Đề tài Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - Học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng

pdf 94 trang huongle 1460
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - Học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfde_tai_nghien_cuu_ung_dung_phuong_phap_giang_day_moi_mon_hoc.pdf

Nội dung text: Đề tài Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - Học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng

  1. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Dạy học đại học là dạy nhận thức, dạy kĩ năng và dạy cảm nhận. Tùy theo khoa học (Tự nhiên hay Xã hội - Nhân văn, Cơ bản hay Công nghệ, Kỹ thuật ), và tuỳ theo mục tiêu đào tạo (Đại học hay Sau đại học, chuyên môn hay nghiệp vụ, ) mà chọn chủ điểm hay trọng tâm về dạy nhận thức, dạy kĩ năng hay dạy cảm nhận cho phù hợp. Cuối thế kỷ XX, khoa học giáo dục đã chuyển từ quan điểm dạy học “lấy ngƣời dạy làm trung tâm”, sang quan điểm “lấy ngƣời học làm trung tâm” trong nhà trƣờng từ tiểu học đến đại học là một cuộc cách mạng về giáo dục. Thực chất là chuyển từ chỗ lấy “việc dạy làm trung tâm” sang lấy “việc học làm trung tâm”. Khi “lấy việc học làm trung tâm” thì phƣơng pháp giảng dạy và học tập trở nên có vai trò đặc biệt quan trọng. Đó cũng là tiền đề để ngành giáo dục nƣớc ta tiến hành công cuộc đổi mới phƣơng pháp Dạy - Học, đặc biệt là trong hệ thống giáo dục và đào tạo ở bậc đại học. Nâng cao chất lƣợng dạy và học trong đào tạo đại học, chuyển đổi hình thức đào tạo từ đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo học chế tín chỉ là các nội dung quan trọng mà công tác đào tạo đại học ở nƣớc ta đang thực hiện. Để thực hiện đƣợc yêu cầu đó rõ ràng cần phải có sự thay đổi từ gốc, tức là từ quá trình dạy và học trong từng môn học cụ thể. Chính vì vậy việc nghiên cứu thay đổi phƣơng pháp giảng dạy các môn học nói chung và môn Cơ sở Văn hóa Việt Nam nói riêng theo hƣớng phát huy tính chủ động sáng tạo của sinh viên đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trƣờng Đại học Dân lập Hải Phòng là một vấn đề mang tính bức thiết hiện nay. Chính vì lý do đó, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Nghiên cứu, ứng dụng phƣơng pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trƣờng 1 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  2. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng Đại học Dân lập Hải Phòng” cho công trình nghiên cứu khoa học cấp trƣờng của mình. 2. Mục đích của đề tài: Đề tài trƣớc hết đi sâu phân tích những điểm bất cập của phƣơng pháp giảng dạy đại học truyền thống trong xu thế hiện tại, từ đó từng bƣớc xây dựng nội dung cụ thể cho việc đổi mới phƣơng pháp, nâng cao chất lƣợng dạy và học môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam. Mục tiêu quan trọng là cung cấp và rèn luyện cho sinh viên kỹ năng và phƣơng pháp tƣ duy, phát huy tính chủ động sáng tạo của sinh viên, giúp sinh viên thực sự làm chủ kiến thức đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ tại trƣờng Đại học Dân lập Hải Phòng. 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề: Giảng dạy đại học, nâng cao chất lƣợng giảng dạy nói chung và đào tạo theo học chế tín chỉ nói riêng là vấn đề đã đƣợc đề cập đến trong rất nhiều tài liệu, các công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau. Gần đây, ngành giáo dục cũng thƣờng xuyên tổ chức nhiều cuộc hội thảo qui mô để bàn thảo về các vấn đề này. Ở nhiều trƣờng đại học, giảng viên cũng đƣợc yêu cầu từng bƣớc nghiên cứu, thay đổi phƣơng pháp giảng dạy đối với những môn học do mình phụ trách cho phù hợp với xu thế chung và yêu cầu của thời đại. Môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam là một môn học đƣợc giảng dạy trong nhiều trƣờng đại học, đặc biệt là dành cho sinh viên các ngành khoa học xã hội. Rải rác trên các website, đã có nhiều bài viết hay một phần giáo án điện tử đƣợc đăng tải đóng góp ý kiến thay đổi nội dung, phƣơng pháp giảng dạy một số bài giảng có trong chƣơng trình môn học. Gần đây nhất, năm 2004, đã có một công trình đề cập trực tiếp đến việc thay đổi phƣơng pháp dạy - học đối với môn học này do NXB Đại học Quốc gia Hà Nội ấn hành. Đó là cuốn “Đổi mới phương pháp dạy - học môn Cơ sở Văn hóa Việt Nam” do TS. Chu Thị Thanh Tâm - Đại học Ngoại ngữ (Đại học Quốc gia Hà Nội) và ThS. Trần Thúy Anh - Đại học 2 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  3. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội là đồng tác giả. Mục tiêu của các tác giả khi biên soạn công trình này là dựa vào phƣơng pháp Multimedia (đa phƣơng tiện), ứng dụng công nghệ thông tin để xây dựng một giáo án điện tử tƣơng đối hoàn chỉnh bằng phần mềm Powerpoint. Với phƣơng pháp này, các tác giả có thể định lƣợng khối kiến thức cần và đủ cho sinh viên, cung cấp cho sinh viên một hệ thống kiến thức về văn hóa học, về lịch sử cũng nhƣ những đặc điểm, đặc trƣng của văn hóa Việt Nam. Đồng thời, với việc mô hình hóa các kiến thức đó dƣới dạng tranh ảnh, bảng biểu, sơ đồ, các tác giả cũng giúp cho sinh viên tiếp cận sâu hơn với môn học và bƣớc đầu làm quen với việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình học tập môn học. Một đóng góp nữa của công trình nói trên là bên cạnh việc xây dựng một số bài giảng mẫu bằng Powerpoint, các tác giả cũng đƣa ra một hệ thống các câu hỏi và đề thi trắc nghiệm, bán trắc nghiệm, tự luận làm cơ sở cho việc đánh giá kết quả học tập của sinh viên. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu giảng dạy theo học chế tín chỉ, đòi hỏi cả ngƣời dạy và ngƣời học phải áp dụng nhiều phƣơng pháp giảng dạy và học tập đa dạng khác nhau. Việc sử dụng giáo án điện tử là một thế mạnh, nhƣng nếu quá lạm dụng có thể gây nên tâm lý nhàm chán và sự mất tập trung của ngƣời học. Chẳng hạn nhƣ nhiều sinh viên quá để tâm vào các hình ảnh, dẫn chứng minh họa mà đôi khi không chú ý đến những thuyết giảng và phân tích của giáo viên, trong khi điều này mới thực sự quan trọng. Hơn nữa, mỗi trƣờng đại học có một định hƣớng giáo dục và chƣơng trình đào tạo khác nhau, đặc thù của sinh viên mỗi khoa, mỗi ngành, mỗi trƣờng cũng không giống nhau nên việc áp dụng cứng nhắc một chƣơng trình giảng dạy hay sao chép của một trƣờng khác là điều không thể. Chính vì vậy, công tác nghiên cứu từ việc thiết kế chƣơng trình chi tiết môn học đến việc xác lập các hình thức tổ chức, đổi mới phƣơng pháp dạy - học phù hợp với yêu cầu lấy ngƣời học làm trung tâm nhằm nâng cao chất lƣợng dạy và học đối vói môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam ở trƣờng Đại học Dân lập Hải Phòng trong yêu cầu 3 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  4. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng chuyển đổi sang đào tạo theo học chế tín chỉ vẫn là một nội dung mới cần đƣợc tiến hành một cách khoa học và nghiêm túc. 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài: Trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của các thành tựu khoa học công nghệ trên thế giới hiện nay, việc đào tạo nguồn nhân lực đại học có chất lƣợng cao, chủ động sáng tạo, đáp ứng đƣợc yêu cầu phát triển của xã hội đang là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nƣớc ta. Do đó, việc đổi mới phƣơng pháp giảng dạy trong các trƣờng đại học và đối với từng môn học cụ thể đƣợc coi là một phần quan trọng đóng góp vào sự nghiệp giáo dục chung của đất nƣớc. Trƣờng Đại học Dân lập Hải Phòng hiện nay là một trong những trƣờng đi đầu trong công tác đổi mới phƣơng pháp giảng dạy. Để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi hình thức đào tạo từ đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo học chế tín chỉ của trƣờng, việc nghiên cứu, phân tích và đƣa ra các biện pháp cụ thể nhằm đổi mới phƣơng pháp dạy và học đối với các môn học nói chung và đối với môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam nói riêng càng có ý nghĩa thiết thực hơn bao giờ hết: Trƣớc hết, với tƣ cách là một trong những môn học cơ sở, việc tiến hành đổi mới phƣơng pháp giảng dạy môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao ý thức tự giác trong học tập, năng lực tự học, tự nghiên cứu; phát triển tƣ duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, nâng cao kỹ năng làm việc với ngƣời khác, kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin, kỹ năng trình bày, thảo luận cho sinh viên. Bên cạnh đó, trong quá trình đổi mới phƣơng pháp giảng dạy, vai trò của giảng viên là rất quan trọng. Thông qua việc nghiên cứu, ứng dụng các phƣơng pháp giảng dạy mới cũng góp phần hoàn thiện thêm kiến thức và kỹ năng của giảng viên, tăng cƣờng vai trò tổ chức, hƣớng dẫn, định hƣớng, điều 4 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  5. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng khiển của giảng viên đối với hoạt động học, hoạt động tƣ duy sáng tạo và rèn luyện kỹ năng của sinh viên. Đồng thời, thúc đẩy và tăng cƣờng mối liên kết giữa đào tạo và nghiên cứu khoa học; nâng cao chất lƣợng đào tạo nói chung, dạy học nói riêng. Cuối cùng, hy vọng sự thành công của đề tài cũng sẽ góp phần thúc đẩy việc triển khai phƣơng thức đào tạo theo tín chỉ tại trƣờng Đại học Dân lập Hải Phòng sớm đi đến thành công và đạt đƣợc nhiều kết quả tốt. 5. Phương pháp nghiên cứu: Đây là một đề tài vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn cao, do đó, để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng kết hợp một số phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản sau: Phương pháp thu thập và xử lý tư liệu: Là phƣơng pháp chính đƣợc sử dụng trong đề tài. Trên cơ sở thu thập thông tin tƣ liệu từ nhiều lĩnh vực, nhiều nguồn khác nhau có liên quan tới đề tài nghiên cứu, ngƣời viết sẽ xử lý, chọn lọc để có những kết luận cần thiết, có đƣợc tầm nhìn khái quát về vấn đề nghiên cứu. Phương pháp điều tra xã hội học: Phƣơng pháp này có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm hiểu nhu cầu học tập của sinh viên. Thông qua việc phỏng vấn trực tiếp hoặc phát phiếu điều tra, chúng tôi sẽ nắm bắt đƣợc tâm lý của sinh viên, yêu cầu của họ đối với giảng viên và đối với môn học, từ đó có định hƣớng để thay đổi phƣơng pháp giảng dạy cho phù hợp. Phương pháp chuyên gia: Bên cạnh việc tìm hiểu nhu cầu, sở thích, tâm lý của sinh viên, chúng tôi cũng quan tâm đến việc tham khảo ý kiến chuyên gia là những ngƣời có kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực văn hóa hoặc đã tham gia giảng dạy lâu năm đối với môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam. Trên 5 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  6. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng cơ sở đó sẽ rút ra những bài học cần thiết cho việc đổi mới phƣơng pháp giảng dạy của mình. Ngoài các phƣơng pháp kể trên, đề tài còn sử dụng kết hợp nhiều phƣơng pháp khoa học khác nhƣ phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp, mục đích là thống kê các đối tƣợng nghiên cứu, phân tích, so sánh, tổng hợp các thông tin và số liệu cũng nhƣ các vấn đề thực tiễn đƣợc tiến hành một cách hệ thống để phát hiện ra những đặc trƣng nổi bật của đối tƣợng nghiên cứu. 6. Kết cấu của đề tài: Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, kết cấu của đề tài đƣợc chia làm 3 chƣơng. Chƣơng 1 có tên là “Các vấn đề lý luận cơ bản về phương pháp giảng dạy đại học áp dụng trong học chế tín chỉ và tổng quan về môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam”. Chƣơng này sẽ trình bày về một số khái niệm, thuật ngữ, lý luận có liên quan đến phƣơng pháp giảng dạy đại học trong học chế tín chỉ, đồng thời giới thiệu những đặc điểm cơ bản của môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam - đối tƣợng nghiên cứu chính của đề tài. Chƣơng 2 - “Áp dụng một số phương pháp giảng dạy mới đối với môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam - kết quả và đánh giá” bao gồm các vấn đề sau: khảo sát về quá trình dạy và học môn Cơ sở Văn hóa Việt Nam theo hệ thống đào tạo niên chế trƣớc đây; trình bày về một số phƣơng pháp đã áp dụng (nội dung và những bài học thu đƣợc); kết quả điều tra khảo sát ý kiến sinh viên. Chƣơng 3 có tên gọi “Bổ sung một số phương pháp giảng dạy mới và đề xuất một số mô hình bài giảng- bài tập thực tế theo phương pháp giảng dạy tích cực lấy người học làm trung tâm” sẽ đề xuất thêm một số phƣơng pháp mới có thể áp dụng trong từng tiết học và nội dung học tập cụ thể, hy vọng có thể ứng dụng trong việc giảng dạy tại trƣờng Đại học Dân lập Hải Phòng trong các khóa học sau. 6 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  7. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng CHƢƠNG 1: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHƢƠNG PHÁP GIẢNG DẠY ĐẠI HỌC ÁP DỤNG TRONG HỌC CHẾ TÍN CHỈ VÀ TỔNG QUAN VỀ MÔN HỌC CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM 1.1. Khái quát các vấn đề lý luận cơ bản về phƣơng pháp giảng dạy đại học áp dụng trong học chế tín chỉ 1.1.1. Một số khái niệm và thuật ngữ 1.1.1.1. Phương pháp dạy học Phương pháp dạy học là hệ thống những cách thức hoạt động (bao gồm các hành động và thao tác) của giảng viên và sinh viên nhằm thực hiện tốt mục đích và nhiệm vụ dạy học xác định. Phƣơng pháp dạy học bao gồm phƣơng pháp giảng dạy (gọi tắt là phƣơng pháp dạy) và phƣơng pháp học tập (gọi tắt là phƣơng pháp học). - Phƣơng pháp dạy: là phƣơng pháp tổ chức hoạt động nhận thức cho ngƣời học, phƣơng pháp điều khiển các hoạt động trí tuệ và thực hành nhƣ dạy tự học, dạy học kiểu tìm hiểu, dạy học giải quyết vấn đề, phƣơng pháp giáo dục ý thức và thái độ đúng đắn cho sinh viên. - Phƣơng pháp học: là phƣơng pháp tự điều khiển hoạt động nhận thức và rèn luyện khả năng thu thập thông tin để hình thành hệ thống tri thức và kỹ năng thực hành, hình thành nhân cách của ngƣời học và thành đạt mục tiêu học tập. Hai phƣơng pháp này không tồn tại độc lập, tách rời nhau mà liên quan và phụ thuộc lẫn nhau, vừa là mục đích vừa là nguyên nhân tồn tại của nhau. 1.1.1.2. Đổi mới phương pháp dạy học 7 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  8. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng Đổi mới Phương pháp dạy học đƣợc hiểu là đổi mới nội dung, giáo trình, cách tiến hành các phƣơng pháp dạy và phƣơng pháp học, đổi mới các phƣơng tiện và hình thức triển khai phƣơng pháp trên cơ sở khai thác triệt để ƣu điểm của các phƣơng pháp truyền thống và vận dụng linh hoạt một số phƣơng pháp dạy - học tiên tiến nhằm nâng cao tính chủ động, sáng tạo, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, phát huy tối đa tính tích cực, chủ động và sáng tạo của ngƣời học, nâng cao năng lực tự học, tự nghiên cứu, nâng cao các kỹ năng cần thiết về nghề nghiệp, kỹ năng làm việc với ngƣời khác, kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin, kỹ năng trình bày, thuyết phục, kỹ năng tự phát triển 1.1.1.3. Tín chỉ và Học chế tín chỉ Tín chỉ là đại lƣợng đo khối lƣợng lao động học tập trung bình của ngƣời học, tức là toàn bộ thời gian mà một ngƣời học bình thƣờng phải sử dụng để học một môn học, bao gồm: 1) thời gian học tập trên lớp; 2) thời gian học tập trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc làm các phần việc khác đã đƣợc quy định ở đề cƣơng môn học; và 3) thời gian dành cho việc tự học ngoài lớp nhƣ đọc sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề hoặc chuẩn bị bài Tín chỉ còn đƣợc hiểu là khối lƣợng kiến thức và kỹ năng theo yêu cầu của môn học mà ngƣời học cần phải tích luỹ đƣợc trong một khoảng thời gian nhất định. Bản chất của Học chế tín chỉ là thực hiện một qui trình đào tạo: Bƣớc thứ nhất đó là thực hiện phƣơng châm “Tất cả vì ngƣời học”. Đây là cách tốt nhất đáp ứng các mong muốn của ngƣời học khi học đại học. Mục tiêu thứ hai của đào tạo tín chỉ là mang lại hiệu quả đào tạo cao. Hiệu quả đào tạo đƣợc xác định dựa trên chất lƣợng và hiệu suất đào tạo. Hiệu quả đào tạo chỉ cao khi chất lƣợng đào tạo đáp ứng đƣợc yêu cầu về nguồn nhân lực của xã hội và có hiệu suất cao thể hiện qua việc khai thác triệt để các 8 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  9. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng nguồn lực nhƣ nhân lực, vật lực, tài lực để đào tạo. Đặc điểm thứ ba của đào tạo theo tín chỉ là “Công nghệ hóa đào tạo” bằng cách áp dụng qui trình đào tạo mang tính công nghệ cao, phù hợp với yêu cầu và điều kiện của thời đại. Yêu cầu thứ tƣ của đào tạo theo hệ thống tín chỉ là phải “thích ứng với kinh tế thị trƣờng”, tuân theo qui luật giá trị, canh tranh làm động lực không ngừng nâng cao chất lƣợng (ngƣời học đƣợc chọn thày, chọn môn học ) và nguồn nhân lực chuyển đổi ngành nghề nhanh. Mục tiêu cuối cùng của đào tạo tín chỉ là từng bƣớc tiến tới đáp ứng xu thế toàn cầu hóa, cho phép chuyển đổi, trao đổi và liên thông toàn cầu1. Theo hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ, vai trò của ngƣời học đƣợc phát huy tích cực tối đa dựa trên sự trợ giúp của ngƣời giáo viên và ảnh hƣởng của môi trƣờng xung quanh chi phối. Do đó, trong các mục tiêu trên, việc thực hiện phƣơng châm “Tất cả vì ngƣời học” đƣợc đặt lên hàng đầu. Chính vì vậy khi đề cập đến việc đổi mới phƣơng pháp giảng dạy cho phù hợp với yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ, hầu hết chúng ta đều hiểu đó là việc chuyển đổi từ phƣơng pháp giảng dạy truyền thống lấy “giáo viên làm trung tâm” sang phƣơng pháp giảng dạy lấy “Ngƣời học làm trung tâm”. Sự khác biệt giữa hai mô hình và hai phƣơng pháp giảng dạy này có thể đƣợc hình dung qua bảng sau: 1 Phần 1.1.1 chủ yếu trích dẫn từ văn bản HƢỚNG DẪN SỬ DỤNG PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÙ HỢP VỚI PHƢƠNG THỨC ĐÀO TẠO THEO TÍN CHỈ của Đại học Quốc gia Hà Nội, ban hành ngày 11/8/2006. 9 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  10. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng Giáo viên làm trung tâm Học viên làm trung tâm Truyền Kiến thức đƣợc truyền thụ từ Kiến thức xây dựng đƣợc từ thụ kiến giáo viên đến học viên theo ngƣời học qua việc thu thập, thức những gì giáo viên nói, đƣợc tổng hợp và tích hợp thông tin tiếp thu và đƣợc học bởi học với các kỹ năng nhƣ điều tra, viên. trao đổi cũng nhƣ tƣ duy phê phán và tƣ duy sáng tạo. Tiếp Sinh viên thƣờng thụ động Sinh viên có nhiệm vụ và vai trò nhận (không có vai trò, kế hoạch tích cực (có kế hoạch trong việc kiến trong việc học; chỉ ngồi nghe học, tác động với giảng viên và thức giảng). các học viên khác, nghiên cứu và đánh giá). Sử dụng Nhấn mạnh lĩnh hội kiến thức Nhấn mạnh sử dụng và trao đổi kiến (thƣờng là nhớ thông tin) kiến thức có hiệu quả nhằm vào thức ngoài bối cảnh thực tế mà kiến những vấn đề mà giống nhƣ sẽ thức đƣợc sử dụng. gặp trong đời sống thực. Vai trò Giáo viên là ngƣời tạo ra kiến Giảng viên nhƣ ngƣời hƣớng của giáo thức và điều khiển các hoạt dẫn, cố vấn, huấn luyện và thúc viên động. đẩy việc học. Thời - Học trong thời gian ngắn: - Học lâu dài: nhấn mạnh vào gian và nhấn mạnh vào việc cạnh việc học suốt đời. địa điểm tranh công việc đƣợc phân và học tập học cho các co thi. - Học bắt buộc ở nơi cố định - Có thể học ở bất cứ nơi nào. (phòng học, thƣ viện, phòng labs). 10 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  11. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng Kiểm Kiểm tra đánh giá đƣợc sử Ngoài đánh giá kết quả học tập, tra đánh dụng để đánh giá kết quả học kiểm tra đánh giá còn đƣợc sử giá tập. Giáo viên là ngƣời đánh dụng để khảo sát vấn đề và thúc giá kết quả học tập. đẩy việc học sâu hơn. Giáo viên và học viên cùng đánh giá kết quả học tập. Văn hóa Văn hóa học là cạnh tranh và Văn hóa học là hợp tác, cộng tác học cá thể hóa. và trợ giúp. (Tổng hợp lại từ Lê Đức Ngọc và Cao Xuân Liễu, Khoa Sƣ phạm - Trƣờng đại học Đà Lạt, PHƢƠNG PHÁP SƢ PHẠM TƢƠNG TÁC VÀ HÌNH THỨC ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ) Với sự so sánh và đối chiếu nhƣ trên, khi tiến hành đổi mới phƣơng pháp giảng dạy áp dụng đối với từng môn học cụ thể, giáo viên có thể căn cứ vào sự khác biệt đó để có sự thay đổi cho phù hợp với mục tiêu và yêu cầu của chƣơng trình đào tạo theo học chế tín chỉ của Bộ Giáo dục và Đào tạo nói chung và của trƣờng mình nói riêng. 1.1.2. Nội dung của phương pháp dạy học ở trường đại học Nhƣ chúng ta đã biết, phƣơng pháp dạy học bao gồm phƣơng pháp dạy và phƣơng pháp học. Nhƣng để ngƣời học phát huy đƣợc phƣơng pháp học chủ động, sáng tạo của mình thì ngoài việc truyền đạt kiến thức đến ngƣời học, việc dạy cách học cho ngƣời học cũng là một vấn đề cần đƣợc đặt lên hàng đầu trong các trƣờng đại học. Hầu hết các môn học hiện nay mới chỉ chú trọng đến việc làm sao để ngƣời học tiếp thu đƣợc thật nhiều kiến thức lý thuyết của môn học mà chƣa quan tâm đến việc kiến thức của từng môn học cần phải đƣợc tiếp nhận theo nhiều cách thức và bằng nhiều phƣơng pháp khác nhau. Chính vì vậy, trƣớc khi tiến hành đổi mới phƣơng pháp dạy - học, thiết nghĩ mỗi giáo viên cần chuẩn bị cho mình những kiến thức nền tảng để có thể dạy cho sinh viên những cách thức tiếp cận đối với môn học mà mình phụ trách. 11 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  12. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng Dạy cách học về cơ bản, có thể chia thành các nội dung sau: 1.1.2.1. Dạy cách lập kế hoạch học tập Trƣớc hết cần dạy cho sinh viên cách lập kế hoạch phấn đấu trong học tập với mục tiêu cụ thể để có mục tiêu phấn đấu, để phân biệt đƣợc việc chính với việc phụ, việc làm ngay với việc sẽ phải làm và đánh giá kết quả thực hiện mục tiêu phấn đấu để từng bƣớc tích lũy kết quả học tập. Sau đó, cần dạy cho sinh viên cách lập kế hoạch sử dụng thời gian để làm chủ đƣợc quĩ thời gian và không quên các việc sẽ phải làm, không bị động trƣớc rất nhiều các tƣ liệu cần phải đọc và các công việc phải hoàn thành đúng hạn 1.1.2.2. Dạy cách nghe giảng và ghi bài trên lớp Nguyên tắc chính của việc nghe - ghi là nghe - ghi đầy đủ, tỉ mỉ để có khả năng kết hợp cao nhất đồng thời thính giác, thị giác và tri giác, nhờ đó hiểu và tái hiện thông tin - tri thức một cách dễ dàng và sâu sắc nhất. Trong quá trình nghe - ghi cần áp dụng linh hoạt các thủ thuật nghe - ghi tùy theo đặc điểm của từng môn học, có thể dùng các cách viết tắt, viết gạch chân để nhấn mạnh và dễ nhớ. Qua cách ghi bài cũng cho thấy khả năng nắm bắt, nhìn nhận và phân tích vấn đề của từng sinh viên. Sinh viên có thể ghi bài tùy theo cách hiểu và mối quan tâm đến nội dung bài giảng của mình. 1.1.2.3. Dạy cách học bài Để chuẩn bị cho buổi học tiếp theo hoặc kiểm tra lại những kiến thức đã đƣợc học, ngƣời học cần phải biết cách học bài. Học bài có thể theo hai phƣơng pháp: Tự học hoặc Học nhóm. Nếu là tự học, ngƣời học có thể áp dụng cách tự học theo các bậc nhận thức cao dần nhƣ học vận dụng, học phân tích, học tổng hợp và học bình luận đánh giá từng kiến thức, học tƣ duy trừu tƣợng, tƣ duy phê phán, tƣ duy sáng tạo trong mối quan hệ hệ thống của các 12 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  13. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng kiến thức. Bên cạnh việc tự học, việc học nhóm cũng rất quan trọng. Đây là cách học rất tốt để giúp sinh viên có cơ hội học cách giao tiếp, học cách trình bầy diễn giải bằng lời, học cách thuyết phục đồng nghiệp, học cách quản lý và tổ chức từ một nhóm nhỏ học tập đến một hội thảo đông đảo, học cách tham khảo trí tuệ của bạn học và những ngƣời khác Tuy nhiên không phải sinh viên nào cũng sẵn sàng cho việc học nhóm và biết cách học nhóm, vì vậy nhiệm vụ của giáo viên là giúp họ vƣợt qua những trở ngại về tâm lý, khuyến khích họ tham gia vào các hoạt động tập thể, định hƣớng cho họ và khơi dậy tiềm năng sẵn có của mỗi ngƣời để có kết quả học tập tốt nhất. 1.1.2.4. Dạy cách đọc tài liệu Với mỗi môn học, ngoài giáo trình chính, tài liệu tham khảo có thể có rất nhiều, nhƣng nếu không biết cách đọc, tài liệu đó sẽ trở nên vô ích. Vì vậy, ngoài việc giới thiệu tên sách, các công trình nghiên cứu hoặc tài liệu tham khảo, các website , giáo viên cũng nên hƣớng dẫn cho sinh viên cách chọn tài liệu đọc, một là phù hợp với mục tiêu môn học, hai là phù hợp với trình độ ngƣời học, ba là phù hợp với mức độ quan tâm đến môn học (ví dụ nhƣ một số sinh viên có hứng thú với môn học thƣờng tìm đọc thêm những tài liệu cho phép họ đào sâu hoặc mở rộng thêm kiến thức ). Chọn đƣợc tài liệu rồi, nhƣng cách đọc nhƣ thế nào (đọc kỹ hay đọc lƣớt, đọc để biết hay đọc để thu nạp kiến thức ) và cách ghi lại những điều học đƣợc từ tài liệu nhƣ thế nào cũng rất quan trọng. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực và ý thức rất lớn từ phía ngƣời học. Nhƣng nếu đƣợc trang bị kiến thức nền tảng đầy đủ, chắc chắn ngƣời học sẽ biết đọc tài liệu và ghi chép lại phục vụ cho việc lƣu giữ thông tin, bổ sung vào bài giảng của giáo viên đồng thời nâng cao năng lực tự học, nâng cao tri thức, nhận thức của bản thân. 13 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  14. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng 1.1.2.5. Dạy cách nghiên cứu và giải quyết vấn đề Biết cách nghiên cứu và giải quyết vấn đề là một trong những đòi hỏi đầu tiên của hệ thống đào tạo theo học chế tín chỉ. Đây là phƣơng thức tốt nhất góp phần nâng cao khả năng chủ động, sáng tạo, nâng cao năng lực tƣ duy của ngƣời học. Quá trình này gồm có ba bƣớc. Bƣớc thứ nhất là dạy cách chọn vấn đề (theo ý nghĩa khoa học hay ý nghĩa thực tiễn; theo sở thích hay theo hệ thống nghiên cứu của giáo viên ). Bƣớc thứ hai là dạy cách nghiên cứu vấn đề, từ cách xây dựng đề cƣơng nghiên cứu; cách thu thập tƣ liệu; cách viết tổng quan; cách phân tích, tổng hợp và bình luận đánh giá các tƣ liệu thu thập đƣợc cho đến việc đề xuất phƣơng hƣớng giải quyết vấn đề Bƣớc thứ ba là dạy cách giải quyết vấn đề thông qua việc chọn lọc phƣơng pháp giải quyết vấn đề, các bƣớc triển khai giải quyết vấn đề, các thử nghiệm giải quyết vấn đề và cách kiểm tra đánh giá kết quả giải quyết vấn đề. Tóm lại, sau khi sinh viên đã đƣợc trang bị và tìm hiểu về phƣơng pháp học trong trƣờng đại học, thì việc đổi mới phƣơng pháp giảng dạy của giáo viên mới có thể tiến hành thuận lợi và có kết quả nhƣ mong muốn. Nhƣng với thời lƣợng nhất định của từng môn học, việc dạy cách học cho sinh viên khó có thể thực hiện toàn bộ ngay từ đầu, vì vậy đòi hỏi giáo viên trong quá trình lên lớp, cùng với việc thiết kế các mô hình bài giảng, tùy theo yêu cầu của bài giảng có thể kết hợp hƣớng dẫn sinh viên thêm từng cách học phù hợp với bài giảng đó. Điều này sẽ cho sinh viên học hiệu quả hơn đồng thời tăng cƣờng hứng thú với môn học2. 2 Phần 1.1.2 chủ yếu trích dẫn theo Lê Đức Ngọc, PHƢƠNG PHÁP DẠY VÀ HỌC ĐẠI HỌC ÁP DỤNG TRONG HỌC CHẾ TÍN CHỈ. 14 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  15. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng 1.2. Phân tích đặc điểm của môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam Những năm gần đây, nhận thức về vai trò của văn hóa ở nƣớc ta đƣợc nâng lên đúng với giá trị đích thực của nó. Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành Trung ƣơng khóa VII đã khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ phát triển của một dân tộc, là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa ngƣời với ngƣời, với xã hội và với thiên nhiên. Nó vừa là một động lực thúc đẩy vừa là một mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của chúng ta3. Cùng chung nhận định đó, cố thủ tƣớng Phạm Văn Đồng cũng đã từng nhấn mạnh rằng: “Văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vƣợt qua biết bao sóng gió và thác ghềnh tƣởng chừng không thể vƣợt qua đƣợc, để không ngừng phát triển và lớn mạnh”. Nhận thức đƣợc vai trò to lớn của văn hóa, tại Hội nghị lần thứ 8 của ủy ban quốc gia về Thập kỉ phát triển văn hóa của Việt Nam đƣợc tổ chức vào tháng 12-1994, đã đƣa ra kiến nghị: “Bộ Giáo dục và Đào tạo cần đƣa vào chƣơng trình giảng dạy ở các trƣờng học nội dung bảo vệ và phát huy các di sản văn hóa, giáo dục cho thanh niên và học sinh về giá trị của văn hóa dân tộc và di sản văn hóa Việt Nam, nâng cao lòng tự hào dân tộc và ý thức bảo vệ di sản văn hóa”. Ngày 10-1-1995, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã kí công văn số 173/VP về việc tăng cƣờng giáo dục các giá trị văn hóa dân tộc và di sản văn hóa Việt Nam, yêu cầu các cơ quan có liên đới chuẩn bị hệ thống giáo trình, chính thức đƣa vào chƣơng trình giáo dục đại học, cao đẳng môn Cơ sở Văn hóa Việt Nam nhƣ một môn học đại cƣơng bắt buộc với nhóm ngành khoa học xã hội, để phục vụ việc học tập của sinh viên. Để đáp ứng yêu cầu giảng dạy và học tập đối với môn học còn rất mới này, một số nhà khoa học đã đƣợc Bộ Giáo dục và Đào tạo phân công biên 3 Dẫn lại theo Trần Quốc Vƣợng, Lời nói đầu giáo trình CSVHVN, trang 5. 15 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  16. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng soạn giáo trình. Trải qua nhiều lần bổ sung, hoàn thiện, đến nay có hai cuốn giáo trình chính thức đƣợc sử dụng trong các trƣờng đại học và cao đẳng. Mặc dù cùng có tên là “Cơ sở Văn hóa Việt Nam” nhƣng một cuốn do GS. Trần Quốc Vƣợng chủ biên, cuốn còn lại do GS.VS. Trần Ngọc Thêm biên soạn. Giáo trình của Trần Ngọc Thêm đƣợc sử dụng chủ yếu ở các trƣờng phía Nam, còn tại các trƣờng phía Bắc, thƣờng có khuynh hƣớng sử dụng kết hợp cả hai cuốn giáo trình này. Nhƣ vậy, có thể coi môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam là một trong những bộ môn khoa học mới thuộc lĩnh vực Văn hóa học. Nhƣng nhƣ chúng ta đều biết, trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn, khái niệm văn hóa khá mơ hồ và đƣợc nhận thức rất khác nhau. Xuất phát từ nền tảng ban đầu đó, đã hình thành nên những đặc thù rất riêng của môn học này. Trƣớc hết, đây là một môn học nặng về lý thuyết. Mục tiêu chính của môn học là nhằm cung cấp cho sinh viên những tri thức cơ bản, cần thiết cho việc hiểu một nền văn hóa, giúp họ nắm đƣợc những đặc trƣng cơ bản cùng các qui luật hình thành và phát triển của văn hóa Việt Nam. Nội dung cụ thể là cung cấp các khái niệm về văn hóa, chức năng của văn hóa, đặc trƣng của văn hóa , từ đó đi sâu vào tìm hiểu các thành tố của văn hóa Việt Nam nhƣ Văn hóa nhận thức, Văn hóa tổ chức đời sống tập thể, Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân, Văn hóa ứng xử với môi trƣờng tự nhiên, Văn hóa ứng xử với môi trƣờng xã hội. Với một nội dung phong phú nhƣ vậy, rất khó để giáo viên truyền tải đƣợc đầy đủ lƣợng kiến thức cần thiết đến sinh viên mà không gây cho họ tâm lý e ngại, và cũng không dễ để sinh viên tiếp nhận một cách hệ thống những yêu cầu và kiến thức của môn học. Thứ hai, đây là một môn học có liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa học nhƣ Ngôn ngữ, Văn chƣơng, Mỹ thuật, Nghệ thuật, Lịch sử, Địa lý, Tôn giáo nên đòi hỏi cả ngƣời dạy và ngƣời học vừa phải có kiến thức sâu và 16 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  17. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng rộng, vừa phải có tƣ duy rõ ràng để có thể xem xét và nhìn nhận các vấn đề một cách vừa bao quát vừa cụ thể. Không chỉ có vậy, lƣợng kiến thức rộng của môn học còn đến từ việc tích hợp đa chiều cả kiến thức thực tế và kiến thức thu thập đƣợc trong sách vở. Chính vì vậy, việc tích lũy kiến thức, chọn lọc và phân loại, giữ lại những gì cần thiết cũng là một yêu cầu không đơn giản đối với cả ngƣời dạy và ngƣời học. Tuy nhiên, với việc kết hợp tìm hiểu những vấn đề có trong thực tế, cho phép ngƣời học có đƣợc cái nhìn đa chiều hơn, có cơ hội vận động tƣ duy, qua đó tăng cƣờng sự hứng thú với môn học, nâng cao khả năng chủ động sáng tạo trong quá trình học tập. Một khó khăn nữa nhƣng cũng là một thuận lợi đối với môn học. Đó là giáo trình đƣợc viết theo những quan điểm khác nhau và số lƣợng tài liệu tham khảo để giảng dạy và học tập là rất lớn. Do đó, có thể phát huy tối đa tính chủ động của sinh viên trong việc tìm tòi và cập nhật tài liệu, chuẩn bị bài trƣớc khi đến lớp. Mặt khác, ngƣời học cũng có thể so sánh, đối chiếu các nguồn tài liệu, các quan điểm của các nhà văn hóa, các nhà nghiên cứu để làm cho kiến thức môn học thu thập đƣợc sâu hơn, đa dạng và đa chiều hơn. Song, ngƣời học cũng dễ dàng vấp phải một vấn đề là tài liệu có thể có nhiều nguồn, cả chính thức và không chính thức, đã đƣợc công nhận hoặc đôi khi chỉ là ý kiến chủ quan của một ngƣời nào đó không có chuyên môn về lĩnh vực Văn hóa học. Với thực trạng công nghệ thông tin bùng nổ nhƣ hiện nay, việc gửi thông tin và download thông tin trên mạng Internet là rất phổ biến. Chỉ cần đánh một cụm từ cần tìm trên một số trang web chuyên về tìm kiếm thông tin, website sẽ trả về cho chúng ta từ vài tới vài trăm, thậm chí là vài ngàn kết quả từ các trang có liên quan. Khi đó, thật khó cho ngƣời tìm kiếm có thể xác định thông tin nào là cần thiết, thông tin nào là chính xác nếu nhƣ anh ta không có một lƣợng kiến thức và một sự định hƣớng nhất định để phân biệt. Tình trạng này rất dễ xảy ra với sinh viên khi họ chƣa đƣợc cung cấp đầy đủ những yêu 17 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  18. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng cầu và hiểu biết tổng quan về môn học trƣớc khi học. Bên cạnh những tri thức hữu ích, rất có thể ngƣời học cũng tiếp thu luôn những hệ quan điểm sai lầm hoặc những kiến thức chƣa đƣợc đánh giá, phân loại và kiểm chứng. Đây sẽ là một khó khăn cho giáo viên trong việc định hƣớng lại mục đích học cho ngƣời học. Một đặc thù nữa của môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam, đó là với tƣ cách là một bộ môn của Văn hóa học, môn học này mang đầy đủ những đặc trƣng của “Văn hóa”. Văn hóa vốn dĩ là một khái niệm rất mơ hồ, cùng một sự kiện, một vấn đề nhƣng văn hóa cho phép ngƣời ta nhìn nhận nó dƣới nhiều góc độ, nhiều quan điểm khác nhau. Văn hóa không phải là một thứ bất biến, trái lại nó luôn luôn vận động, luôn luôn thay đổi cùng những biến động của xã hội. Nền văn hóa Việt Nam mặc dù đã đƣợc định hình qua thời gian và qua truyền thống văn hóa, nhƣng các bậc thang giá trị của văn hóa Việt Nam không phải khi nào cũng đƣợc nhìn nhận nguyên vẹn nhƣ vậy. Một giá trị văn hóa đƣợc khẳng định dƣới thời kỳ lịch sử này, rất có thể thời kỳ sau ngƣời ta lại phủ định nó; dƣới cái nhìn lịch đại hoặc đồng đại, ngƣời ta sẽ xem xét các giá trị văn hóa không giống nhau Vì thế, trong hàng ngàn tài liệu tham khảo, đối diện với nhiều hệ thống quan điểm, và với một gia tài văn hóa đồ sộ của dân tộc, nhiệm vụ của ngƣời giáo viên là phải biết chọn lọc ra những giá trị văn hóa đặc sắc nhất, những di sản văn hóa đã đƣợc công nhận, những vấn đề ít bị bàn cãi nhất, để có thể cung cấp cho sinh viên một hệ thống kiến thức cơ sở và cơ bản nhất về nền văn hóa Việt Nam đúng nhƣ tên gọi của môn học - Cơ sở Văn hóa Việt Nam - chỉ trong một giới hạn thời lƣợng chƣơng trình khiêm tốn 2 đến 3 tín chỉ. Bên cạnh rất nhiều những khó khăn kể trên, môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đƣợc giảng dạy trong nhà trƣờng nhằm mục đích giới thiệu cho thế hệ sinh viên - thanh niên biết về gia tài văn hóa của dân tộc, từ đó có ý thức tiếp tục giữ gìn, phát huy và xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, 18 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  19. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng đậm đà bản sắc dân tộc. Với nội dung phong phú, đề cập đến mọi lĩnh vực của văn hóa đất nƣớc, từ văn hóa vật chất đến văn hóa tinh thần, đây là môn học đòi hỏi tích hợp trong nó nhiều tƣ liệu minh họa bằng âm thanh, màu sắc và hình ảnh động. Với sự trợ giúp của công nghệ thông tin, việc đƣa những tƣ liệu này vào minh họa cho bài giảng không còn là vấn đề quá khó. Công nghệ thông tin cho phép giới thiệu những biểu hiện văn hóa một cách trực quan sinh động, đƣa sinh viên đi vào cuộc sống văn hóa một cách tự nhiên, thoải mái, đầy hấp dẫn với kho dữ liệu phong phú, đa dạng của văn hóa nhờ công nghệ thông tin tích hợp và lƣu giữ trong nhiều kênh. Sinh viên có thể sống trong môi trƣờng cộng sinh văn hóa (nhiều nền văn hóa), nhất là đối với văn hóa Việt Nam, một nền văn hóa nằm ở ngã tƣ đƣờng, có sự tiếp xúc lâu dài với các nền văn hóa trong khu vực, phƣơng Đông và phƣơng Tây. Đây cũng chính là một tiền đề quan trọng cho phép giáo viên và sinh viên có thể tiến hành đổi mới đồng thời cả hai phƣơng pháp dạy và học. Việc tìm kiếm tƣ liệu minh họa cho sinh viên giúp cho bài giảng của giáo viên sâu hơn, cuốn hút hơn; còn đối với sinh viên, bên cạnh những minh họa do giáo viên cung cấp, họ hoàn toàn có thể chủ động tìm kiếm thêm các nguồn tƣ liệu có liên quan khác phục vụ cho phần bài tập hoặc làm chuyên đề theo yêu cầu của giáo viên Một đặc điểm cuối cùng, với tên gọi Cơ sở Văn hóa Việt Nam, môn học chỉ làm nhiệm vụ cung cấp những kiến thức cơ sở nhất về nền văn hóa lâu đời của dân tộc. Điều này cũng có nghĩa là kiến thức về môn học trên thực tế là bao la, không bờ bến, nên nếu không cẩn trọng, giảng viên và sinh viên dễ bị “sa đà”. Vì thế, khi giảng dạy môn học này, cần phải coi việc gợi mở những hiểu biết và cảm nhận sẵn có về văn hóa dân tộc trong mỗi con ngƣời, trong mỗi sinh viên mới là điều quan trọng nhất, chứ không phải là sự áp đặt một cách có hệ thống những quan điểm, những suy nghĩ của ngƣời giáo viên. Có nhƣ vậy, mới thực sự thực hiện đƣợc mục tiêu “nâng cao tính chủ động sáng tạo của ngƣời học” mà hệ thống đào tạo theo học chế tín chỉ đã đề ra. 19 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  20. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng 1.3. Tiểu kết Để đáp ứng yêu cầu giảng dạy theo học chế tín chỉ, việc đổi mới phƣơng pháp giảng dạy và học tập đối với từng môn học cụ thể là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, việc đổi mới đó không phải đƣợc tiến hành một cách tùy tiện hay nóng vội mà cần phải có sự định hƣớng lâu dài. Khi tiến hành đổi mới phƣơng pháp giảng dạy, giáo viên cần phải căn cứ vào nhiều yếu tố để tìm ra sự thay đổi phù hợp nhƣ: mục đích đào tạo của trƣờng, chƣơng trình đào tạo, điều kiện cơ sở vật chất, đặc thù của môn học, đặc điểm tâm lý sinh viên, các chuyên ngành đào tạo Với môn học nặng về lý thuyết nhƣ môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam, không thể áp dụng phƣơng pháp nhƣ đối với những môn học chuyên về thực hành, thí nghiệm Mặt khác, tiến hành đổi mới phƣơng pháp giảng dạy cũng cần phải linh hoạt, không nên máy móc áp dụng một phƣơng pháp hay một mô hình bài giảng mà phải có sự kết hợp nhiều phƣơng pháp khác nhau trong cùng một buổi lên lớp, thậm chí là trong một tiết giảng để buổi học không rơi vào sự nhàm chán. Ngoài ra, cũng phải căn cứ vào tình hình thực tiễn của lớp học, đặc điểm của sinh viên lớp đó (lớp đông hay lớp ít, thời khóa biểu, cơ sở vật chất ) để có những thay đổi cho phù hợp. Trƣớc khi đi sâu vào việc đề xuất những phƣơng pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam tại trƣờng Đại học Dân lập Hải Phòng, chúng ta cần khảo sát qua thực trạng dạy và học môn học này tại trƣờng trƣớc và khi bắt đầu việc thực hiện hệ đào tạo theo tín chỉ. 20 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  21. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng CHƢƠNG 2: ÁP DỤNG MỘT SỐ PHƢƠNG PHÁP GIẢNG DẠY MỚI ĐỐI VỚI MÔN HỌC CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM - KẾT QUẢ VÀ ĐÁNH GIÁ 2.1. Phân tích thực trạng công tác giảng dạy và học tập môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam tại trƣờng ĐHDLHP trƣớc và khi bắt đầu Đổi mới 2.1.1. Về đề cương môn học: Trƣờng Đại học Dân lập Hải Phòng trƣớc đây có 6 ngành đƣa môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam vào trong chƣơng trình đào tạo. Đó là các ngành Văn hóa du lịch, ngành Tiếng Anh, ngành Tiếng Trung, ngành Kế toán kiểm toán, ngành Quản trị doanh nghiệp và ngành Quản trị du lịch văn phòng. Từ năm học 2007-2008, ngành Kế toán kiểm toán và ngành Quản trị doanh nghiệp chỉnh sửa nội dung chƣơng trình đào tạo và đã bỏ môn học này ra khỏi chƣơng trình. Đồng thời, từ khóa 11, nhà trƣờng tạm dừng đào tạo đối với ngành Quản trị du lịch văn phòng. Vì vậy, bây giờ chỉ còn các ngành Văn hóa du lịch, Tiếng Anh và Tiếng Trung là tiếp tục giảng dạy Cơ sở Văn hóa Việt Nam. Thời gian đầu, do chƣa có đủ giáo viên cơ hữu đảm nhận môn học này nên nhà trƣờng đã mời một số giáo viên thỉnh giảng tham gia giảng dạy. Thời gian tiếp theo đó là sự kết hợp giảng dạy giữa giáo viên cơ hữu của nhà trƣờng với các giáo viên thỉnh giảng vì số lƣợng lớp học khá nhiều và đều học vào học kỳ đầu tiên của năm thứ nhất. Từ năm học 2006-2007, với 2 giáo viên cơ hữu, dần dần đã có thể đảm nhận hoàn toàn công tác giảng dạy môn học này trong trƣờng. Đề cƣơng môn học đầu tiên do các giáo viên thỉnh giảng biên soạn và chủ yếu giảng dạy theo giáo trình của GS.VS. Trần Ngọc Thêm. Với thời lƣợng 45 tiết, đề cƣơng chủ yếu đi sâu vào các phần Văn hóa nhận thức và 21 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  22. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng Văn hóa tổ chức đời sống tập thể, Văn hóa ứng xử với môi trƣờng xã hội. Những kiến thức sinh viên đƣợc học, đƣợc ghi và thi không nằm ngoài nội dung của giáo trình chính. Số lƣợng câu hỏi ôn tập cũng hạn chế (18 câu), chƣa bao quát toàn bộ nội dung của chƣơng trình. Từ năm học 2006-2007, theo yêu cầu của nhà trƣờng và cũng là nằm trong mục tiêu và tiến trình chuyển đổi từ đào tạo niên chế sang đào tạo theo tín chỉ, Bộ môn Văn hóa du lịch (Bộ môn phụ trách môn học) tiến hành rà soát và chỉnh sửa lại đề cƣơng chi tiết. Đề cƣơng mới này vẫn có thời lƣợng là 45 tiết nhƣng sự phân bổ giữa các nội dung đã đồng đều hơn, một số phần trƣớc đây chƣa đƣợc chú trọng nhƣ Không gian văn hóa Việt Nam (Vùng văn hóa), Tiến trình văn hóa Việt Nam đƣợc tăng số tiết, một số phần khác giảm số tiết nhƣng vẫn đảm bảo đƣợc nội dung kiến thức cần truyền tải. Mặt khác, trong nội dung giảng dạy, các giáo viên cũng đã chú trọng kết hợp giáo trình của miền Nam (của GS.VS. Trần Ngọc Thêm) với giáo trình đƣợc giảng dạy ở một số trƣờng trọng điểm của miền Bắc (giáo trình do GS. Trần Quốc Vƣợng chủ biên). Đồng thời số lƣợng câu hỏi cũng nhiều hơn và dàn đều hơn, không tập trung vào một số vấn đề chính nhƣ trƣớc đây, đòi hỏi sinh viên phải nỗ lực học tập nhiều hơn. Trƣớc khi năm học 2008-2009 bắt đầu, theo yêu cầu của phòng Đào tạo, Bộ môn Văn hóa du lịch tiến hành chỉnh sửa và xây dựng lại đề cƣơng một lần nữa nhằm phục vụ cho đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Từ 3 đơn vị học trình, đề cƣơng mới tƣơng đƣơng với 2 đơn vị tín chỉ. Điều đáng lƣu ý là nếu đề cƣơng trƣớc đây chỉ thuần túy là lý thuyết (thực tế trong quá trình học, cũng có giáo viên kết hợp cho sinh viên làm bài tập hoặc thực hành nhƣng chƣa thành qui định chung) thì đề cƣơng mới đã có sự phân định rất rõ ràng giữa thời lƣợng của lý thuyết (70%) và thực hành (30%). Điều này buộc giáo viên phải thay đổi phƣơng pháp giảng dạy đã theo lối mòn, chủ động điều tiết nhiều hoạt động khác nhau trong một tiết học hơn; đồng thời đề cƣơng mới cũng yêu cầu 22 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  23. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng sinh viên phải làm việc nhiều hơn, tích cực hơn để có thể làm chủ đƣợc kiến thức từ nhiều nguồn, nhiều kênh thông tin khác ngoài giáo viên. Học kỳ 1 năm học vừa rồi, đề cƣơng tín chỉ đã đƣợc áp dụng giảng dạy cho ngành Văn hóa du lịch khóa 12 và Cao đẳng du lịch khóa 5, và bƣớc đầu đã đạt đƣợc những kết quả nhất định. Cùng với ngân hàng câu hỏi cũng đƣợc áp dụng trong học kỳ đó, việc học của sinh viên không còn giới hạn trong một số câu hỏi nhƣ trƣớc mà đã bao quát toàn bộ nội dung của chƣơng trình học. 2.1.2. Về phương pháp giảng dạy: Trƣớc khi tiến hành đổi mới phƣơng pháp giảng dạy theo yêu cầu của hệ thống tín chỉ, phƣơng pháp chủ yếu đƣợc các giáo viên áp dụng đó là thuyết giảng (giảng lý thuyết) theo cách thức truyền thống Thầy giảng Trò ghi. Môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam vốn là một môn học nặng về lý thuyết, nên lƣợng kiến thức sinh viên phải làm quen, phải ghi và phải học khá nhiều. Theo thông lệ trƣớc đây, để phục vụ mục đích thi cử, nên những gì sinh viên đƣợc ghi thƣờng không nằm ngoài nội dung ôn tập và giáo trình chính. Điều này dẫn đến một hệ quả là nếu giảng viên nào không có kiến thức sâu rộng, phong cách giảng dạy không hấp dẫn, thái độ giảng dạy không nhiệt tình dễ dẫn đến việc sinh viên không cần nghe thầy giảng mà quay ra nói chuyện riêng bởi họ cho rằng đến khi thi chỉ cần xem sách giáo khoa là đủ. Hơn nữa với sinh viên, khi bƣớc chân vào giảng đƣờng đại học, họ thƣờng kỳ vọng sẽ không phải tiếp tục lối học kiểu “từ chƣơng trích cú” nhƣ những năm học phổ thông. Họ đã có những nhận thức riêng, có khả năng nhìn nhận vấn đề theo quan điểm riêng. Cách nhìn nhận đó có thể đúng, có thể sai nhƣng nếu trình độ và tƣ cách của giảng viên không thuyết phục đƣợc họ thì sẽ gây nhiều khó khăn cho việc tiếp cận giữa thầy và trò, nhất là khi áp dụng phƣơng pháp giảng dạy cũ chỉ có thầy “độc thoại” là chính. Đã có nhiều giảng viên, để khắc phục sự khô cứng trong phƣơng pháp truyền thụ, đã tìm cách nâng cao kiến thức, sƣu tầm nhiều 23 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  24. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng câu chuyện, bài học lý thú bên ngoài nhằm làm cho giờ học hấp dẫn hơn, sinh động hơn. Gần đây, với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều thầy cô đã đƣa bài giảng lên máy tính với nhiều nội dung và hình ảnh phong phú hơn. Song những nỗ lực ấy vẫn là chƣa đủ, bởi căn cứ vào nhu cầu đào tạo của xã hội và mong muốn của chính bản thân sinh viên, họ muốn đƣợc tự mình làm chủ kiến thức nhiều hơn, thậm chí là đƣợc tham gia vào quá trình giảng dạy - học tập cùng các thầy cô hoặc dƣới sự định hƣớng và giúp đỡ của thầy cô. Việc trƣờng Đại học Dân lập Hải Phòng quyết định chuyển hệ thống đào tạo từ niên chế sang tín chỉ đã mở ra cho các giáo viên những thách thức mới về việc phải đổi mới phƣơng pháp giảng dạy, nhƣng cũng giúp cho cả giáo viên và sinh viên có cơ hội đƣợc hoàn thiện chuyên môn và nhiệm vụ giảng dạy - học tập của mình. 2.1.3. Về đặc điểm của sinh viên ngành Văn hóa du lịch và Ngoại ngữ: Việc tìm hiểu và phân tích đặc thù của sinh viên đối với môn học mà mình giảng dạy là rất quan trọng, bởi cùng là một môn học, cùng một ngƣời dậy nhƣng đối tƣợng học tập khác nhau sẽ cho kết quả khác nhau. Để quá trình giảng dạy đạt kết quả tốt, cần nắm bắt đƣợc đặc điểm tâm lý của sinh viên cũng nhƣ nhu cầu của họ để áp dụng phƣơng pháp giảng dạy cho phù hợp. Xuất phát từ yêu cầu đó, qua quá trình giảng dạy và đúc kết kinh nghiệm, chúng tôi nhận thấy sinh viên ngành Văn hóa du lịch và sinh viên ngành Ngoại ngữ có những đặc thù khá khác nhau. Cụ thể là: Đầu vào của sinh viên ngành Văn hóa du lịch là hai khối C và D, trong đó những sinh viên thi khối C chiếm số lƣợng đông. Với việc đã đƣợc làm quen với những môn học đòi hỏi sự ghi nhớ kiến thức và học thuộc nhiều nhƣ Văn, Sử, Địa trƣớc đây thì việc phải làm quen với khối lƣợng kiến thức phong phú của môn Cơ sở Văn hóa Việt Nam đối với những sinh viên này không quá khó. Họ không ngại ghi bài, không ngại học thuộc nhiều hay nói cách khác là 24 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  25. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng họ thƣờng rất chăm chỉ. Đây là một điểm mạnh giáo viên cần phát huy ở họ, chẳng hạn nhƣ ngoài việc cung cấp kiến thức trên lớp có thể yêu cầu sinh viên tìm hiểu thêm từ các kênh thông tin khác Tuy nhiên cũng phải lƣu ý, học đại học không giống nhƣ học phổ thông, không nên dạy họ học thuộc lòng, “học vẹt” mà điều quan trọng là phải dạy sinh viên phƣơng pháp tƣ duy để tự mình nhìn nhận ra vấn đề. Nếu nhƣ đây là điểm mạnh của sinh viên Văn hóa du lịch thì lại là điểm yếu của sinh viên Ngoại ngữ. Đầu vào của họ là khối D (Toán, Văn, Anh), do đó khi gặp một môn học có dung lƣợng kiến thức lớn, họ thƣờng rất ngại. Về mặt tƣ duy, họ thích những môn học có sự chính xác, rõ ràng, dễ hiểu hơn là một môn học còn nhiều vấn đề khá mơ hồ nhƣ trong lĩnh vực Văn hóa. Mặc dù vậy, do học khối D nên sinh viên Ngoại ngữ tỏ ra khá năng động và sôi nổi. Trong khi sinh viên Văn hóa du lịch thƣờng có xu hƣớng khép mình, ngại thể hiện thì sinh viên Ngoại ngữ luôn sẵn sàng giơ tay phát biểu ý kiến khi đƣợc giáo viên hỏi. Có thể phát huy tinh thần này của họ trong những giờ học thảo luận để tạo không khí cuốn hút hơn cho môn học. Có một điều nữa là mặc dù cùng đƣợc đào tạo Tin học trong nhà trƣờng, nhƣng sinh viên Ngoại ngữ có phần nắm bắt thông tin và cập nhật công nghệ nhanh hơn sinh viên Văn hóa du lịch (đây chỉ là cảm nhận chung của giáo viên vì trên thực tế trong mỗi lớp cũng có ngƣời giỏi, ngƣời kém tùy thuộc vào khả năng và hoàn cảnh). Do đó khi giáo viên yêu cầu làm bài tập (tìm hiểu về một vấn đề hay một giá trị văn hóa nào đó), họ thƣờng thực hiện rất nhanh, hình thức thể hiện cũng rất đa dạng và sáng tạo. Nếu nắm bắt đƣợc đặc điểm này, giáo viên có thể áp dụng nhiều phƣơng pháp để khuyến khích sinh viên Ngoại ngữ phát huy, đồng thời giúp sinh viên Văn hóa du lịch khắc phục điểm yếu của họ để cả hai đối tƣợng sinh viên này đều đạt đƣợc kết quả học tập nhƣ mong muốn (chẳng hạn ra yêu cầu cao hơn với sinh viên Ngoại ngữ; hƣớng dẫn cách làm bài chi tiết hoặc đƣa ra bài mẫu với sinh viên Văn hóa du lịch, cộng điểm cho những bài làm tốt ). 25 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  26. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng Sự khác biệt tiếp theo là quan niệm của sinh viên hai ngành về môn học này rất khác nhau. Đối với sinh viên Văn hóa du lịch, mặc dù môn học này đƣợc giảng dạy ngay từ học kỳ 1 của năm thứ nhất, nằm trong phần Giáo dục đại cƣơng, nhƣng hầu hết sinh viên đều ý thức đây là môn học cung cấp những kiến thức nền tảng về văn hóa học và văn hóa Việt Nam, rất cần thiết cho quá trình tác nghiệp của họ sau này. Thực tế đã chứng minh, dù làm trong lĩnh vực khách sạn hay lữ hành, những kiến thức văn hóa đã học đƣợc đều đã giúp cho sinh viên sau khi ra trƣờng có thể tự tin giới thiệu cho du khách cả trong và ngoài nƣớc về một nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc. Hoặc đối với những sinh viên làm trong lĩnh vực văn hóa, những kiến thức đó chính là bƣớc đệm để họ ngày càng hoàn thiện năng lực chuyên môn. Chính vì ý thức đƣợc tầm quan trọng của môn học, nên phần lớn sinh viên đều có ý thức tự giác học tập, thậm chí có sinh viên còn nỗ lực tự mình học hỏi thêm. Trong khi đó, trong quan niệm của sinh viên Ngoại ngữ, đây chỉ là một môn học phụ, có cũng đƣợc, không có cũng đƣợc. Một số sinh viên cho rằng, học môn này cũng khá hay, giúp họ có thêm hiểu biết; nhƣng cũng có một số lại cho rằng môn học này hoàn toàn không cần thiết, nên đƣa ra khỏi chƣơng trình học4. Thực ra đây là một nhận thức rất sai lầm của sinh viên Ngoại ngữ, họ cho rằng chỉ có những môn học liên quan đến ngôn ngữ mà họ đang học mới là cần thiết. Xét về công việc tƣơng lai, họ có cơ hội tiếp xúc nhiều hơn với ngƣời nƣớc ngoài so với sinh viên Văn hóa du lịch (chủ yếu giao tiếp với khách nội địa). Trong quá trình tiếp xúc đó, nếu không hiểu biết về văn hóa của dân tộc mình quả là một điều đáng xấu hổ, đó là chƣa tính đến khả năng nếu nhƣ có thể giới thiệu cho khách quốc tế hiểu biết thêm về văn hóa dân tộc sẽ giúp cho mối quan hệ của bản thân đƣợc tốt đẹp hơn, gần gũi hơn, kéo theo đó hiệu quả công việc đạt đƣợc cũng cao hơn. Ngoài ra, nhiều sinh viên Ngoại ngữ sau khi ra trƣờng đã đi theo con đƣờng trở thành một hƣớng dẫn viên du lịch, không 4 Tập hợp lại ý kiến sinh viên từ phiếu điều tra khảo sát môn học trƣớc khi áp dụng đổi mới phƣơng pháp 26 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  27. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng đƣợc đào tạo bài bản, lúc này nhiều ngƣời mới nhận thức đƣợc rằng chính những kiến thức học đƣợc từ môn Cơ sở Văn hóa Việt Nam đã góp phần giúp họ tác nghiệp thành công. Do đó, ngƣời giáo viên khi giảng dạy môn học này cần làm cho sinh viên hiểu biết rõ hơn về yêu cầu và mục đích của môn học, từ đó họ sẽ quyết định mức độ đầu tƣ thời gian và công sức đối với môn học này nhƣ thế nào tùy theo định hƣớng nghề nghiệp của họ. 2.2. Áp dụng một số phƣơng pháp giảng dạy mới - Kết quả và đánh giá Khi tiến hành làm đề tài nghiên cứu khoa học, chúng tôi đã tìm hiểu và dự kiến áp dụng nhiều phƣơng pháp giảng dạy mới đối với môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam, nhƣng do những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể (thời khóa biểu, phòng học, trang thiết bị ) nên khi giảng dạy khóa 12 và Cao đẳng khóa 5 ngành Văn hóa du lịch, chúng tôi bƣớc đầu mới áp dụng thử nghiệm đƣợc một số phƣơng pháp nhất định. Sau đây, chúng tôi sẽ trình bày các bƣớc tiến hành đổi mới các phƣơng pháp đó, phân tích những mặt đƣợc và chƣa đƣợc, đồng thời đề xuất các biện pháp khắc phục và giải quyết để có thể ứng dụng thành công hơn đối với các khóa học sau. 2.2.1. Làm việc nhóm: 2.2.2.1. Nội dung và cách thức triển khai: Trong quá trình triển khai môn học theo tín chỉ, giờ làm việc nhóm đƣợc sử dụng nhƣ một hình thức tổ chức dạy học nhằm rèn luyện và phát triển kỹ năng làm việc hợp tác, tƣ duy tích cực, tinh thần trách nhiệm của sinh viên, khắc phục những nhƣợc điểm trong kiểu dạy học tổng lực, toàn lớp (Total learning) và dạy học cá nhân (Individual learning). - Đặc điểm: Lớp học đƣợc chia thành các nhóm học tập với số lƣợng sinh viên hợp lý trong mỗi nhóm; nội dung, nhiệm vụ học tập đƣợc chia thành các vấn đề giao cho các nhóm thực hiện. Tùy thuộc vào mục tiêu và nội dung 27 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  28. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng môn học, các nhóm có thể nhận cùng hoặc các nhiệm vụ khác nhau và làm việc dƣới sự hƣớng dẫn, chỉ đạo của giảng viên. Sau đó, các kết quả làm việc nhóm đƣợc trình bày công khai, chia sẻ với các nhóm khác trong lớp. Trong giờ làm việc nhóm, giảng viên đóng vai trò là ngƣời hƣớng dẫn, hỗ trợ, điều khiển, giám sát và quản lý5. Chúng tôi đã áp dụng phƣơng pháp này đối với khóa 12 và Cao đẳng khóa 5 ngành Văn hóa du lịch vào học kỳ 1 năm học 2008-2009, và đã tiến hành qua các bƣớc sau: - Bước 1: Giao vấn đề Giảng viên tiến hành chia nhóm, sau đó lựa chọn và giao các nội dung, các vấn đề, công việc, các yêu cầu liên quan cho các nhóm sinh viên thực hiện, giới thiệu nguồn tài liệu tham khảo tối thiểu, thông báo thời gian nộp báo cáo và thời gian nhận thông tin phản hồi từ phía giảng viên. Trong chƣơng trình học, khi giảng dạy đến Chƣơng 4 - Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân (tƣơng ứng với các tiết học thứ 25-26 và 30), ở buổi học trƣớc đó, chúng tôi đã giao cho các nhóm một số vấn đề nghiên cứu nhƣ: - Phong tục tang ma cổ truyền của ngƣời Việt. - Phong tục hôn nhân xƣa và nay. - Lễ tết và Lễ hội cổ truyền. - Tìm hiểu về một loại hình nghệ thuật truyền thống (sân khấu, âm nhạc, mỹ thuật). Do sĩ số lớp quá đông (94 sinh viên), nên số lƣợng nhóm cũng nhiều vì vậy nội dung nghiên cứu đƣợc chia đều cho nhiều nhóm, cùng một vấn đề có 5 Dẫn lại theo TS. Tôn Quang Cƣờng, CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC VÀ KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ TRONG ĐÀO TẠO THEO TÍN CHỈ. 28 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  29. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng từ 2 - 3 nhóm cùng thực hiện. Điều này khiến các nhóm phải nỗ lực hết sức để thể hiện năng lực của nhóm mình nhằm đạt đƣợc kết quả cao nhất. - Bước 2: Các nhóm nhận nhiệm vụ và tiến hành giải quyết vấn đề Để đảm bảo không khí làm việc hòa thuận, chúng tôi để cho mỗi nhóm tự lựa chọn Nhóm trƣởng, sau đó yêu cầu Nhóm trƣởng lên kế hoạch phân công (bằng văn bản) cho từng thành viên với nhiệm vụ, thời gian hoàn thành, nguồn tài liệu tham khảo, lịch họp nhóm theo kế hoạch. Sau đó, nhóm trƣởng lập báo cáo ghi lại công việc và thái độ của các thành viên, thông qua toàn nhóm trƣớc khi nộp cho giảng viên cùng với nội dung vấn đề nghiên cứu. - Bước 3: Đánh giá kết quả làm việc nhóm Để đảm bảo sự công bằng, chúng tôi thực hiện các phƣơng pháp kiểm tra, đánh giá kết quả làm việc của nhóm theo hƣớng công khai, minh bạch trƣớc lớp. Cụ thể là, với mỗi một vấn đề đã đƣợc giao, chúng tôi chỉ định một nhóm bất kỳ lên trình bày. Để các em thoải mái và tự tin, chúng tôi yêu cầu kê bàn phía trên bục giảng để các em quay xuống đối diện với các bạn sinh viên còn lại trong lớp. Sau đó, chúng tôi yêu cầu một bạn sinh viên trong lớp chỉ định ngẫu nhiên một bạn nào đó trong nhóm thay mặt nhóm để thuyết trình. Làm nhƣ vậy để hạn chế việc ỷ lại của sinh viên vào các thành viên còn lại trong nhóm. Nếu một sinh viên tích cực tham gia vào quá trình chuẩn bị và thực hiện công việc chung của nhóm, sinh viên đó không thể không nắm bắt đƣợc vấn đề và thay mặt nhóm trình bày lại vấn đề đó. Khi cảm thấy sinh viên đang trình bày tỏ ra hiểu và nắm rõ vấn đề, chúng tôi thƣờng đề nghị sinh viên đó dừng lại để nhƣờng quyền thuyết trình lại cho một bạn khác. Hoặc cũng có khi, sinh viên đang trình bày đó không đủ tự tin để giới thiệu vấn đề mạch lạc, chúng tôi cho phép các thành viên còn lại trong nhóm đƣợc thay mặt bạn để trình bày tiếp. Làm nhƣ vậy, một mặt đảm 29 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  30. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng bảo tất cả các thành viên trong nhóm đều phải làm việc và đều có cơ hội rèn luyện kỹ năng thuyết trình trƣớc đám đông, mặt khác không làm ảnh hƣởng đến kết quả chung của cả nhóm. Sau khi nhóm trình bày xong, chúng tôi yêu cầu các bạn sinh viên còn lại trong lớp đặt câu hỏi chất vấn để kiểm tra kiến thức của nhóm sinh viên, cũng thông qua đó để đánh giá khả năng bảo vệ quan điểm của các em. Nếu câu hỏi chƣa đủ hoặc nhóm không trả lời đƣợc, giáo viên sẽ hỏi thêm để tạo điều kiện cho các em lấy điểm cao. Giáo viên cũng sẽ là ngƣời xác nhận độ chính xác của câu trả lời hoặc giải đáp bổ sung. Sau khi nhóm sinh viên trả lời xong, dựa vào kết quả trình bày của các em trên lớp, kết hợp với bản báo cáo công việc của Nhóm trƣởng, chúng tôi tiến hành cho điểm công khai đối với từng sinh viên trong nhóm. 2.2.1.2. Những kinh nghiệm thu được khi triển khai phương pháp Làm việc nhóm: + Chia nhóm: Để triển khai phƣơng pháp này một cách hiệu quả, việc đầu tiên cần làm là phải tiến hành chia nhóm. Thực tế cho thấy nên chia nhóm học tập ngay từ tuần đầu tiên, duy trì nhóm học tập trong suốt quá trình triển khai môn học nhằm tăng hiệu quả làm việc. Có nhiều tiêu chí để lập thành một nhóm: chia theo vị trí chỗ ngồi, chia theo nguyện vọng, chia theo danh sách lớp, chia theo năng lực học tập Nhƣng do lớp học mà chúng tôi đảm nhận đƣợc ghép từ hai lớp với tổng sĩ số là 94, các em ngồi chƣa theo sơ đồ, hơn nữa vì là đầu năm học mới nên hầu hết chƣa có dịp làm quen và hiểu rõ về nhau nên không thể áp dụng cách thức chia nhóm dựa trên cơ sở tự nguyện hay tƣơng đồng về trình độ, sở thích Cách chia theo danh sách lớp theo vần Alphabe cũng không ổn vì các em ngồi tƣơng đối lộn xộn, không theo lớp, không theo vần. Do đó, chúng tôi đã chủ động chia theo vị trí ngồi, cứ hai bàn (4-6 em) làm thành một nhóm. Cách chia 30 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  31. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng này có một điểm tốt là không phân biệt trình độ Đại học và Cao đẳng, yêu cầu các thành viên của nhóm phải cùng làm việc, cùng hợp tác, không đƣợc gây chia rẽ, mất đoàn kết, nếu không sẽ ảnh hƣởng đến hiệu quả làm việc chung của cả nhóm. Tuy nhiên, cách chia này cũng có thể dẫn đến hiện tƣợng là trình độ của các thành viên trong nhóm chênh lệch, nhƣng nếu giáo viên biết cách khuyến khích sinh viên cạnh tranh lành mạnh và cho điểm một cách công bằng tƣơng xứng với khả năng cũng nhƣ đóng góp của từng thành viên thì vẫn đảm bảo đƣợc hiệu quả làm việc của các nhóm. Để có đƣợc một khoảng thời gian thuyết trình ngắn ngủi trên lớp, các thành viên trong nhóm phải có thời gian làm việc khá nhiều với nhau ở nhà. Thời gian làm việc chung đó giúp các em có cơ hội gần gũi và hiểu biết về nhau hơn, đồng thời phải gạt bỏ cái tôi cá nhân vì lợi ích chung của tập thể. Các em phải học cách hợp tác với nhau mà điều quan trọng nhất để hợp tác thành công là phải học cách lắng nghe và trân trọng ý kiến của ngƣời khác, hoặc học cách phản biện quan điểm của ngƣời khác mà không để xảy ra xung đột, hiểu lầm. Bên cạnh đó, nếu thực sự cầu tiến, mỗi cá nhân sẽ học hỏi đƣợc nhiều điều từ những cá nhân khác, từ năng lực tƣ duy, phƣơng pháp làm việc cho đến việc thu nhận và xử lý kiến thức Những điều này sẽ rất có ích cho các em sau khi ra trƣờng mà phải công tác trong những môi trƣờng làm việc phức tạp, nhiều áp lực. + Tính ỷ lại và cào bằng của sinh viên: Có một vấn đề phát sinh khi các em cùng làm việc nhóm với nhau ở nhà, đó là không phải sinh viên nào cũng thích cách làm việc này hoặc nhận thức đƣợc giá trị của phƣơng pháp Làm việc nhóm. Vì thế, trong khi các bạn tập trung làm việc thì những sinh viên này thƣờng không làm gì, thậm chí còn tìm cách gây rối. Sau khi phân việc xong, có ngƣời làm, ngƣời không làm hoặc làm đối phó. Không có tiêu chuẩn nào để đánh giá đƣợc thành viên, nên 31 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  32. