lại thì thấy rằng tháp Tường Long được xây cùng thời với tháp Báo Thiên ở kinh thành Thăng Long (nay là khu vực Nhà hát lớn Hà Nội). Theo “Đại Nam nhất thống chí", tháp cũ Đồ Sơn cao 100 thước, dựng trên một khu đất rộng 1000m2, có 9 tầng, cửa mở ra hướng tây. Một thước ta dài 0,45m, như vậy tháp cao khoảng 45m, lại đặt trên ngọn núi cách mặt biển 100m nên ngọn tháp này thuộc loại cao nhất so với các tháp ở Việt Nam thời bấy giờ. Tháp Tường Long nhiều lần được tu tạo và khôi phục trong triều Trần và triều Lê, nhưng đến năm Gia Long thứ 3 (1804), triều đình nhà Nguyễn đã cho phá tháp để lấy gạch xây thành Hải Dương. Điều này chứng tỏ tháp Tường Long xưa vô cùng qui mô, bề thế. Từ vị trí tháp Tường Long có thể thấy biển với những con tàu ra khơi vào lộng, thấy thị xã Đồ Sơn cùng làng mạc, đồng ruộng xanh tươi, lại hiểu người xưa sao khéo chọn địa điểm xây tháp. Mong sao tháp Tường Long sớm được xếp hạng, bảo tồn, tôn tạo để du khách có dịp chiêm ngưỡng một công trình giá trị nhiều mặt về kiến trúc, điêu khắc tôn giáo và văn hóa của thế kỷ XI. Đền Nghè Đền Nghè toạ lạc ở ngã ba phố Mê Linh và phố Lê chân, Hải Phòng. Đền thờ Nữ tướng Lê Chân - người có công xây dựng An Biên trang (Hải Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 18
  19. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng Phòng ngày nay), và cùng với Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa chống giặc xâm lược. Ngôi đền xinh xắn với qui mô vừa phải nhưng từ lâu đã trở thành một trong số những di tích lịch sử và danh thắng nổi tiếng của địa phương. Tương truyền rằng bà sống khôn chết thiêng. Khi bà gieo mình xuống sông thì hoá đá trôi trên mặt sông Kinh Thầy. Từ đoạn sông vùng Đông Triều quê cũ của bà đến bến Đá (nay là bến Bính) thì bập bồng xoay tròn trên mặt nước. Nhân dân làng An Biên biết bà đã hiển thánh, liền rủ nhau mang đòn, chão ra sông vớt và khiêng đá thiêng về. Khiêng đến khu vực Đền Nghè hiện nay thì trời bỗng nổi cơn giông gió, chão đứt. Dân làng bèn chọn khu đá rơi ấy để dựng đền thờ bà. Lúc đầu, đền thờ chỉ là một gian miếu nhỏ, mái lợp gianh. Năm 1919, đền Nghè mới được xây dựng khang trang như hiện nay. Đền Nghè mang phong cách kiến trúc thời nhà Nguyễn, gồm có hậu cung, nhà thiêu hương, tả vu, hữu vu, nhà bái đường Đây là một tổng thể không gian khép kín, phong cách cổ truyền độc đáo, hài hoà. Từ cổng đi vào, bên hữu là nhà bia được xây và trang trí theo kiểu dáng long đình. Chính giữa đặt tấm bia đá cao 1,5m, rộng 0,85m ghi tiểu sử của bà Lê Chân bằng chữ Hán. Đền có 2 nhà chính - Tiền tế và Hậu cung. Nóc nhà Tiền tế nổi bật hàng chữ Hán lớn "An Biên cổ miếu". Giữa Tiền tế và Hậu cung là nhà Thiên Hương 2 tầng, mái tâm đầu đao. Trong toà hậu cung đặt tượng bà Lê Chân, hai bên thờ song thân bà. Năm 1919, toà Hậu cung của Đền được xây dựng. Năm 1926, toà Tiền bái được xây dựng. Nhà Tiền bái 5 gian được đỡ bởi 16 cột gỗ lim hình vuông đặt trên 16 đế đá vuông. Nhà Hậu cung có hai tầng mái cao hơn nhà Tiền bái, có ba gian cũng được đỡ bởi 16 cột gỗ lim hình trụ, trên 16 đế đá hình trụ. Các đế được trang trí bằng khắc hình lá đề. Trên 100 các mảng chạm theo lối "bong hình" rất điêu luyện mang tính truyền thống của nhiều thế kỷ trước. Đến thăm Đền Nghè, quí khách thường chú ý đến 2 vật tích độc đáo - đó là Khánh đá và Sập đá. Khánh làm bằng một tấm đá nguyên dày 5cm được Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 19
  20. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng tách ra thành hình chiếc khánh (có chiều cao 1m, rộng 1,6m). Mặt trước khánh khắc nổi 2 con rồng chầu mặt nguyệt và hình mây bay xung quanh. Mặt sau khánh khắc hình mây bay và sóng nước, cả hai mặt có 2 núm tròn, lồi cao là chỗ để gõ. Tiếng khánh đá trong ngân vang êm dịu, lan tỏa, hướng ta tới cõi tâm linh huyền ảo mà thiêng liêng. Khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Khu di tích Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm được xây dựng tại thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Khu di tích gồm 9 điểm tham quan: Tháp bút Kình Thiên, đền thờ Trạng trình, Nhà trưng bày, phần mộ thân sinh Trạng trình, Am Bạch Vân, tượng Trạng trình, Hồ bán nguyệt, chùa Song Mai, Nhà Tổ của chùa có tượng thờ bà Minh Nguyệt, Bia và Quán Trung Tân. Tất cả rộng 4 ha từ Đền ra đến bờ sông Hàn. Tháp bút Kình Thiên tương truyền là do học trò tạo dựng để ca ngợi tài năng của Trạng trình như trụ cột chống trời. Ngôi Đền lập trên nền nhà cũ của Trạng trình từ 1586. Qua thời gian, chiến tranh, đền bị hủy hoại, đã nhiều lần xây lại, trùng tu, đến nay Đền có 3 gian tiền đường, 2 gian hậu cung. Phía trước 2 bên Đền có 2 hồ tròn và vuông tượng trưng cho trời và đất. Trong Đền có thờ tượng Trạng trình với y phục triều chính. Bức hoành phi đại tự ở chính giữa có 4 chữ "An Nam lý học" từ câu "An Nam lý học hữu trình tuyền" có nghĩa là am hiểu về lý học ở nước An Nam có Trình tuyền hầu (tước vị của Nguyễn Bỉnh Khiêm), do Chu Xán, sứ giả nhà Thanh (Trung Quốc) đề tặng. Đặc biệt có một số câu đối nói rõ chính kiến của ông về thế sự và hậu thế ca ngợi công đức của ông. Nhà trưng bày giới thiệu thân thế sự nghiệp, những đóng góp của ông trong văn chương, triết học, giáo huấn và sự tôn vinh của hậu thế. Đáng chú ý có cuốn Bạch vân thi tập. Tượng đài Trạng trình cao 5,7m, nặng 8,5 tấn bằng chất liệu đá Gra-nít đúc. Tượng trong tư thế ngồi, tay cầm sách trầm tư suy nghĩ về nhân tình thế thái. Y phục của tượng là y phục nhà nho sống giản dị gần dân. Hồ bán Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 20
  21. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng nguyệt rộng khoảng 1000m2. Phần mộ cụ thân sinh Trạng trình không xa Đền. Ba công trình này mới được tạo dựng trong dịp kỷ niệm 415 năm ngày mất của Trạng trình. Chùa Song Mai, tương truyền là chùa mà Nguyễn Bỉnh Khiêm thường đến lễ và đã từng trả lời sứ giả Chúa Trịnh "Giữ chùa, thờ Phật thì được ăn oản" (ý nói không nên thoán đoạt ngôi Vua nhà Lê). Bên cạnh chùa là nhà Tổ có tượng thờ bà Minh Nguyệt, vợ của Trạng trình, người Đồ Sơn, có công cùng danh nhân lập nên chùa này. Am Bạch Vân: Sau khi làm quan trong triều được 8 năm, ông dâng sớ vạch tội 18 quan tham. Vua Mạc không nghe, ông bèn cáo quan về quê mở trường dạy học, bỏ tiền dựng Am Bạch Vân. Nhiều học giả xưa nay coi Am Bạch Vân là trường đại học tư thục lớn nhất và tiên tiến của đất nước đương thời. Cuối cùng là Quán Trung Tân. Trung là ở giữa, Tân là bến. Bến Giữa ý muốn nói không tả, không hữu, hành sự phải cho đúng sẽ thành công. Bia đá cao 1,5m, nặng 4 tấn được trùng khắc hoàn thành ngày 21/12/2000 do Tổng cục Du lịch Việt Nam cung tiến. Nội dung bia giải thích chí trung là chí thiện, toát lên quan niệm sống chủ đạo của Trạng trình là "Thiện". 1.2.2. Tiềm năng các tài nguyên văn hóa phi vật thể phát triển du lịch Tài nguyên văn hóa phi vật thể bao gồm các lễ hội, làng nghề truyền thống, văn hóa ẩm thực. 1.2.2.1. Tài nguyên du lịch lễ hội Theo kết quả điều tra, toàn thành phố có 123 nơi có lễ hội truyền thống bao gồm lễ hội cấp quốc gia ( do Bộ VH-TT cấp giấy phép): Hải Phòng có lễ hội chọi trâu Đồ Sơn (năm 2000 được Tổng cục Du lịch đề nghị đưa vào một trong 15 lễ hội chương trình lễ hội du lịch quốc gia); lễ hội cấp vùng (do Ủy ban nhân dân tỉnh cấp giấy phép): Hải Phòng có hội Núi Voi (An Lão), hội Làng Cá (Cát Hải), đền Phú Xá (Đông Hải), hội Đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (Vĩnh Bảo), lễ hội cấp cơ sở (do huyện cấp giấy phép). Lễ hội ở Hải Phòng có nội dung, hình thức sinh hoạt rất độc đáo nên đã thu hút được nhiều du khách trong và ngoài nước tham gia, nhất là lễ hội gắn Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 21
