Đề tài Tìm hiểu về tín ngưỡng thờ thần đông hải đại vương nơi cửa biển Cát Hải-hiện trạng khai thác và giải pháp phát triển phục vụ du lịch địa phương
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Tìm hiểu về tín ngưỡng thờ thần đông hải đại vương nơi cửa biển Cát Hải-hiện trạng khai thác và giải pháp phát triển phục vụ du lịch địa phương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- de_tai_tim_hieu_ve_tin_nguong_tho_than_dong_hai_dai_vuong_no.pdf
Nội dung text: Đề tài Tìm hiểu về tín ngưỡng thờ thần đông hải đại vương nơi cửa biển Cát Hải-hiện trạng khai thác và giải pháp phát triển phục vụ du lịch địa phương
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC DÂN LẬP HẢI PHÒNG ISO 9001-2008 TÌM HIỂU VỀ TÍN NGƢỠNG THỜ THẦN ĐÔNG HẢI ĐẠI VƢƠNG NƠI CỬA BIỂN CÁT HẢI – HIỆN TRẠNG KHAI THÁC VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN PHỤC VỤ DU LỊCH ĐỊA PHƢƠNG Ngƣời hƣớng dẫn : TS. Lê Thanh Tùng Ngƣời thực hiện : SV. Vũ Thị Đào 1
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TÍN NGƢỠNG VIỆT NAM VÀ TÍN NGƢỠNG THỜ THẦN ĐÔNG HẢI ĐẠI VƢƠNG . 5 1.1.1. Một số nét tổng quan về tín ngƣỡng Việt Nam 5 1.1.2. Khái niệm và phân loại tín ngưỡng Việt Nam . 5 1.1.3. Đặc trưng của tín ngưỡng Việt Nam 8 1.1.4. Vai trò, giá trị của tín ngưỡng trong văn hóa dân tộc 9 1.2. Khái quát về tín ngƣỡng thờ thần Đông Hải Đại Vƣơng ở Việt Nam 11 1.2.1. Một số nét về tín ngưỡng thờ thần ở Việt Nam . 11 1.2.2. Vài nét về tín ngưỡng thờ Thủy thần và thần biển 13 1.2.3. Các vị thần Đông Hải Đại Vương ở Việt Nam . 15 1.3. Việc thờ tự đối với các vị thần Đông Hải Đại Vƣơng ở Việt Nam 17 1.3.1. Mục đích, ý nghĩa của việc thờ tự . 17 1.3.2. Những vùng và địa phương thờ thần Đông Hải Đại Vương 17 Tiểu kết chƣơng 1 . 19 CHƢƠNG 2. ĐÔNG HẢI ĐẠI VƢƠNG ĐOÀN THƢỢNG VỚI CÁT HẢI, HẢI PHÒNG 20 2.1. Giới thiệu về Đông Hải Đại Vƣơng Đoàn Thƣợng . 20 2.1.1. Thân thế - Sự nghiệp 20 2.1.2. Các nơi thờ tự ở Việt Nam 30 2.2. Đông Hải Đại Vƣơng Đoàn Thƣợng với Hải Phòng 33 2.2.1. Tìm hiểu về vùng đất Hồng Châu (Hải Dương - Hải Phòng xưa) 33 2.2.2. Công trạng của Đoàn Thượng với vùng đất Hồng Châu 36 2.2.3. Hệ thống các di tích thờ Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng ở thành phố Hải Phòng hiện nay 37 2.3. Đông Hải Đại Vƣơng Đoàn Thƣợng với huyện Cát Hải - Hải Phòng 39 2.3.1. Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng với Cát Hải xưa 39 2.3.2. Các lễ hội thờ thành hoàng Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng ở Cát Hải 40 2
- 2.3.3. Ý nghĩa của việc thờ thần Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng ở Cát Hải 45 Tiểu kết chƣơng 2 . 47 CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP KHAI THÁC DI TÍCH – LỄ HỘI THỜ ĐÔNG HẢI ĐẠI VƢƠNG ĐOÀN THƢỢNG PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH ĐỊA PHƢƠNG 49 3.1.Thực trạng khai thác di tích - lễ hội thờ Đông Hải Đại Vƣơng Đoàn Thƣợng ở Cát Hải 49 3.1.1.Thực trạng khai thác du lịch của Cát Hải 49 3.1.2.Thực trạng khai thác các di tích và lễ hội thờ Đông Hải Đại Vương ở Cát Hải 51 3.2.Giải pháp bảo tồn, khai thác di tích - lễ hội thờ Đông Hải Đại Vƣơng Đoàn Thƣợng ở Cát Hải phục vụ phát triển du lịch . 52 3.2.1.Bảo tồn, tôn tạo hệ thống di tích . 52 3.2.2.Giải pháp duy trì tín ngưỡng truyền thống địa phương . 55 3.2.3.Khai thác lễ hội ở Cát Hải phục vụ phát triển du lịch lễ hội . 57 3.2.4.Xây dựng chương trình du lịch đến với hệ thống di tích thờ Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng 58 KẾT LUẬN 60 PHỤ LỤC 1 PHỤ LỤC 2 TÀI LIỆU THAM KHẢO 3
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong xã hội hiện đại, nhu cầu du lịch của con người ngày càng tăng cao. Dưới áp lực của cuộc sống và công việc, càng ngày càng có nhiều người muốn tìm về những nơi còn lưu giữ được nhiều giá trị hoang sơ để cảm nhận, để thưởng thức những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc. Trong số các giá trị văn hóa được nhiều người quan tâm, có thể nói nhóm phong tục tập quán về tôn giáo, tín ngưỡng và lễ hội là một tài nguyên du lịch hấp dẫn không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm linh ngày càng cao của du khách mà còn đem lại cho họ những trải nghiệm độc đáo. Du lịch tâm linh là một loại hình du lịch độc đáo, đem lại cho du khách nhiều điều mới lạ và kỳ thú trong việc tìm hiểu thần thánh, và tín ngưỡng văn hóa địa phương khi đi du lịch. Do vậy, thần thánh đã trở thành biểu tượng tâm linh của con người và trở thành một trong những nét tín ngưỡng vô cùng phong phú trong hệ thống văn hóa dân tộc. Tín ngưỡng thờ thần Đông Hải Đại Vương nằm trong nhóm tín ngưỡng thờ thần biển, cũng có thể xếp vào nhóm tín ngưỡng thờ thần của cư dân ngư nghiệp. Hình tượng thờ thần Đông Hải Đại Vương có ở nhiều nơi với nhiều nhân vật lịch sử khác nhau được thần thánh hóa. Song đối với cư dân nơi cửa biển Cát Hải, mặc dù cũng lựa chọn thờ thần Đông Hải Đại Vương, nhưng tín ngưỡng thờ thần của họ có thể xem là một quá trình vận động và lan tỏa, trong đó có sự bồi đắp, chồng xếp các lớp văn hóa dưới tác động của môi trường sinh thái và nhân văn. Bên cạnh việc được sắc phong là một thủy thần, mà Ngài còn là một nhân vật lịch sử, một nhân thần – một vị tướng quân dưới triều nhà Lý – Đoàn Thượng. Việc phụng thờ thần còn mang thêm một lớp văn hóa đã được bồi lắng từ trước đó là văn hóa thờ thần Cá Ông – Cá Voi của cư dân ven biển. Đây là lớp văn hóa nằm trong dòng chảy tín ngưỡng thờ cá của cư dân Việt vùng châu thổ sông Hồng, xuất phát từ quan niệm thờ thần bảo hộ nghề nghiệp. Khi tiếp xúc với cộng đồng cư dân Nam Đảo, tín ngưỡng thờ cá trở thành biểu tượng của thần biển. Vì thế có thể nói, cũng là tín ngưỡng thờ thần biển, song thờ Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng ở vùng cửa biển Cát Hải mang khá nhiều nét đặc sắc, gắn liền với đời sống tinh thần của cư dân nơi đây. Tuy nhiên, trải qua thời gian gần 8 thế kỷ, tín ngưỡng này ít nhiều đã bị phai mờ, ngay trong cộng đồng dân cư cũng 4
- rất ít người hiểu được sâu sắc về vị thần mà mình tôn thờ. Cùng với đó, hiện nay ở Cát Hải, để tưởng nhớ đến vị thần bảo hộ nghề nghiệp họ đã và đang gìn giữ những lễ hội vô cùng đặc sắc thể hiện sắc thái riêng của cư dân vùng biển đảo Hải Phòng. Do đó, việc tìm hiểu tín ngưỡng thờ thần Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng nơi của biển Cát Hải là một việc làm vô cùng cần thiết để nhắc lại truyền thống uống nước nhớ nguồn và góp phần phục dựng lại đời sống tâm linh và văn hóa truyền thống độc đáo của một vùng đất nơi đầu sóng ngọn gió của Hải Phòng. 2. Mục tiêu của đề tài Tìm hiểu về việc thờ tự của nhân dân với các vị thần Đông Hải Đại Vương tại Việt Nam. Để thấy được vai trò và ý nghĩa của thần với đời sống tâm linh của nhân dân. Đồng thời cũng được tìm lại dấu tích về thân thế, sự nghiệp của Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng, đặc biệt là những dấu ấn lịch sử đã ghi lại cong trạng của Ông tại Hải Phòng nói chung và Cát Hải nói riêng. Tìm hiểu những đặc trưng của lễ hội tưởng nhớ đến Ông - lễ hội cổ truyền mà người dân Cát Hải tổ chức hàng năm để tưởng nhớ tới vị thần có nhiều công trạng với Cát Hải đó là các lễ hội Đua Thuyền, lễ hội Xa Mã và một số lễ hội khác ở Cát Hải. Để từ đó đưa ra hiện trạng khai thác lễ hội Xa Mã và các di tích thờ Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng tại Cát Hải, và đề xuất giải pháp phát triển giá trị của tín ngưỡng phục vụ cho hoạt động du lịch ở Hải Phòng. 