Đề tài Tìm hiểu giá trị khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh núi nưa-Huyện Triệu Sơn-Thanh Hóa phục vụ phát triển du lịch - Hồ Thị Nga
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Tìm hiểu giá trị khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh núi nưa-Huyện Triệu Sơn-Thanh Hóa phục vụ phát triển du lịch - Hồ Thị Nga", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- de_tai_tim_hieu_gia_tri_khu_di_tich_lich_su_danh_lam_thang_c.pdf
Nội dung text: Đề tài Tìm hiểu giá trị khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh núi nưa-Huyện Triệu Sơn-Thanh Hóa phục vụ phát triển du lịch - Hồ Thị Nga
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG ISO 9001-2008 ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TÌM HIỂU GIÁ TRỊ KHU DI TÍCH LỊCH SỬ, DANH LAM THẮNG CẢNH NÚI NƢA - HUYỆN TRIỆU SƠN - THANH HÓA PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH Chủ nhiệm đề tài: Hồ Thị Nga HẢI PHÒNG - 2013
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TÌM HIỂU GIÁ TRỊ KHU DI TÍCH LỊCH SỬ, DANH LAM THẮNG CẢNH NÚI NƢA - HUYỆN TRIỆU SƠN - THANH HÓA PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA DU LỊCH Chủ nhiệm đề tài: Hồ Thị Nga Giảng viên hƣớng dẫn: Th.s Phạm Thị Hoàng Điệp HẢI PHÒNG – 2013
- LỜI CAM ĐOAN Trong quá trình nghiên cứu, em đã thu thập được những số liệu cần thiết phục vụ cho việc viết đề tài của mình. Em xin cam đoan rằng những số liệu và kết quả nghiên cứu trong đề tài là trung thực, các kết quả nghiên cứu là do chính em thực hiện, các tài liệu tham khảo được trích dẫn đầy đủ. Nếu số liệu và kết quả của đề tài không trung thực, em xin chịu mọi trách nhiệm. Chủ nhiệm đề tài - Sinh viên Hồ Thị Nga
- LỜI CẢM ƠN Nghiên cứu khoa học là một hoạt động bổ ích, và cũng là niềm vinh dự đối với riêng bản thân em cũng như các bạn sinh viên khác. Trong quá trình thực hiện đề tài, bản thân em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm và giúp đỡ. Để hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới: Phòng văn hóa thể thao huyện Triệu Sơn, Ban quản lí di tích lịch sử - danh lam thắng cảnh núi Nưa đã tạo điều kiện cho em đến thực địa tìm hiểu về khu di tích, đồng thời cung cấp cho em nhiều thông tin hữu ích là nguồn tư liệu để viết bài. Em xin cảm ơn các thầy cô giáo Trường Đại học Dân lập Hải Phòng đã chỉ bảo và dạy dỗ em trong suốt bốn năm học vừa qua. Em cũng xin cảm ơn gia đình, bạn bè, những người đã hỗ trợ và động viên để em có thêm niềm tin và sự cố gắng hơn nữa. Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới giảng viên hướng dẫn: Thạc sĩ Phạm Thị Hoàng Điệp - người cô đã luôn quan tâm, chỉ bảo tận tình không chỉ về kiến thức mà còn cả phong cách cũng như thái độ làm việc nghiêm túc, để em có thể hoàn thành đề tài một cách tốt nhất. Em xin chân thành cảm ơn! Hải Phòng, ngày 24 tháng 6 năm 2013 Sinh viên Hồ Thị Nga
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Thanh Hóa là mảnh đất có bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa độc đáo. Đây từng là nơi sinh sống của người nguyên thủy, nơi có nền văn hóa Đông Sơn tỏa sáng rực rỡ trong thời đại các vua Hùng. Trong suốt mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, Thanh Hóa đã xuất hiện nhiều anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa tiêu biểu như: Bà Triệu, Lê Hoàn, Lê Lợi, Khương Văn Phụ, Đào Duy Từ Ghi dấu những trang sử hào hùng đó, hiện nay, Thanh Hóa có khoảng 1535 di tích, trong đó 134 di tích được xếp hạng quốc gia, 412 di tích được xếp hạng cấp tỉnh, có thể kể tên các di tích và danh thắng tiêu biểu của Thanh Hóa như di tích Núi Đọ, di tích Đền Bà Triệu, Thành nhà Hồ, Hàm Rồng, khu di tích Lam Kinh Những địa điểm này đã trở thành những điểm đến du lịch nổi tiếng gắn với thương hiệu du lịch Xứ Thanh. Bên cạnh những di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh đã rất quen thuộc ấy thì Khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh Núi Nưa được xem như là một điểm tham quan còn khá mới mẻ và độc đáo nằm tại huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa. Triệu Sơn là một huyện thuộc vùng đồng bằng tỉnh Thanh Hóa có địa hình đồng bằng xen kẽ trung du đồi núi. Đây là một huyện tuy còn những khó khăn nhất định về kinh tế song may mắn có nguồn tài nguyên đa dạng cả về tài nguyên thiên nhiên cũng như bề dày văn hóa lịch sử. Cùng với khu du lịch sinh thái Bãi Cò (Tiến Nông), Khu di tích lịch sử, danh thắng Núi Nưa là một nguồn tài nguyên du lịch hấp dẫn, đầy tiềm năng của huyện Triệu Sơn. Nhưng trên thực tế trong những năm qua, việc khai thác, quy hoạch tổng thể những tài nguyên này phục vụ cho du lịch của tỉnh chưa được chú trọng và quan tâm đầu tư đúng mức, chẳng hạn: hiện nay, một số công trình bị phá hủy do các yếu tố khách quan như thời gian, thời tiết vẫn chưa được tu bổ, tôn tạo lại; một số người dân quyên góp tiền bạc tự ý trùng tu đền Mẫu, phục dựng sai nguyên mẫu - đây là một hành vi có tính sai phạm, vi phạm Luật di sản Việt Nam; cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động du lịch còn yếu kém Đồng thời hoạt động du lịch tại điểm đến này còn diễn ra một cách tự phát, chưa có quy hoạch cụ thể đồng bộ, cũng như chưa có sự quản lý một cách chặt chẽ các nguồn tài nguyên từ phía cấp chính quyền địa phương, đã gây ra những lãng phí lớn về nguồn tài nguyên. Hơn thế nữa, những lợi ích về kinh tế do du 1
- lịch mang lại chưa tương xứng với tiềm năng, cụ thể đó là sự đóng góp vào sự phát triển kinh tế của địa phương còn rất hạn chế. Do đó, người viết đã lựa chọn đề tài khoa học: “Tìm hiểu giá trị Khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh Núi Nưa - huyện Triệu Sơn - Thanh Hóa phục vụ phát triển du lịch” nhằm tìm hiểu tổng quan về Khu di tích và danh thắng này, từ đó đề xuất những giải pháp khai thác phục vụ phát triển du lịch của huyện Triệu Sơn nói riêng, tỉnh Thanh Hóa nói chung một cách hiệu quả. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề: Đã có một số tác giả để công tìm hiểu, nghiên cứu về Khu di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh Núi Nưa, trong đó phần lớn họ tập trung giới thiệu về đền Nưa, Am Tiên - những di tích gắn liền với tên tuổi của vị nữ tướng anh hùng Triệu Thị Trinh. Có thể kể tên một số tư liệu như: - “Di tích và danh thắng Thanh Hóa”, Nhà xuất bản Thanh Hóa, 2006. Tác phẩm giới thiệu về hệ thống các công trình di tích và danh thắng tiêu biểu của tỉnh Thanh Hóa, trong đó ít nhiều đề cập đến khu di tích Phủ Na - Núi Na (tức núi Nưa), nằm ở phía tây của ngàn Nưa. - Tác phẩm “Địa chí huyện Triệu Sơn”, Chủ biên: Phạm Tấn - Phạm Văn Tuấn, Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội, 2010. Tác phẩm chủ yếu viết về huyền tích núi Nưa, các bí tích được lưu truyền lại về một vị tu sĩ thời Trần - Hồ đã đến đây tu đạo. Ngoài ra, các tác giả cũng giới thiệu cho người đọc biết về nguồn gốc tên gọi núi Nưa, đồng thời phác họa sơ qua về hai khu di tích nằm ở 2 phía đông và tây của dãy núi. Phía đông của dãy núi Nưa là động Am Tiên và các công trình liên quan tới khởi nghĩa Bà Triệu; phía tây là khu di tích Phủ Na - núi Na hay còn gọi là núi Nưa - cũng là một trong những nơi thờ cúng tiêu biểu của đạo Mẫu và tín ngưỡng thờ sơn thần với các đối tượng thờ như thờ cô Chín, thờ Chúa thượng ngàn, đức thánh Tản Viên. - “Thắng cảnh Ngàn Nưa với đền Nưa và Am Tiên cổ tích”, tác giả Phạm Tấn - Phạm Văn Tuấn, Nhà xuất bản Thanh Hóa xuất bản năm 2011. Tác phẩm chủ yếu nghiên cứu về lịch sử núi Nưa, quê hương và là nơi khởi nghĩa của Bà Triệu. Với độ dày chỉ khoảng 100 trang, song các tác giả cũng cố gắng đưa ra những nhận định về giá trị lịch sử, tâm linh của khu di tích đồng thời khơi gợi về vấn đề có thể phát triển du lịch tại đây, tuy nhiên chưa có đề xuất và phương án cụ thể. Bố cục trình bày nội dung cuốn sách không theo chương mục khoa học mà thiên về lối văn phong giàu biểu cảm, như một bài thuyết minh giới thiệu về khu di tích, hơn nữa cũng chưa đề cập đầy 2
- đủ những công trình hạng mục thuộc quần thể Khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh núi Nưa. Bên cạnh các tư liệu trên, còn có khá nhiều bài báo viết về đề tài này song chỉ với mục đích quảng bá và giới thiệu tổng quan về khu di tích như: “Kì bí huyệt đạo trên đỉnh Ngàn Nưa”, tác giả Lường Thi - Ngọc Hưng, bài đăng trên báo mạng: Gia đình.net.vn “Khu di tích Am Tiên”, tác giả Hoàng Năng Hùng, bài đăng trên báo mạng: Baodulich.net.vn “Cầu sinh Rồng vàng trên đỉnh Am Tiên”, tác giả: Đình Hoàng, bài đăng trên báo mạng: News.zing. Nhìn chung, phần lớn các tư liệu này chủ yếu đề cập tới những khía cạnh liên quan đến những giá trị lịch sử với huyền thoại về vùng núi Nưa mà ít đi sâu phân tích và hệ thống hóa các giá trị tâm linh, văn hóa đặc sắc khác của khu di tích cũng như chưa nhìn nhận, đánh giá, và có phương án khai thác những giá trị đó dưới góc độ là nguồn tài nguyên hấp dẫn phục vụ hoạt động du lịch của huyện Triệu Sơn nói riêng và của tỉnh Thanh Hóa nói chung. 3. Mục đích, ý nghĩa của đề tài: Đề tài nhằm cung cấp một cái nhìn tương đối đầy đủ, hệ thống và chi tiết về các công trình di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh tại ngàn Nưa. Đồng thời, trên cơ sở vận dụng những lý thuyết của du lịch học vào trong thực tiễn du lịch huyện Triệu Sơn - Thanh Hóa, người thực hiện sẽ đi sâu phân tích những bất cập trong hiện trạng khai thác hiện nay, từ đó đề xuất những định hướng cho việc phát triển du lịch của địa phương trong thời gian tới. Do được xây dựng trên cơ sở vận dụng từ lý thuyết đến thực tế và sử dụng thực tế để kiểm chứng lý thuyết, do vậy kết quả của đề tài có thể được ứng dụng trong công tác quản lý, là cơ sở cho việc xây dựng các tour du lịch, là nguồn tư liệu cho những ai có nhu cầu tìm hiểu về các giá trị của Khu di tích lịch sử, Danh lam thắng cảnh Núi Nưa. Đề tài này không chỉ mang ý nghĩa khoa học mà còn có ý nghĩa triển khai thực dụng. Về mặt khoa học, kết quả đề tài có thể phục vụ công tác đào tạo: Sử dụng làm tài liệu tham khảo và làm cơ sở cho công tác quản lý tài nguyên, là tài liệu trong việc 3
- xây dựng các tour du lịch một cách khoa học cũng như tài liệu hữu ích đối với du khách trong việc lựa chọn những điểm du lịch trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Việc tìm hiểu hiện trạng du lịch địa phương và đưa ra những giải pháp khắc phục những tồn tại, là những gợi ý nhằm giúp cho công tác quản lý và sử dụng hữu hiệu các tài nguyên, qua đó góp phần làm tăng thu nhập, tăng khả năng đóng góp của du lịch vào sự phát triển kinh tế cũng như xã hội. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu: Đề tài chủ yếu nghiên cứu về các di tích trong quần thể khu di tích núi Nưa bao gồm hệ thống các công trình nằm ở hai phía Đông và Tây của dãy núi. Đó là hệ thống những công trình có liên quan tới cuộc khởi nghĩa Bà Triệu cũng như tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ sơn thần của người dân huyện Triệu Sơn - Thanh Hóa. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài này người viết đã vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp nghiên cứu. Các phương pháp chủ yếu được sử dụng trong đề tài này là: Phương pháp thu thập và xử lý thông tin: trên cơ sở thu thập thông tin tư liệu từ nhiều nguồn khác nhau như: sách, báo, đài, tivi, tạp chí, mạng internet , từ đó chọn lọc để có cái nhìn khái quát, những nhận xét và đánh giá ban đầu về vấn đề nghiên cứu, mà cụ thể ở đây là các công trình di tích, danh thắng trong quần thể Khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh Núi Nưa thuộc huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Phương pháp nghiên cứu thực địa (điền dã): đây là phương pháp nghiên cứu rất cơ bản để khảo sát thực tế, được sử dụng để thu thập số liệu, thông tin chính xác, khách quan về đối tượng nghiên cứu. Trong quá trình làm đề tài người viết đã đi khảo sát tại huyện Triệu Sơn để có thêm thông tin thực tế bên cạnh những tài liệu thu thập được. Phương pháp phân tích, tổng hợp: phân tích và tổng hợp các tài liệu liên quan đến đề tài, từ đó đề xuất định hướng, giải pháp phát triển du lịch mang hiệu quả cao, mang tính khoa học và thực tiễn nhằm bảo tồn và phát huy giá trị Khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh Núi Nưa phục vụ phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa. 6. Bố cục đề tài: Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, đề tài được chia làm 3 chương: 4