  22. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng với di tích lịch sử văn hóa hoặc danh thắng. Ví dụ lễ hội chọi trâu rất độc đáo vừa mang tính tryền thuyết tâm linh vừa mang tính dân gian, một số lễ hội mang sắc thái riêng như hội xuống nước (Cát Hải); hội hát Đúm (Thủy Nguyên); hội pháo đất, hội đình Nhân Mục, hội làng Bảo Hà (Vĩnh Bảo); hội Minh Thề đền chùa Hòa Liễu Nét chung của văn hóa lễ hội là loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian – tâm linh của cộng đồng dân cư mang bản sắc truyền thống (văn hóa làng). Thông qua những hoạt động lễ hội, người dân được thỏa mãn nhu cầu tâm linh hướng về cội nguồn tổ tiên của mình và sau đó là thỏa mãn nhu cầu văn hóa, giao lưu, giải trí Các yếu tố tâm linh thường gắn với di tích chùa, đình, đền, miếu với những nghi thức rước tế mang tính nghi lễ, sau đó phần còn lại chủ yếu và cơ bản là các sinh hoạt hội hè. Do vậy, các lễ hội tryền thống là tiềm năng du lịch rất quan trọng. Các lễ hội Hải Phòng thuộc về cộng đồng (hội làng, hội nghề, hội tín ngưỡng) biểu hiện sức mạnh cộng đồng và sự cố kết cộng đồng. Lễ hội truyền thống đã cuốn hút mọi tầng lớp tham gia góp phần tạo giá trị hấp dẫn trong khai thác du lịch. Lễ hội truyền thống, văn hóa dân gian ở hải Phòng là loại hình văn hóa phi vật thể, bản chất của nó bắt nguồn từ cuộc sống, được sáng tạo và phát huy qua các thế hệ của cộng đồng làng xã (tiêu biểu cho dòng văn hóa dân gian như thả đèn trời, chơi pháo đất, hát đúm, ca trù ) đã tạo nên diện mạo, sắc thái đặc trưng tiêu biểu cho vùng đất Hải Phòng. Cần phải quan tâm đến bảo tồn và phát huy giá trị nội dung, nghệ thuật truyền thống của các lễ hội để khai thác và phát triển du lịch. Thời gian tổ chức lễ hội thường tập trung chủ yếu vào mùa xuân và mùa thu, ứng với thời kỳ nông nhàn của cư dân có truyền thống làm lúa nước, đó là đặc trưng lễ hội của vùng đồng bằng sông Hồng nên rất thuận lợi cho du khách đến với lễ hội. Các lễ hội Hải Phòng nhìn chung rất độc đáo, đặc sắc. Tuy nhiên hiện nay nhiều lễ hội đã bị mai một và dần đi vào quên lãng. Đặc biệt là các lễ hội Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 22
  23. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng gắn với các chiến thắng giặc ngoại xâm, một vài lễ hội dân gian độc đáo như hội làng Phục Lễ là ngày hội của phái đẹp Do vậy cần đầu tư khôi phục và phát huy những giá trị của văn hóa lễ hội để phát triển thành sản phẩm du lịch. Nơi diễn ra lễ hội thường gắn liền với các di tích lịch sử văn hóa, các thắng cảnh nổi tiếng, có giao thông thuận lợi, đây là một lợi thế lớn để Hải Phòng phát triển các loại hình du lịch đặc biệt là du lịch văn hóa. Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn Dù ai buôn đâu bán đâu Mùng chín tháng tám chọi trâu thì về Dù ai buôn bán trăm nghề Mùng chín tháng tám thì về chọi trâu Không biết từ bao giờ, câu ca mộc mạc trên đã trở thành tiếng gọi của quê hương, nhắc nhở người Đồ Sơn nhớ về nơi “chôn rau cắt rốn”. Nơi có lễ hội truyền thống “độc nhất vô nhị” tại Việt Nam. Đó là Lễ hội chọi trâu được tổ chức hằng năm tại quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng. Năm 2005, Tổng cục Du lịch, Bộ văn hóa thông tin đã đề nghị Chính phủ công nhận là lễ hội trọng điểm cấp quốc gia, coi đây là lễ hội mang đậm đà bản sắc dân tộc với nét đẹp văn hóa - tâm linh - thượng võ của người dân vùng biển. Lễ hội chọi trâu có nhiều truyền thuyết, mỗi truyền thuyết đều gắn với một sự tích kỳ bí khác nhau nhưng tất cả đều khẳng định: hội chọi trâu là mỹ tục hào hùng mang đậm tính thượng võ, tính táo bạo và lòng quả cảm rất độc đáo của người Đồ Sơn. Ở Đồ Sơn, Đồ Hải, Ngọc Xuyên, (các xã của huyện Đồ Sơn) đều thờ chung một vị tôn thần, tên hiệu là Tước Điểm Đại Vương. Theo thần tích, dưới chân Núi Tháp, thuộc địa phận xã Ngọc Xuyên, có một ngôi đền, mỗi khi trời u ám, thường có một vị thần râu tóc bạc phơ hiện hình ngồi trên thạch bàn, trước cửa đền có hai con trâu chọi nhau. Cảnh đó thường diễn ra vào mùng 9 tháng 8 hàng năm, nên dân ba xã làm mâm bột đặt trong đền làm lễ Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 23
  24. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng cầu thần hiện. Sáng ra, chỉ thấy dấu chân chim sẻ trên đó, nên đặt tên là Tước Điểm thần. Riêng sách Đồng Khánh Địa Dư Chí Lược ghi rõ: " Đền Hùng Trấn Tước Điểm Thần thờ thuỷ thần Đồ Sơn trên Núi Tháp thuộc huyện Nghi Dương. Tương truyền, dân ba xã Đồ Sơn sống bằng nghề chài lưới, vẫn muốn lập ngôi đền để thờ thuỷ thần, có người trong xã mộng thấy Thần Thuyền nên dựng đền trên núi Tháp, ngày hôm sau người đó lên núi thấy một đàn chim sẻ quây lượn trong giây lát rồi bay ra phía biển. Dân Đồ Sơn dựng đền trên núi. Hội chọi trâu được tổ chức hàng năm vào mùng chín tháng Tám âm lịch hàng năm là ngày đại sự. Nguồn gốc hội chọi trâu còn được sách Đồng Khánh Dư ghi lại qua lời tương truyền: " Xưa có người dân trong xã đi qua đền Hùng Trấn Tước Điểm Thần thấy hai con trâu húc nhau, thấy động chúng bỏ chạy xuống biển. Về sau, dân xã Đồ Sơn mở hội chọi trâu vào ngày mùng 9 tháng 8 âm lịch hàng năm và cho rằng trong ngày hội thế nào cũng có trận mưa to gió lớn. Đó là thuỷ thần Đồ Sơn hiển linh”. Lại có truyền thuyết kể rằng, lễ hội gắn với Nữ thần biển Bà Đế. Nàng là người con gái đẹp nhà nghèo, tên là Đế, có tiếng hát mê hồn quyến rũ đã đến tai vua Thuỷ Tề. Hồng nhan bạc phận, nàng bị oan với tội hoang thai. Hôm nàng bị dìm xuống nước, mây vần vũ, trời âm u, và biển như thể nổi giận, từng đợt sóng chồm lên. Ba lần bọn hào lý ném nàng xuống biển là ba lần nàng nổi lên. Chúng đã dùng dây thừng buộc nàng vào cối đá, ném xuống. Vua Thuỷ Tề chỉ chờ có vậy đón người vợ oan ức về cung sau bao nhiêu tháng ngày đằng dẵng nhớ thương. Nơi vua Thuỷ Tề đón nàng về cung bỗng dưng có rất nhiều tôm cá. Vì thế, người ta bèn tổ chức chọi trâu, mỗi một vạn chài được phép mang một con trâu ra thi đấu. Trâu của vạn chài nào thắng, tức là năm ấy vạn chài ấy được độc chiếm bãi cá. Con trâu thắng cuộc được dùng vào tế thần, cầu mong thuỷ thần phù hộ cho dân chài Đồ Sơn quanh năm được mùa tôm cá. Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 24
  25. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng Nước Việt Nam vốn là một nước có nền văn hoá nông nghiệp nên Trâu là một vật dụng quan trọng không thể thiếu trong sản xuất. Đánh giá sự quan trọng của con Trâu trong đời sống của nhân dân, dân gian ta đã có nói một trong 3 việc quan trọng nhất của đời người con trai (người chủ của gia đình) là cất nhà, gả vợ và tậu trâu. Trâu là biểu trưng cho sự thịnh vượng giàu có của một gia đình. Trong SEAGAME 22 tổ chức ở Việt Nam năm 2003 để giới thiệu đất nước ta với bạn bè trong khu vực và quốc tế, nước ta đã chọn linh vật là con trâu và Trâu là một biểu tượng của đất nước ta. Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn là lễ hội để người dân địa phương cầu mong cuộc sống hạnh phúc bình yên, làm ăn thịnh vượng và may mắn. Đồng thời lễ hội gắn liền với tục thờ cúng thần biển và tục hiến sinh tâm linh. Nên sau giải đấu trâu chiến thắng được mang về đình tế lễ và thịt theo tục lệ hiến sinh. Các "ông trâu" chọi khác cũng đều được giết mổ ngay sau trận đấu. Giá thịt trâu chọi thường đắt gấp 4 đến 5 lần thịt trâu thường. Người dân ở đây quan niệm, được "thụ hưởng" thịt trâu chọi là mang về may mắn cho bản thân và gia đình. Chọi trâu không chỉ đơn thuần "hai con trâu chọi" mà nó đã trở thành tục lệ, tín ngưỡng độc đáo ở vùng biển Đồ Sơn. Người dân đặt vào lễ hội niềm tin và hy vọng bởi những cặp trâu chọi sẽ quyết định thắng thua, thành bại cho phe giáp ngày trước, phường xã ngày nay. Người Đồ Sơn gắn lễ hội chọi trâu với việc thờ cúng thành hoàng làng với mong muốn những chuyến đi biển thuận buồm xuôi gió, cho nên ngày hội càng trở nên thiêng liêng, trang trọng. Vào hội, mọi người được dịp hoà mình vào cộng đồng để tình cảm kết nối bền chặt, gắn bó hơn. Vì thế mà tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng cũng được duy trì, khẳng định. Người vùng biển đã gửi gắm tinh thần và ý chí của mình vào những "kháp đấu" giữa các "ông trâu". Mỗi "ông trâu" trên xới đấu thắng thua ra sao sẽ chứng tỏ tài năng của các ông chủ trâu, của phường xã mình. Như vậy các "kháp đấu" giữa những ông trâu đã trở thành nghệ thuật, có tính biểu tượng Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 25
  26. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng sinh động, thể hiện bản sắc văn hoá và lễ hội chọi trâu đã nói hộ tính cách của người dân vùng biển, nó đã được định hình từ lâu với nội dung phong phú gồm nhiều yếu tố văn hoá dân gian, lành mạnh kết tinh của cả một vùng văn hoá ven biển mà Đồ Sơn là trung tâm. Đây là một lễ hội độc đáo của người dân Đồ Sơn, nó gắn liền việc thờ cúng thuỷ thần với nghi lễ chọi và hiến sinh trâu, có cả sự giao thoa giữa những yếu tố văn hoá nông nghiệp đồng bằng với văn hoá cư dân ven biển. Trước đây do đời sống kinh tế còn khó khăn nên lễ hội chọi trâu Đồ Sơn không được tổ chức trong nhiều năm. Từ năm 1990 các cấp ngành đã nỗ lực phục hồi lại lễ hội chọi trâu với mong muốn hội chọi trâu mang đậm nét văn hoá tinh thần tâm linh người Việt sẽ đến với đông đảo nhân dân. Sự phục hồi lễ hội chọi trâu Đồ Sơn như hiện nay là một việc làm đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Chấn hưng lễ hội này với những đặc điểm vốn có của nó sẽ góp phần thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Hy vọng trong sự phát triển chung của cả nước, lễ hội chọi trâu Đồ Sơn ngày càng được hoàn thiện, hấp dẫn du khách bốn phương, xứng đáng là một trong 15 lễ hội trọng điểm của cả nước. Lễ hội Núi Voi Cách trung tâm thành phố Hải Phòng 18 km, xuôi theo quốc lộ 10 về phía Nam, núi Voi mang dáng hình một con voi khổng lồ nằm soi mình bên dòng sông Lạch Tray thơ mộng và chứa đựng biết bao điều kỳ thú. Núi Voi là khu núi đá vôi, trải qua hàng nghìn năm lịch sử, vẫn còn vẹn nguyên những hang động, như: Họng Voi, Già Vị, Bạch Tuyết, Long Tiên, Nam Tào, Bắc Đẩu, bàn cờ tiên kỳ bí, lung linh bởi những thạch nhũ muôn sắc màu. Nơi đây, còn lưu giữ những di chỉ khảo cổ, những di vật lịch sử mang dấu vết người xưa của nền văn hoá Đông Sơn thời các vua Hùng dựng nước, cùng những truyền thuyết bí ẩn và hấp dẫn. Núi Voi từ xưa đã gắn liền với lịch sử hưng suy của nhà Mạc như: Dấu tích sông Đào, Cây đèn Rạng Lái, Vàm chúa Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 26