3. Tính mới, tính sáng tạo của đề tài Với những ngư dân – những người sống bằng nghề sông nước, trong tín ngưỡng truyền thống đã ăn sâu trong tiềm thức của họ đó là thờ Cá Ông – Cá Voi – vị thần bảo hộ nghề nghiệp. Thì với ngư dân Cát Hải, Hải Phòng lại có tín ngưỡng mang đậm nét văn hóa của cư dân nông nghiệp gắn với tín ngưỡng thờ Đức Thánh Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng. Tín ngưỡng thờ thần Đông Hải Đại Vương là một trong những tín ngưỡng truyền thống trong hệ thống thờ thần của Việt Nam. Tín ngưỡng thường gắn liền với lễ hội - một trong những lễ hội ít người biết đến và hướng về đó là lễ hội Xa Mã ở huyện đảo Cát Hải, và lễ hội cũng không nhiều được biết đến là lễ hội đua thuyền được tổ chức để tưởng nhớ Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng. Đây là nét văn hóa đặc biệt của cư dân vùng biển Cát Hải khác với các cư dân vùng biển khác. Nét văn hóa đặc 5
- biệt này hiện có rất ít tài liệu ghi chép cũng như nghiên cứu. Mặc dù đã có nhiều nhà sử học Hải Phòng đã từng nghiên cứu và tìm hiểu về Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng, như nhà sử học Ngô Đăng Lợi, Đại Tá – Nhà giáo Đoàn Văn Minh nhưng chủ yếu tìm hiểu về thân thế sự nghiệp và các nơi thờ tự ngài, không nghiên cứu sâu vào các lễ hội thờ Ngài. Hay trong số 231 của chương trình du lịch S Việt Nam đã cho đăng lên các trang phương tiện thông tin đại chúng về lễ hội Xa Mã Rước Kiệu đình Hoàng Châu, xã Hoàng Châu, huyện Cát Hải, lần đầu tiên lễ hội này được biết đến trên cả nước với nhiều nét độc đáo vốn có song, tín ngưỡng thờ thần bao giờ cũng có lễ hội. Do đó đề tài được thực hiện nhằm hướng đến khai thác các giá trị văn hóa tâm linh, tín ngưỡng truyền thống của người dân vùng biển Cát Hải với các lễ hội tưởng nhớ Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng, cùng hệ thống các di tích thờ Ngài. Để hiểu sâu hơn về tín ngưỡng độc đáo này của người dân nơi đây. Bên cạnh đó còn phục vụ cho việc phát triển loại hình du lịch tín ngưỡng, du lịch lễ hội ở Hải Phòng; đồng thời lý giải nhiều hiện tượng văn hóa đặc sắc nơi cửa biển Hải Phòng. Đó không chỉ là nét văn hóa đơn thuần của những ngư dân nơi của biển mà đó là nét văn hóa đặc sắc có sự giao hòa giữa văn hóa đồng bằng với văn hóa sông nước, giữa văn hóa nông nghiệp với văn hóa ngư nghiệp. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Nhằm hướng đến khai thác tín ngưỡng thờ thần Đông Hải Đại Vương nơi cửa biển Cát Hải, nhưng để làm nổi bật lên nét đặc sắc đó đề tài hướng đến nghiên cứu tín ngưỡng thờ thần Biển và các vị thần Đông Hải Đại Vương ở Việt Nam. Gắn với các vị thần là các di tích thờ và các lễ hội trên phạm vi cả nước. Từ đó làm sáng rõ hơn vị trí vai trò của tín ngưỡng thờ thần Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng ở Cát Hải rất đặc biệt. Tìm hiểu về vị thần Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng và hệ thông các di tích thờ tự Ngài. Đặc biệt là khai thác nét đắc sắc của các lễ hội Xa Mã Rước Kiệu tại xã Hồng Châu, lễ hội đua thuyền và một số lễ hội khác ở huyện Cát Hải. Dựa trên các tài liệu viết về tín ngưỡng thờ thần ở Việt Nam, tín ngưỡng Việt nam, tìn ngưỡng thờ thần biển và các tài liệu thống kê các di tích, lễ hội gắn với việc thờ tự Đông Hải Đại Vương; người nghiên cứu hướng đến nghiên cứu trên phạm vi toàn thành phố Hải Phòng và các nơi thờ tự và trên phạm vi huyện Cát Hải. Để có được những thông tin và tài liệu sát thực nhất cho bài viết, người nghiên cứu còn dựa 6
- theo các tài liệu báo cáo của ban quản lý di tích các đình Hòa Hy, Gia Lộc, Hoàng Châu và đặc biệt là hương ước các làng Gia Lộc và Hoàng Châu, huyện Cát Hải. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp chung: Phương pháp nghiên cứu lịch sử: đây là phương pháp chủ yếu để biên soạn công trình. Trong quá trình nghiên cứu các hiện tượng kinh tế địa phương luôn đặt trong những hoàn cảnh lịch sử xã hội cụ thể và có liên quan điểm lịch sử xác định, ghi chép các hiện tượng văn hóa theo tiến trình lịch sử và sự vận động của lịch sử. Phương pháp liên ngành: Bản thân các công tác nghiên cứu văn hóa theo thể địa chí đã mang tính liên ngành và đa ngành.sử dụng kiến thức của địa lý, lịch sử, văn học. Phương pháp nghiên cứu so sánh: Nếu phương pháp nghiên cứu lịch sử nặng về phương pháp nghiên cứu và ghi chép các hiện tượng văn hóa địa phương theo lịch đại thì phương pháp nghiên cứu so sánh chú ý nhiều hơn các nét tương đồng và đa dạng cảu các hiện tượng văn hóa theo cách nhìn đồng đại. So sánh cho ta các hiện tượng văn hóa theo các vùng có sự giống và khác nhau như thế nào và để hiểu rõ hơn bản chất của các hiện tượng văn hóa cũng như đặc thù và sắc thái văn hóa của từng địa phương. Khi so sánh ta phải so sánh trong bối cảnh đồng đại, đồng dạng và đồng loại. 5.2. Các phương pháp cụ thể: Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu (tiếp cận và phân tích hệ thống): Muốn nội dung công trình chứa đựng vốn hiểu biết toàn diện, có hệ thống và chính xác thì cần có một nguồn tư liệu thực sự phong phú. Do đó công tác sưu tầm là rất quan trọng. Phương pháp thực địa kết hợp chặt chẽ với phương pháp xã hội học: Phương pháp này là thực hiện công tác nghiên cứu thực tế các hiện tượng văn hóa để tìm hiểu sâu hơn nội dung các vấn đề. Trong đó đặc biệt chú trọng tới phương pháp phỏng vấn sâu (phương pháp xã hội học). Phương pháp phân tích, so sánh tổng hợp. Sau tất cả quá trình tìm hiểu tài liệu và điều tra thực tế hiện tượng văn hóa, tất cả các thông tin và tài liệu thu thập được sẽ phải thống kê các thông tin, phân tích vấn đề và chắt lọc các thông tin để tổng hợp một cách hệ thống. Có như vậy đề tài mới đảm bảo tính khoa học và hợp lý các thông tin. 6. Đóng góp của đề tài 7
- Đóng góp về mặt khoa học, phục vụ công tác đào tạo: Là tư liệu phục vụ cho quá trình tìm hiểu và nghiên cứu văn hóa Hải Phòng, cũng là tài liệu hướng dẫn du lịch. Những đóng góp liên quan đến phát triển kinh tế: Đóng góp cho sự phát triển du lịch, thúc đẩy nền kinh tế địa phương và cải thiện đời sống nhân dân, góp phần tăng trưởng nền kinh tế Hải Phòng nói chung. Những đóng góp về mặt xã hội (các giải pháp cho vấn đề xã hội): nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo tồn các di tích, hiểu biết sâu sắc hơn về lịch sử địa phương mình. Những đóng góp khác như: sự hợp tác đầu tư của các thành phần kinh tế trong mọi mặt, đặc biệt là thương mại. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung đề tài chia làm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về tín ngưỡng Việt Nam và tín ngưỡng thờ thần Đông Hải Đại Vương Chương 2: Thần Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng với Cát Hải, hải Phòng Chương 3: Thực trạng và giải pháp khai thác di tích – lễ hội thờ Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng ở Cát Hải phục vụ phát triển du lịch Hải Phòng 8
- CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TÍN NGƢỠNG VIỆT NAM VÀ TÍN NGƢỠNG THỜ THẦN ĐÔNG HẢI ĐẠI VƢƠNG. Một nhà nhân loại học người Anh Edward Burnett Tylor (1832 - 1917)] đã cho rằng: “văn hóa là một tổng thể phức hợp gồm kiến thức, đức tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, và bất cứ những khả năng, tập quán nào mà con người thu nhận được với tư cách là một thành viên của xã hội”. Văn hóa chính là bộ phận của đời sống xã hội, là tất cả những gì tồn tại xung quanh con người và ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của con người. Chiếm phần lớn trong bộ phận của văn hóa Việt Nam chính là phong tục tập quán, tín ngưỡng và lễ hội. Nói đến tín ngưỡng là nói đến văn hóa truyền thống Việt Nam, là bản sắc văn hóa, là giá trị truyền thống của người Việt Nam. Ẩn chứa sâu thẳm trong đó là lễ hội truyền thống chính là đạo đức, là lối sống, là dấu ấn văn hóa mỗi thời kỳ lịch sử của dân tộc, mỗi vùng, mỗi địa phương. Và do đó, ở chương 1 người nghiên cứu muốn tìm hiểu rõ hơn về tín ngưỡng và tín ngưỡng thờ thần Đông Hải Đại Vương ở Việt Nam. 1.1. Một số nét tổng quan về tín ngƣỡng Việt Nam 1.1.1. Khái niệm và phân loại tín ngưỡng Việt Nam 1.1.1.1. Khái niệm: Nằm trong bề dày của nền văn hóa vốn đã và đang tồn tại những sinh hoạt văn hóa cộng đồng bai gồm nhiều yếu tố tạo thành một hiện tượng văn hóa tổng thể. Trong đó yếu tố tín ngưỡng chiếm phần lớn. Tín ngưỡng dân gian Việt Nam rất phong phú và có nguồn gốc khá phức tạp. Từ đó, có nhiều học giả, nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu và đưa ra nhiều khái niệm khác nhau và song song với nó là các quan niệm khác nhau. Theo Giáo Sư Tiến Sĩ Ngô Đức Thịnh, “Tín ngưỡng là niềm tin của con người vào thực thể, lực lượng siêu nhiên, hay nói gọn lại là niềm tin, sự ngưỡng vọng vào cái thiêng, đối lập với cái trần tục, hiện hữu mà ta có thể sờ mó quan sát được. Có nhiều loại niềm tin nhưng ở đây là niềm tin tín ngưỡng, tức là niềm tin vào cái thiêng” [7,tr.9]. Theo Lê Như Hoa, Tín ngưỡng dân gian Việt Nam, (NXB Văn Hóa Thông Tin, H, 2001, [4,tr.23]) : “Tín ngưỡng dân gian là những hình thái tôn giáo sơ khai, chúng 9
- được hình thành trên cơ sở những tâm cách nguyên thủy để nhận thức hiện thực và tác động đến hiện thực bằng các kỹ xảo của thuyết hồn linh”. Bên cạnh đó Giáo Sư Tiến Sĩ Ngô Đức Thịnh có quan niệm “đó là một bộ phận của đời sống văn hóa tinh thần con người mà ở đó con người cảm nhận được sự tồn tại của các vật thể, lực lượng siêu nhiên, mà những cái đó chi phối, khống chế con người, nó nằm ngoài giới hạn hiểu biết của con người hiện tại; sự tồn tại của các phương tiện biểu trưng giúp con người thông quan với các thực thể, các sức mạnh siêu nhiên đó; đó là chất kết dính tập hợp con người thành một cộng đồng nhất định và phân định với cộng đồng khác. Tất cả những niềm tin, thực hành và tình cảm tôn giáo tín ngưỡng trên đều sản sinh và tồn tại trong một môi trường tự nhiên, xã hội và văn hóa mà con người đang sống theo cách suy nghĩ và cảm nhận của nền văn hóa đang chi phối họ”. Mỗi một nhà nghiên cứu hay một cơ quan tổ chức về lĩnh vực văn hóa tín ngưỡng đều có thể đưa ra các khái niệm và quan niệm về tín ngưỡng khác nhau. Tổ chức UNESCO cũng đưa ra quan niệm về văn hóa trong đó có nhắc đến như sau: “nếu chúng ta hiểu văn hóa là hệ thống các biểu tượng, từ đó quy định những ứng xử của cá nhân và toàn thể cộng đồng, tạo nên sự thống nhất của cộng đồng cũng như sự khác biệt giữa cộng đồng này với cộng đồng khác, thì tôn giáo tín ngưỡng cũng chính là văn hóa và là một bộ phận của văn hóa”. 1.1.1.2. Phân loại tín ngưỡng Việt Nam Đời sống tâm linh con người được tạo nên bởi niềm tin vào cái thiêng thuộc về bản chất của con người, tồn tại bên cạnh đời sống vật chất, đời sống xã hội, tinh thần – tư tưởng, đời sống tình cảm Cũng theo hoàn cảnh và theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi dân tộc, địa phương mà hình thành nên các tín ngưỡng tôn giáo khác nhau. Có những tín ngưỡng đã được hình thành từ môi trường sống của con người như tín ngưỡng phồn thực, được bắt nguồn từ nhu cầu thiết yếu của con người và đối với nông nghiệp lại càng bội phần hệ trọng để duy trì cuộc sống, mùa màng tươi tốt. Hay tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, được hình thành từ môi trường sống gắn bó với thiên nhiên, phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau của tự nhiên hình thành nên tín ngưỡng đa thần. Hình ảnh Bà Chúa Xứ, Bà Chúa Sông, Bà Chúa Lạch, Thổ Công, Hà Bá nhiều nơi còn gọi là Bà Đất, Bà Nước, Bà Trời; ba Bà này còn được thờ chung tạo thành tín ngưỡng Tam Phủ cai quản ba vùng trời - đất - nước gắn với hình ảnh của Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải. Với cư dân nông nghiệp lúa nước 10
- các vị thần cai quản các hiện tượng tự nhiên hết sức quan trọng do đó trong cuộc sống của họ đã nhào nặn thành hệ thống thần Tứ Pháp, hình tượng Động thực vật như chim, rắn, cá Bên cạnh đó theo quan niệm người chết là về với tổ tiên đã hình thành lên trong đời sống tâm linh người Việt Nam với tín ngưỡng sùng bái con người, thờ gia tiên, thờ Thổ Công trong gia đình. Theo Trần Quốc Vượng trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo Dục,[11, tr.126 – tr. 142]: “trong phạm vi thôn xã, quan trọng nhất là việc thờ thần làng (Thành Hoàng). Cũng như Thổ Công trong một nhà, Thành Hoàng là vị thần cai quản, che chở, định đoạt phúc họa cho dân làng đó Không làng nào là không có Thành Hoàng trong nước, người Việt Nam thờ Vua Tổ - vua Hùng; thờ Tứ bất tử, thánh Tản Viên và Thánh Gióng”. Theo Tiến Sĩ Trần Diễm Thúy trong giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Thông Tin, đưa ra một số tín ngưỡng dân gian Việt Nam như: tín ngưỡng thờ Tổ Tiên, tín ngưỡng thờ Thổ Công - Thần Tài – Ông Táo, Tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng, tín ngưỡng Thờ Mẫu, thờ Quan Công, thờ Tự Nhiên và tín ngưỡng Phồn thực. “Ngoài những tín ngưỡng tiêu biểu trong dân gian người Việt đã trình bày ở trên thì đời sống văn hóa của cư dân Việt còn có một số tín ngưỡng đặc biệt khác, ví dụ: tôn thờ đá, tôn thờ cây, tôn thờ các vị thần thánh khác (như Tứ bất Tử gồm Tản Viên – Thánh Gióng – Chử Đồng Tử - Liễu Hạnh)”[8, tr.141]. Trong mục bàn về Phong tục tế lễ, trích trong Một số phong tục nghi lễ dân gian truyền thống Việt Nam của Quảng Tuệ, Nxb Thanh Hóa, đã nói đến các phong tục tín ngưỡng dân gian Việt Nam có thờ Thần Thành Hoàng, thờ Chư Vị, thờ Thánh Hiền, thờ Tổ, “trong một số nhà có tục thờ các vị gọi là tạp thờ, đó là Táo Quân, Thổ Thần, Thần Ngũ Tự và Thần Tài” [9, tr.106]. Giáo Sư Ngô Đức Thịnh “đồng tình với cách phân loại tín ngưỡng theo hình thái học và đưa ra cách phân loại tín ngưỡng của các tộc người ở nước ta, coi đó không phải là mục tiêu học thuật của mình, mà chỉ là phương tiện thuận lợi hơn cả để trình bày các hình thức tín ngưỡng mà thôi” (Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam [7,tr.13]). Theo đó ông chỉ ra các hình thức tín ngưỡng sau: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ( gia tộc, dòng họ, quốc gia), Tôtem giáo Tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng Tín ngưỡng vòng đời người: 11