- Chƣơng 1. Tổng quan về huyện Triệu Sơn và hoạt động du lịch ở Triệu Sơn - Thanh Hóa Nội dung trình bày vài nét về vùng đất và con người Triệu Sơn như địa lí, cảnh quan, tình hình dân cư, kinh tế, xã hội. Bên cạnh đó, khái quát về hoạt động du lịch, tài nguyên du lịch cũng như cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch, khách du lịch và hiệu quả của hoạt động du lịch của huyện từ đó đưa ra những ý kiến định hướng phát triển du lịch Triệu Sơn trong thời gian tới. Chƣơng 2. Tìm hiểu giá trị Khu di tích lịch sử, danh lam, thắng cảnh núi Nƣa và thực trạng khai thác hiện nay Nội dung trình bày về lịch sử hình thành của khu di tích, các công trình hạng mục chính trong khu di tích và các giá trị lịch sử, văn hóa và tâm linh đồng thời phân tích thục trạng khai thác tại khu di tích như thực trạng tài nguyên và trong hoạt động du lịch. Chƣơng 3. Đề xuất một số giải pháp nâng cao giá trị khai thác Khu di tích lịch sử, Danh lam thắng cảnh Núi Nƣa phục vụ phát triển du lịch của huyện Triệu Sơn Nội dung trình bày về vấn đề phục hồi và phát huy các giá trị truyền thống của Khu di tích lịch sử, Danh lam thắng cảnh Núi Nưa, các biện pháp bảo tồn và khôi phục bản sắc truyền thống của các lễ hội, các loại hình văn nghệ dân gian. Đồng thời đưa ra một số giải pháp về phát triển du lịch như: xây dựng hình ảnh điểm đến cho du lịch Triệu Sơn - Thanh Hóa, xây dựng tour du lịch chuyên đề, kết hợp với các tuyến điểm du lịch khác, đa dạng hóa sản phẩm du lịch Triệu Sơn. 5
- CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HUYỆN TRIỆU SƠN VÀ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH Ở TRIỆU SƠN - THANH HÓA 1.1. Vài nét về vùng đất và con ngƣời Triệu Sơn 1.1.1. Địa lí và cảnh quan Triệu Sơn là một huyện đồng bằng tiếp nối với vùng miền núi phía tây Thanh Hóa. Đây là huyện mới thành lập vào ngày 25-2-1965 trên cơ sở sát nhập 20 xã bắc Nông Cống và 13 xã nam Thọ Xuân (theo quyết định số 177 ngày 04/12/1964 của Chính phủ). Tọa độ địa lí từ 19º42’- 19º52’ vĩ độ Bắc và 105º34’- 105º42’ kinh độ Đông. Phía bắc Triệu Sơn giáp huyện Thọ Xuân và Thiệu Hóa, phía nam giáp huyện Như Thanh và Nông Cống, phía tây giáp huyện Thường Xuân, phía đông giáp huyện Đông Sơn. Diện tích tự nhiên của toàn huyện là 291,96 km2 (bằng 2,62% tổng diện tích tự nhiên của tỉnh); dân số có 223.521 người (số liệu năm 2004 của chi cục thống kê); mật độ bình quân 765 người/1km2 (gấp 2,3 lần so với mật độ dân số trung bình của tỉnh). Đây là nơi sinh sống của ba tộc người: Kinh, Mường, Thái. Hiện nay, huyện có 36 xã, thị trấn trong đó có bốn đơn vị là xã miền núi: Bình Sơn, Thọ Bình, Thọ Sơn, Triệu Thành. Là huyện chuyển tiếp giữa vùng đồng bằng và miền núi phía tây của Thanh Hóa, Triệu Sơn là đầu mối giao thông giữa vùng xuôi và miền ngược. Về đường bộ với quốc lộ 47 và tỉnh lộ 506, 504, 501 chạy qua, chính là yếu tố thuận lợi cho hoạt động liên hệ giao lưu của huyện Triệu Sơn với nhiều địa bàn trong và ngoài tỉnh. Dọc theo quốc lộ 47 ngược về phía tây là khu công nghiệp động lực Sao Vàng - Lam Sơn và vùng kinh tế miền núi. Từ Triệu Sơn đi theo đường Nông Cống - Như Thanh - Như Xuân là đến Nghệ An. Theo đường Hồ Chí Minh, khoảng cách từ Triệu Sơn đến Hà Nội khoảng 130km. Đặc biệt từ Triệu Sơn, sang đất bạn Lào qua cửa khẩu Na Mèo chỉ khoảng 160km. Bên cạnh đó, phía đông lại nối liền với Quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Việt, gặp ngay Thành Phố Thanh Hóa, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của tỉnh. Đây là nơi giao nhau của các tuyến đường lớn quan trọng, rồi từ đó chia các nhánh lan tỏa đi các vùng đồng bằng khác một cách thuận lợi. Với vị trí cửa ngõ giữa đồng bằng, trung du, nơi giao thoa giữa nền kinh tế miền xuôi và miền núi, huyện Triệu Sơn đã trở thành vùng đất mở thu hút nhiều luồng 6
- dân cư, dòng họ tới khai phá, mở mang, lập nghiệp, sinh tồn và ngày phát triển, xây dựng thành cộng đồng làng xã. Cùng trải qua những khó khăn, chiến tranh, sự cố kết càng làm tình làng nghĩa xóm thêm bền chặt. Từ thời phong kiến, hệ thống giao thông đường thủy ở đây đã khá phát triển. Có thể kể tới hai con sông lớn của huyện đó là hệ thống sông Hoàng (mà dân gian vẫn gọi là sông nhà Lê) và sông Nhơm (còn gọi là sông Lãng Giang hay sông Lãn Giang). Sông Hoàng là sông nội địa phát nguyên từ vùng núi phía tây huyện Thọ Xuân chảy qua các huyện Triệu Sơn, Đông Sơn, Nông Cống. Đoạn chảy qua Triệu Sơn dài khoảng 40km. Diện tích lưu vực của sông là 336km2. Tuy chịu ảnh hưởng nước triều và vật ứ của sông Yên song tốc độ dòng chảy nhỏ và xuống rất chậm.Mùa mưa lũ, lưu lượng dòng chảy lớn nhất là 67,5 m3/ giây, mùa kiệt là 0,1 m3/ giây. Sông Hoàng chủ yếu dành cho mục đích tiêu úng. Sông Nhơm là sông nội địa phát nguyên từ vùng rừng núi Hàm Đôn - Như Xuân có độ cao so với mực nước biển là 150m chảy qua Triệu Sơn, Nông Cống. Đoạn chạy qua Triệu Sơn dài 31,6 km; diện tích lưu vực là 268km2; tổng lượng chảy cả năm đạt 378 triệu m3. Đây là nguồn tưới tiêu quan trọng của huyện, song vào mùa mưa lũ lại là tác nhân gây ra tình trạng ngập úng trầm trọng. Như vậy, với vị trí địa lí thuận lợi cùng hệ thống giao thông mở rộng là điều kiện giúp huyện Triệu Sơn giao lưu, hội nhập kinh tế một cách dễ dàng và nhanh chóng. Về cảnh quan tự nhiên, trong cái nhìn tổng thể thì huyện Triệu Sơn cũng như cả tỉnh Thanh Hóa đều nằm trong vùng chuyển tiếp của hệ thống núi đồi Tây Bắc và đồng bằng châu thổ Bắc bộ và Bắc trung bộ do đó thuộc kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng đó nên cũng có sự phân hóa tự nhiên phong phú và đa dạng. Theo một cách nhìn nhận khác, các nhà địa lí Thanh Hóa cho rằng Thanh Hóa trong đó có Triệu Sơn là vùng lãnh thổ được phân bố trọn vẹn trong hai khu vực cảnh quan Trường Sơn Bắc và Duyên hải Thanh - Nghệ - Tĩnh. Tuy nhiên, ngoài những yếu tố chung thì ở mỗi tiểu vùng lại có những nét đặc thù riêng biệt ở từng mức độ nhất định. Căn cứ trên những yếu tố, điều kiện địa hình, khí hậu có thể phân lãnh thổ huyện triệu sơn thành 2 vùng cảnh quan tự nhiên: Vùng cảnh quan đồng bằng châu thổ và vùng cảnh quan trung du đồi núi. 7
- Về mặt địa chất thì vùng cảnh quan đồng bằng huyện Triệu Sơn được bồi đắp từ kỷ Pleitocene giữa, trên nền mài mòn Pleitocene sớm, hoạt động biển tiến nhẹ đã tạo điều kiện cho việc bồi đắp phù sa từ các sông lớn nhỏ. Riêng đợt tiến biển nhẹ ở thời kì Holocene đã tạo dấu ấn trong quá trình bồi đắp phù sa sông biển với nền cát và đất sét lắng đọng ở nơi này [11; 69]. Đây chính là vùng cảnh quan thuộc khí hậu đồng bằng Thanh Hóa ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới gió mùa: mùa hè nóng ẩm mưa nhiều và chịu ảnh hưởng của gió tây khô nóng, mùa đông lạnh và khô, lượng mưa trung bình hằng năm 1700mm. Do chịu ảnh hưởng của khối không khí lạnh mà có mùa đông kéo dài 3- 4 tháng, nhiệt độ 18ºC, độ ẩm trung bình trong năm là 85 - 86%, mưa lũ xảy ra nhiều vào khoảng tháng 8 tháng 9, gây ra nhiều ảnh hưởng xấu tới đời sống lao động sản xuất. Tuy vậy, nhìn chung khí hậu Triệu Sơn cũng khá thuận lợi cho việc trồng trọt và đặc biệt là thâm canh tăng vụ. Ở huyện Triệu Sơn, lượng đất phù sa chiếm diện tích lớn nhất, được phân bố rộng dài dọc theo hai bên bờ sông Hoàng và sông Nhơm. Trước đây, cảnh quan của vùng phần lớn là những vùng hoang rậm, lầy trũng với cỏ lác, cỏ lăn, song với sự lao động chăm chỉ, cải tạo của người dân, diện tích đất hoang hóa đã được thu nhỏ đáng kể, hệ sinh thái trồng trọt dần thay thế cho hệ sinh thái tự nhiên. Nhìn chung, những điều kiện tự nhiên như trên là môi trường thích hợp cho sự phát triển nông nghiệp. Nghề nuôi trồng truyền thống cho đến nay vẫn được xem là chủ đạo trong kinh tế địa phương. Tuy nhiên, trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay, ngoài thế mạnh về nông nghiệp, huyện Triệu Sơn còn mở rộng đầu tư sang phát triển công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Điều đó đã góp phần mang đến cuộc sống nơi đây nhiều khởi sắc mới đồng thời thay đổi cảnh quan Triệu Sơn theo chiều hướng tích cực. Bên cạnh cảnh quan đồng bằng châu thổ, vùng cảnh quan trung du đồi núi chiếm 30% tổng diện tích tự nhiên của huyện, được phân bố ở các xã Bình Sơn, Thọ Bình, Thọ Sơn, Triệu Thành, Vân Sơn, Thái Hòa và vùng núi Nưa. Độ cao trung bình của khu vực này là 70-80 m so với mực nước biển, nơi cao nhất là dãy Ngàn Nưa với đỉnh cao 538m. Đây là phần cuối cùng của hệ thống đồi núi sông Chu tràn đến. Địa hình vùng nhìn chung không phức tạp, có bề mặt thoải nghiêng theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, có độ dốc bình quân tương đối cao và chia cắt liên tục, nằm 8
- trong vùng nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng của gió tây Lào, đây là vùng có số ngày nắng nóng nhiều (15 - 20 ngày/tháng). Nền nhiệt tương đối cao, tổng nhiệt trung bình năm đạt 8.300ºC- 8500ºC. Khí hậu chia thành hai mùa rõ rệt: mùa hè nóng ẩm mưa nhiều và mùa đông lạnh hanh khô. Lượng mưa trung bình hàng năm là 1.800- 2000 mm. Vào mùa mưa, lớp bề mặt thường bị rửa trôi, mùa khô hạn, nước ngầm xuống nhanh, gây thiếu ẩm trầm trọng. Vùng cảnh quan đồi núi có các loại đất chính là feralit đỏ vàng trên đá macma axit và đất feralit vàng nhạt trên đá cát. Ngoài ra còn có các loại đất: feralit mùn trên núi với tầng đất tương đối dày, độ phì khá, tơi xốp, thoáng khí, đất đen ở các sườn chân của núi Nưa, đất feralit đỏ nâu trên đá bazan Tuy diện tích ít và phân bố rải rác song các loại đất này khá thích hợp để phục vụ trồng cây công nghiệp ngắn ngày mang lại hiệu quả kinh tế cao như cà phê, chè, mía Vùng còn có diện tích rừng tự nhiên 385,70ha. Trước kia, cảnh quan chủ yếu của vùng là rừng nhiệt đới, rừng thường xanh với nhiều loại gỗ quý như lim, táu, vầu, nứa, giang, dẻ, ngát với độ che phủ cao. Đây còn là nơi sinh sống, trú ngụ của nhiều loài động vật quý như voi, hươu, nai Song ngày nay, do sự khai thác, tàn phá của con người, thảm thực vật bị biến đổi, từ những rừng cây gỗ lớn, nhiều chỗ chỉ còn trơ lại những bụi lau lách, trảng cây bụi thấp. Cùng với sự phá hủy của con người và thiên nhiên, lũ lụt làm cho vùng đồi núi bị xói mòn, rửa trôi trơ sỏi đá. Đất đai cằn cỗi, hạn chế khả năng khai thác sử dụng đất cho việc sản xuất trồng trọt. Hệ sinh thái rừng cũng đang bị ảnh hưởng và đe dọa. Trong những năm gần đây, thực hiện theo Chương trình dự án 327 và 661, ngoài việc bảo vệ rừng, nhân dân đã tích cực trồng cây phủ xanh đồi trọc, cố gắng phục hồi và tái sinh sức sống mới cho rừng nguyên sinh đồng thời trồng thêm nhiều rừng mới. Trong địa phận của vùng có mỏ khoáng sản Crôm với số lượng lớn, đang được đưa vào khai thác, mang lại những lợi ích kinh tế to lớn. Tuy nhiên, cần phải có những chính sách, quản lí, điều hành khai thác thích hợp để không gây cạn kiệt tài nguyên và ảnh hưởng tới môi trường [11; 70]. Nhìn chung, vùng cảnh quan trung du đồi núi cũng đã dần phục hồi và tái sinh sau những nỗ lực không ngừng của nhân dân. Hiện nay, Đảng và nhà nước đang thực hiện chính sách giao đất rừng cho dân quản lí, cùng với sự phát triển mô hình vườn 9
- đồi, vườn rừng kết hợp với trang trại nông - lâm đã góp phần cải thiện hệ sinh thái rừng đồng thời giúp cảnh quan quê hương Triệu Sơn đổi mới thêm phần khởi sắc. 1.1.2. Dân cư, kinh tế, xã hội 1.1.2.1. Dân cư và truyền thống lịch sử Huyện Triệu Sơn được thành lập năm 1965, bao gồm phần đất của mười ba xã phía nam huyện Thọ Xuân và hai mươi xã thuộc phía bắc huyện Nông Cống cũ. Trong những thời kì xa xưa của dân tộc, Triệu Sơn là vùng đất có vị trí địa lí thuận lợi, cảnh quan núi rừng xinh đẹp, thu hút được nhiều luồng dân cư ngoại lai đến khai phá, chinh phục đất đai để tạo lập một cuộc sống ổn định, lâu dài. Các nhóm dân cư này đã sinh sôi và phát triển không ngừng tạo ra những tầng lớp văn hóa vật chất - tinh thần phong phú, đặc sắc, góp phần trực tiếp vào quá trình dựng nước và giữ nước trong mấy nghìn năm lịch sử. Ở huyện Triệu Sơn, dấu ấn của con người ở thời đại kim khí - thời đại dựng nước của các vua Hùng còn khá rõ. Ngoài việc khai quật và tìm thấy thanh kiếm có cán ở chân núi Nưa, còn phát hiện thêm được những cổ vật khác như trống đồng Hêgơ và các loại trang sức như rìu, mác, ấm có niên đại thời văn hóa Đông Sơn ở cồn đất ven sông Hoàng (Dân Lý, Dân Quyền). Như vậy có thể thấy rằng, một bộ phận dân cư thời đại các vua Hùng đã sinh sống ở nhiều nơi trên mảnh đất Triệu Sơn từ những buổi đầu sơ khai dựng nước. Và tại những nơi này dân cư đã biết tìm hiểu, khai phá, chinh phục thiên nhiên, dựng nhà dựng cửa, và trồng lúa nước để ổn định cuộc sống lâu dài [11; 72]. Có thể nói, Triệu Sơn là một vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi ngưng tụ nhiều giá trị văn hóa độc đáo, tạo nên những đặc thù của xứ sở, góp phần làm rạng rỡ truyền thống lịch sử, văn hóa hào hùng. Có lẽ cũng bởi nơi đây là quê hương nơi hun đúc và sinh trưởng của nhiều con người ưu tú, những tướng giỏi, người hiền tài nên truyền thống yêu nước, truyền thống anh hùng, chống giặc ngoại xâm và cởi bỏ ách thống trị thực dân đô hộ lúc nào cũng tiềm tàng và sẵn sàng bùng nổ. Thời kì Bắc thuộc, nhân dân cả quận Cửu Chân, các quận của nước Văn Lang - Âu Lạc nói chung, huyện Triệu Sơn nói riêng đã phải chịu sự đàn áp và bóc lột dã man của giai cấp thống trị phương Bắc. Vốn là vùng đất nằm gần quận trị Cửu Chân, lại là nơi có địa thế, hội tụ nhân tài, vật lực nên Triệu Sơn đã sớm trở thành nơi có truyền 10