  27. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng Cả, Vàm chúa Hai, Hồ nhà Mạc, Đấu đong quân. Trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Núi Voi đã trở thành huyền thoại với hình ảnh ''những cô gái dân quân treo mình bên vách đá, lưng chừng trời ngắm bắn máy bay rơi'' Núi Voi đã được Bộ Văn hoá xếp hạng ngay từ đợt đầu tiên theo quyết định số 313/VH-VP ngày 28-4-1962. Từ đầu thập niên 1990 chính quyền và nhân dân địa phương đã phục hồi lại lễ hội truyền thống vào dịp rằm tháng giêng hàng năm. Núi Voi đã, đang và sẽ trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước. Hy vọng, trong tương lai gần, tranh thủ sự hỗ trợ của thành phố, An Lão tiếp tục phát huy tiềm năng, lợi thế của mình, đưa khu danh thắng Núi Voi trở thành một vùng du lịch sinh thái đầy hấp dẫn nằm trong vòng cung du lịch Núi Voi - Đồ Sơn - Cát Bà và tuyến du khảo đồng quê Núi Voi - Tiên Lãng - Vĩnh Bảo nổi tiếng của Hải Phòng. Hội đền Trạng – Nguyễn Bỉnh Khiêm Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491 tại làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, xứ Hải Dương, nay là xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Sinh trưởng trong một gia đình vọng tộc, có học vấn, thân phụ đều là những người văn tài học hạnh nên Nguyễn Bỉnh Khiêm từ sớm đã hấp thụ truyền thồng hiếu học của gia đình và quê hương. Lớn lên, Nguyễn Bỉnh khiêm được theo học quan thượng thư bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ là một nhà thơ lớn của dân tộc, là cây đại thụ thơ văn của thế kỷ 16 mà ông còn là một vị Trạng nguyên tài ba, có hành trạng gắn liền với nhiều giai thoại, truyền thuyết ly kỳ. Lễ hội tưởng niệm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thường được tổ chức nhân ngày sinh (10/4 âm lịch) và ngày mất của cụ (28/11 âm lịch). Trong đó lễ hội lỷ niệm ngày mất 28/11 thường tổ chức với quy mô lớn hơn. Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 27
  28. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng Địa điểm lễ hội là khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm tại thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo. Lễ hội là dịp thỏa mãn nhu cầu tâm linh, giao lưu tình cảm, sinh hoạt lễ hội truyền thống, giao lưu văn hóa dân gian, tạo đà phục hồi cho hoạt động du lịch lễ hội. Qua đó tuyên truyền về thân thế và sự nghiệp của danh nhân văn hóa Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, phát huy giá trị nhân văn, khơi dậy niềm tự hào của nhân dân để cổ vũ tinh thần vươn lên, chịu khó học tập, tu dưỡng, phấn đấu của thế hệ trẻ. Đồng thời lễ hội còn là dịp giới thiệu các trò chơi dân gian, giữ gìn, bảo tồn vốn văn hóa truyền thống của các làng cổ truyền ở Vĩnh Bảo phát triển, góp phần quảng bá cho du lịch Hải Phòng. Lễ hội kỷ niệm ngày mất của Danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm được tổ chức thường niên nhằm khơi dậy niềm tự hào dân tộc, phát huy giá trị văn hoá truyền thống. 1.2.2.2. Tài nguyên làng nghề truyền thống Hải Phòng có khoảng 115 làng nghề, có nhiều nghề thủ công truyền thống đặc sắc như múa rối, thêu ren, chạm khắc, sơn mài, mây tre đan, gốm sành sứ, dệt vải, cói không chỉ tạo ra những sản phẩm tiêu dùng trong nước mà còn xuất khẩu cho một số nước trên thế giới và xuất khẩu tại chỗ cho khách du lịch quốc tế đến Hải Phòng. Đây cũng là một trong những yếu tố hấp dẫn thu hút khách du lịch đến Hải Phòng. Làng nghề múa rối nƣớc ở Vĩnh Bảo Làng Bảo Hà, Đồng Minh, huyện Vĩnh Bảo – Hải Phòng đã từ lâu nổi tiếng với nghề tạc tượng có từ thế kỷ thứ 10. Ở đây còn lưu giữ rất nhiều tượng điêu khắc gỗ có giá trị nghệ thuật vô giá. Đặc biệt là bức tượng đức Linh Lang đại vương thái tử Lý Hoàng Châu cao 1,6m, khi mở cửa - tượng đứng dậy, khi đóng cửa - tượng ngồi xuống. Dân làng kể lại, khi tạc tượng, những mẩu còn dư lại, với bàn tay tài hoa và trí tưởng tượng phong phú, các nghệ nhân chạm khắc gỗ đã đẽo gọt, thổi hồn vào gỗ tạo thành những con rối xinh xắn để vui chơi Có lẽ từ đó mà múa rối ra đời, cả làng chơi rối, thích Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 28
  29. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng rối. Rối ở Bảo Hà tồn tại được bảy đời, đặc sắc với những vở kịch hát múa theo tích xưa như Thạch Sanh - Lý Thông, Trương Viên, Đôi ngọc lưu ly Ngoài rối cạn ở Bảo Hà, rối nước Nhân Hoà cũng là một "đặc sản" của Vĩnh Bảo. Một phường rối nước ở Nhân Hoà có thâm niên từ 1921 rất nổi tiếng. Năm 1992, lần đầu xuất ngoại đi diễn ở Mỹ đã gây được tiếng vang lớn trong công chúng bởi trình độ nghệ thuật biểu diễn xuất sắc. Múa rối nước Nhân Hoà là loại hình sân khấu rối kết hợp với thiên nhiên, lửa pháo Sân khấu truyền thống là ao cá mè thuộc khu di tích Cựu Điện cạnh ngôi chùa cổ. Con rối nước được làm bằng gỗ sung nhẹ, xốp, dẻo, chắc, rối không mặc quần áo mà dùng sơn then phủ lên. Kịch mục rối nước Nhân Hoà có trên 20 trò với các tích dân gian đậm nét văn hoá đồng bằng châu thổ như Tễu, chăn trâu thổi sáo, câu cá, chọi trâu, bắt cáo, gặt lúa, chèo thuyền, hội làng Ngoài ra còn một số kịch hát theo truyền thuyết rất phong phú. Làng điêu khắc tạc tƣợng Bảo Hà, Đồng Minh (Vĩnh Bảo) Xã Ðồng Minh, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng là một địa phương có truyền thống yêu nước, truyền thống văn hóa từ lâu đời. Người dân nơi đây lao động cần cù, ngoài nghề chính là trồng lúa nước, còn có một số ngành nghề thủ công truyền thống nổi tiếng mang đậm bản sắc dân tộc, đó là nghề điêu khắc gỗ và sơn mài, tập trung chủ yếu tại làng Bảo Hà. Các tác phẩm điêu khắc ở đây mang sắc thái riêng, rất sinh động và gần gũi với đời thực. Đó là những pho tượng tố nữ mang dáng dấp cô gái quê, môi chúm chím trái đào, tóc buông dài, vạt áo cài lệch, cố ý lộ ra khoảng cổ cao; tượng quan văn, quan võ trầm tư, toan tính việc đời, việc nước; tượng tổ nghề Nguyễn Công Huệ đầy vẻ hỉ xả, thoát tục Nghề điêu khắc gỗ và sơn mài đã có từ thời kỳ giặc Minh xâm lược nước ta, chúng đã bắt những người tài giỏi đưa về nước để phục dịch cho triều Minh. Ở làng Bảo Hà thời đó có người thanh niên là Nguyễn Công Huệ, từ nhỏ đã theo ông cha làm nghề điêu khắc gỗ nên có biệt tài tạo hình, từ những củ tre, gốc sắn, Nguyễn Công Huệ cùng với ông cha đã tạo ra các sản phẩm có giá trị Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 29
  30. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng nghệ thuật độc đáo, sinh động mô tả con người, động vật đem ra chợ bán kiếm sống qua ngày. Chính vì có bàn tay khéo léo, tài hoa mà Nguyễn Công Huệ là một trong số những người bị giặc Minh bắt về Trung Quốc. Ở Trung Quốc, sau nhiều năm phục vụ triều Minh, tay nghề chạm khắc gỗ của Nguyễn Công Huệ đạt đến đỉnh cao nghệ thuật, ngoài ra ông còn học thêm nghề làm sơn mài và châm ngải cứu. Năm 1427, cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược của nhân dân ta thắng lợi, ông cùng một số người khác được về nước. Khao khát được trở về quê hương, nhưng khi trở về thấy cảnh quê hương nghèo đói, xác xơ, tiêu điều sau bao năm chịu họa xâm lăng, Nguyễn Công Huệ đã mở lớp dạy nghề điêu khắc, sơn mài cho con cháu, dân làng. Từ đó nghề điêu khắc, sơn mài ở địa phương bước vào thời kỳ phát triển mới. Ðể ghi nhớ công ơn của ông, mặc dù nghề điêu khắc, sơn mài đã có từ trước, song người dân làng Bảo Hà đã lấy năm 1427 là năm Nguyễn Công Huệ mở lớp truyền nghề, làm năm hình thành làng nghề điêu khắc, sơn mài. Là một nghề thủ công truyền thống, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc độc đáo, kết hợp với phục vụ du khách trong và ngoài nước; với miếu, chùa Bảo Hà, đình Từ Lâm (di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia) là một trong những điểm du lịch trong tuyến Du khảo đồng quê của thành phố Hải Phòng. Ðây là điểm đến không thể thiếu đối với mỗi du khách trong và ngoài nước khi đến với Hải Phòng. Làng gốm sứ Minh Khai, Minh Tân (Thủy Nguyên) Làng Dưỡng Động xã Minh Tân (huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng) vốn là nơi có nghề truyền thống sứ gốm mỹ nghệ. Từ những lò gốm thủ công ở đây, nhiều sản phẩm có giá trị về nghệ thuật mang đậm bản sắc dân tộc đã một thời nổi danh trong làng sứ gốm cả nước. Là cái nôi của nghề sứ gốm từ gần 200 năm nay, trước kia sản phẩm sứ gốm đều làm theo phương pháp thủ công, công nghệ lạc hậu nên chất lượng còn nhiều khiếm khuyết. Bước sang cơ chế thị trường, sứ gốm Minh Tân không còn đủ sức cạnh tranh cả về chất lượng và số lượng, mẫu mã sản phẩm ít được cải tiến, không đáp ứng nhu cầu Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 30