- - Nghi lễ sinh đẻ (thờ Bà Mụ) - Nghi lễ cưới xin (thờ Ông Tơ, Bà Nguyệt) - Thờ thần bản mệnh - Tang ma và thờ cúng người chết Tín ngưỡng nghề nghiệp: - Tín ngưỡng nông nghiệp (Nghi lễ Phồn thực, Tứ pháp, Thần Nông ) - Thờ Thánh Sư (tổ nghề Thủ công) - Thờ thần tài (nghề buôn) - Các tín ngưỡng của ngư dân (thờ Cá Ông, thờ Cô bác ) Tín ngưỡng thờ thần (đạo thờ thần): - Đạo Mẫu - Đức Thánh Trần - Tứ Bất Tử - Thờ các anh hùng dân tộc Cũng như nhiều lĩnh vực khoa học khác, có nhiều ý kiến khác nhau nên sẽ hình thành nhiều cách phân loại khác nhau, trên đây là một số cách phân loại của một số nhà nghiên cứu. 1.1.2. Đặc trưng của tín ngưỡng Việt Nam Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa, thiên nhiên tương đối phong phú, đa dạng. Thời xa xưa, người Việt sống chủ yếu dựa vào việc khai thác tự nhiên. Vì vậy, việc thờ cúng các vị thần tự nhiên (nhiên thần) đã sớm gần gũi với họ. Hơn nữa, Việt Nam lại là ngã ba đường nơi giao lưu của nhiều tộc người, của nhiều luồng văn minh. Hai yếu tố đó làm cho Việt Nam trở thành một quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng. Tính đa thần ấy không chỉ biểu hiện ở số lượng lớn các vị thần mà điều đáng nói là, các vị thần ấy cùng đồng hành trong tâm thức một người Việt. Điều đó dẫn đến một đặc điểm của đời sống tín ngưỡng - tôn giáo của người Việt đó là tính hỗn dung tôn giáo. Trước sự du nhập của các tôn giáo ngoại lai, người Việt không tiếp nhận một cách thụ động mà luôn có sự cải biến cho gần gũi với tư tưởng, tôn giáo bản địa. Vì vậy, ở nước ta, trong khi các tôn giáo vẫn phát triển thì các tín ngưỡng dân gian vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân. Cũng chính vì tính hỗn dung tôn giáo ấy mà người Việt thể hiện sự bàng bạc trong niềm tin tôn giáo. Đa số người Việt đều có nhu cầu tôn giáo, tuy nhiên, phần 12
- đông trong số đókhông là tín đồ thành kính của riêng một tôn giáo nào. Một người vừa có thể đến chùa, vừa có thể đến phủ miễn là việc làm ấy mang lại sự thanh thản về tinh thần cho họ, có thể thoả mãn điều họ cầu xin. Vì thế, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, một đặc điểm trong đời sống tín ngưỡng - tôn giáo của người Việt là tính dụng. Tôn giáo là để phục vụ nhu cầu cần thiết, trực tiếp của họ trong cuộc sống. Mỗi tín ngưỡng lại có những đặc trưng riêng theo sắc thái và môi trường xã hội. Tuy nhiên các tín ngưỡng đã phát triển không bao giờ chỉ có các lễ nghi thuần túy. Nghĩa là tín ngưỡng không chỉ biểu đạt bằng các nghi lễ thờ cúng, vật dâng cúng mà còn có lễ hội, còn có các “công cụ” hay “biểu tượng” coi đó như là một thứ ngôn ngữ biểu đạt. Ví như những ngôi đình, mái đền, pho tượng thần linh đó là những đặc trung vốn có, và luôn tồn tại của tín ngưỡng. Tín ngưỡng không thể thiếu các câu chuyện, truyền thuyết, huyền thoại, thần tích, thần phả để mô tả nguồn gốc, hình trạng, “đời sống” của các thần linh; cũng đôi khi lại là những áng văn vần, thơ ca dân gian như “ Mo đẻ đất, đẻ nước”, “Mo lên trời” đã nảy sinh trong tín ngưỡng tâm linh của người Mường với các nghi lễ tang ma. 1.1.3. Vai trò giá trị của tín ngưỡng trong văn hóa dân tộc Nói đến văn hóa dân tộc là chúng ta nói đến một nền văn hóa đậm đà bản sắc. xuất phát từ gốc văn hóa bản địa là văn hóa gốc nông nghiệp – văn hóa Đông Nam Á. Lại nằm trong khu vực cửa ngõ ra vào thuận lợi giao lưu với các nền văn hóa khác nhau trong khu vực và trên thế giới: ngay từ buổi đầu đã chịu tác động, giao lưu với nền văn hóa Ấn Độ, tiếp nữa là dưới 1000 năm Bắc thuộc của phong kiến Trung Hoa, đến tiếp cận và ảnh hưởng của nền văn hóa Phương Tây đã làm cho nền văn hóa tổng hợp; cùng với 54 dân tộc anh em chung sống trên mọi miền tổ quốc đã tạo cho nền văn hóa Việt Nam đa bản sắc. Giáo Sư Trần Quốc Vượng định nghĩa văn hóa như sau: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”. Có thể hiểu văn hóa theo nghĩa rộng là bao gồm tất cả từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao động Do đó chứa đựng cả yếu tố vật chất và tinh thần của con người. 13
- Đánh giá vai trò của tín ngưỡng trong văn hóa dân tộc trước hết tín ngưỡng có vị trí vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống tinh thần của con người. Đó là niềm tin vào cái siêu nhiên, niềm tin tín ngưỡng thì không mất đi, nó vẫn là một trong những nhân tố mang tính bản chất con người, là thế giới tâm linh của con người. Nên bản thân nó chính là một nét văn hóa rất đặc sắc chứa đựng nhiều yếu tố bao gồm: thần linh, lễ hội, các công trình kiến trúc đình, chùa, miếu, phủ cũng từ những yếu tố này đã hình thành lên sự phong phú trong nền văn hóa Việt Nam cả về giá trị lịch sử, về kiến trúc nghệ thuật. Tín ngưỡng tôn giáo là môi trường sản sinh và tích hợp nhiều sinh hoạt văn hóa dân gian. Các hình thức sinh hoạt cộng đồng gắn với cuộc sống con người đã hình thành lên những làng, bản, thôn xóm. Theo điều kiện sống mà có những ngôi nhà sàn, những làng chài, xóm núi và xung quanh môi trường sống ấy đã tồn tại những lễ hội gắn với các nghi thức riêng có của mỗi vùng quê. Như lễ bỏ mả của người Tây Nguyên, lễ hội Kate của người Chăm, văn hóa đạo Mẫu Cùng với đó là các giá trị mang tính nghệ thuật cao có giá trị trong nền văn hóa Việt Nam như nghệ thuật nhà mồ Tây Nguyên, hay lễ Mo của người Mường trong đó ẩn chứa một niềm tin của con người vào một thế giới khác. Như đã nói, tín ngưỡng tồn tại không chỉ ở một hình thái cụ thể mà nó còn tồn tại ở nhiều hình thái khác. Từ những câu chuyện, truyền thuyết, những áng Mo đến những bản trường ca, những bài hát văn, hát quan họ, các bài văn khấn, hát dậm, hát xoan, hát ả đào (nhạc lễ), các tích trò diễn xướng dân gian hay múa thiêng lại là những “công cụ” hay “phương tiện” đề truyền đạt, lưu giữ từ đời này qua đời khác. Tín ngưỡng đã sản sinh ra trong tâm thức của con người những hình ảnh của các vị thần linh hay ma quỷ mà họ cho là những người đã gây ra cho họ những khó khăn và cũng là người bạn cho họ những ấm no, hạnh phúc. Những vị thần ấy đã được con người nhân cách hóa và sáng tạo thành những pho tượng, những tranh thờ hình người, cây cỏ, con vật, hay đất đá Tín ngưỡng là môi trường đã sản sinh ra các yếu tố văn học, văn hóa nghệ thuật như các câu chuyện, huyền tích, âm nhạc, ca hát và nhảy múa song song tồn tại với các yếu tố đó chính là hình thành hàng loạt các nghi thức, lễ nghi trong lễ hội mà nguồn cội của nó chính là từ những ngôi đình, mái đền, phủ, miếu “Lễ hội, một sinh 14