- thống đấu tranh quật cường trong suốt chặng đường hơn 10 thế kỉ. Phong trào nổi dậy diễn ra sôi nổi tại các địa bàn, sơ lược một vài cuộc khởi nghĩa tiêu biểu: - Khởi nghĩa Chu Đạt (156 - 160): Do Chu Đạt lãnh đạo diễn ra trên địa bàn huyện Cửu Chân. “Cuộc khởi nghĩa được nhân dân trong vùng và khắp nơi hưởng ứng, lực lượng lên tới 5000 người. Sau khi chiếm được thành Cư Phong, Chu Đạt đã cùng dân binh đánh chiếm quận trị Tư Phố, giết chết tên Thái thú Nghê Đức. Chính quyền đô hộ của Cửu Chân hầu như tan vỡ. Nhà Hán phải cử Ngụy Lãng làm Đô úy Cửu Chân, tăng cường lực lượng đàn áp quân khởi nghĩa, tàn sát tới 2000 người. Lực lượng nghĩa quân còn lại rút vào Nhật Nam tiếp tục chiến đấu, mãi đến năm 160 mới bị dập tắt [11; 199]. - Sau khởi nghĩa Chu Đạt, năm 178, nhân dân các quận Hợp Phố, Ô Hử (miền đông Bắc bộ) đã nổi dậy chống lại nhà Hán dưới sự lãnh đạo của Lương Long. Nhân dân các quận Nhật Nam, Cửu Chân đã tham gia ủng hộ đến vài vạn người đánh chiếm các quận huyện. Một lần nữa, nhà Hán phải cử Thứ sử cùng 5000 binh sang đàn áp mới dập được phong trào [11; 200]. - Khởi nghĩa Bà Triệu (248): Bà Triệu hay còn có nhiều tên gọi dân gian khác như Triệu Ẩu, Triệu Thị Trinh, là người con gái dũng cảm kiên cường, em gái Quan huyện lệnh Triệu Quốc Đạt, một thủ lĩnh có uy tín trong vùng. Sách Việt Nam lược sử ghi chép: “Năm Mậu Thìn (248), vì quan lại nhà Ngô tàn ác, dân gian khổ sở, Triệu Quốc Đạt mới khởi binh đánh quận Cửu Chân. Bà Triệu đem quân ra đánh giúp anh, quân sĩ của Triệu Quốc Đạt thấy bà ấy làm tướng có can đảm bèn tôn lên làm chủ [11; 53]. Như vậy, sau khi Triệu Quốc Đạt mất, Bà Triệu được tôn làm chủ soái, thống lĩnh toàn bộ quân sĩ của bà và anh trai. Nghĩa quân đóng căn cứ chính ở dãy núi Ngàn Nưa, ngày đêm tập luyện, sẵn sang chiến đấu. Dưới ngọn cờ tập hợp của mình, Bà Triệu được nhân dân khắp vùng hưởng ứng, đặc biệt là nhân dân quanh vùng núi Nưa. Cuộc khởi nghĩa từ Cửu Chân đã lan ra tận Giao Chỉ. Triều đình nhà Ngô đã phải cử Lục Dận (cháu họ Lục Tốn) xuống làm thứ sử Châu Giao, kiêm lĩnh chức hiệu úy cùng 5000 quân tinh nhuệ xuống đàn áp cuộc khởi nghĩa. Bằng thủ đoạn thâm độc, lấy binh lực uy hiếp kết hợp với việc mua chuộc, phân hóa các thủ lĩnh địa phương của giặc, nhiều thủ lĩnh địa phương đã khuất phục. Trong 11
- một trận chiến đấu không cân sức, Bà Triệu đã anh dũng ngã xuống nơi núi Tùng” [6; 13]. Các cuộc khởi nghĩa nói trên tuy thất bại song đã đánh một dấu mốc lịch sử quan trọng, cổ vũ tinh thần đấu tranh giành độc lập của nhân dân Triệu Sơn nói riêng và phòng trào cả nước nói chung chống lại ách đô hộ của phong kiến phương Bắc. Và trong suốt tiến trình lịch sử, mỗi khi nước nhà bị xâm lăng, nhân dân Triệu Sơn lại thể hiện tinh thần kiên cường và truyền thống quý báu đó. Ở mỗi triều đại, mỗi hoàn cảnh lịch sử, Triệu Sơn luôn có những đóng góp nhất định vào công cuộc bảo vệ giang sơn, xã tắc. Chẳng hạn như đây là vùng đất đã từng lưu lại dấu tích công cuộc dẹp loạn mười hai sứ quân của Đinh Bộ Lĩnh (966 - 968) với cuộc hàng phục Ngô Xương Xí, soán giữ thành Bình Kiều (xã Hợp Lí, Triệu Sơn), thống nhất đất nước. Tiếp nối những truyền thống đó, vào năm 1414-1417, khi Nguyễn Chích dựng cờ khởi nghĩa chống quân Minh, lấy núi Hoàng Nghiêu làm căn cứ chống giặc, người dân Kẻ Nưa đã tích cực tham gia đóng góp xây dựng căn cứ; đặc biệt trong đó có ba anh em họ Doãn là Doãn Luận, Doãn Lại, Doãn Thịnh đã nhiệt tình ủng hộ nghĩa quân. Đến thế kỉ XV vùng đất Kẻ Nưa (Cổ Ninh - huyện Triệu Sơn) vào thế kỉ XV đã là một nơi phát triển về mọi mặt, trở thành vùng đất trung tâm của tây nam Thanh Hóa. Về nông nghiệp, công cuộc khai hoang mở rộng được đẩy mạnh; kinh tế thủ công như nghề dệt, đan lát được chú trọng. Sinh hoạt văn hóa với những ngày lễ hội, cúng mừng mùa màng bội thu đã trở thành những truyền thống tốt đẹp, bền chặt mang lại không khí mới cho làng quê. Về dân cư, Kẻ Nưa ở thời kì này đã trở thành một vùng đông đúc, sầm uất với nhiều dòng họ định cư. Nhiều dòng họ, vọng tộc đã có nhiều người nổi danh như họ Doãn, họ Lê mà những cống hiến của họ đã làm cho đời sống văn hóa thêm phần phong phú và rực rỡ. Vào thời Lê sơ, đây là vùng đất quê hương của nhiều nhà khoa bảng nổi tiếng, những người đã góp sức mình vào việc khai phá và phát triển vùng đất quê hương. Từ năm 1428 đến năm 1527, nhà nước Lê sơ đã tổ chức được 31 khoa thi tiến sĩ, lấy được, 968 tiến sĩ và 21 trạng nguyên. Trong đó, riêng huyện Triệu Sơn có một số nhà khoa bảng nổi tiếng có chức sắc cao trên đường công danh như: Doãn Hoàng Tuấn đỗ tiến sĩ năm Mậu Tuất (1478) dưới triều Lê Thánh Tông, làm quan tới Thượng thư Bộ Lễ, được cử đi sứ nhà Minh (1480); Doãn Mậu Khôi đỗ tiến sĩ khoa 12
- Nhâm Tuất (1502) làm quan tới chức Thượng thư, Kim trưởng Hàn Lâm viện. Ngoài ra còn có các tiến sĩ: Doãn Đình Tuấn đậu tiến sĩ khoa Kỉ Mùi (1499) niên hiệu Cảnh Thống đời vua Lê Hiến Tông; Lê Tán Tuông, Lê Tán Thiện đỗ tiến sĩ thời vua Lê Hiến Tông (1498-1504), Tống Sư Lộ đỗ Tiến sĩ thời Lê Uy Mục (1505- 1509) [10; 221] . Không chỉ là quê hương của những nhà khoa bảng mà Triệu Sơn còn là nơi hội tụ của nhiều nhà văn hóa lớn. Vào thời Lê Trung Hưng, nhiều bậc danh tướng, lương thần đã sinh ra và lớn lên trên vùng đất này, mang tài năng, trí lực để cống hiến, đóng góp cho công cuộc bảo vệ và xây dựng quê hương đất nước. Có thể kể sơ lược một vài nhân vật như: Hổ tiếng Tào Sơn Hầu; Thiết bảo Lê Trạc Tứ (người làng Thượng Cốc, xã Xuân Thịnh); Tể tướng Quận Công Lê Bật Tứ (người làng Cổ Định - xã Tân Ninh); Doãn Quận công (tức Doãn Hy); bốn cha con: Hoàn Quận công Lê Thì Hiến, Trịnh tướng hầu Lê Thì Kinh, Thạc Quận công Lê Thì Hải (sau được truy tặng Thái phó), Trung Quận công Lê Thì Liêu là đều làm tướng; Quốc sư - Tể tướng Nguyễn Hiệu; Tể tướng - Quận công Nguyễn Hoàn (người làng Lan Khê, xã Nông Trường) Theo học giả người Pháp Ch.Robequain thì vào đầu thế kỉ XIX trở đi các nhóm dân cư người Mường từ Hòa Bình và nhóm người Thái ở phía tây Thanh Hóa như Thường Xuân, Lang Chánh đã theo đường núi, đường sông di cư đến các vùng đồi núi phía tây của Triệu Sơn lập ra chòm, bản mới để cư trú. Các tộc người này cư trú tập trung tại các xã như Triệu Thành, Bình Sơn, Thọ Sơn và Thọ Bình. Đến những nơi này còn có một số người Thái, người Mường di chuyển từ Như Xuân xuống [11, 415]. Vùng đất này là nơi có bề dày truyền thống, nơi có nhiều danh nhân, dòng họ nổi tiếng, có truyền thống lịch sử văn hóa phong phú, lâu đời nên vẫn là vùng đất năng động đi lên trong những điều kiện lịch sử mới. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta và phong trào Cần Vương bùng nổ, Triệu Sơn cũng là một trong những địa phương đứng dậy khởi nghĩa từ những buổi đầu. Trên đất Triệu Sơn hình thành hai trung tâm khởi nghĩa: Trung tâm nghĩa quân của 13 xã phía tây huyện Triệu Sơn (thuộc đất Thọ Xuân cũ), đặt tại xã Thọ Phú, do nhà nho Hoàng Sĩ Ngạc (còn gọi là Quản Thung) lãnh đạo, trung tâm 20 xã phía đông nam huyện Triệu Sơn (thuộc đất Nông Cống cũ) đặt tại núi Nưa (xã Tân Ninh) do cử nhân Lê Ngọc Toản lãnh đạo. Sau này nghĩa quân gia nhập vào khởi nghĩa Ba Đình. Đây là cuộc khởi nghĩa lớn nhất Bắc Trung Bộ, thu hút chiêu mộ được nhiều binh sĩ từ khắp nơi, trong đó có cả bộ phận người Mường, người Thái 13
- của huyện Triệu Sơn. Không chỉ hưởng ứng phong trào đấu tranh tại quê nhà Triệu Sơn, họ còn tham gia các cuộc khởi nghĩa diễn ra tại các địa bàn miền núi của Hà Văn Mao và khởi nghĩa của Cầm Bá Thước [11; 32]. Tuy cuối cùng do chênh lệch tương quan lực lượng, các cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, dập tắt, nhân dân lại trở về với cuộc sống lầm than, cùng cực dưới ách đô hộ thực dân phong kiến, song từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và sau đó là sự ra đời của các Chi bộ Đảng, trong đó có tổ Đảng Triệu Sơn, phong trào đấu tranh ở đây bước sang trang mới. Dưới sự dìu dắt, lãnh đạo của Đảng nhân dân Triệu Sơn đã có một đường lối sách lược đấu tranh đúng đắn, mở ra những triển vọng về tương lai độc lập, tự do. Như vậy, có thể thấy huyện Triệu Sơn là mảnh đất quê hương của những người con ưu tú, vùng đất địa linh nhân kiệt với phong trào đấu tranh quật cường trong lịch sử, và trong suốt từ ngày giải phóng cách mạng thánh Tám 1945 đến nay, bằng tinh thần lao động và nỗ lực không ngừng, con người Triệu Sơn lại phát huy những truyền thống tốt đẹp của quê hương để tạo ra những kì tích mới, trong chiến đấu, lao động sản xuất, đưa huyện Triệu Sơn trở thành đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và điển hình trong mô hình xây dựng nông thôn mới. Theo số liệu điều tra năm 2008, dân số toàn huyện là 225.167 người. Trong đó, người Kinh (Việt) có 218.637 người, người Mường có 3.378 người, người Thái có 2.815 người và các dân tộc khác là 337 người. Tộc người Kinh chiếm đại đa số và cư trú ở hầu hết các xã trên địa bàn huyện. Tộc người Mường, người Thái sống ở vùng bán sơn địa, xen kẽ với người Kinh, chủ yếu ở hai xã Thọ Bình, Thọ Sơn. Mật độ dân cư phân bố không đều, vùng đồng bằng dân cư tập trung đông đúc, bình quân 545 người/km2, vùng bán sơn địa miền núi đất đai rộng nhưng dân số ít, bình quân chỉ có 270 người/ km2 [11; 517]. Cùng chung sống trong một khu vực song mỗi tộc người lại mang một bản sắc văn hóa với phương thức sản xuất cũng như đời sống tinh thần riêng biệt, góp phần tạo nên nền văn hóa phong phú, đặc sắc cho huyện Triệu Sơn. 1.1.2.2. Điều kiện Kinh tế - Xã hội huyện Triệu Sơn Trong thời kì đất nước đổi mới theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, huyện Triệu Sơn, đang có những thay đổi tích cực về đường lối, chính sách kinh tế để 14
- trở thành đơn vị phát triển toàn diện, kịp hòa nhịp với xu hướng kinh tế của tỉnh Thanh Hóa nói riêng và đất nước nói chung. Tuy có sự chuyển dịch kinh tế, mở rộng đầu tư sang các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ song nhìn chung, nền kinh tế huyện Triệu Sơn vẫn lấy nông nghiệp làm chủ đạo. Các nghề trồng trọt và chăn nuôi truyền thống vẫn được tiếp tục chú trọng và phát huy, cải tổ để đạt hiệu quả kinh tế cao hơn. * Nông nghiệp: Nghề trồng lúa đã có từ rất lâu đời và luôn gắn bó, trở thành nghề chính nuôi sống gia đình của người nông dân huyện Triệu Sơn trong suốt chiều dài lịch sử. Trải qua bao nhiêu thế kỉ, người nông dân Triệu Sơn đã trồng hàng trăm loại giống lúa khác nhau và trên cơ sở chọn lựa những giống lúa thích hợp với loại đất và khí hậu của địa phương. Một số giống lúa tiêu biểu như: nếp Sắt, nếp Hoa Cau, nếp Hương, nếp Mường, ngon nhất có thể kể đến loại nếp Cái Hoa Vàng. Lúa tẻ có các giống lúa Lốc, lúa Chăm, Lúa Thông, Lúa Câu đều là những loại lúa có khả năng chịu hạn tốt, cho năng suất cao. Về kĩ thuật trồng lúa, có thể nói người dân đã rất thành thục. Một số học giả khi tới Thanh Hóa vào những năm nửa đầu thế kỉ XX, quan sát cách làm ruộng đã nhận xét kĩ thuật trồng lúa của người dân đã đạt đến trình độ “khó có thể tiến thêm được nữa” được ghi chép trong tài liệu Le thanh hoa của CH Robequain. Mặc dù có nhiều kinh nghiệm song từ năm 1945 trở về trước, hoạt động sản xuất trồng lúa nước vẫn phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên, đặc biệt là ở vùng trung du đồi núi và vùng đồng bằng có địa hình cao thường xuyên bị hạn hán kéo dài, đất đai khô cằn, giảm năng suất lúa. Bên cạnh đó, ở các xã đồng bằng, nhất là những vùng ngập trũng thì vào mùa mưa lũ, nước ở hai con sông Hoàng và sông Nhơm dâng lên gây tình trạng ngập úng trầm trọng, chưa kể đến các ổ dịch bệnh, sâu phá hoại, nhiều vụ mùa thiệt hại nặng nề, có khi mất trắng. Nhìn chung nghề trồng lúa là một nghề khá vất vả. Người nông dân phải kì công chăm sóc phân bón, diệt cỏ, diệt sâu, tát nước song kết quả thu hoạch được không nhiều. Ngày nay nhờ những tiến bộ khoa học, nhiều giống lúa mới được lai tạo mang lại năng suất cao, có khả năng chịu hạn, các loại phân bón giúp cải thiện, thúc đẩy sự sinh trưởng của cây lúa, các loại máy móc cơ giới đã thay thế cho sức người, sức trâu. Ở các xã vùng cao, huyện đầu tư xây dựng các hồ đập chứa nước tưới tiêu 15