  31. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng thẩm mỹ của người tiêu dùng trong và ngoài nước. Nghề sứ gốm Minh Tân bị mai một dần nhưng những nghệ nhân ở đây vẫn đau đáu một niềm tâm huyết với nghề truyền thống của quê hương. 1.2.2.3. Văn hóa ẩm thực Là thành phố cửa biển, Hải Phòng có nhiều loại hải sản và các món ẩm thực đậm nét phong vị biển. Từ bát bánh đa cua đến các món ăn đặc sản như tôm hùm, tu hài, cá giò đã mang đến cho du khách những ấn tượng khó quên về đặc trưng ẩm thực của người Hải Phòng đó là sự bình dị, mộc mạc và cao cấp. Nổi tiếng nhất ở Hải Phòng có lẽ là các món ăn được chế biến từ các loại hải sản tươi sống. Hải sản ở Hải Phòng đa dạng về chủng loại như: tu hài, hải sâm, ốc biển, tôm, cua, cá thu, cá ngừ, cá giò, nước mắm Cát Hải Do đó du khách có thể tùy thích thưởng thức mua làm quà sau mỗi chuyến tham quan. Một món ăn khá nổi tiếng ở Hải Phòng mà không thể không kể đến đó là món bánh đa cua – một món ăn dân giã mang đặc trưng riêng của người Hải Phòng. Cũng vẫn những nguyên liệu ấy nhưng món bánh đa cua ở Hải Phòng lại mang một hương vị riêng mà không một nơi nào có thể có được. Du khách đến Hải Phòng không thể quên vùng đất với nhiều món ăn vừa dung dị, vừa hào hiệp, vừa độc đáo đậm đà hương vị miền biển. Và rồi, sẽ thấy yêu hơn thành phố cảng biển đẹp đẽ và thoáng đãng có tên: Hải Phòng. Tóm lại, các tài nguyên văn hóa vật thể và tài nguyên văn hóa phi vật thể của Hải Phòng là một bộ phận hữu cơ của di sản văn hóa dân tộc. Đó là nguồn tài nguyên quý giá để phát triển du lịch văn hóa Hải Phòng góp phần làm phong phú sản phẩm du lịch cho thành phố, đóng góp vào sự phát triển chung của ngành đưa du lịch Hải Phòng sớm trở thành một ngành kinh tế quan trọng như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 12 đã đề ra. Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 31
  32. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng 1.3. Tiểu kết Trong sự phát triển kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới, du lịch văn hóa ngày càng có vị trí quan trọng và trở thành một trong những phương thức du lịch chủ yếu, góp phần tạo ra giá trị lớn của kinh tế du lịch. Trong điều kiện hội nhập hiện nay, Việt Nam cũng không đứng ngoài xu hướng chung đó. Du lịch văn hóa là một loại hình du lịch bền vững đang được Đảng và Nhà nước ta chú trọng phát triển. Hơn nữa, du lịch văn hóa cũng góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và quảng bá hình ảnh đất nước con người Việt Nam với thế giới. Hải Phòng là một tỉnh có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch trong đó có loại hình du lịch văn hóa, nhưng hiện nay loại hình này vẫn chưa được khai thác, phát triển đúng với tiềm năng. Để tìm ra câu trả lời cần phải đi vào tìm hiểu thực trạng hoạt động du lịch văn hóa ở Hải Phòng trong những năm gần đây. Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 32
  33. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG KHAI THÁC DU LỊCH VĂN HÓA Ở HẢI PHÒNG 2.1. Tình hình hoạt động du lịch Hải Phòng trong thời gian qua Kết quả hoạt động kinh doanh du lịch Hải Phòng giai đoạn 2006 – 2008 Chỉ tiêu Đơn vị tính 2006 2007 2008 1. Tổng lƣợt khách 1.000 LK 2.963 3.620 3.900 - Khách quốc tế 1.000 LK 606 719 669 - Khách nội địa 1.000 LK 2.356 2.901 3.231 2. Tổng doanh thu Tỷ đồng 722 986 1.160 (Nguồn : Sở du lịch Hải Phòng) Hoạt động du lịch Hải Phòng không ngừng phát huy hiệu quả, năm 2006 tổng lượt khách đạt 2.963 nghìn lượt khách trong đó khách quốc tế đạt 606 nghìn lượt, đến năm 2008 tổng lượt khách tăng lên 3.900 nghìn lượt, tăng 937 nghìn lượt, trong đó khách quốc tế tăng 63 nghìn lượt. Doanh thu tăng từ 722 tỷ đồng năm 2006 lên đến 1.160 tỷ đồng năm 2008, tăng 438 tỷ đồng. Khách du lịch quốc tế đến Hải Phòng chủ yếu từ các thị trường EU (Anh, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha), ASEAN (Thái Lan, Malaixia, Singapo), Châu Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) . Trong đó mục đích du lịch chiếm trên 80%. Khách du lịch nôi địa đến Hải Phòng chủ yếu là từ Hà Nội, Quảng Ninh và từ các tỉnh Duyên hải Bắc Bộ. Hiện nay, Hải Phòng đang đẩy mạnh hoạt động kinh doanh lữ hành, đặc biệt là kinh doanh lữ hành quốc tế. Các doanh nghiệp lữ hành tập trung vào khai thác các thị trường du lịch trọng điểm như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, các nước ASEAN Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 33
  34. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng Hoạt động xúc tiến - quảng bá du lịch có nhiều cách làm mới, phương pháp hiệu quả, cụ thể là tham gia Hội nghị khách hàng Việt Nam lần thứ nhất và giới thiệu tài nguyên du lịch trọng điểm dành cho khách Việt Nam đến tham quan, tham gia Hội chợ Thương mại du lịch quốc tế Quảng Ninh 2008 do Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch tổ chức với chủ đề Hợp tác cùng thịnh vượng, phối hợp với Viện nghiên cứu phát triển du lịch thực hiện điều tra tài nguyên du lịch trên địa bàn thành phố, phối hợp với ngành du lịch các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình khảo sát, ký biên bản ghi nhớ về hợp tác xây dựng tuyến du lịch các Khu dự trữ sinh quyển thế giới ven vịnh Bắc Bộ, được Tổng cục Du lịch đưa vào kế hoạch thực hiện của chương trình hành động quốc gia về du lịch năm 2008, tổ chức thực hiện biên bản giao ước trong khuôn khổ hợp tác giữa Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, tham gia Triển lãm quốc tế Du lịch và Lữ hành Châu á - TCA 08 tổ chức tại Hà Nội, tổ chức cho du khách bình chọn Vịnh Hạ Long là một trong 7 kỳ quan thiên nhiên thế giới qua mạng Internet tại Cát Bà nhân dịp khai trương du lịch 2008. Cùng với các ngành được thành phố giao tham gia Lễ hội biển Brest tại Pháp, đã hoàn thành xây dựng kế hoạch tổ chức không gian du lịch và không gian ẩm thực Việt Nam tại Lễ hội. Công tác quản lý nhà nước phát huy hiệu quả, trong đó tập trung triển khai thực hiện Quyết định số 544/QĐ-UBND ngày 04/04/2008 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng về việc hợp nhất Sở Thể dục Thể thao, Sở Du lịch với Sở Văn hoá - Thông tin thành Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch. Công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động văn hoá và du lịch được tăng cường, trong đó tập trung kiểm tra hoạt động quảng cáo, biểu diễn nghệ thuật, lễ hội, di tích lịch sử văn hoá, cơ sở lưu trú, đơn vị lữ hành, vận chuyển du khách và các điểm du lịch. Công tác quản lý đầu tư và nghiên cứu khoa học được quan tâm chỉ đạo và đạt được nhiều kết quả khả quan. Trong đó chú trọng chỉ đạo, điều hành đảm bảo tiến độ, chất lượng kỹ mỹ thuật các dự án, công trình do Sở làm chủ Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 34
  35. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng đầu tư như: dự án cải tạo, nâng cấp Nhà hát thành phố giai đoạn II, khởi công dự án tu bổ, tôn tạo di tích Đền Nghè; hoàn thiện các thủ tục cần thiết để triển khai dự án tu bổ, tôn tạo di tích Đền thờ Nữ tướng Lê Chân thuộc quần thể di tích Núi Voi - An Lão (khởi công vào tháng 7/2008). Trong những năm gần đây, ngành du lịch Hải Phòng đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng và phát triển các tài nguyên nhân văn thành sản phẩm du lịch văn hóa. Du lịch văn hóa đã trở thành một phần quan trọng trong những tuor du lịch đến Hải Phòng. Tuy Hải Phòng có nhiều tiềm năng cho phát triển du lịch văn hóa nhưng việc khai thác các tiềm năng này còn nhiều hạn chế. 2.2. Thực trạng khai thác các di tích lịch sử văn hóa ở Hải Phòng Trên địa bàn tỉnh Hải Phòng có rất nhiều di tích lịch sử văn hóa, đặc biệt trong đó có những di tích đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Tuy nhiên chỉ mới có một số di tích đã và đang được đưa vào khai thác phục vụ cho hoạt động du lịch, còn đại đa số các di tích còn lại vẫn chưa được khai thác. Công tác quản lý ở các điểm di tích lịch sử vẫn còn nhiều bất cập. Trong những ngày đông khách, nhiều hàng quán đua nhau mọc ra, lấn cả ra đường khiến cho việc đi lại của du khách rất khó khăn. Vì chạy theo lợi nhuận mà nhiều quán không quan tâm đến chất lượng dịch vụ, đặc biệt là vấn đề an toàn thực phẩm. Các cơ quan quản lý khu di tích không quản lý chặt chẽ, nên tình trạng mất cắp, móc túi, ăn xin, cờ bạc đỏ đen diễn ra thường xuyên làm cho du khách rất bất bình và làm giảm tính linh thiêng ở những nơi này. Một số điểm tham quan cơ sở hạ tầng còn thấp kém, đường vào nhỏ hẹp, các xe ô tô không có lối vào, hạn chế khách đến tham quan như Đình Hàng Kênh, chùa Dư Hàng. Các di tích bị xuống cấp nghiêm trọng, tuy có nhiều biện pháp tôn tạo bảo vệ nhưng việc trùng tu tôn tạo ở một số đình chùa lại không đảm bảo tính chân thực của lịch sử cũng như phong cách kiến trúc cổ làm mất đi giá trị lịch Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 35