- hoạt văn hóa cộng đồng tiêu biểu của làng (buôn. Plây, bản) của hầu hết các dân tộc ở nước ta cũng đều hình thành và định hình trên cơ sở một nghi lễ tín ngưỡng tôn giáo: Hội chùa (thờ Phật), hội đền (thờ Thần), hội Đình (thờ Thành Hoàng) Nhiều phong tục tốt đẹp tiêu biểu của văn hóa Việt Nam cũng đều ra đời từ các nghi lễ: sinh đẻ, lễ thành đinh, cưới xin, mừng thọ - lên lão, tang ma ” (Tín ngưỡng tôn giáo và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, Ngô Đức Thịnh, Nxb Trẻ, [7, tr.764]). Tín ngưỡng đã sản sinh ra các yếu tố văn hóa đó, nhưng chính nó lại đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và giữ gìn những nét sinh hoạt văn hóa này của con người. Những truyền thuyết, bản trường ca đã ăn sâu trong đời sỗng con người qua truyền khẩu, và trong tâm thức của họ luôn luôn tồn tại, do đó họ đã thuộc lòng mà không hề ghi chép, rồi cũng từ đây niềm tin đó tồ tại như một chức năng đề giáo dục văn hóa. Bên cạnh đó, với các hình thức văn hóa nghệ thuật như lễ hội, lễ nghi trong các hình thức diễn xướng, hát văn, ca trù lại tái hiện lại đời sống tâm linh của thần linh, hay ma quỷ Rồi, mỗi lần thực hiện các nghi thức này con người lại được một lần để chiêm bái, cầu khấn, được vui chơi, giải trí, giao tiếp trong bầu không khí của nó. Vô tình hay cố ý tự nó đã lưu lại những giá trị văn hóa đặc sắc mà ngày nay chúng ta đang cần tìm đến và giữ gìn. Đó lại chính là những nét sinh hoạt văn hóa cộng đồng, văn hóa nghệ thuật dân gian, đặc biệt là trong nghi thức lễ nghi thờ cúng chúng ta không thể thêm bớt hay loại bỏ đi một cách tùy tiện. Tất nhiên ở sự bảo tồn này không hoàn toàn tự nó tồn tại mà các hiện tượng văn hóa, nghệ thuật cũng luôn luôn biến động theo hoàn cảnh xã hội và môi trường tích hợp. có thể dẫn ra như hát chầu văn được hình thành trong môi trường tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ và hầu đồng của người Việt, nhưng khi đã định hình rồi thì nó lại được các vùng lân cận tiếp nhận và biến đổi không chỉ trong thờ Mẫu nữa mà còn diễn xướng và mang nội dung chính trị xã hội. Tóm lại, tín ngưỡng tồn tại chính là biểu hiện của sự cố kết cộng đồng, sự cộng mệnh và cộng cảm. Nó chứa đựng các giá trị văn hóa dân tộc, đồng thời thể hiện bản sắc và sắc thái riêng của từng dân tộc, mang giá trị đạo đức là động lực góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội. 1.2. Khái quát về tín ngƣỡng thờ thần Đông Hải Đại Vƣơng ở Việt Nam 1.2.1. Một số nét về tín ngưỡng thờ thần ở Việt Nam 15
- Theo sự phân loại trên, trong hệ thống tín ngưỡng dân gian Việt Nam chúng ta dễ nhận thấy, tín ngưỡng Việt Nam vô cùng phong phú, trong đó, tín ngưỡng thờ thần chiếm phần lớn các chuyên mục nghiên cứu của các nhà khoa học. Bởi môi trường sống mà hình thành nên tín ngưỡng đa thần trong đời sống con người. Nếu tín ngưỡng thờ Mẫu được hình thành từ môi trường sống của cư dân nông nghiệp cần lao động và phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, thì hình ảnh Tứ Bất Tử (bốn người không chết : Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, và Mẫu Liễu Hạnh), “lại là một giá trị văn hóa tinh thần rất đẹp của dân tộc ta, là tinh hoa chắt lọc qua suốt chiều dài lịch sử biểu tượng cho sức mạnh liên kết cộng đồng để làm ruộng và đánh giặc, cho khát vọng xây dựng một cuộc sống vật chất phồn vinh và tinh thần hạnh phúc” (trích trong phần Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Trần Quốc Vượng, Nxb Giáo Dục, [11, tr.142]). Họ đều là những vị thần được nhân dân tôn thờ làm thành hoàng để bảo hộ cho cuộc sống của mình. Các vị anh hùng dân tộc đã có công trong quá trình dựng nước và giữ nước cũng được nhân dân thờ phụng như vị thành hoàng. Đông Hải Đại Vương là vị thần có nguồn gốc gắn với biển, Ông được phong làm thành hoàng ở nhiều nơi với nhiều tên tuổi khác nhau, nên tín ngưỡng thờ Đông Hải Đại Vương lại có những nét gắn bó mật thiết với văn hóa biển của những ngư dân. Nhưng tất cả các vị thần ấy đều được nhân dân thờ phụng như một vị thần thành hoàng làng. Ở mối địa phương có các lễ thờ tự khác nhau tuy nhiên tên tuổi của các vị thần thành hoàng đều gắn với công trạng và nguốn gốc của vị thần ấy, có thần là Thượng Đẳng Thần, Trung Đẳng Thần hay Hạ Đẳng Thần. Thượng đẳng thần là những thần danh sơn Đại xuyên, và các bậc thiên thần như Đông thiên vương, Sóc thiên vương, Sử đồng tử, Liễu Hạnh công chúa, Đức thánh Tam Giang Các vị ấy có sự tích linh dị, mà không rõ tung tích ẩn hiện thế nào, cho nên gọi là Thiên thần. Thứ nữa là các vị nhân thần như: Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo Các vị này khi sanh tiền có đại công lao với dân với nước; lúc mất đi, hoặc bởi nhà vua tinh biểu công trạng mà lập đền thờ hoặc bởi lòng dân nhớ công đức mà thờ. Các bực ấy đều có sự tích công trạng hiển hách và họ tên rõ ràng, lịch triều có mỹ tự bao phong làm Thượng đẳng thần. Trung đẳng thần là những vị thần dân làng thờ đã lâu, có họ tên mà không rõ công trạng; hoặc là có quan tước mà không rõ họ tên, hoặc là những thần có chút linh 16
- vị, tới khi nhà vua sai tinh kỳ đảo võ, cũng có ứng nghiệm thì triều đình cũng liệt vào tự điển, mà phong làm Trung đẳng thần. Hạ đẳng thần do dân xã thờ phụng, mà không rõ sự tích ra làm sao, nhưng cũng thuộc về bực chính thần, thì triều đình cũng theo lòng dân mà phong cho làm Hạ đẳng thần. Sách Việt Nam phong tục [2, tr.173] của Phan Kế Bính có chép: “Xét về cái tục thờ Thần hoàng (hiểu là thần Thành hoàng) này từ trước đời Tam Quốc (Trung Quốc) trở về trước vẫn đã có, nhưng ngày xưa thì nhà vua nhân có việc cầu đảo gì mới thiết đàn cúng tế mà thôi. Đến đời nhà Đường, Lý Đức Dụ làm tướng, mới bắt đầu lập miếu Thần hoàng ở Thành Đô; kế đến nhà Tống, nhà Minh, thiên hạ đâu đâu cũng có lập miếu thờ. Nước ta thuở bấy giờ đang lúc nội thuộc, tục Tàu truyền sang đến bên này, kế đến Đinh, Lê thì việc thờ quỷ thần đã thịnh hành rồi. Nhưng cứ xét cái chủ ý lúc trước, thì mỗi phương có danh sơn (ngọn núi có tiếng), đại xuyên (sông lớn); triều đình lập miếu thờ thần sơn xuyên (núi sông) ấy để làm chủ tể (người đứng đầu) cho việc ấm tí một phương thôi. Kế sau, triều đình tinh biểu (làm cho thấy rõ công trạng, tiết tháo) những bậc trung thần nghĩa sĩ và những người có công lao với nước, thì cũng lập đền cho dân xã ở gần đấu thờ đấy. Từ đó dân gian lần lần bắt chước nhau, chỗ nào cũng phải thờ một vị để làm chủ tể trong làng mình Dân ta tin rằng: Đất có Thổ công, sông có Hà bá; cảnh thổ nào phải có Thần hoàng ấy; vậy phải thờ phụng để thần ủng hộ cho dân, vì thế mỗi ngày việc thờ thần một thịnh ” Hiểu được nhu cầu tâm linh của người dân, cộng thêm ý muốn tạo lập một thiết chế văn hóa - tín ngưỡng chính thống của vương triều, để nhằm xóa bỏ dần tầm ảnh hưởng của các triều đại trước; nên dưới thời các vua đầu nhà Nguyễn, cứ ba năm xét ban sắc phong thần một lần. Chỉ riêng năm 1852, có lẽ đoán trước thời nguy nan của đất nước trước thực dân Pháp, cho nên vua Tự Đức đã sai cấp đồng loạt 13.069 sắc phong cho cả nước (nhiều nhất là ở Nam Bộ), cùng với việc “Quốc điển hóa” sự thờ phụng; cũng chính là để nhanh chóng đạt được mục đích trên. 17