- cho ruộng đồng, các đồng xã đồng bằng, đào hệ thống kênh mương thoát nước mùa mưa, các đồng vùng chiêm trũng, trồng lúa nước kết hợp với mô hình nuôi thả cá. Với phương thức sản xuất khoa học, việc thâm canh lúa ở các xã miền núi cũng có những khởi sắc, tiến bộ. Bằng những biện pháp hữu hiệu trên, tình hình nghề trồng lúa ở Triệu Sơn có những biến chuyển khả quan. Năng suất lúa nâng cao đáng kể, hiện nay trung bình đạt 3, 4 tạ/sào (gấp 3,4 lần trước năm 1960). Sau đây là một số chỉ tiêu năng suất, sản lượng lúa của huyện: Bảng thống kê số liệu về sản lƣợng lúa giai đoạn 2005 - 2009 Năm 2005 2006 2007 2008 2009 Diện tích (ha) 20.481 20.380 20.305 20.323 20.481 Năng suất(tạ/ha) 54,4 59,3 58,9 61,0 62,1 Sản lượng lúa cả năm (tấn) 111.330 120.764 119.557 123.913 127.258 (Nguồn: “Niên giám thống kê 2009” của Cục thống kê tỉnh Thanh Hóa) Bên cạnh nghề trồng lúa, thì huyện Triệu Sơn còn tiếp tục duy trì nghề trồng hoa màu và có những biện pháp để tăng năng suất của các giống cây mang lại hiệu quả về kinh tế. Do điều kiện địa chất của huyện, có một diện tích là đất gò, bãi rải rác ở ven song và đất đồi phân bố ở các xã bán sơn địa, loại đất này rất phù hợp với việc trồng các loại cây hoa màu như cây sắn, ngô, khoai, đậu, lạc Hơn thế nữa, ở các xã này, mỗi năm chỉ canh tác được một vụ lúa, do vậy hiệu quả khai thác lúa không cao, nên thời gian sau khi thu hoạch thường sử dụng đất để canh tác hoa màu. Đối với các xã đồng bằng, việc trồng lúa chỉ vất vả trong khoảng vụ mùa, thời gian nông rỗi chờ đến vụ sau người nông dân thường canh tác trồng thêm vụ màu. Các cây hoa màu thường là các cây ngắn ngày, thu hoạch nhanh mang lại những sản phẩm để đáp ứng việc tiêu thụ trước mắt. Cây ăn quả: Các xã địa bàn vùng đồi núi của huyện Triệu Sơn có diện tích rộng, đồng thời có loại đất feralit vàng rất thích hợp để canh tác, trồng các loại cây ăn quả như: xoài, hồng xiêm, nhãn, cam, chanh Đây là các cây cho sản phẩm có giá trị kinh tế cao. Hiện nay, nhiều hộ gia đình đã canh tác đất, trồng phổ biến cây ăn quả, tập trung chuyển dịch thành các trang trại với quy mô lớn. Đến năm 2009, toàn huyện có 8 trang trại trồng cây, và đây cũng đang là xu hướng làm ăn hiệu quả. Hiện nay, Triệu Sơn cũng đang dần có những nhận thức, chuyển biến mới trong nghề trồng trọt. Bên cạnh các cây trồng truyền thống, huyện tập trung đầu tư cho các 16
- loại cây rau củ thực phẩm xuất khẩu có giá trị cao như: rau xanh sạch, ớt, dưa chuột bao tử, khoai tây. Không ưu tiên tăng diện tích mà ưu tiên chất lượng sản phẩm, tạo thương hiệu rau sạch, tiêu thụ ở các chợ, các siêu thị ở các đô thị để tăng giá trị bền vững. Tăng diện tích trồng ớt, dưa chuột xuất khẩu lên khoảng 400 - 500 ha, khoai tây 200 - 300 ha, vì đây là các loại cây trồng có thể đạt giá trị 100 triệu đồng/ ha. Ngoài ra, các sản phẩm rau sạch khác như măng tre và nấm cũng đang được ưu tiên và khuyến khích trong sản xuất. Đây là các sản phẩm đang có nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, lại có điều kiện tốt để phát triển trên đất Triệu Sơn. Măng tre có khả năng thu hoạch hàng 100tr đ/ ha, cao hơn trồng cây nguyên liệu giấy. Nấm rơm là loại rau sạch, tận dụng được các phế liệu nông nghiệp, giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người dân. Vì vậy, việc du nhập nghề này là hết sức cần thiết và một bước tiến mới trong sản xuất nông nghiệp của huyện. Nghề chăn nuôi truyền thống, cũng là một trong những thế mạnh của Triệu Sơn đang được huyện quan tâm, đầu tư phát triển. Trước kia, mỗi hộ gia đình thường nuôi từ 1 - 3 con, đối với các xứ đồng chiêm trũng, trâu được sử dụng vào việc ôn đất, thay cho việc cày bừa. Ở vùng trung du, miền núi, trâu của đồng bào dân tộc được nuôi thả thành bầy đàn trên các đồi trọc hoặc các bãi cỏ ven rừng núi. Ở các xã này, địa hình cao, đồi rộng, lại nhiều cây cỏ thức ăn cho trâu, nên có gia đình nuôi tới vài chục con. Trong khi trâu được nuôi nhiều và phổ biến ở các xã bán sơn địa thì lợn được nuôi phổ biến hơn. Lợn là giống động vật ăn nhiều, ngủ nhiều, chóng lớn. Ở hầu hết các địa phương, các hộ gia đình đều nuôi ít nhất một đến hai con. Đây là một giải pháp hữu hiệu của hộ nông thôn, vừa giải quyết các sản phẩm hoa màu thừa, vừa là nguồn sản xuất phân chuồng bón ruộng vườn. Từ năm 1975 tới nay, việc nuôi lợn thường được xây dựng theo mô hình trang trại, nuôi tập trung với số lượng đàn lớn. Việc ra đời các trang trại là một bước tiến phát triển mang hiệu quả kinh tế cao. Ngoài các loại gia súc, huyện còn phổ biến cả chăn nuôi gia cầm: gà, vịt, ngan. Ở các xứ dồng chiêm trũng nghề nuôi vịt khá phát triển. Do địa hình, đầm lầy, nhiều tôm tép, cá nhỏ là nguồn thức ăn phong phú. Bên cạnh đó, ở các xã đồng bằng, hệ thống kênh mương dày đặc cũng là môi trường sống phù hợp đối với loài vịt.Tuy nhiên, trong các loại gia cầm thì gà vẫn là loại được nuôi nhiều nhất. Gà được nuôi ở hầu hết các địa bàn của huyện.Trên các xã bán sơn địa và vùng núi, đàn gà được nuôi thả rông trên đồi, núi. Đây là loại gà đồi có thịt dai, thơm ngon. Ở các xã đồng bằng, 17
- gà được nuôi trong chuồng, vườn. Tuy có nhiều kinh ngiệm và kĩ thuật trong nghề chăn nuôi gia cầm, song vào những đợt dịch bệnh, gà vịt vẫn bị chết nhiều, do thiếu thuốc men và các phương pháp khoa học. Ngày nay, nghề nuôi gà trở thành mũi nhọn trong ngành nông nghiệp theo xu hướng hàng hóa. Trong giai đoạn (2005 - 2009), số lượng gia cầm, đặc biệt trong đó số lượng gà của huyện chiếm vị thế lớn nhất tỉnh. Số lượng sản phẩm chăn nuôi của huyện trong giai đoạn (2005 -2009) được thống kê dưới bảng sau: Bảng số liệu sản phẩm chăn nuôi của huyện Triệu Sơn giai đoạn 2005 -2009 Đơn vị: nghìn con Năm Sản lƣợng 2005 2006 2007 2008 2009 Bò 24,4 28,4 30,3 28,3 19,3 Lợn 106,6 97,8 100,7 88,7 70,1 Gia cầm 1.220 1.185 1.211 1.102 1.047 (Nguồn: “Niên giám thống kê 2009” của Cục thống kê tỉnh Thanh Hóa) * Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp: Về công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, ở Triệu Sơn đến năm 2010 đã hình thành ở quy mô ban đầu còn khiêm tốn, đóng góp 15% vào GDP của huyện. Hiện nay, ở huyện đã ra đời đội ngũ doanh nhân, lao động trong các doanh nghiệp là 2420 người. Tính đến năm 2009, huyện có 154 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó, có 1 cơ sở vốn đầu tư nước ngoài với số lao động đang công tác, làm việc là 50 người; 153 doanh nghiệp ngoài nhà nước. Điều đặc biệt là ở đây, không có một doanh nghiệp nhà nước nào, hơn nữa, số hộ cơ sở kinh doanh cá thể tương đối nhiều. Năm 2009, có khoảng 6301 cơ sở, với số lao động là 9135 người. Đây là một đặc điểm phát triển từ nội tại phù hợp với kinh tế thị trường trong định hướng xã hội chủ nghĩa: giải phóng lực lượng sản xuất, kinh tế đa thành phần, cạnh tranh và phát triển [13; 32]. Các nhóm nghề kinh tế của huyện khá đa dạng và phong phú. Do có nền nông nghiệp phát triển nên kèm theo đó, nhóm nghề sản xuất từ các nguyên liệu nông nghiệp địa phương cũng phát triển theo. Đó là các nghề như xay xát, chế biến gạo, ngô, đậu phụ, miến, giò chả, chế biến nấm, măng Ngoài sản xuất búp chè từ tại các 18
- vùng chè thì các nghề này phát triển rộng khắp hầu hết các vùng nông thôn như là nghề phụ để tăng thu nhập. Nghề chủ yếu của các hộ gia đình là đầu tư kinh doanh. Việc sản xuất vật liệu xây dựng đá gạch được tập trung thành các hợp tác xã, các cơ sở sản xuất khoáng sản xây dựng tại khu có mỏ. Bên cạnh đó huyện còn kêu gọi các nhà đầu tư tham gia vào các khu công nghiệp khai thác nguyên liệu than bùn để phát triển sản xuất phân lân hữu cơ phục vụ nông nghiệp. Các cơ sở sản xuất đồ gỗ gia dụng cũng được mở ra nhằm phục vụ nhu cầu của địa phương. Mặt hàng này chủ yếu do các gia đình và làng nghề truyền thống đầu tư kinh doanh. Đặc biệt là các mặt hàng dân dụng như bàn, ghế, chõng được người dân khá ưa chuộng do có giá thành thấp và mẫu mã khá đẹp. Nghề thủ công đan lát, giành, thuyền nan, nơm cá rất phát triển ở Triệu Sơn, trở thành hàng hóa đặc trưng có thương hiệu được đem bán ở rất nhiều khu vực chợ, các khu mua bán ở các địa phương khác trong tỉnh. Nhóm hàng dệt may cũng có khá nhiều cơ hội phát triển trên đất Triệu Sơn. Đến nay, huyện đang có kế hoạch xây dựng 4 nhà máy may, tổng công suất khoảng 10 triệu sản phẩm giải quyết cho hàng vạn lao động có việc làm và thu nhập. Huyện thành công trong khâu đột phá đào tạo và nâng cao tay nghề cho người lao động thì có khả năng còn thu hút được gấp đôi trong giai đoạn tiếp theo. Với 4 nhà máy dự đoán đến năm 2015 sẽ tạo giá trị chiếm 50% giá trị sản xuất công nghiệp của huyện, trở thành ngành mũi nhọn trên lĩnh vực này [13; 38]. Nhìn chung, nền công nghiệp huyện Triệu Sơn vẫn còn nhỏ lẻ, chưa có những thay đổi vượt bậc song với sự nỗ lực của các cơ quan chính quyền địa phương và người dân nơi đây, kinh tế công nghiệp cũng đang có những chuyển biến tích cực, trong tương lai đưa huyện Triệu Sơn phát triển theo hướng công nghiệp hóa, trở thành huyện có nền kinh tế công nghiệp phát triển chiếm ưu thế. 1.2. Khái quát về hoạt động du lịch ở Triệu Sơn 1.2.1. Tài nguyên du lịch huyện Triệu Sơn Triệu Sơn là một huyện thuộc vùng bán sơn địa nằm về phía tây của tỉnh Thanh Hóa với diện tích tự nhiên là 29.000.000 ha, dân số hơn 20 vạn người. Trong huyện có 3 tộc người anh em sinh sống Kinh - Mường - Thái cùng chung sống, vùng đất nơi đây hội tụ các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” để trở thành vùng đất mở, nơi hẹn hò của nhiều luồng dân cư, dòng họ tới cư trú. Vì vậy, hiện nay, nơi đây còn bảo lưu một kho tàng văn hóa vật thể và phi vật thể đặc sắc. Là huyện có cấu trúc địa hình tương 19
- đối phức tạp, khí hậu trong lành, với nhiều di tích danh lam thắng cảnh như: Núi Nưa - đền Nưa - Am Tiên, khu du lịch sinh thái Vườn cò Tiến Nông, hệ thống đền phủ, chùa chiền như: Phủ Tía, Chùa Hòa Long, Chùa Lễ Động đã tạo ra cho huyện Triệu Sơn nhiều thế mạnh về phát triển các loại hình du lịch, đặc biệt là du lịch tâm linh và du lịch sinh thái. Sau đây là sự điểm qua về một số đặc điểm tài nguyên du lịch của huyện. 1.2.1.1. Khu du lịch sinh thái Vườn cò Tiến Nông Cha ông ta có câu “Đất lành chim đậu”, đã từ lâu trong tâm thức của nhiều người, đảo cò Tiến Nông (huyện Triệu Sơn) là niềm kiêu hãnh về miền đất lành và sự gắn kết giữa cảnh vật thiên nhiên với con người của một vùng quê yên bình. Nơi đây được xem là báu vật mà thiên nhiên đã ưu đãi, ban tặng cho con người và mảnh đất Triệu Sơn (Thanh Hóa). Nằm cách thị trấn Giắt của huyện Triệu Sơn gần 5km, xuôi về làng Nga, xã Tiến Nông là một vườn cò rộng hơn 3ha. Khác với vị trí rừng cây hay đồi núi hiểm trở của những vườn cò khác trong cả nước, vườn cò này nằm xen giữa khu dân cư trong một hồ nước lớn, chung quanh là hào sâu ngăn cách khó vượt qua. Bởi vậy mà nó còn được gọi là đảo cò. Đó cũng chính là nguyên nhân mà nhiều đời nay, vườn cò vẫn tồn tại, nhiều loài chim, vạc, cuốc vẫn sinh sôi, làm tổ. Về lịch sử của vườn cò, nhiều người dân làng Nga cũng không biết chính xác nó hình thành từ bao giờ và loài cò chim đến đây cư trú lần đầu tiên tự lúc nào Theo lời các cụ cao tuổi trong làng, chỉ biết, hàng năm, các loại cò, vạc tập trung nhiều nhất về làng vào khoảng từ tháng 9 dương đến Tết Âm lịch, bởi đây là thời điểm các loài chim biển di cư vào trú đông. Từ tháng 3 đến tháng 7 năm sau chính là mùa sinh sản của cò. Cò ở đây rất đông đúc, từng đàn bay lượn trên bầu trời xanh, rồi đậu dần xuống những ngọn tre, làm phá vỡ bầu không gian yên tĩnh trước đó. Khi thuyền xuôi ra đảo cò, chỉ cần rung nhẹ vào lùm cây, hàng trăm con vạc nháo nhác bay lên. Sự náo nhiệt của các loài chim trời như khẳng định sức bám trụ bền lâu của chúng. Tại vườn chim này, không chỉ có cò, vạc mà đây còn là nơi ở của nhiều loài chim như: vịt trời, le le, cuốc, bìm bịp, bồ câu hoang và đặc biệt đang có 5 cá thể bồ nông sinh sống. Theo người dân địa phương, nơi đây có sự hội tụ của gần hết các loài cò như: cò ruồi, cò trắng, cò bợ, cò hương Việc trông coi và bảo vệ vườn cò nơi đây cũng gặp không ít khó khăn. Có thời gian, “đảo cò” gần như bị “xoá xổ” bởi nhiều nguyên nhân. Một thời gian, cò bị săn, bắt vô tội vạ nên khiến cò bỏ đi khá nhiều. 20