  36. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng sử văn hóa và kiến trúc của di tích. Ví dụ như đền Bà Đế ở Đồ Sơn, trần được đổ bằng bê tông với những dầm vuông lớn làm phá vỡ đi nét kiến trúc nguyên thủy của ngôi đền. Hoặc hang Vua ở Thủy Nguyên vốn là một di tích và danh thắng càng phải giữ được nét tự nhiên càng nhiều càng tốt thì người quản lý lại xây cổng bằng xi măng, đắp rồng bằng xi măng và đá làm giảm đi giá trị vốn có. Môi trường ở những điểm du lịch bị ô nhiễm mà không có biện pháp nào khắc phục. Các di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật hầu hết có kết cấu là gỗ, được xây dựng bằng vật liệu có độ bền vững không cao như hệ thống đình, chùa, nhà ở, đền thờ .do có tuổi thọ lâu, với nhiều nguyên nhân khác nhau như tác động của thiên nhiên, quản lý của con người và không được tu bổ trong thời kì chiến tranh và thời bao cấp nên đang đứng trước tình trạng cực kì nguy hiểm có nguy cơ sập đổ bất cứ lúc nào, không những làm biến dạng di tích mà còn có thể gây nguy hiểm đến tính mạng của khách tham quan. Công tác quảng bá, tuyên truyền, giới thiệu về điểm di tích lịch sử chưa được nâng cao chú trọng. Muốn phát triển du lịch văn hóa cần tạo sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức trong quần chúng nhân dân. Do vậy ngành du lịch cần phải tổ chức thường xuyên các cuộc thi tìm hiểu về du lịch cho mỗi người dân nhận thức đúng về sự phát triển du lịch, lôi cuốn mọi người tham gia vào dòng du lịch góp phần vào sự phát triển của du lịch văn hóa. Các di tích được khai thác phục vụ hoạt động du lịch còn quá ít, rất nhiều điểm di tích đặc sắc nhưng chưa được khai thác cho du lịch như: di chỉ Tràng Kênh ( Thủy Nguyên ), tháp Tường Long ( Đồ sơn ), di chỉ Cái Bèo ( Cát Bà ) phần lớn do cơ sở hạ tầng thấp kém, giao thông không thuận lợi. Một điểm mới là hiện nay tiền công đức của người dân không được dùng đúng mục đích của nó. Người dân công đức nhằm đóng góp vào việc xây dựng, tôn tạo các di tích ngày một khang trang hơn, song hiện nay tiền công đức được dùng vào rất nhiều việc khác nhau. Đó là một thực trạng nổi bật tại các di tích hiện nay cần được khắc phục. Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 36
  37. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng Hiện nay, ở nhiều điểm di tích lịch sử văn hóa trong tỉnh đã được đầu tư tôn tạo lại cơ sở hạ tầng, đường sá đã được đầu tư nâng cấp. Năm 2008 di tích Đền Nghè đã được đầu tư sửa sang và xây dựng lại khang trang. Năm 2005 Sở Văn hóa - Thông tin Hải Phòng đã đầu tư 6 tỷ 222 triệu đồng để tu bổ và tôn tạo khu di tích đình Hàng Kênh. Được sự quan tâm đầu tư của thành phố, các di sản văn hoá Trạng Trình ngày càng được khôi phục, tu bổ, hoàn thiện phục vụ cho lượng du khách ngày càng đông. Sau đây là thực trạng khai thác một số điểm di tích lịch sử văn hóa cụ thể trên địa bàn Hải Phòng. Đình Hàng Kênh Năm 2005, Sở Văn hóa – Thông tin đã tổ chức khởi công tu bổ, tôn tạo di tích đình Hàng Kênh. Đây là một trong 3 dự án tu bổ di tích lịch sử quốc gia trong chương trình chống xuống cấp di tích của Trung ương được thực hiện trên địa bàn Hải Phòng. Đình Hàng Kênh được xây dựng cách đây gần 300 năm. Việc tu bổ, tôn tạo đình Hàng Kênh lần này trên cơ sở nguyên trạng, bảo tồn các thành phần của di tích, tu bổ, sửa chữa các cấu kiện bị hư hỏng, phục hồi các thành phần bị mất hay biến dạng, bảo đảm tối đa các cấu kiện gỗ, chạm khắc của đình thời hậu Lê. Công trình có tổng mức đầu tư 6 tỷ 222 triệu đồng, do Sở Văn hóa-Thông tin Hải Phòng làm chủ đầu tư. Các nhà thầu được chỉ định gồm Công ty Tu bổ di tích- thiết bị văn hóa trung ương (Bộ Văn hóa-Thông tin) và Công ty Tư vấn xây dựng công trình văn hóa đô thị. Đền Bà Đế Không chỉ người Hải Phòng, rất nhiều du khách biết đến đền Bà Đế, nằm sát chân sóng biển ở quận Đồ Sơn - ngôi đền gắn với truyền thuyết về nỗi oan trái của một người con gái. Đó là bà Đào Thị Hương ở vùng Tây Nam Đồ Sơn, đã được dân làng lập miếu thờ ở dưới chân núi Độc. Hiện nay, cơ quan chức năng thuộc quận Đồ Sơn đang lập hồ sơ trình các cấp có thẩm quyền, đề nghị công nhận di tích văn hóa cho đền Bà Đế. Khác với sự mai một, thậm chí mất gần hết dấu tích văn hóa vật thể, của tháp Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 37
  38. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng Tường Long, chùa Vân Bản, chùa Hang ở Đồ Sơn do nguyên nhân chiến tranh, đền Bà Đế dường như đang được phát triển ngày một to lớn hơn. Song, sự mở mang đó lại thiếu bàn tay của các nhà chuyên môn bảo tồn di tích, quản lý và định hướng, nên đền đang bị xâm hại thậm chí biến dạng về tính xác thực nguyên gốc. Đền Bà Đế trước kia chỉ là một miếu thờ bà Đào Thị Hương, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, bà Lưu Thị Quế Hoa thành tâm thủ từ, hằng ngày lo việc hương đăng tại miếu, đã vận động nhân dân đóng góp công đức và đầu tư kinh phí tự có để mở mang. Tuy nhiên, những năm gần đây, đền đang bị lạm dụng các yếu tố văn hóa khác với mục đích thương mại, khu đền mọc lên nhiều cung, cửa, lầu, các, điện thờ du khách vái mãi không hết. Đáng chú ý, liền kề có đại tự Thanh Thiên Tịnh Vân ở tiền môn, các học giả Hán Nôm cũng không hiểu nơi đây thờ ai. Mới đây còn mọc lên một dãy điện thờ và người ta tự gắn vào đó là thờ thần Biển, thần Sơn Lâm Rồi lại có lầu chúng sinh, tức là thờ các chân linh của chúng sinh. Phía trước bên trái đền Bà Đế lại cũng mới dựng lên một ngôi chùa (có gắn tượng Phật) nằm án ngữ, choáng mất một không gian phóng thoáng hướng ra biển của đền Bà Đế. Thực trạng trên rất dễ dẫn đến tình trạng khách tới thăm không hiểu đền thờ những ai, điển tích thế nào. Khu đền Bà Đế có phong cảnh trời, mây, non, nước, sóng vỗ quanh năm, lại có sự tích linh thiêng về người phụ nữ quang minh chính đại và oan ức, nên nhân dân tới thăm viếng mỗi ngày một đông. Theo các nhà quản lý, ngày cao điểm có tới hàng vạn lượt người đến thắp hương. Chính quyền quận Đồ Sơn đã quan tâm đầu tư hàng tỷ đồng, mở mang đường xá và các công trình hạ tầng cơ sở để nâng cao chất lượng phục vụ du khách tham quan, thưởng ngoạn, tìm hiểu di tích văn hóa. Tháp Tƣờng Long Tháp Tường Long trên đỉnh núi Long Sơn - Đồ Sơn là một di sản văn hoá, cột mốc chứng cứ lịch sử vươn ra biển của Phật giáo - một công trình kiến Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 38
  39. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng trúc nghệ thuật - văn hoá độc đáo thời Lý. Tháp cao12 tầng. Năm 1288 – 1322 hai lần tháp bị sét đánh lần đầu đổ ngọn, lần kế tiếp mất 2 tầng trên cùng. Năm 1426, giặc Minh phá tháp lấy đồng làm vũ khí. Năm 1791 triều đình nhà Lê phá tháp lấy gạch tu bổ thành Thăng Long. Năm 1805 thời Nguyễn, vua Gia Long tiếp tục phá tháp lấy gạch xây thành ở Trấn Hải Dương Vào những năm 60 của thế kỷ trước, dấu tích của tháp Tường Long vẫn còn rất rõ nét. Người dân địa phương lấy gạch, đá ở tháp về xây tường, nung vôi mà tháp vẫn còn cao đến 5 - 6 m. Năm 1971 - 1972, những dấu tích còn sót lại trên mặt đất của tháp được san phẳng để làm đài quan sát bộ đội. Năm 1978, di tích tháp Tường Long lần đầu tiên được khai quật. Sau đó một thời gian, hiện trường khai quật được san lấp và đến năm 1990 người dân đã xây một ngôi chùa ngay trên móng tháp cổ. Năm 1998, tháp Tường Long được khai quật lần thứ hai ở vị trí khác. Tháp Tường Long được nhiều nhà khảo cổ học, sử học, kiến trúc sư, chuyên gia nghiên cứu văn hoá đánh giá là công trình văn hoá, kiến trúc tiêu biểu của triều Lý. Năm 2005 di tích khảo cổ học tháp Tường Long được công nhận là di tích cấp quốc gia. Tháp Tường Long đã được chính quyền TP. Hải Phòng cho phép khởi công xây dựng lại ngày 11-6 -2008. Chùa Tháp chỉ còn là phế tích, không còn dấu vết nền móng cũng như không còn tài liệu nào ghi lại về quy mô chùa Tháp cổ. Để phỏng dựng lại, các nhà nghiên cứu và quy hoạch phải căn cứ vào kiến trúc một số công trình cùng thời như chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), chùa Keo (Thái Bình) , kết hợp một số yếu tố như địa hình, cảnh quan, nhu cầu phát triển du lịch , để đưa ra phương án thiết kế. Theo đó, thiết kế chùa Tháp sẽ được xây dựng với tổng diện tích 1.300 m2, chiều cao 32,5m, gồm 13 tầng và dự kiến mức đầu tư 176 tỷ đồng. Cụ thể: Chùa Tháp có Tam quan ngoại được thiết kế theo lối kiến trúc mở với bốn trụ cổng bằng đá đục chạm hoa văn tinh xảo trên diện tích 50m2, Tam quan nội và tường lan can có 3 cửa chính và khung bằng gỗ lim hài hoà cùng tam bảo với tiền đường gồm 5 gian Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 39