- Từ trên ta có thể hiểu phần nào về tín ngưỡng thờ thần ở Việt Nam. Trước khi đi vào tìm hiểu các vị thần Đông Hải Đại Vương, người nghiên cứu xin đưa ra vài nét về tín ngưỡng thờ thủy thần và thần biển. 1.2.2. Vài nét về tín ngưỡng thờ thủy thần và thần biển ở Việt Nam Người Việt sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp, văn hóa bản địa là văn hóa gốc nông nghiệp điển hình, tuy nhiên một số bộ phận dân cư sống tại các vùng biển và ven biển lại có những nét văn hóa tín ngưỡng riêng có và đặc sắc. Họ sống với sông nước, biển khơi, kiếm sống bằng nghề đánh cá. Họ phụ thuộc phấn lớn vào tự nhiên. Sóng to gió lớn gặp nạn trên sông biển khiến trong tâm linh họ là những hình ảnh của các vị Thủy thần. Đặc biệt là những ngư dân từ Trung Bộ vào đến Nam Bộ, hình thức thờ Thủy thần với thần Hà Bá (thần sông), thần Rắn biển (thờ chúa loài rắn biển), thờ các vong hồn bị chết ngoài biển khơi, thờ Tứ vị Thánh Nương, Tống Hậu, Độc Cước Tùy theo từng địa phương mà mang các danh thần khác nhau, như Long Vương, Đại Càn, Tan Giang, Đông Hải Đại Vương, Nam Hải Đại Vương, Thủy tề Đại Vương, Tây Hải Đại Vương, Linh Lang Đại Vương, Bát Hải Đại Vương, Nam Hải Tứ Vị Hồng Nương, Vĩnh Hải Môn Thần, Trương Hống – Trương Hát, Tống Hậu Các vị Thủy thần tuy có nhiều song, tín ngưỡng nổi bất nhất, và cũng không có vị thần nào được thờ cúng, tôn kính và có các nghi thức, lễ hội uy nghiêm và độc đáo như lễ Nghinh Ông hay lễ thờ Cá Ông của ngư dân. Đây là lễ hội nổi tiếng và phổ biến nhất của cư dân ven biển thờ Cá Voi. "Cá Ông" ở đây là cá voi lưng xám mà theo ngư dân chính là thần Nam Hải. Ngư dân thường phối thờ Cá Ông cùng các vị thần khác đã giúp đỡ và phù hộ cho ngư dân no ấm như: Ngũ Hành Nương Nương, Hữu Lý Ngư, Tả Lý Lịch, v.v. Theo Toan Ánh trong Nếp cũ – hội hè đình đám [1, tr.134]: “cá voi được ngư dân gọi với nhiều danh xưng, danh thần tôn kính như: Đức Ngư, Đông Nam Hải, Ông Lớn, Ông Cậu, Ông Khơi, Ông Lộng, Ông Thông, Ông Chuông, Ông Máng, Nam Hải Đại Vương Tướng Quân, Cự tộc Ngọc Long Tôn Thần tuy nhiên tên gọi dùng thông dụng hơn cả là Cá Ông”. Tục thờ cá Ông có nguồn gốc từ tục thờ cá của người Chăm, khi tiếp xúc với cộng đồng cư dân Nam đảo đã bị bản địa hóa bởi cư dân người Việt và người Hoa. Từ đây tín ngưỡng thờ cá trở thành biểu tượng của thần biển. Là lớp văn 18
- hóa nằm trong dòng chảy tín ngưỡng thờ cá của cư dân Việt vùng châu thổ sông Hồng, xuất phát từ quan niệm thờ thần bảo hộ nghề nghiệp. Có nhiều truyền thuyết xoay quanh sự tích thần cá Voi, tục này từ đời vua Gia Long đã thành tục lệ để cầu yên cho các ngư thuyền ra khơi bình an và mong thu về được mẻ cá lớn. Đối với người Chăm, Cá Ông là một vị thần của Biển Đông được nhân dân kính cẩn. Đối với người Việt và người Hoa, Cá Ông chính là mảnh pháp y (áo choàng sau) của Quan Thế Âm (hay Nam Hải Bồ tát) quăng xuống biển để cứu giúp cư dân vùng biển trong cơn giông tố giữa biển. Truyền thuyết kể rằng Nam Hải Bồ Tát đã hóa thân thành Ông Nam Hải đi tuần ở ngoài biển. Một hôm, từ trên tòa sen Ngài nhìn thấy cảnh giông tố bão bùng ngoài biển khơi, nhấn chìm bao thuyền bè và những ngư dân đánh cá. Thấy cảnh đó Ngài đã cởi chiếc pháp y trên mình, xé tan chúng và tung xuống biển hóa thành những con cá voi sai đi cứu dân bị nạn. Rồi Bà mượng thêm bộ xương voi ở trên rừng cho cá Voi, biến cá voi thành to lớn, mạnh mẽ để cứu người gặp nạn. Từ đó về sau hễ thấy ở đâu có dân chài bị nạn là ở đó có cá voi. Và hình ảnh cá voi trở thành một người bạn, vị thần bảo hộ của dân chài. Người dân từ Trung bộ vào đến Nam bộ có những nghi lễ khác nhau để thờ cá ông có nghi lễ tang ma, nghi lễ thỉnh ngọc cốt, lễ Nghinh Ông và hội hát bả trạo Tùy theo từng địa phương lễ tang cá Voi một khác. Cá Ông chết được gọi là lụy, khi cá Ông lụy sẽ trôi dạt vào bờ mà theo truyền thuyết thì cá Ông được cá Voi khác đưa vào bờ chờ khi nào có ngư dân phát hiện thấy mới trờ lại biển khơi. Mỗi làng ven biển đều có một lăng dinh vạn để tỏ chức đám tang cho cá Voi, người trông thấy xác cá Voi đầu tiên sẽ phải rước về dinh và được coi là con của cá Voi và phải đứng ra tổ chức tang lễ. tuy nhiên tại mỗi vùng ngư dân sinh sống lại có những cách tổ chức đám tang riêng. Như ở Quảng Nam Đà Nẵng, mổ thi hài cá Voi cho vào nhiều hòm khác nhau hoắc cá Voi quá lớn sẽ để cá rữa ra mới mai táng; còn người dân ở Bình Thuận họ lại cho rằng cá to đến đâu cũng vẫn khiêng về dinh được nhưng phải là người nhìn thấy đầu tiên xác cá Voi và người dân cùng làng với người đó thì mới khiêng về được, và họ chôn cất cá Ông lớn xây bọc bằng ván trên có đổ cát trắng tinh, còn cá Voi nhở (cá Ông Cậu) thì mai táng theo mộ phần. Tất cả các nghi thức đám tang đúng như một đám tang truyền thống của ta, từ tang phục đến nghi lễ thờ cúng: tạ mộ, lễ cầu siêu sau 21 ngày, lẽ 100 ngày, lễ tiểu tường và lễ đại tường 19
- Đặc biệt là cũng có lễ cải táng xác cá Ông giống như con người, nhưng xương cá Voi sẽ được đưa về đền, đình hoặc chùa để dân làng thờ tự. Lễ này còn được người dân gọi là lễ Thượng Ngọc Cốt, và sau đó sẽ có các ngày tổ chức nghi lễ kỵ nhật hàng năm. Trong đám tang lễ Cá Ông hay trong các ngày Kỵ nhật hàng năm ngư dân thường có hát Bả trạo (hát chèo đưa Ông). Đó chính là nét đặc biệt trong nghi lễ thờ cá Voi của những ngư dân từ Trung bộ vào đến Nam bộ. 1.2.3. Các vị thần Đông Hải Đại Vương ở Việt Nam Các vị Thủy thần được tôn thờ phần lớn là được thờ bởi nhân dân sống nơi ven biển hoặc ven các con sông lớn như sông Cầu, Sông Hồng, Sông Đáy Trong hệ thống các vị thủy thần ấy, được tôn thờ nhiều và phổ biến hơn cả là những vị thần biển. Đặc biệt là những vị Thủy thần là “nhân thần hóa”, thậm chí là “nhân vật hóa” trở thành các vị thần có tên tuổi, gốc tích là những nhân vật lịch sử Các vị thủy thần được thờ phụng phổ biến hơn cả là các vị thần biển dưới các vị danh thần: Đại Càn, Nam Hải Đại Hải Vương, Đông Hải Đại Vương, Long Thần, Tống Hậu, Thánh Nương theo hoàn cảnh xuất thân, công trạng và quá trình thiêng hóa mà được phong gọi theo các chức danh. Theo truyền thuyết Đông Hải Đại Vương là anh trai của Tây Hải Đại Vương dưới biển. Từ truyền thuyết Trung Quốc, gắn với nguồn gốc xuất thân từ biển khơi, thần Đông Hải Long Vương cai quản dưới biển, nhưng khi vào Việt Nam truyền thuyết về Đông Hải Long Vương đã thành Đông Hải Đại Vương là nhân vật đã được sắc phong qua các triều đại lịch sử. Theo ghi chép của lịch sử dưới thời nhà Trần, người dân Việt miền biển Bắc - phần mà họ nhà Trần tập trung từ Nam Định, Hải Dương lan vào nội địa có văn hoá sông nước gắn liền với văn hóa vùng cao tạo thành một bản sắc của văn hóa Việt Nam. Bản chất sông nước của họ Trần được thể hiện : " xứ Nam có Chử Đồng Tử rồi Mẫu Liễu Hạnh, thì xứ Đông đời đời rạng danh Đông Hải Đại Vương với hàng trăm đền thờ từ Bần Yên Nhân dọc đường 5 xuống tận Hải Phòng” [12, tr.396]. Nhà Trần trở thành hoàng tộc, có gốc là thế giới sông nước và biển nên có cái nhìn về biển rộng rãi hơn. Chính nhà Trần đã chia miền Biển Đại Việt khi ấy thành 2 khu vực quản lý: HẢI ĐÔNG từ cửa Đáy đến giáp (châu) Khâm Liêm, Quảng Đông, HẢI TÂY chạy dọc dài ven biển Thanh - Nghệ - Tĩnh – Bình - Trị - Thiên ". Đông là 20