- Những người tham gia bảo vệ vườn cò cũng chỉ bằng trách nhiệm là chính do tiền công không đáng là bao nhiêu. Vào năm 1992, vườn tre gai trong hồ bị thoái hoá, cộng với phân cò phủ trắng lá nên chết gần hết. Chính quyền địa phương đã huy động dân quân trồng lại nhiều gốc tre. Ông Đào Hữu Ngọc, Chủ tịch UBND xã Tiến Nông, cho biết: “Không biết lý do vì sao mà những năm trước đàn cò ngày một vắng dần, nhưng năm nay, cò, vạc lại về rất nhiều. Theo ước tính, hiện tại có khoảng hơn 2 vạn con cò và 1 vạn con vạc đang sinh sống tại đây. Có thể lý do chúng về đây sinh sống là bởi môi trường sống ở “đảo cò” đã được bảo vệ và cải tạo tốt hơn.” [25] Mới đây, đề án về phát triển du lịch của huyện Triệu Sơn đã được UBND tỉnh Thanh Hóa phê duyệt. Theo đó, cây cầu Vạn bắc qua sông Hoàng sẽ được mở, nối xã Tiến Nông với các xã phía nam huyện Đông Sơn. Tương lai, “Đảo cò” sẽ trở thành một điểm du lịch trong cuộc hành trình Sầm Sơn - Đảo cò Tiến Nông - Phủ Na - Am Tiên và hi vọng “đảo cò” sẽ mãi là nơi cư ngụ an toàn và bền vững của đàn chim quý. 1.2.1.2. Phủ Tía Nằm ở làng Vân Cổn, xã Vân Sơn, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa cách chân dãy núi Nưa 3km, tương truyền rằng xưa kia có đám mây cuộn trên làng nên đặt tên là “Vân Cổn”. Làng có ngọn đồi rất tròn và phẳng hình con rùa còn gọi là núi Tía. Nằm cạnh dưới chân đồi là ngôi đền cổ Phủ Tía với nhiều cây chổi xể, cây cỏ may. Phủ Tía là một trong các điểm thờ cúng Bà Triệu ở huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa. Lễ hội Phủ Tía diễn ra thường niên vào ngày 26 tháng 2 âm lịch hằng năm tại xã Vân Sơn, Triệu Sơn nhằm tưởng nhớ công ơn của Bà Triệu [2; 76]. 1.2.1.3. Chùa Lễ Động Lễ Động là ngôi chùa cổ nằm trên núi Thần Đồng, thuộc Làng Đồng Minh, xã Thái Hòa, huyện Triệu Sơn. Tương truyền ngọn núi này được hình thành do sự bồn đắp vận hành của mực nước biển từ xa xưa, và theo truyền thuyết, mỗi đêm dân làng xung quang đều nghe tiếng trẻ đọc thơ trên đỉnh núi, và năm nào, tiếng đọc thơ nhiều, thì năm đó, làng có người đỗ đạt cao, nên mới gọi là núi Thần Đồng. Chùa Lễ Động, trước đây từng là trú xứ của cố Đại Đức Thích Tâm Hướng, nguyên Chánh đại diện Phật giáo huyện Triệu Sơn, khi Đại đức viên tịch. Năm 2011, được sự giúp đỡ của Đại đức Thích Tánh Khả, Chánh đại diện Phật giáo Triệu Sơn, sư cô Thích Nữ Viên Như từ miền Nam xa xôi phát tâm hoằng pháp đất Bắc. 21
- Cũng như những ngôi chùa khác, chùa Lễ Động cũng đã long trọng tổ chức các lễ trong đạo Phật như: đại lễ Vu lan, Lễ Kính Mừng Đức Phật Thành Đạo nhằm tôn vinh, tưởng niệm đến sự đắc đạo của Đức từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Ngoài ra, chùa còn tổ chức chương trình tu học dành cho tuổi trẻ “Phật Pháp nhiệm màu” nằm trong chuỗi các hoạt động dành cho các em thanh thiếu niên hướng tới mùa lễ Phật đản. Với 2 chủ đề trong chương trình tu học “Cầu nguyện mùa thi” do Đại Đức Thích Chúc Hiển hướng dẫn và thời Pháp thoại “Phật Pháp và tuổi trẻ” do Đại Đức Thích Tuệ Minh chủ giảng đã mang đến cho các bạn trẻ những kiến thức cơ bản và vai trò của người thanh niên Phật tử trong thời đại mới. Cùng với đó Quý Thầy đã gieo duyên, giúp các sỹ tử tương lai tự tin hơn khi biết nương vào Tam bảo. Khóa học thu hút hằng trăm học viên trẻ của địa phương đến tham gia [2; 78]. 1.2.1.4. Chùa Hòa Long Chùa Hòa Long còn được nhân dân trong vùng gọi là Chùa Ông Sư, nằm ở xã Tiến Nông, Triệu Sơn, Thanh Hóa. Ngoài dịp lễ chính trong đạo Phật như lễ Vu lan, lễ mừng Vía Phật Đản được nhà chùa tổ chức long trọng thì Chùa còn có nhiều hoạt động khác như khai kinh Dược Sư cầu nguyện Quốc Thái - Dân An - Thế giới hòa bình chúng sinh an lạc, tổ chức giao lưu tiếng hát “Búp sen non” có những phần quà “lì xì” để khích lệ tinh thần và chúc các cháu mạnh khỏe, chăm ngoan - xứng đáng là con ngoan, trò giỏi cháu ngoan Bác Hồ và Búp Sen của Phật Giáo. Đặc biệt, chùa còn tổ chức khóa tu dành cho các bạn trẻ chủ đề “Nhớ Cội Nguồn” với hơn 300 bạn trẻ tham dự. Dưới sự chủ lễ của Đại Đức Thích Tánh Khả các bạn trẻ được trải nghiêm lời kinh Phật qua các lời Phật ca - khúc tán ca tôn kính Phật - Đảnh lễ Tam Bảo - Kinh Từ Tâm - Lời khấn nguyện - Tam Tự Quy Y. Đặc biệt hơn Đại Đức đã hướng dẫn các em phát 7 lời nguyện: Tập Ăn chay - Lễ Phật, tụng tinh, ngồi thiền - Đi chùa tìm hiểu Phật pháp - Siêng làm việc thiện - Cảm hóa bạn bè và người thân tin hiểu Phật pháp - Quyết tâm giữ Đạo và hộ trì Chánh Pháp. Trong khóa tu Ban tổ chức đã hướng dẫn các em về nghi thức Cổ Phật Khất Thực và tặng các em những phần quà Pháp quý báu với mong muốn gieo duyên và khích lệ tinh thần tu học của các em. Mỗi năm nhà chùa đều tổ chức định kỳ hàng tháng các chương trình tu học và khóa tu dành cho người lớn tuổi, tuổi trẻ với nhiều nội dung tu học phong phú, thiết thực. 22
- Những ngày đầu xuân, quý Phật tử về chùa còn được phát một dải lụa hồng (màu hồng là màu hạnh phúc) để treo lên cây Ước Nguyện Cát Tường, cầu bình an, lợi lạc. Cứ thế, hết tốp này đến tốp khác, tổng cộng hơn 3.000 lượt người nô nức tham gia vào các sinh hoạt đầu xuân tại chùa Ông Sư, tạo nên một không khí xuân ấp áp, thấm tình đạo vị [2; 79]. 1.2.2. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch Nhằm đẩy mạnh khai thác tiềm năng lợi thế về các di tích lịch sử, các danh lam thắng cảnh còn ẩn giấu lâu nay như: Danh thắng quốc gia ở Ngàn Nưa, vườn cò sinh thái và hàng chục các di tích lịch sử, tâm linh khác Huyện Triệu Sơn hiện nay đang khuyến khích và chào mời các nhà đầu tư mở mang các ngành khách sạn, nhà hàng và dịch vụ du lịch, bao gồm các khâu: lưu trú, ăn uống, vận chuyển, tham quan, sản xuất và bán hàng lưu niệm. Về cơ sở hạ tầng của huyện, hiện nay đang có những quy hoạch, xây dựng để phát triển và hoàn thiện hơn. Hệ thống giao thông đường bộ, trên địa bàn huyện có gần 1400 km đường, hình thành một hệ thống từ quốc lộ, tỉnh lộ, đường huyện, đường xã, đường giao thông nông thôn rất thuận tiện. Trong đó, có quốc lộ 47, đi qua huyện từ Cầu Thiều tới xã Thọ Cường dài 16,5 km. Đường tỉnh có 5 tuyến: tuyến 506 (Tân Ninh - Thọ Vực) dài 20km; tuyến 514 (Cầu Thiều - Cự Đức) 15km; tuyến 517 (Đồng Tiến - Tân Ninh) 8km, tuyến 514C (Sim - Sao Vàng) 14 km; tuyến 515C (Đu - Thọ Vực) 1km. Hệ thống giao thông đường huyện khoảng 130 km liên kết tới hầu hết các xã. Đường xã gồm trên 700km đường liên thôn, 420 km đường thôn xóm. Mật độ giao thông đường bộ của huyện cao hơn bình quân của cả tỉnh. Tuy nhiên phân bố không đều giữa các vùng, chất lượng nền mặt đường thấp, nhiều tuyến nhiều đoạn đường xuống cấp. Các tuyến đường liên kết giữa các khu, điểm du lịch đang được đưa vào xây dựng, để phục vụ cho hoạt động tham quan của khách du lịch. Đề án, xây dựng cầu Vạn bắc qua sông Hoàng, nối liền giao thông xã Tiến Nông với các xã phía nam huyện Đông Sơn đã được phê duyệt. Tại khu di tích, danh thắng Am Tiên, huyện đang tiến hành làm đường 87 kéo dài từ thôn 8 lên đỉnh núi và được duyệt kinh phí 36 tỉ đồng, đồng thời làm con đường lên huyệt núi thiêng với kinh phí dự trù là 25 tỉ đồng [13; 45]. Như vậy, huyện đang hết sức chú trọng và đầu tư vào việc hoàn thiện hệ thống giao thông, phục vụ cho hoạt động phát triển du lịch tại đây. Hoạt động du lịch của huyện Triệu Sơn nhìn chung mới chỉ mang tính chất tự phát. Cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ cho hoạt động du lịch còn hạn chế. Hiện nay, trên 23
- địa bàn huyện có 12 cơ sở lưu trú đều ở quy mô nhà nghỉ vừa và nhỏ. Trong đó, nhà nghỉ Lương Hằng là cơ sở lớn nhất với tổng số 43 phòng. Về hệ thống nhà hàng không phát triển, chủ yếu là các quán ăn nhỏ, cơm phở, giải khát bình dân với đội ngũ nhân viên phục vụ thiếu trình độ, hầu hết là con em địa phương không được đào tạo qua nghiệp vụ Mặc dù, ở một số địa bàn trung tâm huyện như thị trấn Giắt, thị trấn Dân lực có nền kinh tế khá phát triển song tính tới thời điểm hiện tại không có nơi vui chơi giải trí nào. Các hoạt động sản xuất và các cơ sở bán hàng lưu niệm rất ít, sản phẩm không mang tính bản sắc địa phương. Với một vùng đất, có nhiều tài nguyên và lợi thế như vậy nhưng, cơ sở vật chất kĩ thuật lại yếu kém, chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của du khách. Huyện Triệu Sơn cần quan tâm và chú trọng hơn nữa, đồng thời kêu gọi các nhà đầu tư xây dựng các cơ sở dịch vụ du lịch tại đây, để tương xứng với tiềm năng du lịch của huyện. 1.2.3. Khách du lịch và hiệu quả của hoạt động du lịch Với những tiềm năng về các tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn, trong những năm qua, đặc biệt là những năm gần đây, Triệu Sơn cũng đã có nhiều biện pháp để thúc đẩy ngành du lịch trên địa bàn. Thực tế, nó đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện nhà nói riêng và tỉnh Thanh Hóa nói chung. Hầu như, lượt khách của năm sau tăng gấp 1,5 lần so với năm trước. Do phần lớn tài nguyên là các hệ thống đền, chùa, phủ nên đặc điểm lớn của khách du lịch tới đây đều có mục đích cúng bái, cầu may. Hoạt động du lịch tâm linh diễn ra rời rạc, phần lớn khách du lịch tự tổ chức cá nhân hoặc theo nhóm, mà không mua theo tour du lịch của các công ty du lịch. Bởi vậy, việc ổn định và thu hút nguồn khách thường xuyên và lâu dài là rất khó, chủ yếu khách du lịch đông tập trung vào những mùa lễ hội đầu xuân. Hiện nay, huyện Triệu Sơn có 3 lễ hội chính, là lễ hội đền Nưa - Am Tiên, lễ hội Phủ Tía và lễ hội làng Quần Thanh. Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của các lễ hội đối với đời sống tinh thần của nhân dân, chính quyền các địa phương đã kết hợp với Ban quản lí tổ chức lễ hội có những cách làm mới, sáng tạo để người dân đi trẩy hội không những đông mà còn vui. Từ thực tế của những mùa lễ hội trước, năm 2013 trước thời gian diễn ra các hoạt động lễ hội trên địa bàn, Uỷ ban nhân dân huyện đã giao cho Phòng Văn hóa thể thao ban hành kế hoạch hướng dẫn, tổ chức các lễ hội, chủ động phối hợp giữa các ngành, các cấp giám sát, thanh kiểm tra và xử lý kịp thời các hiện tượng tiêu cực trong lễ hội. Bên cạnh đó, địa phương cũng đã đẩy mạnh công 24
- tác tuyên truyền, quảng bá di tích và thời gian diễn ra lễ hội để quần chúng nhân dân được biết. Việc quản lí, tổ chức tốt vừa giữ được không khí trang nghiêm của lễ hội đồng thời đảm bảo được việc giữ gìn cảnh quan thiên nhiên và môi trường du lịch trong lành, tạo ấn tượng tốt với du khách thập phương. Chỉ riêng với lễ hội Đền Nưa - Am Tiên, ước đạt 10.000 du khách tới tham quan đầu năm 2013. Hiện tại việc triển khai, thực hiện quy hoạch phát triển du lịch trên địa bàn huyện đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa phê duyệt theo quyết định số 3070/ QĐ - UBND ngày 10 tháng 12 năm 2012 về việc phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng tỉ lệ 1/500 cụm Am Tiên, khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh địa điểm khởi nghĩa Bà Triệu gồm: núi Nưa - Đền Nưa - Am Tiên. Đây hứa hẹn là một điểm du lịch tâm linh, sinh thái hấp dẫn nhất của du lịch Triệu Sơn. Bên cạnh đó, lễ hội đền phủ Tía, hằng năm cũng thu hút hàng nghìn du khách tới dâng hương, cầu khấn. Nhìn chung, nguồn khách chủ yếu của du lịch Triệu Sơn là các du khách từ các địa phương trong tỉnh, việc đi du lịch là tự tổ chức nên vấn đề tiêu thụ hàng hóa dịch vụ tại chỗ thấp. Hoạt động du lịch của huyện Triệu Sơn đang ở quy mô khiêm tốn. Huyện đang có chủ trương phấn đấu đưa giá trị sản xuất của nhóm nghành này đạt tỉ trọng so với kinh tế cả huyện là 7,6% - 8,6%. Như vậy, so với tiềm năng sẵn có, hoạt động du lịch của huyện Triệu Sơn vẫn chưa thu được hiệu quả tương xứng. Cần có những biện pháp thiết thực và phương hướng hoạt động cụ thể hơn nữa để thúc đẩy ngành du lịch Triệu Sơn phát triển. 1.2.4. Định hướng phát triển du lịch Triệu Sơn trong thời gian tới Nhìn nhận được tầm qua trọng và những lợi ích mà du lịch mang lại, huyện Triệu Sơn đã có những đề xuất quy hoạch để phục vụ hoạt động phát triển du lịch. Tổng diện tích quy hoạch sử dụng vào mục đích di tích - danh thắng trên địa bàn huyện Triệu Sơn đến năm 2020 là 212,66ha; trong đó quy hoạch ở xã Tân Ninh 202,67 ha, xã Tiến Nông là 1,52 ha, xã Dân Lý 0,18ha, xã Vân Sơn 0,60ha, xã Thái Hòa 7,56ha, xã Thọ Vực 0,12ha. Những kiến nghị trên đã được trình duyệt và thông qua vào kì họp thứ 6, khóa XVI của Hội đồng nhân dân huyện Triệu Sơn. Các không gian phát triển du lịch chính: - Không gian du lịch khu di tích Ngàn Nưa: Với loại hình du lịch tham quan tìm hiểu các công trình, danh thắng di tích lịch sử, tìm hiểu các giá trị văn hóa, lịch sử, du 25
- lịch lễ hội, du lịch tâm linh, tham quan tìm hiểu về các danh nhân (danh nhân dân tộc, địa phương). - Không gian du lịch xã Tiến Nông, với loại hình du lịch sinh thái làng quê gắn với khu sinh thái Bãi cò Tiến Nông. Cùng với việc quy hoạch diện tích và không gian du lịch thì Triệu Sơn cần phải tập trung nâng cao chất lượng, phát triển hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật đồng bộ, hiện đại; sản phẩm du lịch chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, có sức cạnh tranh, hướng tới mục tiêu đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của huyện, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của mình. Sau đây là một số định hướng để phát triển du lịch Triệu Sơn trong thời gian tới: Về cơ chế chính sách: Trên cơ sở Luật Du lịch và các luật liên quan, các ngành chức năng nghiên cứu hoàn thiện và áp dụng hệ thống các cơ chế chính sách đặc thù trong các lĩnh vực về đầu tư, về đào tạo nhân lực, thị trường nhằm tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích mọi thành phần kinh tế có thể tham gia đầu tư. Huy động nguồn vốn: vốn ngân sách Nhà nước dành cho đầu tư các hệ thống hạ tầng kỹ thuật thiết yếu, các dự án tu bổ tôn tạo di tích, tuyên truyền quảng bá chung và nguồn vốn ngoài ngân sách (vốn tích luỹ) là nguồn vốn chính đầu tư phát triển du lịch Triệu Sơn. Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống công trình cơ sở vật chất du lịch: Phát triển hệ thống các khách sạn cỡ trung tầm 2 - 3 sao và các loại hình cơ sở lưu trú khác tại các thị trấn và khu nghỉ dưỡng tại các trung tâm du lịch gắn liền với khu di tích Am Tiên (Tân Ninh) và khu sinh thái Tiến Nông. Đồng thời, đầu tư phát triển hệ thống cơ sở vui chơi giải trí - thể thao tại các khu vực thị trấn, thị tứ, tập trung dân cư như Quán Giắt, Sim ; phát triển hệ thống các siêu thị, hệ thống cửa hàng lưu niệm với các sản phẩm tiểu thủ công mĩ nghệ, mây tre đan, khu chợ đêm và khu ẩm thực phục vụ nhu cầu mua sắm của khách du lịch. Việc đầu tư tu bổ, tôn tạo và bảo vệ các di tích văn hóa - lịch sử và khôi phục phát triển các lễ hội truyền thống phục vụ du lịch là vấn đề quan trọng và cần quan tâm sâu sát. Tập trung đầu tư đồng bộ giữa hoạt động trùng tu, tôn tạo, nâng cấp, gìn giữ các di sản văn hoá với kết cấu hạ tầng, cảnh quan, nhất là đối với các di tích đã xác định để trở thành một điểm đến hoàn chỉnh, phát huy tác dụng thu hút khách. Bên cạnh đó, cũng cần nâng cao trách nhiệm, trình độ chuyên môn của ban quản lí di tích và 26