  40. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng Đây sẽ là công trình kiến trúc Phật giáo lớn nhất vùng duyên hải Bắc bộ nằm trong tuyến du lịch trọng điểm quốc gia Đồ Sơn - Cát Bà - Vịnh Hạ Long, hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Đền Nghè Đền Nghè nằm trong khoảng đất có diện tích hơn 1.200 m2, gồm nhiều hạng mục công trình kiến trúc tạo thành một tổng thể thống nhất, liên hoàn, bề thế và linh thiêng. Tuy nhiên, qua thời gian do yếu tố tự nhiên, môi trường tác động, nên di tích không tránh khỏi sự xuống cấp nặng nề và đứng trước nguy cơ có thể bị hư hại, một số hạng mục của Đền đã bị xuống cấp, hư hại, làm ảnh hưởng đến giá trị của di tích. Trước những yêu cầu thực tế đặt ra, việc đầu tư tôn tạo di tích nhằm bảo tồn di sản văn hoá dân tộc, phục vụ thăm viếng, thờ tự, lễ hội và phát huy giá trị văn hoá lịch sử của di tích là việc làm rất cần thiết. Năm 2008, được sự quan tâm, đầu tư của Sở du lịch Hải Phòng, đền Nghè đã được tu bổ và tôn tạo rất khang trang. Việc tu bổ, tôn tạo di tích Đền Nghè đáp ứng mong mỏi từ nhiều năm nay của cán bộ và nhân dân địa phương. Đền Nghè không những là nơi sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của nhân dân mà còn có giá trị nhiều mặt về lịch sử, văn hoá, kiến trúc nghệ thuật. Tuy nhiên do đền nằm sâu trong ngõ phố nhỏ nên rất khó cho việc đi lại, đặc biệt không có bãi để xe nên không an toàn, đặc biệt là những đoàn khách lớn. Ngoài ra đền còn nằm gần khu dân cư nên ồn ào, không gian không còn thanh tịnh như những ngôi đền, ngôi chùa khác. Khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm được xây dựng tại thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng có diện tích 5,7 ha. Ngôi đền lập trên nền nhà cũ của Trạng Trình từ năm 1765. Qua thời gian, chiến tranh, đền bị hủy hoại, đã nhiều lần được xây lại. Hơn 400 năm có lẻ kể từ ngày Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm qua đời, đặc biệt từ sau khi quần thể di tích đền thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm được quy hoạch, tôn tạo Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 40
  41. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng và được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia (năm 1991), nơi đây không chỉ là một thắng cảnh, với các hạng mục kiến trúc được sắp xếp hợp lý, khoa học, cảnh quan hài hòa, mà nó còn là nơi lưu giữ các di sản gắn liền với thân thế, sự nghiệp của vị Trình quốc công tài ba là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Di tích Nguyễn Bỉnh Khiêm là nơi lưu giữ nhiều hiện vật quý có giá trị cả về mặt văn hóa lẫn lịch sử nhưng đang bị khách tham quan làm hư hỏng, xuống cấp. Quần thể di tích này lại đang bị xâm hại một cách nghiêm trọng do một số khách tham quan thiếu ý thức gây nên, làm mất giá trị thẩm mĩ, rất phản cảm. Đến dâng hương ở khu di tích Nguyễn Bỉnh Khiêm nhiều du khách ngẫu hứng ghi lại bút tích của mình ngay trên lư hương ở quảng trường khu di tích và Bạch Vân Am với những lời lẽ không thích hợp ở nơi tôn nghiêm như “I love you”, “anh yêu vợ” , “Anh Hải đã đến đây” Trong khi đó, khu quần thể tượng thì bị phá hoại, xâm phạm, nhiều du khách còn trèo cả lên tượng chụp ảnh, thậm chí có những bức tượng bị bẻ cả chân tay, làm mất đi giá trị của một công trình lịch sử. 2.3. Thực trạng khai thác du lịch lễ hội ở Hải Phòng Mấy năm trở lại đây, cùng với sự phát triển của đời sống văn hóa tinh thần, cùng với sự phát triển của du lịch, các lễ hội truyền thống ở các làng quê nông thôn đã được khôi phục và phát triển mạnh mẽ, được sự ủng hộ quan tâm của đông đảo nhân dân và du khách quốc tế. Ở làng nào, thôn nào cũng có những lễ hội truyền thống để tưởng nhớ những vị thành hoàng làng, những người có công với làng xóm bằng rất nhiều các hình thức như tế lễ, thi tay nghề thủ công, thi đấu các loại võ thuật truyền thống hay chọi trâu, chọi gà, đua ngựa, đua thuyền Ngày nay các lễ hội truyền thống đang trong xu thế mở rộng phạm vi chứ không bó hẹp trong một địa phương mà lan tỏa sang các vùng lân cận để trở thành lễ hội của một vùng, thậm chí có tính chất toàn quốc (lễ hội chùa Hương, lễ hội Yên Tử). Thời gian và thành phần của người đi hội cũng khác Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 41
  42. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng trước, số lượng người đi trẩy hội ngày càng đông không chỉ là người dân trong thôn, trong vùng mà có cả du khách thập phương thậm chí có cả khách nước ngoài với đủ các thành phần xã hội từ thị dân cho đến cán bộ nhà nước, từ học sinh sinh viên đến các tổ chức, các đơn vị, từ người trong nước đến Việt Kiều Tất cả đều đi lễ hội với các trạng thái tâm lý khác nhau nhưng đều chung một mục đích đó là tưởng nhớ đến người có công với thôn xóm, được hòa mình vào với không khí sôi động của lễ hội, để thực sự có những giây phút thanh thản và thư giãn, để được nâng cao kiến thức văn hóa dân gian, để được giao lưu văn hóa. Trong điều kiện quy mô được mở rộng thì thời gian và nội dung của lễ hội cũng được rộng rãi hơn so với trước. Nếu như trước đây chỉ có các hoạt động truyền thống thì ngày nay được bổ sung và làm phong phú thêm bởi nhiều hoạt động văn hóa mới với sự tham gia của lực lượng văn nghệ chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp, các hình thức vui chơi giải trí mới như xổ số, đu quay, điện tử, bi a. Các hàng hóa phục vụ cũng ngày càng phong phú hơn làm cho màu sắc của lễ hội thêm phần đa dạng và hấp dẫn hơn. Một xu thế mới của du lịch văn hóa hiện nay là du lịch lễ hội, loại hình này có số lượng khách rất lớn và yêu cầu tổ chức cũng đơn giản, dễ thực hiện. Du lịch lễ hội đang là yếu tố cần được khai thác của rất nhiều công ty du lịch, tuy vậy loại hình du lịch lễ hội lại có thời gian trong mỗi chuyến đi là ngắn, thường là đi tham quan một ngày, vì vậy doanh thu thừ nguồn này không phải là cao cho các công ty. Do đó các công ty du lịch tuy đã có các chương trình du lịch lễ hội, nhưng thường họ vẫn chưa chú trọng đến chất lượng của chương trình mà chỉ chạy theo số lượng, vì vậy du khách cũng chưa thực sự hài lòng. Cũng trong xu thế chung đó, ngày nay các lễ hội ở Hải Phòng ngày càng được mở rộng cả về mặt thời gian, không gian và quy mô tổ chức. Nếu những năm trước nhắc đến lễ hội ở Hải Phòng người ta chỉ biết đến lễ hội chọi trâu Đồ Sơn, thì bây giờ du khách đã biết đến nhiều lễ hội khác như lễ Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 42
  43. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng hội đền Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm ở huyện Vĩnh Bảo, lễ hội làng cá ở Cát Bà, lễ hội Đền Nghè, lễ hội bơi thuyền Cát Hải, lễ hội núi Voi Hầu như ở huyện nào, xóm nào, làng nào trên địa bàn tỉnh Hải Phòng cũng có lễ hội. Các công ty du lịch cũng đã nhanh chóng đưa các lễ hội ở Hải Phòng vào các chương trình du lịch lễ hội của mình. Trong đó, lễ hội chọi trâu Đồ Sơn, lễ hội đền Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm được hầu hết các công ty du lịch đưa vào chương trình du lịch lễ hội của công ty mình. Tuy nhiên, hiệu quả kinh doanh du lịch tại các điểm lễ hội còn rất thấp, chủ yếu từ các dịch vụ bán hàng tạp hóa phục vụ khách du lịch và kinh doanh dịch vụ ăn uống, gửi xe, chưa có các sản phẩm đa dạng. Nguyên nhân chính là chưa có chương trình du lịch lễ hội nào khai thác những nét văn hóa độc đáo của các lễ hội như cho khách tham gia vào chương trình rước các vị thần, tham gia vào các trò chơi của lễ hội. Công tác quảng bá tuyên truyền, giới thiệu về các lễ hội chưa được quan tâm chú trọng. Khách du lịch mới chỉ biết đến lễ hội chọi trâu là chính, còn các lễ hội khác thì rất ít người biết đến. Ở hầu hết các điểm tham quan du lịch văn hóa chưa có thuyết minh viên, cơ sở hạ tầng và dịch vụ du lịch không đồng bộ. So với các tỉnh có tiềm năng du lịch như: Thái Nguyên, Tuyên Quang, Ninh Bình, Quảng Bình đội ngũ thuyết minh viên tại các điểm tham quan của Hải Phòng rất yếu và thiếu, nhiều điểm tham quan văn hóa chưa có thuyết minh viên. Nhiều du khách khi đến tham dự lễ hội xong lại không biết lễ hội đó tưởng nhớ ai, nội dung gồm những gì, không gây được ấn tượng trong lòng du khách, họ cảm thấy lễ hội đều có nội dung giống nhau mà không cảm nhận được sắc thái riêng, độc đáo của từng lễ hội. Do vậy ngành du lịch cần phải tổ chức thường xuyên các cuộc thi tìm hiểu về lễ hội, giới thiệu, quảng bá cho người dân nhận thức đúng về lễ hội, lôi cuốn mọi người tham gia vào dòng du lịch góp phần vào sự phát triển của du lịch văn hóa lễ hội. Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 43