- hướng đông; Hải là biển, Đông Hải là biển phía Đông. Công trạng của các vị thần này lại gắn với vùng biển khơi sông nước mà được sắc phong là Đông Hải Đại Vương. Một lý giải khác về tên sắc phong này, Đông là Xứ Đông, một trong bốn Xứ Đông, Xứ Đoài, Xứ Nam, và Xứ Bắc. Xứ Đông xưa kia bao gồm địa phận của tỉnh Hải Dương và một phần tỉnh Quảng Ninh, bao gồm cả Hải Phòng ngày nay, là phía Đông của kinh thành Thăng long, Sang thời Lý Hải Phòng thuộc Hồng lộ. Đời Trần Thuận Tông đổi làm trấn Hải Đông. Đặc biệt với các vị Đông Hải Đại Vương đã từng giao chiến, từng đấu tranh và dựng đại bản doanh ở vùng đất này, từ truyền thuyết về nguồn gốc xuất thân, đến những công trạng của họ đã từng trải qua trên mảnh đất này mà được sắc phong là Đông Hải Đại Vương. Vậy Đông Hải Đại Vương là những ai? Với nhiều tên thuổi khác nhau qua các triều đại lịch sử Đông hải Đại Vương còn được sắc phong theo công trạng. Đệ Tam Đông Hải Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng và Đức ông Đông Hải Đại Vương là Trần Quốc Nghiễn, con thứ ba và con cả của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Hai Ông có công lớn trong cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam ở thế kỷ thứ XIII chống giặc ngoại xâm và chiến công của ông có gắn bó với vùng đất Quảng Ninh. Khi đi theo dòng lịch sử dân tộc với các danh hiệu sắc phong của các vị danh tướng được nhân dân ta thờ phụng, Đông Hải Đại Vương nổi lên với tên tuổi của tướng quân Đoàn Thượng thời nhà Lý, sang thời nhà Lê nổi lên với tên tuổi của Đông Hải Đại Vương Nguyễn Phục - Tiến sĩ đời Lê Nhân Tông (1442-1459) và đã giữ nhiều trọng trách tại triều. Ông bị tội oan dưới đời vua Lê Thánh Tông. Sau khi chết được rửa oan và sắc phong Đông Hải Đại Vương. 1.3. Việc thờ tự đối với các vị thần Đông Hải Đại Vƣơng ở Việt Nam 1.3.1 Mục đích ý nghĩa của việc thờ tự Xét dưới góc độ thờ thần thành hoàng làng nói chung, như trên đã nói, thần Thành hoàng dù có hay không có họ tên, lai lịch; và dù xuất thân bất kỳ từ tầng lớp nào, thì cũng là chủ thể trên cõi thiêng của làng và đều mang tính chất chung là hộ quốc tý dân (hộ nước giúp dân) ở ngay địa phương đó. Vai trò trên của thần còn có ý nghĩa hơn nữa, nhất là đối với những cư dân từ miền ngoài vào khai khẩn vùng đất hoang, vì lẽ họ đã gặp không ít khó khăn do thiên tai địch họa, do thú dữ hoành hành Điều đó có nghĩa, thần Thành hoàng đã trở thành một biểu tượng tâm linh; bởi theo họ, 21
- chỉ có thần mới có thể giúp cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt; giúp cho cuộc sống của họ ngày một thêm ổn định, thịnh vượng. Thờ thần đã ăn sâu trong đời sống tâm linh con người, thần mang theo niềm tin của dân làng, mong muốn của dân làng và ước vọng cho cuộc sống bình yên. Với họ, mỗi một việc gì đều do thần linh tạo ra và cũng do thần linh che trở. Nông dân thờ phụng với ước mong tránh hạn hán lũ lụt, gặp mùa bội thu; ngư dân mong được trời yên biển lặng, quăng được mẻ cá lớn Thần linh đóng vai trò ngự trị trong thế giới tâm linh của con người. Dù là bất kỳ dưới góc độ tâm linh nào thần linh cũng vẫn tồn tại trong ý thức của họ như một vị thần bảo hộ. Và với các vị thần Đông hải Đại Vương cũng vậy họ không chỉ với mong ước cho cuộc sống của mình mà với họ là sự tri ân, ghi tạc công lao của các vị thần với làng với nước, thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn”. Các vị thần ấy là những người có công lập làng, giữ yên bờ cõi cho đất nước. Họ nhắc nhở con cháu đời sau ghi nhớ công lao ấy mà giữ gìn và duy trì việc thờ phụng. 1.3.2. Những vùng và địa phương thờ thần Đông Hải Đại Vương Đông Hải Đại Vương là một vị thần biển, được 72 làng ven biển thờ hay chọn làm thành hoàng, trong đó một số nơi đã "lịch sử hóa" và đồng nhất vị thần này với Đoàn Thượng (đời Lý) và Nguyễn Phục (đời Lê) thành Đông Hải đại vương Nguyễn Phục và Đông Hải đại vương Đoàn Thượng. Một số làng khác thì vẫn thờ Đông Hải đại vương. Xứ Đông là vùng nổi danh tên tuổi của các vị Đông Hải Đại Vương. Chạy dọc theo sông Hồng và bao quanh khu vực Xứ Đông xưa kia có 72 làng xã thờ phụng, có làng thờ thành ba nơi, tính đến 280 nơi thờ tự. Thống kê theo các nguồn tài liệu đã được khảo sát tại vùng Hồng Châu xưa, có 12 tỉnh thành phố thờ Đức Thánh Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng. Gồm có: Thanh Hóa (3), Hải Dương (125), Hưng Yên (57), Thái Bình (13), Nam Định (13), Ninh Bình (2), Hà Nội (11), Vĩnh Phúc (3), Bắc Ninh (3), Hà Nam (6), Quảng Ninh (2). (bảng phụ lục 1). Chỉ riêng Hải Phòng có tới 141 di tích thờ trên toàn thành phố. ( bảng phụ lục số 2). 22
- TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 Trên đây là những phác thảo hết sức sơ lược về các hình thức tín ngưỡng của người Việt Nam. Là những ý niệm chung nhất về sự đa dạng và phức tạp của một phần đời sống tâm linh con người – tín ngưỡng đa thần. Nằm trong hệ thống tín ngưỡng đó nhóm tín ngưỡng thờ thần chiếm phần lớn trong tâm thức của con người và dù rằng đa thần nhưng các vị thần có nguồn gốc là các nhân vật lịch sử đã được “hóa thân” hoặc được “nhân cách hóa” đã chiếm số lượng lớn trong hệ thống thờ tự của người dân. Nhưng có sự phân chia rất rõ nét theo môi trường sống của họ. Trong đó việc thờ tự với các vị thần Đông Hải Đại Vương – những nhân vật lịch sử có thật được hóa thân từ những nhân vật trong truyền thuyết nhưng lại chiếm số lượng lớn về hệ thống di tích và lễ hội. Xuất phát từ quan niệm thờ Cá Ông – cá Voi của cư dân ven biển của các ngư dân miền Trung bộ vào đến Nam bộ, thì với ngư dân nơi vùng biển và ven các con sông lớn của Bắc Bộ thần Đông Hải Đại Vương cũng được thờ tự như vị thần bảo hộ nghề nghiệp cho cuốc sống của họ. Kết hợp với yếu tố văn hóa vùng cao đã trở thành một hiện tượng văn hóa đặc sắc trong hệ thống tín ngưỡng thờ thần ở miền Bắc Việt Nam. Đặc biệt là sự kết hợp giữa văn hóa ngư nghiệp và nông nghiệp được thể hiện độc đáo trong tín ngưỡng thờ thần Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng của ngư dân Cát Hải, Hải Phòng được đề cập chương sau sẽ lý giải được nhiều hơn hiện tượng văn hóa này. 23
- CHƢƠNG 2. ĐÔNG HẢI ĐẠI VƢƠNG ĐOÀN THƢỢNG VỚI CÁT HẢI, HẢI PHÒNG Cho đến nay, nói đến Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng còn nhiều người chưa từng biết đến, lịch sử nhà Trần ghi chép cũng có đôi phần thiên lệch, nhiều nơi và nhiều địa phương tuy có thờ phụng nhưng lại nhầm Ngài với vị thần khác việc tìm hiểu về tên gọi, thân thế sự nghiệp và quá trình thiêng hóa của Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng là nội dung chính được để cập trong chương này. 2.1. Giới thiệu về Đông Hải Đại Vƣơng Đoàn Thƣợng 2.1.1. Thân thế và sự nghiệp Theo một số nhà sử học đã từng khảo sát điền dã cho thấy có những làng trước đây thờ Đức Thánh Đông Hải đại vương Đoàn Thượng, sau thất lạc ngọc phả thần tích, sắc phong nên không hiểu biết về Ngài đã dỡ bỏ nơi thờ tự, thậm chí là nhầm Ngài với nhân vật lịch sử khác. Vậy Ngài là ai? Câu hỏi đó đến nay vẫn còn nhiều điều không thống nhất về ngày tháng năm sinh cũng như thân phụ và thân mẫu của Ngài. Nhưng đến nay có niều nơi tôn thờ Ngài như vị thành hoàng làng, và việc đó đã trở thành tín ngưỡng văn hóa ăn sâu vào trong tiềm thức của người dân ở nhiều địa phương trên nhiều tỉnh thành miền bắc nước ta. Giải thích về hiện tượng tín ngưỡng thờ cũng Đông Hải đại vương Đoàn Thượng ở Xứ Đông, Cố giáo sư sử học Trần Quốc Vượng cho rằng: “Trong tín ngưỡng tâm linh, nếu xứ Đoài (Sơn Tây) có Thánh Tản (Tản Viên Sơn Thánh - Sơn Tinh của người Việt, vua Pa Ví (Ba Vì) của người Mường), xứ Bắc có Phù Đổng Thiên Vương (Thánh Gióng), xứ Nam có Chử Đồng Tử, rồi Mẫu Liễu Hạnh, thì xứ Đông đời đời rạng danh Đông Hải Đại Vương với hàng trăm đền thờ từ Bần Yên Nhân dọc xuống tận Hải Phòng. Thần là ai ? Ai biết đi điền dã dân tục - sử thì sẽ hiểu: Nguyên lai, đây là những đền thờ Cá - Ông - Voi của ngư dân và cư dân ven biển; sau thời Lý sang thời Trần, thần Đông Hải - Hải Đông đã được nhân cách hoá và hoá thân vào nhân vật lịch sử có thật: Đó là tướng quân Đoàn Thượng, người đã cùng tướng quân Hoài Đại Vương xứ Bắc Nguyễn Nộn làm nghiêng ngả lịch sử cuối Lý, đầu Trần Để cuối cùng vì chia rẽ nhau, cả 2 tướng quân xứ Đông, xứ Bắc đều thua trí, thua lực của dòng họ Trần gốc dân chài xứ Nam ” [12, tr.396]. 24