- danh thắng nhằm tổ chức, lên kế hoạch quản lí hiệu quả hơn. Ngoài trùng tu tôn tạo di tích, huyện Triệu Sơn cũng cần nghiên cứu xem xét tới các giải pháp về bảo vệ môi trường, phối hợp chặt chẽ giữa công tác bảo vệ môi trường chung của huyện với môi trường du lịch; có nội quy công khai và phương tiện bảo vệ môi trường từng điểm đến; tăng cường nhận thức về bảo vệ môi trường tới cộng đồng dân cư. Về xúc tiến, tuyên truyền quảng bá: Đây là một trong những định hướng quan trọng nhằm xây dựng thương hiệu và hình ảnh du lịch Triệu Sơn. Các hoạt động triển khai cần thực hiện đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền quảng bá, các kênh quảng bá đến các thị trường du lịch trong và ngoài tỉnh; lồng ghép hoạt động tuyên truyền quảng bá du lịch với các sự kiện văn hoá, thể thao lớn của huyện; xây dựng hệ thống các trung tâm hướng dẫn và cung cấp thông tin về du lịch huyện ở những đầu mối giao thông quan trọng, ở các trọng điểm du lịch. Về đào tạo nguồn nhân lực: Rà soát và bồi dưỡng đào tạo lại nguồn nhân lực hiện có, khuyến khích lao động có chất lượng về làm việc tại địa phương. Trước mắt ưu tiên tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng hình thành đội ngũ hướng dẫn viên tại các điểm di tích lịch sử, văn hoá trọng điểm. Xây dựng, kết nối các điểm du lịch trong huyện và các điểm du lịch khác trong tỉnh tạo thành các tour, tuyến du lịch hấp dẫn thu hút khách du lịch. 27
- Tiểu kết chương 1 Chương 1 là phần tìm hiểu tổng quan về huyện Triệu Sơn - một huyện nằm ở phía tây Thanh Hóa với nền kinh tế còn chưa thực sự phát triển với kinh tế chủ đạo vẫn là nông nghiệp. Triệu Sơn là vùng đất có bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa, có nguồn tài nguyên nhân văn phong phú, đặc biệt là hệ thống các di tích lịch sử. Đây là nguồn tiềm năng to lớn cho hoạt động du lịch của huyện nói riêng và tỉnh Thanh Hóa nói chung. Tuy nhiên, hiện nay, việc khai thác các tài nguyên này phục vụ cho hoạt động du lịch ở đây chưa đạt được hiệu quả tương xứng. Bởi vậy, huyện Triệu Sơn cần có những định hướng đúng đắn để phát huy hết lợi thế các giá trị văn hóa, lịch sử nhằm góp phần phát triển, đẩy mạnh hoạt động du lịch trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng quê hương Triệu Sơn giàu mạnh, văn minh. Chương 1 là phần cơ sở lí luận chung để tìm hiểu về tài nguyên cũng như hoạt động du lịch của huyện, để đi tới nghiên cứu những vấn đề cụ thể của đề tài là tìm hiểu các giá trị và thực trạng khai thác tại khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh Núi Nưa để phục vụ cho hoạt động du lịch ở chương tiếp theo. Đồng thời đây cũng là cơ sở để xây dựng các tour du lịch kết nối Khu di tích lịch sử danh lam thắng cảnh Núi Nưa với các điểm du lịch khác trên địa bàn huyện Triệu Sơn. 28
- CHƢƠNG 2. TÌM HIỂU GIÁ TRỊ KHU DI TÍCH LỊCH SỬ, DANH LAM THẮNG CẢNH NÚI NƢA VÀ THỰC TRẠNG KHAI THÁC HIỆN NAY 2.1. Tìm hiểu về Khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh núi Nƣa 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Khu di tích Theo đường tỉnh lộ từ thành phố Thanh Hóa, đi ngã tư Quán Giắt (Triệu Sơn) đúng 18km, rẽ tay trái theo đường 15B về phía đi Cầu Quan - Nông Cống độ khoảng 10km là đến vùng đất Kẻ Nưa - Cổ Định (nay là xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn). Nằm giữa đồng bằng phía tây nam Thanh Hóa, núi Nưa, cao gần 400m cách biển Sầm Sơn khoảng 30km về phía đông, là ngọn núi cuối cùng trong dãy núi hình rồng uốn bảy khúc, chạy dọc xã Thọ Dân, Thọ Thế, Mốc đến Sim và dừng lại phía đông bắc Nưa. Một mạch núi khác tiếp giáp với Nưa từ phía tây nam chạy qua xã Mậu Lâm, Xuân Du của huyện Như Thanh hội nhập vào mặt tả ngọn núi. Núi Nưa chia làm hai mặt, phía đông tiếp giáp đồng ruộng, phía tây nam là núi đồi. Nưa là một địa danh đặc biệt, không xa biển nhưng lại là tiếp đầu của núi rừng. Quanh năm đỉnh Nưa có mây bao phủ, khí hậu mát lành. Cái tên gọi Ngàn Nưa không biết có tự bao giờ. Lớp người gần trăm tuổi ở vùng này cho biết Ngàn Nưa xưa có không gian rộng lớn. Đầu thế kỉ XX, rừng rậm còn kéo dài đến tận làng Sim. Phiên chợ Sim đầu tháng vẫn còn tấp nập lâm sản, thịt thú rừng, thổ cẩm và dập dìu trai gái người Mường, người Thổ xuống chợ vùng ven. Trong dân gian vùng này vẫn còn in đậm các câu chuyện: Cọp dữ ở núi Nưa, ông Tu Nưa, Bà Triệu luyện binh ở Ngàn Nưa, Người tiều phu đốn củi ở đỉnh Nưa Núi Nưa là tên Nôm mà dân gian thường gọi, tên chữ mà các sách xưa đề cập đến lại là núi Na. Trong sách “Dư địa chí”, khi viết về xứ Thanh, ở mục XXXI, Nguyễn Trãi viết: “ Na, Tùng và Lương ở về Thanh Hoa. Na, Tùng là tên hai núi. Lương là tên sông”. Còn trong sách Đại Nam Nhất thống chí, ở mục Núi sông của tỉnh Thanh Hóa đã chép: “Núi Nưa: Tức Na Sơn ở huyện Nông Cống; mạch núi từ phủ Thọ Xuân kéo đến, chạy dài vài ba mươi dặm, đến địa phận tổng Cổ Định thì nổi vọt lên 29
- nhiều ngọn, ngọn cao nhất là núi Nưa; bên ngoài thì bốn dòng nước giao lưu, đỉnh núi có động, tương truyền đời Hồ có người tiều phu ở ẩn học đạo, Hồ Hán Thương cho triệu người tiều phu ấy không chịu ra, Hán Thương bèn sai đốt núi” [9; 232- 233]. Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú, ở phần Dư địa chí, mục phủ Tĩnh Gia đã viết: “Phủ Tĩnh Gia ở phía tây Thanh Hóa. Huyện Nông Cống ở miền thượng du, đất liền huyện Đông Sơn, phía tây nam có nhiều ngọn núi chập chồng vòng quanh, một chi nhánh Na Sơn chót vót đứng thẳng, trong dãy núi này có nhiều ngọn núi kì lạ, động đẹp. Về cổ tích thì có đường đi tắt của ông lão kiếm củi. Thời Hồ Hán Thương, ở Na Sơn có ông lão kiếm củi ẩn cư trong động sâu. Sứ nhà Hồ mời ra giúp việc. Ông lão mời sứ vào, nhưng ông toàn nói chuyện chê trách việc làm của thời bấy giờ, chứ không chịu ra. Sứ giả về trả lời với Hán Thương, Hán Thương lại sai người đi lần thứ hai thì thấy rêu mọc lan khắp cửa động, đường vào khi trước đã bị che lấp mất rồi. Hán Thương giận, sai đốt núi thì chỉ thấy một con hạc đen vút lên trên không bay đi.Việc này chép rõ ở Truyền kỳ mạn lục [4; 48-49]. Sách Thanh Hóa tỉnh chí, tập II, bản dịch của Nguyễn Mạnh Duân viết: “Na Sơn tức núi Nưa ở Cổ Định Nông Cống. Lại còn gọi là núi Khu Than. Tục truyền núi ấy trước kia có nhiều quỷ. Sau có nhà sư đọc lời chú yểm quỷ thì quỉ yên cho nên gọi thế. Mạch núi từ huyện Thọ Xuân thời cổ mà đến. Sườn núi quanh co suốt mấy chục dặm, đến đây mọc lên ngọn núi đá, chỗ um tùm và cao nhất tức chỗ ngọn núi ấy. Phía ngoài có sông nhánh hợp lưu, giữa có động, thế núi trắc trở và sâu thẳm. Truyện ghi trong Truyền kì mạn lục có lời kiềm chú đất ấy rằng: Na Sơn long hổ các nhất phiến, nhất hô thiên hạ biến (Núi Nưa long hổ mỗi thứ đều có một, gọi một tiếng sẽ đi khắp thiên hạ). Vì núi ấy là chi bên hữu của đất trong tỉnh hạt. Dáng tốt đẹp thì không bằng núi Thuần Phù, nhưng có động cây xanh, có sông biếc bao quanh, thế núi có từ xa, khí núi thì hùng nên núi tự nổi tiếng ở vùng giao giới của hai đất Hoan Ái” [5; 3-4]. Nói chung, khi viết về núi Nưa (Na Sơn) các sách địa chí xưa chỉ tập trung mô tả về ngọn núi cao nhất ở vùng đất Cổ Định. Đó là đỉnh núi Nưa, hay còn gọi là đỉnh Am Tiên (398m). Xét về địa danh lịch sử, trước kia vùng đất này thuộc huyện Nông Cống, từ năm 1964 tới nay, do chia lại huyện thì làng Cổ Định thuộc về đất Triệu Sơn. Ban đầu, có tên là Kẻ Nưa hay còn gọi là Cổ Na; thời Lê, đổi tên là Cổ Ninh, sau đó lại đổi tên thành Cổ Định [7; 3]. 30
- Theo sách “Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỉ XIX” thì làng Cổ Định thuộc tổng Cổ Định, huyện Nông Cống, phủ Tĩnh Gia. Sách “Khánh địa dư chí” ( 1885 -1888) cho biết: Thôn Cổ Định đến gần cuối thế kỉ XIX đã đổi thành xã Cổ Định và thuộc tổng Cổ Định. Như vậy, làng xã Cổ Định tồn tại từ thời Lê đến hết thời Nguyễn. Từ năm 1954, làng - xã Cổ Định mới đổi thành xã Tân Ninh, huyện Nông Cống và từ năm 1964 tới nay thì Cổ Định - Tân Ninh mới thuộc huyện Triệu Sơn [7; 4]. Xét về mặt vị trí thì toàn bộ vùng đất Cổ Định đều nằm gọn dưới thung lũng chân núi Nưa. Hệ thống núi Nưa, gồm nhiều ngọn đồi tròn thoải, chập trùng như bát úp. Thung lũng này được khép lại ở mạn Đông Bắc bằng những dãy dài đất đỏ thấp và tròn như những quả trứng khổng lồ. Các nhà phong thủy xưa, gọi đây là núi “Cửu noãn sào” (núi chín quả trứng rồng) nói lên mong muốn của người xưa có con cháu đời đời sinh sôi nảy nở, tiếp nối truyền thống. Theo truyền thuyết thì đây là tuyệt phẩm của ông Nưa, vị thần khủng lồ tạo ra. Khi san đồi, chia núi, ông vừa quảy núi để lấy đất trồng cây, vừa đào sông dẫn thủy từ đó tạo ra cảnh quan độc đáo, thơ mộng của vùng đất Cổ Định. Làng Cổ Định là ngôi làng cổ kính quê hương của nhiều truyền thuyết, và những câu chuyện thần tiên, cũng là nơi sản sinh ra nhiều danh nhân nổi tiếng. Con đường dẫn lên đỉnh núi Nưa, hai bên là hai hàng cây cổ thụ hơn trăm năm tuổi. Dưới chân núi là hai ngôi đền thiêng, đền Đức Thánh Lưỡng - nơi thờ chàng út Đại Vương và ngôi đền Nưa thờ Bà Triệu. Cũng nhờ địa hình, địa thế núi non rừng rậm, Kẻ Nưa còn là địa điểm thích hợp để rèn gươm luyện võ, lập căn cứ khởi nghĩa. Nơi đây còn lưu dấu nhiều địa danh gắn liền với cuộc kháng chiến chống ngoại xâm mà đầu tiên phải kể đến cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu (248). Sau khi leo lên tới tỉnh cao nhất, từ trên ấy, nhìn ngắm bốn phía, bao quát cả một vùng đất rộng lớn xứ Thanh. Từ trên đấy nhìn xuống, ôm vòng dưới chân núi Nưa và len lỏi giữa các đồi bát úp, rồi đổ về phía Đông Nam là dòng Lãn giang (sông Lười). Bởi sông này nước chảy lững lờ, chậm chạp nên mới mang tên Lãn Giang. Lòng sông hẹp nhưng sâu thẳm, hai bên bờ dốc thẳng đứng. Vào buổi sáng đẹp trời, nhìn dòng Lãn giang như vừa thức dậy sau cơn ngủ dài, uể oải uốn mình, nhập vào sông Yên rồi vươn ra biển cả. Xa xa là điệp trùng lô xô, dãy núi đá Hoàng - Nghiêu, căn cứ chống Minh của Nguyễn Chích (Đầu thế kỉ XV). Phía tây là điệp điệp trùng trùng núi non Lang Chánh, Thường Xuân xanh ngút ngàn. Nhìn dưới chân núi là đồng bằng trù phú, nơi tụ cư đông đúc, những làng 31
- mạc, ruộng đồng tốt tươi. Tất cả tạo nên cảnh quan kì thú, hấp dẫn du khách xa gần hành hương về đây, được thả mình chiêm ngưỡng sự hùng vĩ của non nước quê hương. Không chỉ là nơi luyện chí mài gươm, mảnh đất thiêng của khu căn cứ khởi nghĩa Bà Triệu, núi Nưa còn là nơi non nước hữu tình, chốn ẩn cư thanh vắng của bao tao nhân mặc khách. Không chỉ có vậy, ngày từ thời thượng cổ, khi Cổ Định còn mang tên là Chạ Kẻ Nứa (thời Hùng Vương), đã lưu truyền truyền thuyết về một nhà tu hành đắc đạo thành tiên tại nơi cao nhất trên đỉnh núi Nưa. Bởi thế, người đời còn gọi đỉnh núi Nưa là đỉnh Am Tiên. Người đầu tiên lập am tu Tiên là một người có sức mạnh siêu phàm, có phép thuật vô biên, đến nay con dân Cổ Định vẫn trân trọng gọi ông là Tu Nưa [15]. Ông Tu Nưa không chỉ lo tu hành mà còn có lòng thương người dân khó nhọc nên thường xuống giúp dân nghèo khai phá rừng rậm, dọn dẹp đất đá, phá gò lấp ao để có đồng ruộng cho bà con trồng trọt. Khi đồng ruộng được san lấp bằng phẳng thì chỉ còn hai ngọn núi đá đứng giữa đồng. Ông Tu Nưa vào rừng lấy cây mây làm gióng, chặt một cây gỗ lim làm đòn gánh để quảy hai quả núi đi nơi khác. Ông dự tính đưa hai quả núi này đến dãy núi Hoàng Nghiên (nay thuộc huyện Nông Cống). Mới đi được hai phần đường thì trời đã trưa, đói và khát nên ông Tu Nưa để núi xuống nghỉ. Sau khi ăn hết một thúng xôi nếp, uống hết một nồi nước ông định gánh núi đi tiếp. Nhưng lạ thay, dù ông vận dụng hết sức lực vẫn không nâng nổi hai ngọn núi. Hóa ra, trong thời gian ông nghỉ ăn cơm, hai ngọn núi đã mọc rễ vững chắc xuống đất. Ông nghĩ: “Chắc là phẩm lộc trời ban đồng ruộng cho dân Chạ Kẻ Nứa đến đây mà thôi”. Để giúp dân làm ăn thuận lợi, ông bắt con voi một ngà trong Ngàn Nưa, dùng cây gỗ lim to làm cày, cày một đường dài từ Mau Đan Lồ ra tới sông Hoàng Giang để thoát nước khi có mưa lũ. Cũng thời gian ấy, ở làng Vồm (nay thuộc huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa - vùng quê của di chỉ khảo cổ Núi Đọ) có một người đàn ông về tài nghệ, sức khoẻ chẳng thua gì ông Tu Nưa. Dân làng gọi ông là Tu Vồm. Nghe tiếng ông Tu Nưa do dân gian truyền tụng, ông Tu Vồm tìm đến Ngàn Nưa thách đấu. Hai con người khổng lồ, tài nghệ phi phàm đánh nhau hết ngày này qua ngày khác, họ nhổ cây rừng, bốc đất đá làm vũ khí. Trận chiến kinh thiên động địa, khiến thần khóc quỷ sầu, bão tố nổi lên ầm ầm. Cuối cùng, do sút kém tài nghệ ông Tu Vồm thua, chạy dài về lại quê hương. Từ đó ông chỉ chí thú làm ăn, giúp đỡ người nghèo khó. Nhớ công ơn ấy sau khi ông mất dân làng đã lập đền thờ và đến nay đền thờ này vẫn còn tại làng Vồm. Do hai ông 32