  44. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng Để biết sâu hơn về thực trạng hoạt động kinh doanh du lịch ở các lễ hội truyền thống trên địa bàn tỉnh Hải Phòng, người viết xin trình bày thực trạng tại một số lễ hội sau: Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn Mấy năm trở lại đây, bắt đầu từ năm 2006 ngoài lễ hội chọi trâu truyền thống thị xã Đồ Sơn còn tổ chức thêm lễ hội chọi trâu du lịch được tổ chức vào dịp 30/4, 1/5 thu hút rất nhiều du khách đến dự. Vừa qua, tại quận Đồ Sơn - TP Hải Phòng đã khai mạc liên hoan du lịch với chủ đề "Đồ Sơn biển gọi 2009". Đây là hoạt động mở đầu cho mùa du lịch biển, được diễn ra từ ngày 30/4 - 3/5, với nhiều hoạt động văn hoá thể thao hấp dẫn. Liên hoan du lịch năm nay diễn ra vào đúng ngày nghỉ nên đã thu hút hàng vạn người đến xem và cổ vũ. Ước tính có khoảng 350.000 lượt khách đến Đồ Sơn. Công tác phục vụ du khách được chuẩn bị chu đáo với phương châm an toàn, lịch sự. Các khách sạn, nhà nghỉ niêm yết giá phòng nghỉ, đồ ăn, thức uống. Quận Đồ Sơn thành lập các đoàn kiểm tra, phối hợp với các cơ quan chức năng của thành phố kiểm tra định kỳ, đột xuất về vệ sinh ăn uống, phòng dịch, nhằm bảo đảm an toàn cho du khách. Lễ hội chọi Trâu là hoạt động trọng tâm của Liên hoan du lịch “Đồ Sơn biển gọi - 2009" được chuẩn bị rất chu đáo, chi tiết. Việc bảo đảm an ninh trong và ngoài sân bãi được lên phương án, giữ gìn an toàn tuyệt đối cho người xem; vé xem hội được giao các đơn vị chức năng phân phối, bán cho người xem đúng giá niêm yết; tiếp tục quản lý chặt chẽ, tổ chức khoa học khu giết mổ tập trung; khu gửi xe Công tác tổ chức lễ hội ngày càng được tổ chức tốt hơn. Ban tổ chức đã tổ chức những ngày hội ở Đồ Sơn xung quanh vòng chung kết chọi trâu. Công tác quảng bá thậm chí còn được trao cho một công ty truyền thông. Trên sân đấu, lính cứu hỏa phun nước cho mềm đất sới chọi. Trên loa, có những đoạn phỏng vấn trực tiếp khán giả. Tuy nhiên, phần lễ chính của ngày hội này vẫn rất tẻ với hai màn tấu trống chiêng và múa cờ rất nghiệp dư, dù huy động lực lượng lớn của Trung đoàn 50 Quân khu III. Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 44
  45. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng Đặc biệt, trong trận chung kết, các chủ trâu đã làm một việc rất vô lý là lấy cờ Tổ quốc để che mắt trâu (một phương tiện che chắn để trâu chưa xung trận khi chủ trâu chưa muốn). Đây là một hình ảnh không đẹp, gây mất mỹ quan trong mắt du khách, để lại ấn tượng xấu trong lòng du khách. Công tác tổ chức, an ninh cho khán giả xem chọi trâu còn thấp. Dù huy động một lực lượng lớn công an, bộ đội giữ trật tự, nhưng số người mà ban tổ chức cho vào sân lớn hơn rất nhiều số ghế trên các khán đài, đó là nguyên nhân chính gây nên những tai nạn đáng tiếc do trâu húc vào khán giả. Ngoài ra sân vận động quá nhỏ so với nhu cầu mua vé vào xem của khán giả ngày càng đông. Ngày nay, hội chọi trâu đã bị thương mại hóa nhiều, thịt trâu chủ yếu lấy từ nơi khác, đánh vào tâm lý du khách với giá rất đắt 200.000 - 250.000/kg. Thậm chí có những hội chọi trâu, trâu không hề được tuyển chọn, nuôi dưỡng và huấn luyện theo cách của trâu chọi. Chúng chỉ được các hộ dân Đồ Sơn mua về theo tiêu chí to béo trước ngày lên sới vài ngày, để rồi sau đó xẻ được nhiều thịt bán kiếm lời. Đây là một lễ hội lớn nhất của Hải Phòng nhưng lại tổ chức trong thời gian rất ngắn, chỉ trong 1 ngày vì vậy chưa lôi kéo được khách du lịch ở lại Hải Phòng lâu hơn. Bên cạnh đó đối tượng người có trâu dự thi chỉ là người dân địa phương trên địa bàn Quận Đồ Sơn, chưa được mở rộng đúng với tầm của lễ hội. Lễ hội Núi Voi Trước đây, trong những ngày diễn ra lễ hội có rất ít khách du lịch đến tham quan, chủ yếu chỉ là người dân quanh vùng đến tham gia vào lễ hội khi các lễ hội được tổ chức. Hiện nay, do được sự quan tâm của chính quyền địa phương, công tác tuyên truyền quảng bá được mở rộng, đã có nhiều du khách đến với lễ hội hơn, đặc biệt kể từ khi có chương trình Du khảo đồng quê, đã có một số công ty du lịch đưa lễ hội Núi Voi vào trong chương trình lễ hội của mình. Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 45
  46. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng Tuy nhiên, các hoạt động quảng bá chưa đánh thức được hết tiềm năng của lễ hội. Các công tác tuyên truyền, giới thiệu về lễ hội trên các phương tiện thông tin đại chúng chưa được quan tâm, chú trọng đúng mức. Muốn có nhiều du khách đến với lễ hội cần phải tăng cường công tác quảng bá giới thiệu lễ hội cho mọi người biết. Vì vậy, các ban ngành, chính quyền địa phương đặc biệt là những người làm công tác du lịch ở địa phương cần phải tổ chức thường xuyên các cuộc thi tìm hiểu về lễ hội, lôi cuốn mọi người tham gia vào lễ hội. Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch ở khu du lịch Núi Voi vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của khách. Tuy đường vào di tích đã được dầu tư xây dựng và nâng cấp nhưng vẫn còn nhỏ. Đặc biệt là chưa có các nhà hàng quán ăn, nhà nghỉ khách sạn phục vụ cho khách du lịch. Công tác quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu, trong những ngày đông khách, hàng quán đua nhau mọc ra, lấn cả ra đường khiến cho việc đi lại của du khách rất khó khăn, tình hình an ninh trật tự cũng rất phức tạp, vẫn còn xảy ra hiện tượng mất cắp, móc túi, ăn xin, cờ bạc, đỏ đen làm cho du khách rất bất bình. Vệ sinh, rác thải cũng là một thực trạng đáng nói. Vào những ngày lễ hội nhiều người thiếu ý thức đã xả rác bừa bãi gây mất mỹ quan khu du lịch. Hội đền Trạng – Nguyễn Bỉnh Khiêm Kể từ năm 2000, năm lần đầu Tổng cục Du lịch, được sự thống nhất của Bộ Văn hóa - Thông tin, chọn Lễ hội Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong 20 sự kiện tiêu biểu, đại diện cho hơn 400 lễ hội của cả nước và là một sự kiện của CT HĐQG về Du lịch, đến nay, Hải Phòng đã hàng năm tổ chức trọng thể Lễ hội Đền Trạng. Nhân dân và các cấp lãnh đạo Hải Phòng đã dành nhiều công sức, tình cảm để bảo vệ, tôn tạo, nâng cấp khu di tích Đền Trạng dần trở thành điểm đến du lịch văn hóa tâm linh, hấp dẫn du khách bốn phương, cả trong nước và quốc tế Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 46
  47. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng Bảng số liệu khách đến với lễ hội Trạng Trình và khu di tích đền Trạng Thời điểm Lƣợt khách Dịp Tết và đầu xuân 50.000 Ngày lễ 10.000 Mùa thi 15.000 Mùa hè 20.000 (Nguồn: Ban quản lý khu di tích đền Trạng) Trước đây, chỉ vào dịp lễ hội chính vào ngày kỉ niệm ngày mất cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm mới có khách thập phương đến dự, còn vào những ngày thường thì có rất ít khách đến tham quan. Hiện nay, cùng với sự quảng bá của chính quyền địa phương, của tỉnh, các công ty du lịch đã xây dựng các tuor du lịch đến với khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, đặc biệt vào mùa lễ hội lượng khách đến đây rất lớn từ các tỉnh lân cận như Quảng Ninh, Hà Nội, Thái Bình Lớn nhất vẫn là khách trong tỉnh. Tuy nhiên đây là một lễ hội độc đáo nhưng số lượng khách đến còn thấp hơn nhiều so với các điểm du lịch tương tự như đền Trần (Nam Định), đền Lý Bát Đế (Bắc Ninh) Khách du lịch đến đây chủ yếu là khách nội địa (công chức, học sinh, sinh viên) chiếm tới 80 đến 90%. Hầu hết các công ty du lịch ở Hải Phòng trong chương trình du lịch lễ hội của mình đều có chương trình đến khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, đặc biệt trong những năm gần đây khu di tích đã được đưa vào chương trình tuor “Du khảo đồng quê” thu hút rất nhiều khách tham quan. Vào dịp lễ hội, lượng du khách đổ về quá đông nên mặc dù đã có bãi để xe là một sân bóng rộng lớn nhưng vẫn có khách phải gửi xe ở các quán và nhà dân xung quanh không đảm bảo an toàn mà lại phải trả với mức phí rất cao do người dân tự ý tăng. Nhiều xe còn đỗ ở ngoài đường gây ảnh hưởng đến mỹ quan khu di tích. Ngoài ra, đường vào khu di tích còn nhỏ gây khó khăn cho các phương tiện giao thông trong mùa lễ hội. Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 47