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng các sinh viên lƣời càng ỷ lại, không chịu làm mà vẫn đòi quyền lợi. Mặc dù giáo viên đã yêu cầu Nhóm trƣởng ghi báo cáo, nhƣng sinh viên vốn có tính cả nể nên rất có thể lập báo cáo không trung thực, báo cáo thƣờng xếp loại thành viên theo kiểu bình quân chủ nghĩa có lợi cho những sinh viên chây lƣời. Điều này khiến cho việc đánh giá của giáo viên dễ bị trở nên cào bằng, không chính xác. Biện pháp giải quyết: Ngoài cách giải quyết nhƣ đã nói ở trên (yêu cầu lần lƣợt từng thành viên thuyết trình, đặt câu hỏi cho từng thành viên), giáo viên nên đƣa ra các tiêu chuẩn cụ thể để sinh viên đánh giá lẫn nhau nhƣ: có nhiều đóng góp; có đóng góp nhưng không nhiệt tình; ít đóng góp và không đóng góp. Giáo viên sẽ kiểm định lại phần đánh giá đó có trung thực không thông qua sự thể hiện của từng thành viên trên lớp. Một biện pháp nữa cũng có thể thực hiện là nếu có điều kiện, sinh viên có thể quay lại video clip của nhóm đã thảo luận ở nhà, mang đến lớp trình chiếu và chỉ việc chờ nghe câu hỏi và đánh giá. Biện pháp này hơi khó thực thi vì thiếu phƣơng tiện nhƣng nếu làm đƣợc thì vừa đảm bảo đƣợc sự khách quan trung thực khi làm việc nhóm ở nhà, vừa tiết kiệm đƣợc thời gian trình bày dông dài trên lớp. Hơn nữa, khi đã quay clip, thƣờng thì sinh viên sẽ có ý thức chuẩn bị công phu và nghiêm túc hơn. + Đặt câu hỏi chất vấn: Đối với giờ làm việc nhóm, phần chất vấn của các bạn sinh viên đối với nhóm trình bày có lẽ là thời gian sôi nổi và hào hứng nhất. Đã có nhiều câu hỏi đƣợc các thành viên trong lớp đƣa ra, trong đó có cả những câu hỏi mang tính thách đố nhƣng cũng không thiếu những câu hỏi hay và thú vị. Chẳng hạn nhƣ có nhóm sinh viên khi trình bày về đề tài “Phong tục hôn nhân xƣa và nay” đã nhận đƣợc rất nhiều câu hỏi nhƣ: “Vì sao không cho phép mẹ đẻ đƣa 32 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  33. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng con gái về nhà chồng?”, “Vì sao, trƣớc khi con gái về nhà chồng thƣờng đƣợc mẹ đẻ giao cho 9 cái kim?”, “Vì sao khi con dâu về nhà chồng, mẹ chồng thƣờng ôm bình vôi trốn sang nhà hàng xóm” Hay trong đề tài về “Phong tục tang ma cổ truyền”, đã có một bạn sinh viên đƣa ra một câu hỏi rất khó là yêu cầu giải thích về “hiện tƣợng quỷ nhập tràng”? Không phải câu hỏi nào nhóm đang thuyết trình cũng trả lời đƣợc. Khi đó, chúng tôi đã tạo cơ hội cho các sinh viên còn lại trong lớp trả lời thay, nếu là câu hỏi khó thƣờng sẽ cộng điểm cho sinh viên đó. Nhƣng cũng có khi cả ngƣời đƣa câu hỏi, ngƣời bị đặt câu hỏi và tập thể lớp đều không trả lời đƣợc, khi đó giáo viên phải đứng ra trả lời. Những câu hỏi này đã góp phần mở rộng kiến thức cho cả giáo viên và sinh viên, đồng thời cũng đòi hỏi giáo viên phải luôn luôn nỗ lực hoàn thiện kiến thức để điều khiển đƣợc giờ học một cách thành công. Ngoài ra, đối với những câu hỏi không ăn nhập đến nội dung môn học hoặc mang tính thách đố, giáo viên đã phải đóng vai trò chủ động gạt bỏ để không làm ảnh hƣởng đến thời gian và không khí học tập chung của cả lớp. + Kiến thức: Không phải loại kiến thức nào sinh viên cũng tự nghiên cứu đƣợc, nhiều vấn đề cần thầy cô giảng dạy nhƣng khi học tín chỉ số kiến thức đƣợc giảng trên lớp thấy ít hơn đi rất nhiều, khi thảo luận thì cũng không hỏi đƣợc hết những vấn đề cần hỏi dẫn đến tình trạng thiếu hụt về kiến thức, đến lúc thi cuối kỳ sinh viên rất mệt mỏi vì bị tích tụ kiến thức để ôn. Ngoài ra, cũng có những sinh viên do khả năng hạn chế nên không kịp thời nắm bắt vấn đề trên lớp nhƣng lại e ngại không dám hỏi bạn bè hoặc trực tiếp hỏi thầy cô trƣớc cả lớp, hậu quả là nảy sinh tâm lý chán học hoặc điểm kiểm tra, đánh giá không tốt, ảnh hƣởng đến kết quả học tập chung. 33 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  34. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng Biện pháp: Cho phép sinh viên hỏi giáo viên ngoài giờ học, hỏi qua email, qua điện thoại Giáo viên không nên có tâm lý chỉ cần đảm bảo thời lƣợng giảng dạy trên lớp mà phải luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ sinh viên, giải đáp những thắc mắc của họ, nhƣ vậy mới có thể khuyến khích sự tự tin, tinh thần tự giác và ham học hỏi của sinh viên. + Phƣơng pháp truyền đạt: Có nhiều nhóm sinh viên chuẩn bị nội dung thuyết trình rất công phu, nhƣng do chƣa có một phƣơng pháp truyền đạt đến ngƣời nghe tốt khiến cho không khí buổi thảo luận trở nên ỉu, kết quả đánh giá bị kém. Với giờ thuyết trình, chúng tôi yêu cầu sinh viên phải nắm vững vấn đề và tự mình trình bày không đƣợc cầm tài liệu để đọc, nhƣng hoặc do chuẩn bị không tốt hoặc do thời gian gấp không kịp ghi nhớ hoặc do thiếu tự tin mà một số thành viên trong nhóm không thể hiện đƣợc nội dung cần trình bày. Sau này, nhiều sinh viên đã than phiền với chúng tôi là chúng em đã làm việc hết sức vất vả mà kết quả lại không cao nên rất buồn. Một vấn đề nữa là hầu hết các em chƣa tìm ra phƣơng pháp thuyết trình vừa mới mẻ vừa hấp dẫn để lôi cuốn sự chú ý của giáo viên và cả lớp. Phần lớn các em đều chuẩn bị bài báo cáo của mình ra giấy, sau đó học thuộc lòng rồi “nói chay”. Nếu bạn nào nói lí nhí hay đọc thuộc với giọng đều đều thì dễ khiến không khí lớp học trở nên nhàm chán. Trong quá trình cho sinh viên thực tập giờ làm việc nhóm, duy nhất có một lần tôi thấy có nhóm sinh viên tìm ra một phƣơng thức truyền đạt khác. Đó là, khi giảng dạy đến chƣơng 6 - “Văn hóa ứng xử với môi trƣờng xã hội”, phần Phật giáo với văn hóa Việt Nam, chúng tôi có ra cho sinh viên một bài tập nhỏ là các nhóm cùng nhau đi đến một ngôi chùa, tìm hiểu về lịch sử hình thành, giá trị văn hóa, đặc điểm kiến trúc của ngôi chùa đó, sau đó về viết báo cáo và trình bày trƣớc lớp. 34 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  35. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng Khác với nhiều nhóm, nhóm sinh viên do bạn Đặng Văn Dƣơng làm Nhóm trƣởng đã bỏ công sƣu tầm các bản vẽ thiết kế về kiến trúc của ngôi chùa, giới thiệu từng pho tƣợng, từng đầu đao, từng hình ảnh chạm khắc . Bài thuyết trình của nhóm sinh viên đó đã đón nhận đƣợc sự quan tâm của tất cả các thành viên trong lớp. Biện pháp: Theo chúng tôi, việc thuyết trình là quan trọng vì nó biểu hiện kết quả cuối cùng của quá trình làm việc nhóm nhƣng không nên quá căn cứ vào đó để cho điểm sinh viên. Phải đánh giá bằng nhiều kênh, nhiều câu hỏi, và tìm mọi cách để khuyến khích sinh viên tự tin bộc lộ. Điều quan trọng là cần phải tạo cho sinh viên tâm lý: "không có ý kiến sai, không có câu trả lời sai, mỗi ý kiến có khác giáo viên cũng đƣợc nhìn nhận là một cách nhìn mới, một quan điểm cá nhân". Có đƣợc điều này, sinh viên sẽ tự tin hơn khi phát biểu bởi, mỗi ngƣời đều đƣợc sinh ra trong mỗi gia đình với lối sống khác nhau; trong một môi trƣờng văn hóa khác nhau thì khó có thể cùng có một cái nhìn nhất quán về một sự việc, hiện tƣợng, đặc biệt là những hiện tƣợng và giá trị thuộc phạm trù văn hóa. Ngoài ra, nếu có thời gian, nên cho sinh viên chơi một trò chơi nhỏ để rèn luyện phƣơng pháp truyền tin và học cách lắng nghe. Trò chơi có thể tiến hành theo 2 cách. Cách thứ nhất: 4 sinh viên đƣợc mời lên trƣớc lớp, từng ngƣời bị bịt mắt lại và đƣợc phát cho 1 tờ giấy giống nhau. Sau đó cả 4 ngƣời cùng xé giấy theo hƣớng dẫn của cô giáo. Thƣờng thì kết quả sẽ là, mỗi ngƣời xé tờ giấy thành một sản phẩm khác nhau. Điều đó chứng tỏ, cùng một thông điệp, nhƣng mỗi ngƣời nghe và hiểu theo một cách khác nhau. Hơn nữa, nếu chỉ nghe mà không đƣợc trao đổi lại thì có thể dẫn đến hiểu lầm. Hay một bài tập khác là “truyền tin”. 15 thành viên trong 1 nhóm sẽ lần lƣợt truyền 1 thông điệp cho nhau, từ ngƣời đầu tiên cho tới ngƣời cuối cùng. 35 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  36. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng Có một điều chắc chắn là thông điệp ban đầu rất dài nhƣng khi truyền tới ngƣời cuối cùng thì thƣờng rất ngắn, thậm chí có trƣờng hợp còn sai lạc nội dung. Những bài tập nhƣ vậy sẽ giúp cho sinh viên hiểu rằng nghe cũng là cả một nghệ thuật: nghe thế nào cho hiệu quả, để lĩnh hội đƣợc thông tin, thấu cảm với nghe thế nào để khơi gợi đƣợc cảm hứng của ngƣời nói là kỹ năng không dễ hình thành nhƣng hoàn toàn có thể học đƣợc. Nhƣng theo chúng tôi, nếu có điều kiện nên đƣa những bài tập dạng này vào môn học phát triển kỹ năng giao tiếp, coi đó là một môn học bắt buộc trong chƣơng trình giáo dục đại cƣơng của nhà trƣờng và là tiền đề cho những môn học khác. Bên cạnh đó, để giúp các em tìm ra nhiều cách thức truyền đạt đa dạng, nên khuyến khích các em sử dụng công cụ trực quan nhƣ vật dụng, tranh ảnh minh họa hoặc với sự hỗ trợ của phim ảnh, âm nhạc Ngoài ra, mặc dù trƣớc khi bƣớc vào cổng trƣờng đại học, sinh viên đã đƣợc học môn Tin học từ trƣờng phổ thông, nhƣng hầu hết các em đều chƣa biết cách tìm kiếm tài liệu trên Internet - một kênh thông tin rất tiện ích và hiệu quả. Phần lớn các em chủ yếu tìm tƣ liệu từ sách báo tạp chí mà nguồn tƣ liệu này không phải lúc nào cũng có sẵn, lại tốn kém nên bài làm của các em không tránh khỏi sự đơn điệu, nghèo nàn. Vì thế, thiết nghĩ ngay từ đầu khi các em nhập học, nhà trƣờng nên có một vài buổi học giới thiệu và hƣớng dẫn cho các em kỹ năng học tập tại trƣờng đại học, bao gồm cả kỹ năng tìm tài liệu trên mạng, cách trình bày báo cáo bƣớc đầu bằng phần mềm Powerpoint + Thời gian dành cho các nhóm thuyết trình không đủ: Theo yêu cầu của giáo viên, các nhóm đều chuẩn bị vấn đề thảo luận, nhƣng do hạn hẹp về mặt thời gian nên không phải nhóm nào cũng đƣợc trình 36 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  37. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng bày. Với những vấn đề đã nêu ở trên thì những tiết học dành cho các nhóm tập thuyết trình không phải là ít. Tuy nhiên, nhƣ đã đề cập ở trên, do đƣợc ghép từ hai lớp nên sĩ số của lớp học quá đông, nên vẫn còn khoảng 5 nhóm vẫn không có cơ hội đƣợc trình bày. Để tạo cơ hội cho các em, phục vụ mục đích lấy điểm, có thể thực hiện theo 2 cách. Cách thứ nhất là cho điểm nhóm qua bài làm mà không cần trình bày trên lớp nhƣ các bạn. Cách này không đảm bảo việc đánh giá đƣợc chuẩn xác và công bằng. Vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn cách thứ hai là yêu cầu những sinh viên chƣa có điểm cuối học kỳ làm bài kiểm tra bổ sung để lấy điểm. Trên thực tế, cách này cũng còn nhiều hạn chế nhƣ các em vẫn không có cơ hội thể hiện năng lực thuyết trình, phải nỗ lực hơn các bạn, và kết quả của bài kiểm tra lại là kết quả của nỗ lực làm việc cá nhân. Biện pháp: Vì thế, theo chúng tôi, để đảm bảo sự công bằng cho các em, giáo viên nên áp dụng thống nhất chung một cách đánh giá, cho điểm. Nếu hôm nay chƣa đƣợc trình bày, sẽ chuẩn bị vấn đề khác và trình bày trong buổi học sau, cốt sao đảm bảo tất cả các nhóm sinh viên đều đƣợc thể hiện. Nhƣng để làm đƣợc điều đó, rất cần có sự hỗ trợ của nhà trƣờng và phòng Đào tạo, cụ thể là không nên xếp một lớp học với sĩ số quá đông. + Mất trật tự trong thời gian thuyết trình: Một vấn đề rất bức xúc nảy sinh trong quá trình sinh viên thực hiện giờ làm việc nhóm là trong khi một nhóm sinh viên thuyết trình trên lớp thì không khí chung của lớp học là rất ồn ào. Trừ một số chăm chú lắng nghe, phần còn lại “ai làm việc nấy”. Theo quan sát của chúng tôi, chỗ này, có nhóm thì thầm bàn bạc chuẩn bị cho bài báo cáo, chỗ kia có những sinh viên gục hẳn đầu xuống bàn hoặc quay ra nói chuyện riêng, thậm chí có sinh viên lén lấy điện thoại ra chơi game. Mặc dù nhìn thấy, nhƣng do phải tập trung theo dõi nội 37 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  38. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng dung thuyết trình để nhận xét và đánh giá nên không phải lúc nào giáo viên cũng có thể quay xuống nhắc nhở những sinh viên không có ý thức nhƣ vậy đƣợc. Hơn nữa, sở dĩ có tình trạng nhƣ vậy, cũng xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan nhƣ: phòng học quá rộng nên không khí học bị loãng (do lớp đông nên đƣợc bố trí học tại phòng D201); âm thanh của micro nhỏ lại chỉ có một chiếc, nhiều khi đang trình bày lại yếu pin nên tiếng sôi và khó nghe; nhóm thuyết trình nói không hấp dẫn, nói nhỏ Thông thƣờng chỉ có nửa lớp phía trên là tập trung theo dõi các bạn trình bày, phần duy nhất thu hút đƣợc sự chú ý của cả lớp là phần đặt câu hỏi chất vấn. Nếu cứ để tình trạng nhƣ vậy, thiết nghĩ tính hiệu quả của giờ làm việc nhóm sẽ bị ảnh hƣởng rất nhiều. Biện Pháp: Có nhiều biện pháp để khắc phục tình trạng ồn ào, mất trật tự này. Chúng tôi đã áp dụng một trong những cách nhƣ sau và bƣớc đầu đã thu đƣợc hiệu quả nhất định. Đó là sau khi nhóm trình bày xong, gọi bất kỳ một vài sinh viên của nhóm khác nhận xét và có thể đánh giá nhóm của thành viên đó vào điểm bài thuyết trình luôn. Nhƣ vậy tự khắc các nhóm phải nhắc nhau trật tự để theo dõi, nếu không sẽ gây ảnh hƣởng đến cả nhóm. Ngoài ra, khuyến khích sinh viên trật tự bằng cách thông báo nếu các nhóm có tinh thần và có chuẩn bị để phản biện các nhóm khác sẽ đƣợc cộng điểm để tránh cào bằng điểm. Một biện pháp nữa cũng có thể thực thi là mỗi buổi học cử ra một số sinh viên có trách nhiệm, hỗ trợ giáo viên nhắc nhở các nhóm trật tự. Những sinh viên này có quyền đánh dấu những nhóm mất trật tự để trên cơ sở đó, giáo viên sẽ có biện pháp xử lý. 2.2.2. Nêu vấn đề nghiên cứu: Môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam là một môn học nặng về lý thuyết, hai ngành học môn học này là Văn hóa du lịch và Ngoại ngữ về cơ bản đƣợc xếp vào khối ngành Khoa học xã hội và nhân văn. Nghề nghiệp tƣơng lai của 38 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  39. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng sinh viên các ngành này cũng liên quan nhiều đến lĩnh vực văn hóa và sƣ phạm, vì vậy việc rèn luyện cho họ cách thức làm quen, nghiên cứu và giải quyết một vấn đề khoa học là vô cùng cần thiết. Vì thế, trong quá trình đổi mới phƣơng pháp giảng dạy, chúng tôi cũng đã thực thi phƣơng pháp Nêu vấn đề nghiên cứu. 2.2.2.1. Nội dung và cách thức tiến hành: Mục tiêu tổng quát của phƣơng pháp Nêu vấn đề nghiên cứu là: - Về nhận thức: giúp ngƣời học có cơ hội nắm chắc kiến thức theo chiều rộng lẫn chiều sâu. Điều này có đƣợc là do trong quá trình tìm hiểu và giải quyết vấn đề, ngƣời học hoàn toàn chủ động trong việc xác định những nội dung có liên quan để nghiên cứu, tìm hiểu và vận dụng. - Về kỹ năng: giúp ngƣời học phát triển năng lực đọc tài liệu, kỹ năng nghiên cứu khoa học, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng làm việc nhóm Những kỹ năng này đƣợc hình thành trong quá trình ngƣời học nghiên cứu, vận dụng tài liệu, làm việc cùng với nhóm để giải quyết vấn đề và sau đó là trình bày kết quả trƣớc tập thể lớp. - Về thái độ: giúp ngƣời học cảm thấy gắn bó và yêu thích môn học và sự học, thấy đƣợc những giá trị của hoạt động nhóm đối với bản thân. Sự thay đổi về thái độ nhƣ vậy sẽ diễn ra từng bƣớc theo quá trình phát triển của phƣơng pháp dạy học nếu đƣợc tổ chức có hiệu quả. Xuất phát từ mục tiêu đó, chúng tôi đã tiến hành phƣơng pháp này qua các bƣớc sau: 39 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  40. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng - Bước 1: Giáo viên định hướng: Giáo viên đƣa ra một số vấn đề nghiên cứu tổng quát cùng với những yêu cầu cụ thể về bài nghiên cứu nhƣ nội dung, cách thức trình bày, hƣớng dẫn tìm nguồn tài liệu Trên cơ sở đó, các nhóm sinh viên sẽ lựa chọn cho mình những đề tài có phạm vi hẹp hơn để tiến hành nghiên cứu. Trên thực tế, với phƣơng pháp này, chúng tôi đã áp dụng thử với khóa 10 ngành Văn hóa du lịch ngay từ năm học 2006-2007, khi nhà trƣờng chƣa chính thức chuyển đổi sang hình thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Đến khóa 12, chúng tôi lại tiến hành áp dụng một lần nữa và thu đƣợc những kết quả khả quan. Về vấn đề này chúng tôi sẽ trình bày sau. Về hƣớng đề tài nghiên cứu tổng quát, với cả hai khóa, chúng tôi đều đƣa ra các vấn đề chung nhƣ: 1. Văn hóa ẩm thực 2. Văn hóa trang phục 3. Nghệ thuật thanh sắc 4. Nghệ thuật hình khối 5. Phong tục, tập quán 6. Tôn giáo với văn hóa Việt Nam 7. Khai thác văn hóa trong du lịch 8. Văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại. - Bước 2: Sinh viên giải quyết vấn đề nghiên cứu: Sau khi lựa chọn hƣớng đề tài nghiên cứu, sinh viên tìm kiếm tài liệu và quyết định chọn một đề tài cụ thể. Trên cơ sở đó, nhóm phân công nhau các nhiệm vụ tùy thuộc theo năng lực và sở thích của từng ngƣời. Chẳng hạn, 40 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  41. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng những bạn giỏi tin sẽ đƣợc phân công sƣu tầm tài liệu trên mạng, đánh máy báo cáo; những bạn chăm chỉ sẽ tìm tài liệu từ sách báo tạp chí, tập hợp và ghi chép lại để làm cơ sở tài liệu chung Với phƣơng pháp này, chúng tôi không qui định cụ thể về việc phân nhóm, mà dựa trên sự tự nguyện của các em, vì thế có nhóm có từ 4-5 sinh viên, nhƣng cũng có nhóm chỉ có một sinh viên do điều kiện nhà em ở khá xa so với các bạn, hoặc hƣớng đề tài mà em tâm đắc không tìm đƣợc tiếng nói chung với các bạn trong lớp. Nhƣng nhìn chung, các em đều hào hứng với đề tài của mình và nỗ lực hoàn thành đúng kỳ hạn. Nhiều đề tài trong đó có chất lƣợng khá tốt, chúng tôi xin đơn cử ra đây: + Lớp VH1001: - Vai trò của Phật giáo với đời sống tinh thần nhân dân Hải Phòng (Nguyễn Thị Ánh Dung, Hà Duy Hà, Nguyễn Thế Thƣ, Vũ Thị Yến). - “Miếng trầu là đầu câu chuyện” (Vũ Mạnh Thắng) - Kiến trúc chùa Việt (Bùi Đình Quang, Nguyễn Thành Tuân, Hoàng Đức Thanh). - Thiền Trúc Lâm Yên Tử - sáng tạo văn hóa Phật giáo của ngƣời Việt (Tô Thị Anh, Đỗ Ngọc Bích, Nguyễn Thị Khánh, Ngụy thị Khanh, Trần Thị Phƣơng Linh, Vũ Thị Ánh Ngọc). - Văn hóa trang phục của ngƣời Thái trắng (Nguyễn Thị Lan Anh, Vũ Thu Nga). + Lớp VH1003: - Ẩm thực của ngƣời Việt và ngƣời Thái (Phan Thị Thanh Hiền). 41 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  42. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng - Đạo Mẫu trong đời sống tâm linh ngƣời Việt (Trần Thị Kim Cúc, Nguyễn Thị Giang, Vũ Thị Chúc) - Tìm lại kiến trúc cổng làng trong đời sống hiện đại (Nguyễn Thanh Thùy, Đặng Thị Trang) + Lớp VH1201 và VHC501: - Những nhạc cụ độc đáo của đồng bào Tây Nguyên (Trịnh Phƣơng Thảo, Nguyễn Thị Hƣờng, Nguyễn Thị Tâm, Tạ Thị Mai Lan ) - Tang ma cổ truyền của ngƣời Việt (Nguyễn thị Mai Anh, Phạm Xuân Đông, Bùi Thị Ly) - Nhớ về Làng tranh dân gian Đông Hồ (Phạm Ngọc Thịnh, Bùi Công Giang, Trần Phƣơng Hoài, Đặng Thị Thùy Dƣơng) - Phong tục hôn nhân cổ truyền và hiện đại (Nguyễn Thị Ngân, Lê Mạnh Hùng, Lê Thị Thu Hà) - Bước 3: Đánh giá, tổng kết: Sau khi hoàn thành báo cáo, sinh viên nộp cho giáo viên để chấm điểm. Do không có nhiều thời gian nên chúng tôi không lựa chọn những báo cáo điển hình để trình bày trƣớc lớp. Thay vào đó, sau khi đọc và chấm xong, chúng tôi nêu những mặt đƣợc và chƣa đƣợc của từng báo cáo trƣớc lớp, sau đó yêu cầu các nhóm đổi báo cáo cho nhau để cùng tham khảo và rút kinh nghiệm. Đối với những đề tài hay, chúng tôi yêu cầu sinh viên phải chuyền tay nhau đọc. Sinh viên thƣờng tò mò, vì thế họ luôn luôn chủ động tìm hiểu xem các bạn có gì xuất sắc hơn mình. Việc làm này giúp nâng cao tính cạnh tranh trong học tập của từng sinh viên. 42 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  43. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng 2.2.2.2. Những kinh nghiệm thu được khi triển khai phương pháp Nêu vấn đề nghiên cứu: + Về hƣớng đề tài: Mặc dù giáo viên đã đƣa ra khá nhiều hƣớng đề tài chung, trên cơ sở đó sinh viên tự tìm hiểu và lựa chọn cho mình một vấn đề nghiên cứu hẹp hơn, nhƣng hầu hết các em đều tỏ ra rất bị động, rất ít bạn có ý tƣởng và mạnh dạn làm những đề tài mới và khó. Để cải thiện tình hình này, thiết nghĩ bên cạnh việc định hƣớng chung, giáo viên hoàn toàn có thể gợi ý cho các em những đề tài nhỏ, mới mẻ và hấp dẫn để các em chủ động trong việc tìm kiếm tài liệu. Đồng thời nếu các em chƣa định hình đƣợc phƣơng thức trình bày, bố cục đề tài , giáo viên hoàn toàn có thể đầu tƣ thêm thời gian để chỉ bảo cho các em nhằm giúp các em có đƣợc một công trình nghiên cứu đầu tay có chất lƣợng. Một sự định hƣớng đúng sẽ giúp đỡ các em rất nhiều trong quá trình làm nghiên cứu khoa học hoặc làm khóa luận tốt nghiệp sau này. Bên cạnh đó, nhƣ đã nói ở chƣơng 1, do kiến thức của môn học Cơ sở văn hóa Việt Nam là những kiến thức đa ngành và liên ngành, nên không nhất thiết chỉ giới hạn hƣớng đề tài trong lĩnh vực Văn hóa mà có thể mở rộng cho phù hợp với đặc trƣng ngành nghề đào tạo của các em. Lấy ví dụ, đối với sinh viên ngành Ngoại ngữ, có thể đƣa cho các em những định hƣớng đề tài chung nhƣ Văn hóa - Ngôn ngữ, Văn hóa - Dân tộc học. Với những định hƣớng này, các em hoàn toàn có thể lựa chọn những nội dung nghiên cứu nhỏ hơn và chuyên sâu hơn nhƣ: - Văn hóa qua kho tàng văn học dân gian (thành ngữ, tục ngữ, ca dao, truyện cƣời dân gian) - Văn hóa ngôn ngữ các dân tộc Việt Nam 43 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  44. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng - So sánh văn hóa giao tiếp Việt Nam với một nền văn hóa khác (có thể so sánh luôn với ngôn ngữ của quốc gia mà các em đang học nhƣ Tiếng Anh, Tiếng Trung, Tiếng Nhật) - Văn hóa ngôn ngữ cử chỉ - Văn hóa hành vi ngôn ngữ (chào hỏi, khen chê, chúc mừng, cảm ơn, xin lỗi .) - Tìm hiểu một giá trị văn hóa của một cộng đồng dân cƣ hay một quốc gia, dân tộc (văn hóa ẩm thực, trang phục, nghệ thuật, mỹ thuật, phong tục ) Đối với sinh viên ngành Văn hóa du lịch, có thể đƣa ra các hƣớng đề tài về Văn hóa - Du lịch, Văn hóa - Kinh doanh, với rất nhiều lựa chọn nhƣ: - Điền dã, khảo sát, miêu tả, ghi chép 1 đến 2 lễ hội - Viết thuyết minh về 1 điểm du lịch văn hóa - Thử thiết kế một tour du lịch văn hóa trong phạm vi một quận/huyện, tỉnh/thành phố. - Tìm hiểu về văn hóa tiếp thị - Kinh doanh sản phẩm du lịch nghiên cứu từ góc độ văn hóa. + Về cách thức và phƣơng pháp nghiên cứu Khi giao vấn đề nghiên cứu cho sinh viên, mặc dù đã giới thiệu sơ qua về nguồn tài liệu tham khảo, về cách thức nghiên cứu và những yêu cầu tối 44 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  45. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng thiểu của một bài nghiên cứu khoa học qui mô nhỏ, nhƣng khi nhận đƣợc báo cáo của các em, chúng tôi thấy chƣa thực sự hài lòng. Sở dĩ nhƣ vậy vì hầu hết các em mới chỉ dừng lại ở chỗ sƣu tầm và lắp ghép tƣ liệu, hay nói cách khác là đi sao chép lại kiến thức, quan điểm của ngƣời khác chứ chƣa hề có sự tƣ duy, chƣa đƣa ra đƣợc quan điểm cá nhân, chƣa chỉ ra đƣợc đóng góp mới của bản thân. 2.2.3. Sử dụng câu hỏi Trắc nghiệm khách quan trong giảng dạy: Nhƣ chúng ta đã biết, nội dung chính của môn học Cơ sở văn hóa Việt Nam là cung cấp một cái nhìn tổng quan và hệ thống về nền văn hóa của dân tộc. Mặc dù đó là một nền văn hóa nhiều bản sắc và đã đƣợc định hình qua thời gian, nhƣng khi nghiên cứu về từng vấn đề văn hóa cụ thể, trong giới học giả vẫn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau. Chính vì thế, đây là một môn học rất có đất để sinh viên có cơ hội bày tỏ quan điểm cá nhân và sự nhìn nhận của mình. Chính vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn bài thi tự luận cuối học kỳ làm hình thức kiểm tra đánh giá chính. Nhƣng để đảm bảo ý thức học tập của các em trong suốt quá trình giảng dạy học tập, bên cạnh những bài kiểm tra viết, chúng tôi cũng tiến hành phƣơng pháp sử dụng câu hỏi Trắc nghiệm khách quan trong giảng dạy. Giáo viên chuẩn bị các câu hỏi Trắc nghiệm khách quan với mục đích: đánh giá năng lực đầu vào của sinh viên, ôn tập bài cũ, kiểm tra mức độ hiểu bài, lấy điểm quá trình Sinh viên trả lời các câu hỏi trên cơ sở cá nhân hoặc nhóm. 2.2.3.1. Cách thức triển khai: - Bước 1: Giáo viên biên soạn bộ câu hỏi trắc nghiệm Chúng tôi đã đầu tƣ thời gian và công sức để biên soạn bộ câu hỏi trắc nghiệm, áp dụng cho bài kiểm tra giữa kỳ hoặc cuối kỳ. Nội dung câu hỏi xuyên suốt nội dung môn học, mỗi câu hỏi có 4 đáp án (A,B,C,D), trong đó 45 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  46. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng chỉ có 1 đáp án đúng. Sau đó, chúng tôi nhập nội dung câu hỏi vào phần mềm Powerpoint, khi kiểm tra thì cho trình chiếu trên lớp. - Bước 2: Sinh viên làm bài kiểm tra trắc nghiệm Sinh viên xem nội dung câu hỏi trên màn hình Projector, lựa chọn đáp án đúng theo nhìn nhận của mình và điền đáp án (A hoặc B hoặc C hoặc D) vào bảng trả lời theo thứ tự câu hỏi do giáo viên phát trƣớc khi kiểm tra. Sau khi làm xong, lớp trƣởng thu bài và nộp lại cho giáo viên. Bảng trả lời phải ghi rõ họ tên của sinh viên nếu không sẽ bị coi là không hợp lệ. - Bước 3: Đánh giá kết quả kiểm tra Sau khi xem xong một lƣợt tập bài làm của cả lớp xem có vấn đề gì không (ví dụ đánh dấu những chỗ sinh viên dập xóa, đổi đáp án; kiểm soát số lƣợng câu sinh viên điền hay không điền đáp án), chúng tôi tráo bài và trả bài lại cho sinh viên tự chấm cho nhau. Để đảm bảo việc sinh viên không tự chấm lại bài của chính mình, chúng tôi yêu cầu ghi rõ họ tên ngƣời chấm vào khung tên bên dƣới. Giáo viên xác nhận đáp án chính xác và sinh viên sau khi kiểm tra đáp án của bạn sẽ tiến hành cộng điểm tổng, ghi lên góc trên của bài và nộp lại cho giáo viên. 2.2.3.2. Những kinh nghiệm thu được khi triển khai phương pháp Trắc nghiệm khách quan: Trên thực tế, câu hỏi trắc nghiệm chúng tôi đã thử áp dụng với khóa 10 nhƣng bằng cách in ra khổ giấy A4 chứ không nhập trực tiếp vào phần mềm Powerpoint. Việc làm này đã phát sinh một số vấn đề nhƣ gây lãng phí (một đề kiểm tra có từ 3-4 trang, nếu foto cho cả lớp là một khoản chi phí không nhỏ). Hơn nữa, “giấy trắng mực đen” nên nếu không làm ngay đƣợc một câu 46 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  47. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng hỏi nào đó, sinh viên hoàn toàn có thể để trống, sau đó quay sang trao đổi với bạn và điền vào (dù có thể vẫn sai) khiến cho không khí của giờ kiểm tra trở nên rất mất trật tự (dù giáo viên đã nhắc nhở), điểm kiểm tra không thực chất, không đảm bảo sự công bằng. Vì thế, đối với khóa 12, chúng tôi đã nhập câu hỏi vào phần mềm Powerpoint, các câu hỏi sẽ chạy lần lƣợt và không quay trở lại, mỗi câu lại chỉ có một định lƣợng thời gian nhất định, vừa đủ để sinh viên nhận thức vấn đề và điền đáp án của mình. Chẳng hạn nhƣ học kỳ trƣớc, chúng tôi đã ra một đề kiểm tra gồm 40 câu, thời gian làm bài của mỗi câu là 30 giây, tổng thời gian chung là 20 phút. Nếu sinh viên nào không nắm đƣợc câu hỏi thì sẽ không trả lời đƣợc, ngoài ra cũng không thể quay sang cầu cứu bạn bè vì khi đó thời gian dành cho câu hỏi trƣớc đã hết, một câu hỏi mới sẽ hiện ra, nếu không tập trung sẽ lại bỏ qua một câu hỏi khác. Bằng cách này, chúng tôi không chỉ hạn chế đƣợc việc trao đổi bài mà còn kiểm soát đƣợc việc gây ồn ào trong giờ kiểm tra. Một kinh nghiệm nữa là để đảm bảo việc đánh giá kết quả đƣợc công bằng, tránh hiện tƣợng bao che cho nhau, chúng tôi yêu cầu sinh viên khi làm bài kiểm tra phải điền đáp án bằng bút bi, bút mực, không đƣợc điền bằng bút chì. Vì đã có trƣờng hợp khi tráo bài để chấm điểm, thấy bạn điền (bằng bút chì) sai nhiều quá, một số sinh viên đã tẩy đi và điền lại đáp án đúng hộ bạn. Bên cạnh đó, không nên quá tin vào kết quả sinh viên tự chấm điểm cho nhau. Thực tế đã cho thấy dù cho sinh viên không bao che cho nhau thì đôi khi họ vẫn cộng điểm nhầm cho bạn (có trƣờng hợp cao hơn nhƣng cũng có trƣờng hợp thấp đi) vì thang điểm dành cho mỗi câu hỏi trắc nghiệm thƣờng rất nhỏ và lẻ. Vì thế, sau khi thu bài về để lấy điểm, giáo viên nên cẩn thận xem lại một lần nữa để tránh sai sót và thiệt thòi cho sinh viên. Ngoài ra, với câu hỏi trắc nghiệm khách quan, không nhất thiết là chỉ áp dụng với bài kiểm tra mà có nhiều cách để sử dụng một cách linh động và hiệu 47 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  48. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng quả. Chẳng hạn có thể đƣa ra những câu hỏi trắc nghiệm khi cần thay đổi không khí học tập đang căng thẳng để giảm tải cho sinh viên hoặc khi cần thêm một kênh đánh giá với sinh viên để cho điểm cho khách quan và công bằng. Cũng có thể sử dụng phƣơng pháp này để nhắc lại bài cũ, kiểm tra kiến thức đã học hoặc khi cần thúc đẩy hứng thú học tập của sinh viên. 2.2.4. Phƣơng pháp Seminar: 2.2.4.1. Nội dung và cách thức triển khai: Đây là hình thức tổ chức dạy học bắt buộc trong đào tạo theo tín chỉ, đƣợc triển khai sau các giờ lên lớp lý thuyết. Các vấn đề của nội dung môn học sẽ đƣợc giảng viên giao trƣớc để sinh viên tự nghiên cứu tìm tòi và tranh luận công khai trên lớp. Giảng viên đóng vai trò ngƣời hƣớng dẫn, điều khiển (cũng có thể giao cho một nhóm nào đó thực hiện vai trò này), tổng kết (điều chỉnh, bổ sung) và đánh giá. Đặc điểm: Hình thức dạy học seminar trong đào tạo theo tín chỉ đƣợc tổ chức nhằm: tạo cơ hội đào sâu, mở rộng và củng cố các kiến thức lý thuyết cho sinh viên; tăng cơ hội vận dụng các kiến thức lý luận vào thực tế; rèn luyện kỹ năng lập luận, biện giải và bảo vệ các quan điểm, ý kiến cá nhân, kỹ năng chia sẻ, hợp tác; tạo “sức ép” tích cực cho ngƣời học. Tính hiệu quả của giờ lên lớp seminar phụ thuộc vào các yếu tố sau: nội dung của các vấn đề (tính thời sự, hấp dẫn, độc đáo, khả năng liên hệ thực tế ), cách thức điều khiển của giảng viên, mức độ chuẩn bị và tính tích cực của sinh viên. Đối với giờ lên lớp seminar, có thể tổ chức theo nhiều hình thức nhƣ: 1. Seminar nghiên cứu: Dƣới sự hƣớng dẫn của giảng viên, các sinh viên/nhóm sinh viên tự đề ra và đăng ký các nhiệm vụ nghiên cứu, thực hiện 48 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  49. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng và báo cáo kết quả nghiên cứu của nhóm mình trƣớc lớp. 2. Seminar “bàn tròn”: Cá nhân hoặc nhóm đƣợc giao (hoặc thống nhất chọn) cùng một nhiệm vụ và triển khai nghiên cứu theo cách riêng của cá nhân/nhóm. Nhiệm vụ điều khiển, dẫn dắt seminar, phân tích, đánh giá và tổng kết có thểđƣợc giao cho một nhóm sinh viên chủ trì, không nhất thiết phải là giảng viên) 3. Seminar chuyên đề: Giảng viên chọn và giao cho sinh viên trình bày một số vấn đề đƣợc sinh viên quan tâm chú ý có liên quan mật thiết đến nội dung môn học. Trong một số trƣờng hợp giảng viên có thể triển khai theo “đơn đặt hàng” của sinh viên. Xét về hình thức, kiểu seminar này gần giống với giờ lên lớp lý thuyết. Tuy nhiên, nó vẫn có những điểm khác biệt sau: tăng cơ hội đối thoại, trao đổi, tranh luận cho sinh viên; vấn đề thƣờng thiên về thực tế hơn lý luận; bầu không khí học tập thƣờng ít căng thẳng hơn; Trong năm học vừa rồi, chúng tôi đã triển khai giờ Seminar theo hình thức Seminar chuyên đề với các bƣớc tiên hành: - Bước 1: Giáo viên giao vấn đề và nguyên tắc triển khai: Nội dung giáo viên đƣa ra cho các nhóm là “Tìm hiểu, phân tích những điểm tích cực và hạn chế trong Văn hóa làng xã Việt Nam truyền thống - nghiên cứu trường hợp của Làng Việt Bắc Bộ”. Do lớp đông nên chúng tôi chia lớp thành 4 nhóm lớn, mỗi dãy bàn theo hàng dọc là một nhóm và chỉ định Nhóm trƣởng. Nhóm 1 và 2 phụ trách nội dung thứ nhất mặt tích cực; Nhóm 3 và 4 phụ trách nội dung thứ hai - mặt hạn chế. Cùng với vấn đề, giáo viên cũng yêu cầu các nhóm phải giữ đƣợc bầu không khí học tập thoải mái, thân thiện; không chấp nhận chỉ trích, không phủ nhận, khuyến khích nhiều ý kiến; mọi ngƣời đều công bằng, luân chuyển quyền đƣa ra ý kiến, thời gian phát biểu tranh luận là nhƣ nhau; trình bày ý kiến ngắn gọn, tập trung, không 49 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  50. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng lặp lại. - Bước 2: Sinh viên tiến hành tranh luận, thảo luận: Vì vấn đề có hai nội dung (mặt tích cực và hạn chế), nên chúng tôi yêu cầu các nhóm tiến hành thảo luận từng nội dung một. Để đảm bảo sự theo dõi khách quan và chính xác, khi nhóm 1 trình bày, chúng tôi yêu cầu nhóm 2 cử đại diện ghi tóm tắt các ý kiến của nhóm 1 lên bảng. Sau đó, nhóm 2 sẽ thể hiện quan điểm của mình bằng cách đồng tình hay phản đối ý kiến của các bạn. Nếu phản đối, nhóm 2 phải đƣa ra lý lẽ của mình để phản bác lại, đồng thời bổ sung ý kiến, nếu có. Nhóm 1 sau khi nhóm 2 phản biện xong, phải cử đại diện để bảo vệ ý kiến của nhóm mình. Trong giờ Seminar, giáo viên sẽ đóng vai trò tham dự, hƣớng dẫn, đạo diễn, nhận xét và tổng kết thảo luận. Giáo viên cần khẳng định những nội dung đúng, sửa chữa những nội dung chƣa đúng hoặc “chốt” nội dung của vấn đề, dùng nó nhƣ một phƣơng tiện để chuyển tải nội dung cốt lõi của chủ đề thảo luận. Qui trình làm việc nhƣ vậy đƣợc lặp lại với nội dung vấn đề thứ hai, đƣợc tiến hành với các nhóm 3 và 4. - Bước 3: Tổng kết, đánh giá: Sau khi các nhóm thảo luận, phản bác và bảo vệ ý kiến xong là phần đánh giá, cho điểm phần chuẩn bị trình bày, thảo luận của từng nhóm hoặc từng sinh viên và tích lũy vào kết quả cuối của môn học. Giáo viên, bên cạnh việc tổng kết nội dung thảo luận, cũng cần đƣa ra những nhận xét về cách thức tiến hành thảo luận của sinh viên, những phƣơng pháp và phƣơng tiện mà sinh viên áp dụng trong quá trình thảo luận để buổi thảo luận sau có kết quả tốt hơn. 2.2.4.2. Những kinh nghiệm thu được khi triển khai phương pháp Seminar: 50 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch
  51. Nghiên cứu, ứng dụng phương pháp giảng dạy mới môn học Cơ sở Văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu dạy - học theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Dân lập Hải Phòng + Về bố trí phòng học: Để thảo luận có hiệu quả, cần loại phòng có thể linh động bố trí chỗ ngồi, có thể xếp thành vòng tròn lớn, có thể chia thành từng nhóm nhỏ. Việc bố trí phòng sẽ tạo tâm lý thoải mái hơn cho ngƣời tham gia, thay vì chỉ đơn thuần ngồi theo kiểu lớp học hiện nay, thƣờng sinh viên ngồi gần giáo viên hoặc gần nhóm thảo luận sẽ tham gia nói nhiều hơn. Sinh viên sẽ không cảm thấy thoải mái, tự tin nêu ý kiến nếu không đƣợc nhìn thấy ngƣời nói, hoặc không nằm trong tầm nhìn của ngƣời nói. Ngoài ra, theo chúng tôi, trong quá trình thảo luận, sinh viên và giảng viên không nhất thiết phải ngồi, họ có thể đứng để tham gia thảo luận. Vì vậy, nhà trƣờng nên có những qui định cụ thể đối với giờ học thảo luận của các lớp để tránh việc hiểu nhầm của cán bộ thanh tra về ý thức học tập của lớp hay về năng lực kiểm soát lớp của giáo viên + Về công cụ thảo luận: Để một buổi thảo luận có hiệu quả, cần có những công cụ hỗ trợ. Với nhóm nhỏ, có thể dùng giấy khổ lớn để ghi lại các nội dung thảo luận, sau đó treo lên tƣờng để các sinh viên nhóm khác còn tham khảo. Với nhóm lớn, có thể cho phép các em dùng phƣơng pháp "round-ball" (viết ý kiến ra giấy, vo tròn lại và ném cho nhau) hoặc "talking stick" (ghi ý kiến ra những mảnh giấy nhỏ và chuyền cho đồng đội), chuyền quanh phòng bố trí theo vòng tròn, để đảm bảo tất cả mọi sinh viên đều phải cho biết ý kiến và để nói đƣợc, họ buộc phải nghe và tham gia thảo luận nhiều hơn. + Về sĩ số lớp: Sĩ số lớp lớn là một trong những hạn chế đối với các buổi thảo luận. Để hỗ trợ các giáo viên tăng cƣờng thực hiện phƣơng pháp này và thực hiện một 51 ThS. Phạm Thị Hoàng Điệp & ThS. Vũ Thị Thanh Hương - Bộ môn Văn hóa Du lịch