- Tu Nưa và Tu Vồm bốc đất đá đánh nhau nên bãi chiến trường xưa nay còn mang những cái tên do người đời sau đặt cho như: Cồn Lường, Cồn Đu, Cồn Sim, Cồn Bạc, Cồn Mồ, Cồn Chè nằm trên các cánh đồng: Bãi Chon, Mùa Nàng, Phúc Định, Nổ Lở, Đồng Troòng [15]. Sau khi đánh thắng ông Tu Vồm, ông Tu Nưa lại trở về đỉnh Am Tiên tiếp tục tu luyện và thường xuyên giúp đỡ nhân dân Chạ Kẻ Nứa. Bên cạnh truyền thuyết trên, còn nhiều tích về đạo sĩ thời Trần - Hồ tu đạo ở núi Nưa được lưu truyền trong dân gian. Núi Nưa trước kia rất nhiều ma quỷ, sau có vị sơn tăng tới đọc thần chú, yểm núi, ma quỷ cũng dần dần biến mất. Bởi thế mà núi có tên chữ là núi Na, hay còn gọi là núi đuổi ma. Câu chuyện “Người tiều phu núi Na” (Núi Nưa) còn được ghi chép lại trong nhiều sách sử. Nguyễn Dữ - tác giả tác phẩm Truyền kỳ mạn lục ra đời vào thế kỉ XVI đã ghi: “Đất Thanh Hóa phần nhiều là đất núi, bát ngát bao la tới mấy ngàn dặm. Trong đó có một ngọn núi cao chót vót, tên gọi núi Na. Núi có động, dài mà hẹp, hiểm trở mà lại quạnh hưu, bụi trần không bén tới. Hàng ngày trong động có người tiều phu gánh củi đi ra, đem đổi lấy cá và rượu, cốt được no say chứ không lấy một đồng tiền nào. Hễ gặp ông già, trẻ con dưới làng lại nói chuyện trồng dâu, trồng gai một cách vui vẻ. Ai hỏi họ tên, nhà cửa, tiều phu chỉ cười mà không trả lời. Mặt trời ngậm núi lại thủng thẳng về động. Người đương thời cho là người thuộc hạng Thần Môn, Tiếp Dư chứ Thái Hòa trở xuống đều không đủ kể ” [5; 132]. Các sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn đến các sách Thanh Hóa tỉnh chí của Nhữ Bá Sĩ cũng có ghi chép lại. Dù độ dài ngắn khác nhau cũng như mô tả chi tiết hay tóm lược, cũng đều có nội dung giống nhau. Đó là chuyện kể về vị tu sĩ thời Trần Hồ, ở ẩn tu tiên ở đỉnh Am Tiên (Ngàn Nưa). Ông là người có danh tiếng lưu truyền trong nhân gian, nên được nhà Hồ mời ra làm quan, tuy nhiên không ưng thuận mà toàn nói chuyện chê trách nên bị Hồ Hán Thương vì tức giận mà sai người đốt núi. Từ đó trở đi, khu vực này trở thành khu vực thiêng. Đến thời Lê Nguyễn, nhiều ngôi chùa, miếu được xây dựng để du khách tới hành hương, thưởng ngoạn, cầu trường sinh. Ngoài ra còn nhiều những tích liên quan, ở khu vực đỉnh cao của núi Nưa hầu như nơi nào cũng có dấu chân của các đạo sĩ tu tiên như: đỉnh Các Sơn, Tượng Sơn, núi Sẻ, Bể Cạn Chính sự phát triển Đạo giáo mà nơi đỉnh Am Tiên trở thành thắng cảnh thơ mộng, huyền ảo bậc nhất xứ Thanh Hóa với Giếng Tiên, Động Đào, Ao Hóp - quanh 33
- năm đầy nước trong vắt, tinh khiết, có bàn cờ Tiên nơi người tiều phu vào núi kiếm củi gặp hai ông già đánh cờ, đứng lại xem xong ván cờ khi trở về nhà thì đã trải qua mấy đời người rồi. Lấy cảm hứng nội dung câu chuyện này về đạo tu tiên ở núi Nưa, Nguyễn Dữ đã sáng tác hai bài thơ: Bài ca thích ngủ và Bài ca thích cờ, nguyên văn chữ Hán được ghi trong Truyền kì mạn lục. Phan Huy Ôn (Thế kỉ XVIII) đã say mê mà lưu lên vách đá Am Tiên những vần thơ đặc sắc nhân trong một chuyến dạo chơi vãn cảnh nơi đây: Phiên âm: Nông Cống chi tây vạn lĩnh hoàn, Sa nga Na lĩnh bức vân gian. Thiên lưu dật thú nham khê cổ, Địa quýnh tri trần thảo thụ nhân. Đông kinh dĩ tùy Tiều ẩn diểu, Sơn dung bất vị Hán Thương hàn. Dịch thơ: Trập trùng núi dựng trời tây Na Sơn một dải xuyên mây chín tầng. Thú riêng ai lách bụi trần, Đồi cây, khe đá, dành phần riêng ai. Lối Tiều cỏ lấp rêu phai, Vẫn nguyên dáng núi cợt người Hán Thương (Hoàng Văn Đoài dịch) Ngoài ra nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn Thượng Hiền (1868 - 1925) cũng có mối duyên tình sâu sắc với dãy Ngàn Nưa. Ông còn dựng nhà trên núi, nghỉ ngơi xem văn bài. Ngôi nhà đó tên là Na Sơn biệt thử. Cón lẽ do quá yêu nơi này mà người con gái của ông được đặt tên là Nguyễn Thị Nưa. Cảnh sắc thanh vắng, như chốn bồng lai trở thành đề tài của nhiều bài thơ văn hay không chỉ với Nguyễn Thượng Hiền mà còn nhiều chí sĩ khác, mượn núi để bộc bạch tâm sự, nỗi lòng trước cảnh nước mất nhà tan. Trong thời kì phong trào Cần Vương chống Pháp, các văn sĩ vùng Kẻ Nưa, không còn theo thú tiêu dao, học đạo tu tiên xa lánh sự đời như vị ẩn sĩ thời Trần - Hồ mà hăng say tham gia phong trào yêu nước chống Pháp. Đặc biệt có thể kể đến cuộc khởi nghĩa của Tống Duy Tân đã tập hợp được nhiều nghĩa sĩ đầu quân dưới ngọn cờ 34
- của mình. Từ vùng Ngàn Nưa - Cổ Định, nghĩa quân đã mở đợt tấn công đánh úp đồn Nông Cống, giáng một đòn mạnh vào chính quyền thực dân Pháp, gây được tiếng vang lớn trong cả xứ Thanh. Tiếp nối những truyền thống đó, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đỉnh Am Tiên là nơi căn cứ chiến lược của bộ đội ta. Nhân dân vùng Kẻ Nưa đã nhiệt tình ủng hộ, nuôi giấu bộ đội. Trong suốt những năm kháng chiến, nhân dân vùng núi Nưa đã phát huy hết truyền thống anh hùng của Bà Triệu, lập được nhiều chiến công, góp phần vào công cuộc giải phóng dân tộc. Ngày nay, thực hiện công cuộc đổi mới đất nước vùng Kẻ Nưa - Cổ Định, Tân Ninh đã trở thành xã giàu đẹp, văn hóa bậc nhất trong huyện. Khu vực đỉnh Am Tiên đã, đang được quy hoạch xây dựng thành di tích du lịch tâm linh cấp quốc gia. Đất Cổ Định - Tân Ninh tự xa xưa đã mang trong mình bao huyền thoại, những câu chuyện cổ tích, truyền thống hào hùng, đẹp đẽ và nhân văn, trở thành tụ điểm hành hương du lịch về lịch sử, văn hóa hấp dẫn trong tỉnh. Với giá trị đó, ngày 27/3/2009, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ký quyết định công nhận Di tích lịch sử văn hóa danh lam thắng cảnh núi Nưa - địa điểm khởi nghĩa Bà Triệu gồm núi Nưa, đền Nưa và Am Tiên là di tích, thắng cảnh cấp quốc gia. Như vậy, trên dãy Ngàn Nưa, với những giá trị văn hóa, lịch sử độc đáo, khu di tích lịch sử danh lam thắng cảnh núi Nưa hứa hẹn là điểm du lịch hấp dẫn. 2.1.2. Các công trình hạng mục chính trong khu di tích 2.1.2.1. Đền Nưa Dưới chân núi Nưa là “Na Sơn Tự”, tục gọi là Đền Nưa. Đền Nưa tọa lạc ở chân núi ngay cửa rừng Nưa - một vị trí cao, rộng và thoáng đãng, phía trước có một hệ thống ao hồ tự nhiên, tạo nên phong cảnh sơn thủy hữu tình đầy thơ mộng. Lịch sử của đền Nưa, nhân vật thờ cùng những câu chuyện cổ tích là điểm hấp dẫn mà muôn đời sau vẫn mong muốn hành hương về chốn này. Từ xưa lắm, đã có cộng đồng thị tộc nguyên thủy đầu tiên mang tên Chạ Kẻ Nứa ở đây. Là vùng đất sông suối, khí hậu thuận hoà nên đời sống vật chất, tinh thần phong phú. Theo các đời truyền lại: Người đầu tiên được thờ ở Đền là Tiên - Thiên thánh mẫu Na Sơn Thượng ngàn. Thánh Mẫu vô vàn phép lạ, màu nhiệm đã che chở cho dân làng. Tiếp theo Đền thờ Mẫu Tam Giang (con gái thứ 3 của vua Hùng) trong một lần vi hành vào ngàn Nưa đã giúp Thánh mẫu Thượng ngàn tiêu diệt con thuồng luồng khổng lồ ở sông Mực, giữ yên bình đời sống cho dân làng. Cho đến năm 248 ứng vào vận mệnh một người con 35
- gái nổi tiếng xứ Thanh - Triệu Trinh Nương, cuộc khởi nghĩa của Bà xuất phát từ căn cứ Ngàn Nưa, đã làm quân Ngô bạt vía, xiêu hồn; sau khi bà qua đời, để tỏ lòng kính trọng đối với nữ anh hùng dân tộc kiệt xuất, nhân dân đã thờ Bà ở đền Nưa cho đến ngày nay. Ngoài ra đền còn thờ Mẫu Thoải - người hầu cận tâm phúc của Thánh mẫu Thượng ngàn; thờ bà Nguyễn Thị Liễu - tùy tướng cận vệ của Bà Triệu [12]. Với nhiều nhân vật huyền tích như vậy, nên Đền Nưa được người dân trong vùng tôn kính hương khói quanh năm: người cầu xin vào rừng may mắn, người làm ruộng cầu xin được mùa, người buôn bán, người đi xa ai ai cũng nhờ thần thánh phù hộ. Dân Cổ Định và vùng lân cận ở đâu cũng hướng về. Đặc biệt, vào cuối đời vua Tự Đức, Đền đã được hưng công xây dựng lại. Chuyện kể rằng Cao Bá Đạt là tri huyện Nông Cống xin thánh Mẫu (Bà Triệu) phù hộ đã bắt được một cặp hươu sao hiến vua, ông muốn trả ơn được Bà phù hộ, nên đã trình tấu sự việc về đền chúa ngàn Nưa, được triều đình cho phép trích 1.200 quan tiền công quỹ cùng dân làng dựng lại Đền gạch ngói và sau này lại xây cổng tam quan. Đây là một công trình văn hóa nguy nga tráng lệ, chạm khắc tinh vi. Vị nữ thần nơi này được phong tặng là Thượng đẳng thần với duệ hiệu là: “Đệ nhất thiên tiên thánh mẫu, sơn trang thượng ngàn bạch y công chúa, Lệ Hải Đại Vương Ngọc bệ hạ”. Tuy nhiên trong thời kì Cần Vương, vì muốn trả thù Tống Duy Tân cùng nghĩa quân đã đánh chiếm đồn Nông Cống và những nơi khác nên thực dân Pháp đã cho triệt phá, đốt cháy cả làng Cổ Định, Đền Nưa cũng bị phá hủy, thiêu rụi. Sau cuộc tàn phá này, người dân đã thu lượm và xếp tạm một bệ đá để ngoài trời thờ cúng. Tuy đền thờ rất đơn sơ, chỉ với bát hương nhang song lại rất linh thiêng. Trong những năm chiến tranh, vùng Cổ Định là trọng điểm đánh phá của đế quốc Mỹ. Các công trình trong Đền Nưa cũng như hòn đá đề bia đều bị phá hủy gần như hoàn toàn. Chỉ duy nhất cổng Nghinh Môn, được xây dựng từ thời Tự Đức là còn khá nguyên vẹn với bốn tầng mái bề thế. Theo lời kể lại của các vị cao niên trong làng, năm 1926, vua Bảo Đại đã đến đây vãn cảnh, và vời các nghệ nhân ở Huế đến tu bổ lại toàn bộ phần mái và đầu đao nên kiến trúc của cổng này giống cổng Nghinh Môn của các lăng tẩm ở Huế: “Cổng cao 14m, rộng 13,5m, vì bị lấp đất theo mặt đường hiện tại nên chiều cao chỉ còn 12,50m. Hai cửa phụ rộng 1,7m, cao 4,2m, còn cửa chính cao 4,8m và rộng 3,2 m. Ở mặt trước và mặt sau Nghinh Môn đều được trang trí bằng những bức tranh sơn thủy theo kiểu đắp nổi, tô màu các cảnh núi, sông, đất nước, hình 36
- linh vật như rồng, phượng và hoa lá, cúc dây, hình chữ triện. Mặt trước phía dưới Nghinh Môn có hai tượng hổ chầu ở hai bên. Trên hai cửa phụ là hai bức phù điêu tả cảnh trí nhà trên núi để nói về sự tích Am Tiên trên đỉnh núi Nưa (gọi là tranh vị tiều phu trên núi). Các cửa Nghinh Môn đều được xây theo kiểu cuốn vòm. Trên tầng hai có gác treo chuông. Tầng ba, tầng bốn đều bị bịt kín để đắp tranh phù điêu” [12; 57]. Hiện nay cổng nghinh môn còn lưu giữ đôi câu đối được người dân quý trọng, giữ gìn: “Na Sơn từ lĩnh trấn Na Sơn, Thần duy đức kì thịnh - Cổ Định xã nguyên tòng Cổ Định, Dân trực đạo vi hành”. Có thể nói Nghinh Môn ở Đền Nưa là một loại hình kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn điển hình còn lại khá nguyên vẹn. Theo lời mô tả của các già làng cũng như căn cứ vào dấu vết mặt bằng cũ thì quy mô đền vào thời Nguyễn khá bề thế. Trước kia, đền Nưa có khuôn viên rộng hơn 3 mẫu, gồm 3 khu với 27 gian thờ. Trải nhiều biến cố, đến nay Đền Nưa chỉ còn một hậu cung và nhà tiền đường vừa được tôn tạo. Cấu trúc đền gồm 5 gian tiền đường, 3 gian hậu cung hợp thành theo kiểu chữ Đinh. Năm 1993, sau khi đền Nưa, Am Tiên được quyết định công nhận bảo vệ, tôn tạo thì chính quyền và nhân dân xã Tân Ninh đã góp công sức khôi phục lại di tích này. Xã sưu tầm được ngôi nhà cổ có niên đại từ năm Minh Mạng thứ 19 (khắc ở thượng lương, là năm 1838) để dựng lên trên nền móng nhà tiền đường cũ gồm năm gian, bít đốc; cấu trúc vì kèo làm theo kiểu kèo suốt trụ trốn. Mỗi vì kèo có 4 hàng chân cột, tất cả có 4 cột cái, 8 cột quân, 4 cột hiên. Hoa văn ở các đầu quá giang và các kẻ bẩy là các lá cúc cách điệu. Nối liền với nhà tiền đường là hậu cung dài 5,4m; rộng 4,2m [12; 58]. Tuy nhiên, do sự thất lạc cũng như bị phá hủy trong chiến tranh và thời gian, ngôi đền đã không còn giữ được những vật thờ cúng bên trong. Nhờ sự vận động ủng hộ mà một số hiện vật được nhân dân tự nguyện mang trả, một số khác phải trang bị mới. Hiện nay, các hiện vật trong đền Nưa cũng khá đầy đủ, trong đó quan trọng có pho tượng Bà Triệu cổ còn sót lại được sau đợt Mỹ thả bom đánh phá vùng Cổ Định. Cũng bởi vậy, người dân cho rằng đây là linh vật rất thiêng. Pho tượng được nặn đắp bằng hỗn hợp bột đất, giấy bản, mật mía, sau khi để khô thì phết quét mầu để hoàn thành. Trong phủ cũng còn lưu giữ ba pho tượng quý thuộc Tam tòa thánh mẫu (Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải). Ngoài ra, các loại hạc đồng, lư hương đồng, chân nến đồng, chuông đồng nhỏ và các loại bát hương to, nhỏ, các loại mâm bồng, ống hương, lộng gỗ được trang bị đầy đủ phục vụ việc thờ cúng, cũng 37