  48. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng Công tác quản lý ở đây cũng còn nhiều bất cập. Trong những ngày đông khách, nhiều hàng quán đua nhau mọc ra, lấn cả ra đường khiến cho việc đi lại của du khách rất khó khăn. Vì chạy theo lợi nhuận mà nhiều quán không quan tâm đến chất lượng dịch vụ, đặc biệt là vấn đề an toàn thực phẩm. Trong khi đó ban quản lý với số người ít ỏi không thể kiểm tra, kiểm soát hết được tất cả các hàng quán xung quanh khu di tích. Các cơ quan quản lý khu di tích không quản lý chặt chẽ, nên tình trạng mất cắp, móc túi, ăn xin, cờ bạc, đỏ đen diễn ra thường xuyên làm cho du khách rất bất bình và làm giảm tính linh thiêng ở những nơi này. Các hoạt động mê tín, bói toán, vẫn diễn ra ngay trong khu di tích. So với thời gian của lễ hội diễn ra thì phần hội diễn ra với quy mô và thời gian rất ngắn, chương trình đơn điệu, ít tiết mục, chưa mang tính đặc trưng của vùng. Các trò chơi phần lớn phục vụ thế hệ thanh niên, người cao tuổi rất ít. Ngược lại phần lễ lại chủ yếu là người cao tuổi, thế hệ thanh niên lại quá ít. Phần lễ tổ chức chưa có sự đầu tư đồng bộ, các hoạt động lễ mới chỉ dừng lại ở mức nhỏ chưa tương xứng với lễ hội cấp quốc gia, chủ yếu phục vụ nhân dân trong làng. 2.4. Thực trạng phát triển du lịch văn hóa ở các làng nghề Làng nghề và nghề truyền thống của Hải Phòng đã có từ lâu đời. Nhiều làng nghề và nghề truyền thống đã tồn tại và phát triển hàng trăm năm nay được nêu danh sử sách như làng nghề điêu khắc tạc tượng Bảo Hà, Đồng Minh (Vĩnh Bảo), làng gốm sứ Minh khai, Minh Tân (Thuỷ Nguyên). Theo thống kê, toàn thành phố hiện có 30 làng nghề tập trung ở 10 quận, huyện. Nếu nhìn nhận các ngành và các làng nghề truyền thống ở Hải Phòng dưới góc độ phát triển công nghiệp thì quy mô phát triển làng nghề còn quá nhỏ bé, mang nặng tính tự phát. Trước đây, ở thời kỳ bao cấp, nhìn chung làng nghề và nghề truyền thống phát triển mạnh mẽ, có hàng trăm hợp tác xã, tổ chuyên và bán chuyên sản xuất các mặt hàng tiểu thủ công nghiệp, thu hút một lực lượng lớn lao Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 48
  49. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng động tham gia, sản xuất ra khối lượng lớn hàng hoá (thảm len, chiếu cói, hàng thêu, mây tre đan) phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Từ khi thị trường truyền thống bị thu hẹp, sản xuất tiểu thủ công nghiệp, làng nghề và nghề truyền thống giảm sút nghiêm trọng. Phần lớn các hợp tác xã, tổ sản xuất khu vực này phải giải thể, người lao động không có việc làm một số nghề truyền thống bị mai một. Một trong những khó khăn lớn nhất khiến các làng nghề trong thành phố những năm gần đây không có bước phát triển mới là thiếu nguồn vốn sản xuất, cơ sở vật chất cho phát triển làng nghề chậm được đầu tư. Hiện tượng người lao động bỏ nghề ở một số làng nghề diễn ra phổ biến bởi nhiều người không còn tâm huyết với nghề. Lớp người thạo nghề muốn truyền kinh nghiệm cho lớp trẻ nhưng họ không hào hứng bởi thu nhập từ làng nghề thấp. Thực hiện chủ trương đổi mới và đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, thành phố Hải Phòng đã tập trung khôi phục được một số làng nghề truyền thống, du nhập thêm nghề mới, đa dạng hoá ngành nghề và các mặt hàng tiểu thủ công nghiệp. Đến nay thành phố có 32 làng nghề và hàng trăm hợp tác xã, doanh nghiệp tham gia sản xuất kinh doanh các sản phẩm hàng hoá tiểu thủ công nghiệp, hỗ trợ tích cực vào việc khôi phục và phát triển các làng nghề và nghề truyền thống của thành phố. Sự phát triển của làng nghề và nghề truyền thống của thành phố Hải Phòng thời gian qua đã góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo, làm giàu và tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới bộ mặt nông thôn. Tuy nhiên, việc phát triển làng nghề và nghề truyền thống của thành phố những năm qua nhìn chung còn chậm chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và sự đầu tư lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp Uỷ Đảng, Chính quyền, các ngành từ thành phố đến cơ sở. Xuất phát từ nguyện vọng chung của đông đảo các doanh nghiệp, hợp tác xã, các làng nghề mong muốn được thành lập một tổ chức đại diện cho Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 49
  50. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng khu vực làng nghề, nghề truyền thống của Hải Phòng. Được sự quan tâm hướng dẫn, chỉ đạo và tạo điều kiện của UBND thành phố, Sở Nội vụ, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Sở Công thương, Liên minh HTX thành phố, của Hiệp hội làng nghề Việt Nam. Ban vận động thành lập Hiệp hội làng nghề Hải Phòng chính thức ra đời và được Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố ra quyết định công nhận. Ngày 22/12/2008, UBND thành phố Hải Phòng đã ban hành quyết định số 2215/QĐ-UBND về việc cho phép thành lập Hiệp hội làng nghề Hải Phòng nhằm bảo tồn, giữ gìn và phát triển mãnh mẽ làng nghề và nghề truyền thống, với đầy đủ giá trị kinh tế và văn hoá sâu sắc. Làng nghề múa rối nƣớc ở Vĩnh Bảo Múa rối nước là một loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo nhưng chưa có sự đầu tư thích đáng, chưa có sự phối hợp giữa các ban ngành địa phương để tổ chức các khán phòng biểu diễn phục vụ khách du lịch, phạm vi biểu diễn còn hẹp, phường rối thì ở quá xa trung tâm thành phố, khách du lịch muốn thưởng thức nhưng không thể đến được. Rất nhiều khách du lịch đến Hải Phòng đặc biệt là khách nước ngoài chưa được giới thiệu và thưởng thức loại hình nghệ thuật độc đáo này. Làng điêu khắc tạc tƣợng Bảo Hà, Đồng Minh (Vĩnh Bảo) Hơn 700 năm trước, làng tạc tượng Bảo Hà (huyện Vĩnh Bảo) nổi danh không chỉ trong nước mà cả nước láng giềng Trung Quốc. Theo thần phả làng Bảo Hà, ông tổ nghề tạc tượng Việt Nam là Nguyễn Công Huệ chính là người làng này. Phường thợ ở đây, với các tên tuổi như: Tô Phú Vượng "hạt gạo thành voi", Hoàng Đình Ức, chỉ một phút chiêm ngưỡng các quần thần trong triều, về tạc tượng giống như in. Sản phẩm của làng dường như "ngự" ở hầu hết các đình chùa ở phía Bắc. Hay như nghệ nhân (đã quá cố) Đặng Trần Tâm, ông sinh ra ở một làng nghề đất nung thuộc huyện Kiến Thụy (làng nghề này nay đã mai một). Ông được mệnh danh người có "bàn tay vàng", với sản phẩm ấm trà bằng đất nung "độc nhất vô nhị", càng nung càng đỏ au, Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 50
  51. Một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hải Phòng bóng loáng. Trà pha không những giữ được hương vị mà khi rót ra chén, không một giọt vương phía dưới vòi như thường thấy ở các loại ấm trà bằng gốm sứ khác Đáng tiếc, những bí quyết nhà nghề của các nghệ nhân tài hoa này, đều không được truyền lại, hoặc truyền lại nhưng con cháu sao nhãng, lãng quên. Làng gốm sứ Minh Khai, Minh Tân (Thủy Nguyên) Là cái nôi của nghề sứ gốm từ gần 200 năm nay, trước kia sản phẩm sứ gốm đều làm theo phương pháp thủ công, công nghệ lạc hậu nên chất lượng còn nhiều khiếm khuyết. Bước sang cơ chế thị trường, sứ gốm Minh Tân không còn đủ sức cạnh tranh cả về chất lượng và số lượng, mẫu mã sản phẩm ít được cải tiến, không đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của người tiêu dùng trong và ngoài nước. Nghề sứ gốm Minh Tân bị mai một dần nhưng những nghệ nhân ở đây vẫn đau đáu một niềm tâm huyết với nghề truyền thống của quê hương. Nằm trong chương trình khôi phục và phát triển làng nghề, Liên minh HTX thành phố phối hợp với các địa phương nơi có nghề truyền thống thủ công - mỹ nghệ và nguồn nhân lực dồi dào mở nhiều lớp đào tạo nghề như mây tre đan, thêu, ren, dệt thảm, sứ gốm mỹ nghệ. Tại làng Giếng Động, xã Minh Tân (huyện Thủy Nguyên), Liên minh đã tổ chức một lớp học nghề sứ gốm mỹ nghệ. Trong thời gian 3 tháng, học viên sẽ nắm được những nội dung cơ bản của nghề này như: nguyên liệu sản xuất gốm, sứ, phương pháp gia công nguyên liệu, tạo hình sản phẩm, phương pháp đốt lò và nguyên lý lò nung bằng gas, cách làm khuôn mẫu. Giáo viên của khoá đào tạo này là những thợ giỏi của làng gốm sứ Bát Tràng và những người có kinh nghiệm làm sứ gốm lâu năm của địa phương. Với phương thức đào tạo vừa học, vừa làm, hy vọng một ngày không xa, những người thợ sứ gốm mỹ nghệ Minh Tân sẽ cung cấp cho thị trường thành phố và cả nước những sản phẩm giàu bản sắc văn hoá của dân tộc. Sinh viên: Tô Thị Bình Nhung_VH901 51