- như tạo sự uy nghi, trang nghiêm cho đền Nưa. Cùng với đền Nưa, lễ hội đền Nưa cũng được tổ chức hằng năm tạo nên màu sắc tín ngưỡng dân gian đặc sắc cho vùng đất này. Lễ hội đền Nưa là một tập truyền tín ngưỡng dân gian, kết hợp với việc “uống nước nhớ nguồn” nhớ công ơn của Bà Triệu và viên tướng Trần Khắc Chân - người có công đánh đuổi quân Chiêm Thành xâm lấn bờ cõi đời vua Trần Nghệ Tông. Lễ hội Đền Nưa bắt đầu từ 15 đến 20 tháng giêng âm lịch, thu hút thiện nam tín nữ từ mọi vùng về đây thắp hương, niệm Phật cầu Thánh. Trong lễ hội có phần lễ và phần hội. Phần lễ, nhân dân các làng dâng mâm sơn trang để tế lễ và tưởng nhớ công đức của các vị tướng, thần đã có công khai phá và gìn giữ vùng đất. Một làng tiêu biểu được chọn để dâng lễ vật chính, cỗ rước bằng kiệu bát cống (8 người khiêng), trong kiệu có các loại hoa quả và bánh dầy - một đặc sản của địa phương được làm bằng gạo nếp cái hoa vàng. Kiệu được tổ chức rước tại hai địa điểm, đền Trần Khát Chân và đền Nưa. Đi đầu đoàn rước kiệu là một người ăn mặc trang phục võ quan, nhanh nhẹn, mắt sáng, tướng võ quan, tay cầm kiếm lệnh dẹp đường, chỉ huy đội quân rước kiệu. Phía sau là một số nam thanh, nữ tú, cùng các cô thôn nữ đội mâm sơn trang và các lễ vật tế thần; sau là một đội quân ăn mặc chỉnh tề, tay cầm vũ khí, ô lọng và có một đội khiêng kiệu. Kiệu rước từ đền Trần Khát Chân được gọi là kiệu Ông; kiệu rước từ đền Nưa gọi là kiệu Bà. Người khiêng kiệu phải là trai, gái thanh tân. Kiệu Ông, kiệu Bà đều được rước về trung tâm sân vận động của địa phương để làm lễ tế thiên địa, thần linh và cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi. Phần hội trước đây có các trò chơi như cờ người, đua thuyền, hát ví, chọi gà Ngày nay, phần hội còn tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao như bóng đá, cầu lông, bóng bàn, cờ tướng, chọi gà Nếu ai đến vào đúng dịp chính hội sẽ được xem các cô đồng lên giá: bà Chúa thượng ngàn, cô Cả thoải cung, ông Hoàng, cô Chín, cô Ba, quan Hổ , trong không gian ấy, cùng với mùi huệ trắng, hương trầm tạo thành một không gian linh thiêng huyền ảo. Lễ hội hằng năm được khai mạc rất trọng thể và trang nghiêm tại đền thờ Trần Khát Chân và kết thúc tại đền Nưa. Ngoài lễ cầu ở Đền Nưa, du khách còn có thể đến dâng hương ở Am tiên tự, ở Đền Thánh mẫu và ở Huyệt đạo thiêng nước Nam. Lễ hội ở Khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh Núi Nưa có thể kéo dài đến hết tháng 3 Âm lịch, tuy nhiên du khách vẫn đến đây lễ bái và vãn cảnh quanh năm. 38
- 2.1.2.2. Am Tiên Nói đến Am Tiên - Ngàn Nưa có rất nhiều chuyện kể và giai thoại, nhưng dân vùng Cổ Định ai cũng biết đỉnh Am Tiên là nơi rất thiêng và thường lưu truyền một câu chuyện cổ. Chuyện kể rằng: Ngày xưa tiều phu ở Cổ Định vẫn ngày ngày đi đốn gỗ về bán làm cột nhà, Ngàn Nưa trở thành nơi cung cấp gỗ làm nhà cho cả một vùng đồng bằng. Một hôm, người trưởng tràng đầu nhóm nói ông phải đi tìm chọn một cây gỗ Lim về làm cột đình làng. Ông leo lên đỉnh núi cao nhất của Ngàn Nưa nhưng đến chiều tối dân làng vẫn không thấy ông trở về. Dân làng đốt đuốc đi tìm, nhưng vẫn không thấy chút dấu vết nào. Một ngày, rồi hai ngày , cả tháng không thấy ông về, dân làng nghĩ rằng ông đã bị thú dữ ăn thịt. Gia đình đành lấy ngày ông đi lên núi làm ngày giỗ Nhưng một ngày kia, người tiều phu bất chợt trở về làng. Dân làng thấy một tiều phu vạm vỡ, nhưng chẳng ai biết tên ông. Ông về chính ngôi nhà của mình, không thấy vợ con đâu mà chỉ thấy toàn người lạ. Ông hỏi người trong nhà về người thân, xưng tên, thì mọi người đều tròn mắt, nhớ ra người có cái tên ấy là một người trong dòng họ đã chết từ lâu và vẫn được người trong gia đình nhang khói thờ cúng. Sau một hồi trò chuyện, người tiều phu và người nhà đều nhận ra nhau, chỉ có điều ai cũng ngạc nhiên rằng những người cháu gọi ông là ông nội nay cũng đã râu tóc bạc phơ, còn ông, vẫn ở cái tuổi trung niên. Ông kể rằng khi lên núi đi tìm gỗ Lim về làm cột Cái đình làng, tìm mãi chưa thấy, vừa mệt, vừa thất vọng thì ông nhìn thấy ở trên mỏm đá bằng ở trên đỉnh núi có hai ông lão đang ngồi đánh cờ. Cờ ông cũng biết và ham mê, nên ông đứng chống rìu xem hai ông lão toạ đấu. Cả chủ và khách mải mê trong trận cờ, mặt trời xuống núi lúc nào không hay, mà ván cờ vẫn chưa phân thắng bại. Ông định ra về, nhưng trời tối mau, thú dữ nhiều nên hai ông lão khuyên ông ở lại. Hai ông lão không ăn cơm, mà chia cho ông ăn hoa quả và uống nước trong hồ lô. Ông nhớ, cuộc đấu diễn ra đúng 3 ngày 3 đêm mới phân thắng bại. Xong trận cờ là ông xuống núi về ngay, chỉ có điều ông thắc mắc là sao lúc ông xuống núi nhanh thế, loáng cái đã không thấy hai ông lão đâu, chỉ thấy hai con Hạc bay lên, ông cũng chưa kịp hỏi tên, quê ở làng nào Câu chuyện của ông được lưu truyền, mỗi người giải thích mỗi cách. Người ta bảo người tiều phu đã gặp các tiên ông, được ăn đào tiên, uống nước giếng tiên, nên ông trẻ mãi; rằng 3 ngày trên “cõi tiên” thì đã là một trăm năm ở hạ giới Các hương lão trong làng Cổ Định, sau khi nghe chuyện của ông tin rằng ông đã gặp Tiên nên đã 39
- chung sức xây chùa, lập miếu thờ cúng phật, thánh thần, và tiên tổ, từ đó nơi đây có tên gọi là Am Tiên tự [14]. Và động Am Tiên chính là nơi mà vị ẩn sĩ thời Trần Hồ đã cư trú. Đây cũng là nơi nằm ở vùng cao nhất ngọn núi, bởi vậy đỉnh núi Nưa còn được dân gian gọi là đỉnh Am Tiên. Vào thời điểm cuối thời Trần (thế kỉ XIV), đạo tu tiên (Đạo giáo) đã du nhập đến và từ đó lan rộng khắp quanh vùng núi Nưa. Cho đến nay, những câu truyện truyền thuyết về ông Tu Nưa vẫn còn được lan truyền một cách phổ biến ở vùng Kẻ Nưa - Cổ Định. Điều đó chứng tỏ, đạo tu tiên trên đỉnh Am Tiên là một loại hình tín ngưỡng đã từng phát triển và tồn tại khá dài ở vùng đất này. Ðỉnh núi Nưa là một khu đất khá bằng phẳng, có diện tích hàng mẫu, giống như một bình nguyên. Nơi đây cỏ cây tươi tốt quanh năm. Từ trên đỉnh cao nhìn xuống, bên triền tây là núi rừng hùng vĩ, bên phía đông là làng xóm ruộng đồng trù phú. Đây là khu thắng cảnh hết sức độc đáo, đầy nét quyến rũ như một chốn bồng lai, tiên cảnh. Trên khu vực này, ngoài Am ra còn có hệ thống Chùa, Miếu và các địa danh liên quan được sách vở ghi chép như giếng Tiên, Ao Tiên, Bàn cờ tiên , tất cả tạo nên một không gian linh thiêng trầm mặc. Chính sự hòa hợp của Đạo giáo, Phật giáo, Đạo Mẫu trên đỉnh Am Tiên tạo nên một nét đặc trưng điển hình. Trước năm 1945, ở chỗ Am - Đền - Miếu thờ trên đỉnh núi Nưa, người ta còn thấy hiện tượng Đạo tu tiên của Đạo giáo bị biến tướng thành Đạo phù thủy với sự xuất hiện của các “Phụ đồng Tiên Nưa” là những người hành nghề đạo cốt, vừa đọc thần chú vừa làm phép và cho chữ mang nội dung thần bí để báo hiệu về số mệnh con người Hiện nay khu vực thiêng Am Tiên bao gồm Chùa - Miếu - Đền, huyệt đạo thiêng đã trở thành nơi linh thiêng để cho người dân tới cầu an, khang, phúc lộc, thọ. Trước hết là ngôi chùa cổ được xây dựng trên núi, cũng không xác định rõ niên đại, thời gian đích xác, là chùa Bích Vân mà dân gian vẫn gọi là Chùa Am Tiên. Tương truyền, khi lập căn cứ trên đỉnh núi Nưa, Bà Triệu cho xây dựng Bích Vân cung tự nhằm bố cáo với muôn dân: cuộc khởi nghĩa này có sự trợ giúp của trời đất. Khi đàn áp được khởi nghĩa của Bà Triệu, bọn xâm lược đã tàn sát dân Cổ Na và tất nhiên cả những gì có liên quan đến Bà Triệu đều bị phá hết. Không ai biết đích xác ngôi chùa được xây dựng lại bao giờ nhưng vào cuối thời nhà Nguyễn, chùa Am Tiên vẫn còn đó. Một ngôi chùa 3 gian khiêm tốn, xây bằng đá, lợp tranh cỏ, nằm giữa một khung cảnh thực thực, hư hư, nép mình dưới những cây đa cổ thụ. Ông từ coi chùa cuối cùng trước Cách mạng tháng 40
- Tám - 1945 là cụ Hương Nhã, người họ Trần, (thân sinh ra ông Trần Huy Nhượng, người bí thư chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của xã Tân Ninh). Sau Cách mạng tháng Tám - 1945, cụ Hương Nhã qua đời, chùa lại bị bỏ hoang, dột nát. Khoảng năm 1950, có ông Hoàng Văn Chí (Tú Chí) đã đem gia đình về ở trên Am Tiên. Ông nuôi bò sữa, mở xưởng nhỏ nấu cồn, trồng cây. Đến năm 1955, ông về quê ở Thiệu Hóa, từ đó chùa Am Tiên lại bị bỏ hoang. Đầu những năm 80-90 của thế kỷ 20 bà con phật tử trong xã đã khôi phục, xây lại chùa mới, trồng cây xung quanh chùa. Ngoài Chùa Am Tiên, trên đỉnh núi Nưa còn có ngôi đền Bà Triệu mới được xây dựng. Đền chỉ có một gian thờ Bà Triệu, nhỏ nhắn giản đơn, công trình tuy không hoành tráng, song thanh tịnh và linh thiêng. Hằng năm, cứ mỗi dịp tết đến xuân về, khách hành hương lại về đây thắp nén nhang tưởng nhớ Bà và cầu xin sự may mắn, phát đạt. Ở khu vực Am Tiên, nhân dân đã thu lượm được nhiều hiện vật bằng đá, gạch thời Lê và thời Nguyễn (trong đó có cả khánh đá, chân tảng đá, chân đế cắm tàn lộng và nhiều viên gạch vồ to hình chữ nhật ). Đó chính là di vật chứng minh, khu vực Am Tiên xưa đã có những kiến trúc cổ để thờ thần, phật. Không chỉ vậy, gần Am Tiên còn có huyệt đạo linh khí quốc gia. Huyệt ở vị trí cao 538m so với mực nước biển và cũng chính là đỉnh cao nhất của ngọn núi Nưa. Khu vực huyệt thiêng là cả khoảng đất rộng hơn 100 mét vuông được rào chắn kỹ lưỡng, bốn mùa mây la đà bao phủ. Ngày trời quang mây tạnh, từ đây có thể trông thấy làng mạc trù phú, những cánh buồm thong dong ngoài biển đông, đưa tay lên tưởng như chạm vào bồng bềnh mây. Ngay lối vào là phiến đá trắng có khắc dòng chữ “Cầu cho quốc thái dân an”. Theo sử sách để lại, đây chính là 1 trong những huyệt đạo quan trọng nhất của nước Nam, mà tướng Cao Biền không thể trấn yểm nổi. Theo ông Lê Bật Thắng, một trong những người trông coi Am Tiên giới thiệu thì đất nước ta có 3 huyệt đạo thiêng: một là ở núi Đá Chông (Ba Vì, Hà Nội), hai là ở núi Bà Đen (Tây Ninh) và ba chính là đỉnh Am Tiên. Đây được xem là nơi năng lượng vũ trụ của trời và đất giao hòa. Ngay tại nơi này ta có thể cảm nhận được sự chuyển động của vũ trụ. Khi đứng vào giữa huyệt đạo, thả lỏng cơ thể, mắt nhắm lại, tập trung mọi suy nghĩ lên đôi mắt, sẽ có những trải nghiệm và cảm nhận được một hiện tượng kỳ lạ. Khoảng 2 - 3 phút sau, từ màu tối, dần dần sẽ cảm nhận mắt chuyển thành màu đỏ, rồi chuyển sang màu da cam, cuối cùng là màu trắng xanh và đợi một chút sẽ thấy trong màu trắng 41
- xanh có lẫn các hạt bụi. Đó chính là các hạt bụi đang chuyển động trong vũ trụ này. Trong một khoảnh khắc đó, cảm giác như đang được bay bổng giữa trời đất bao la, hòa cùng với những chuyển động của vũ trụ, thư thái và nhẹ nhõm đến kì lạ [22]. Tuy Am Tiên hiện vẫn còn trong trạng thái tự nhiên, thậm chí chưa có một con đường tốt đảm bảo cho khách du lịch lên đỉnh núi, nhưng hàng năm vẫn thu hút hàng vạn người nô nức về đây hành lễ. Hơn ba tháng mùa xuân và đầu tiết mùa hè, Am Tiên vẫn mịt mờ trong hơi sương cho đến quá giờ ngọ, nhiệt độ dao động khoảng từ 200- 280, mùa hè nhiệt độ cao nhất trên Am Tiên cũng chỉ đạt đến 320. Mọi người đều cảm nhận được sự kỳ diệu, sự sung mãn, thư thái và minh triết hơn khi ngồi trên huyệt đạo tĩnh tâm và điều vận khí công. Có lý thuyết cho rằng núi Nưa nằm trên một vùng mỏ crom, trữ lượng lớn của mỏ kim loại đã tạo ra một từ trường và liên thông với trục chính là cột đá nối lên đỉnh núi. Điều này cắt nghĩa về những sự kỳ ảo, màu nhiệm khi luyện công trên huyệt đạo Am Tiên. Tất cả những điều này cùng tạo nên sự linh thiêng của khu vực Am Tiên, nơi được nhắc đến như là trung tâm của sự tu tiên, đắc đạo. Đây cũng chính là đại bản doanh, sở chỉ huy, căn cứ đầu não, nơi đóng quân của nghĩa quân Bà Triệu mà sử sách thường nhắc đến. 2.1.2.3. Hệ thống di tích khác gắn với khởi nghĩa Bà Triệu trên dãy ngàn Nưa Thắng cảnh ngàn Nưa, từ xa xưa đã lưu truyền nhiều địa danh gắn với cuộc khởi nghĩa Bà Triệu (248). Bà Triệu tên thật là Triệu Thị Trinh, người huyện Quân An, quận Cửu Chân (tức huyện Yên Định, Thanh Hóa ngày nay). Cha mẹ mất sớm, Bà ở với anh là Triệu Quốc Đạt, một thủ lĩnh có thế lực ở huyện Quân An thời bấy giờ. Bà Triệu là người có sức khỏe, có chí lớn và giàu mưu trí. Căm thù chính sách đồng hóa, áp bức bóc lột tàn bạo của bọn thống trị nhà Ngô, Bà đã quyết một lòng cứu nước, cứu dân khỏi ách nô lệ lầm than khổ cực. Năm 20 tuổi, Bà Triệu cùng anh tập hợp nghĩa sĩ, luyện tập võ nghệ, chuẩn bị khởi nghĩa. Có kẻ khuyên bà nên lấy chồng chứ không nên “làm loạn”, Bà khảng khái đáp: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá Kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp cho người” [8; 346]. Trước sự bóc lột tàn bạo của bọn quan lại nhà Ngô, Bà Triệu đã cùng Triệu Quốc Đạt khởi binh đánh quận Cửu Chân. Trong một trận giao chiến với giặc, Triệu Quốc Đạt bị tử trận, quân sĩ đã tôn Bà lên làm chủ soái lãnh đạo nghĩa quân. Sau một thời gian chuẩn bị, Bà Triệu cùng nghĩa quân đã vượt sông Chu đến rừng núi Nưa để 42