- Một số truyền thuyết cho rằng, Đông Hải Đại Vương là anh trai của Tây Hải Đại Vương, là một trong 50 người con trai theo cha Lạc Long Quân xuống biển. Cùng với đó là truyền thuyết về Đoàn Thượng khi Ngài được sinh ra. Mẹ Ngài là Lý thị mơ thấy bắt được Giao long trên bờ biển Đông rồi bà mang thai, không lâu sau sinh hạ ra Ngài sự xuất thân gắn với biển khơi sông nước, cũng như nhiều câu chuyện khác về sự nghiệp của Ngài đều cho thấy được tại sao Ngài được sắc phong là Đông Hải Đại Vương. Theo Đại tá Đoàn Văn Minh, hội viên Hội khoa học lịch sử Hải Phòng nhận định: “Đức Thánh Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng là danh tướng đức tài, gồm đủ nhân, trí, dũng, văn võ kiêm toàn, là một đại thần trung thành của vương triều nhà Lý, có công lao to lớn với dân với nước, Ngài thực hành “Quốc dĩ dân vi bản, dân dĩ thực vi tiên”, coi quốc gia là trọng, luôn chăm lo cho nhân dân”. Theo “Việt Điện U Linh” của Lý Tế Xuyên, Đoàn Thượng là một trung thần của nhà Lý “Anh liệt Chinh khí quân”. Sau khi Ngài mất được sắc phong là “Đông Hải Đại Vương Thượng Đẳng Thần” [13, tr.173]. Dù vậy, đến nay vẫn còn nhiều điều không thống nhất về Ngài. Do Ngọc phả không còn, nhiều nơi thờ tự nhưng lại gắn với nhiều thần tích khác nhau có đôi khi còn nhầm Ngài với các vị thần khác, nên có sự thống nhất về quê quán nhưng lại nhiều sai lệch về ngày sinh và ngày hóa của Ngài. Trước hết theo các truyện và sự tích về ngài đã có sự sai lệch: TS. Nguyễn Văn Thắng, với luận án tiến sĩ “Lễ hội cổ truyền ở Hưng Yên” [10, tr.78] có dẫn chứng sau: Theo Truyện Đoàn Thượng Đông Hải Đại Vương, Đoàn Thượng sinh ngày mùng 10 tháng 2 năm Giáp Thìn (1184) và hóa ngày mùng 6 tháng 8, thọ 56 tuổi (Bản AEa 5/8)[54, tr.914 – tr.918]. Nhưng trong Truyện Đoàn Thượng triều Lý, Ngài sinh ra tại hương Xuân Độ, huyện Trường Tân, lộ Hồng Châu (nay là Thung Độ, xã Đoàn Thượng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, Ngài hóa ngày 10 tháng 12 tại làng Yên Nhân (Bản Aea 5/1-2) [54, tr.913] Trong Bản Sự tích Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng ghi Đoàn Thượng hóa ngày 10 tháng Giêng [54, tr.918 – tr.919]. 25
- Nữa là Bản Sự tích hai anh em Đông Hải Đại Vương và Tây Hải Đại Vương tại xã Đa Cốc, tổng Đa Cốc, huyện Vũ Tiên lưu truyền Ngài hóa ngày 12 tháng 7 (Aea 5/3 – 2 (3)) [54, tr.922 - 924]”. Cùng đó là số liệu của các Thần phả tại các đình miếu thờ Ngài cũng có sự sai lệch, có Thần phả ghi Ngài sinh ngày 12 tháng 8, có Thần phả ghi là ngày 10 tháng Giêng. Thần tích tại làng Đại Cầu, tổng Lam Cầu, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam ghi ngày hóa của Ngài là 15 tháng 7. Cho đến nay vẫn chưa tìm được số liệu chính xác với những tư liệu hiện có như ngày nay. Nhưng theo những thông tin mà con cháu dòng họ Đoàn tại các tỉnh thành trong cả nước cung cấp cho Đại Tá Đoàn Văn Minh, dựa theo các thông tin này có thể dùng số liệu ngày sinh của Ngài là ngày mùng 7 tháng Giêng năm Nhâm Dần (1182), và ngày 12 tháng 8 năm Tân Sửu (1181), tại làng Xuân Độ, còn gọi là Bổng Độ, huyện Trường Tân, lộ Hồng Châu, nay là thôn Thung Độ, xã Đoàn Thượng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Họ Đoàn là một dòng họ quý tộc, nhiều đời làm quan đại thần và làm tướng cho các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý và có nhiều công lao trong việc xây dựng và bảo vệ nền độc lập của nước Đại Việt. Theo Giáo Sư, nhà sử học Ngô Đăng Lợi: “họ Đoàn là một trong những dòng họ có tiếng của nước ta, thường sản sinh ra những nhân tài danh vọng trên nhiều lĩnh vực. Nhưng dường như họ này phát về văn, còn về võ không nhiều. Vì thế, tướng quân Đoàn Thượng nổi lên như một vị tướng văn võ toàn tài, đạo cao đức trọng của họ Đoàn trong lịch sử. Chính sử nước ta, sự tích của Ngài ghi lại không nhiều, các sử gia triều Trần lại có điều thiên lệch. Nhưng trong dân gian thì khác hẳn, ở các đền miếu thờ Ngài, những bản ngọc phả, sắc phong của các triều đại, những bia ký, hoành phi, câu đối, những huyền thoại đều thống nhất ca ngợi Đông Hải đại vương Đoàn Thượng: sống là danh tướng, thác là thần thiêng; bậc trung thần tiết liệt của triều Hậu Lý (1010-1225), vị trấn thủ miền Hải Đông có nhiều công lao, thành tích giữ yên bờ cõi, chăm sóc dân lành, đem lại cơm no, áo ấm cho gia đình họ ”. Theo cuốn Đức Thánh Đông Hải đại vương Đoàn Thượng [5, tr.9] thì tổ tiên họ Đoàn phát tích tại Sơn Lĩnh, chuyển cư đến Lai Cáo (còn gọi là Noi Cáo hay Lôi Cao) nằm bên bờ sông Nhuệ, nay là địa bàn ba xã Phú Diễn, Cổ Nhuế, Xuân Đỉnh của huyện Từ Liêm, Hà Nội. Vào năm Canh Thân, niên hiệu Thuận Thiên thứ 11 (1020) thì dời về Tô Xuyên, nay thuộc xã An Mỹ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, rồi đến 26
- ở đất Hồng Thị, Cổ Phục thuộc Hồng Châu (nay là huyện Kim Thành và Trường Tân - Gia Lộc tỉnh Hải Dương); đến năm 1170 lại chuyển sang định cư ở khu Trại Mắt, nay là thôn Tu Trình, xã Thuỵ Hồng, huyện Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình. Về quá trình chuyển cư này đã được phản ánh trên câu đối ở Từ đường họ Đoàn: “Tiền cư Lai Cáo, hậu đáo Tô Xuyên, ký sử Hồng Châu, lưu cổ tích - Ốc tại Tu Trình, an cư Đoạn Xá, vân nhưng kế thế, cái tiền cơ”. Nghĩa là: Họ Đoàn trước ở Lai Cáo, sau đến Tô Xuyên, công huân sử sách ghi tại đất Hồng Châu, thần tích còn lưu giữ ở các đình đền - Gốc nhà ở làng Tu Trình, yên cư ở Đoạn Xá, đời đời dòng dõi giữ vững thế gia, mở mang cơ nghiệp tổ tiên. Đoàn Văn Minh đã dịch sách “Đoàn tộc đại tôn phả ký” của cử nhân Đoàn Hải Huệ, tri phủ Vĩnh Khang và con ông là cử nhân Đoàn Viết Yến, Giám sinh Quốc Tử Giám chép năm Quý Mão niên hiệu Hồng Đức thứ 14 (1483) và sách “Đoàn tộc phả ký” của Tiến sĩ Đoàn Phúc Luận, làm quan tới chức Tổng tuần sát tam phủ, soạn năm Quý Sửu niên hiệu Hoằng Định thứ 13 (1613), Đại Tá Đoàn Văn Minh đã nghiên cứu một cách đầy đủ về phả hệ 10 đời thống tôn của Đông Hải đại vương Đoàn Thượng, tính từ Đoàn Liêm Duy, tự Phúc Thái, người làng Lai Cáo (Từ Liêm - Hà Nội), có công phò giúp Khúc Thừa Dụ tấn công phủ Tống Bình, đánh đuổi nhà Đường xâm lược. Đời Tổ chín đời Đoàn Tướng Công húy Liêm Duy, tự Phúc Thái có công giúp Khúc Thừa Dụ đánh đuổi giặc Đường năm 906. Tổ tám đời là Đoàn tướng công húy Duy Thượng, tự Phúc Cao, hiệu Văn Lượng làm đại tướng giúp Ngô Vương Quyền đánh giặc Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm Mậu Tuất (938). Tổ bảy đời là Đoàn tướng công húy Văn Lan, tự Phúc Vạn giúp Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân. Tổ sáu đời là Đoàn tướng công húy Văn Liễn, tự Phúc Trung, giúp Lê Hoàn đánh giặc Tống trên sông Bạch Đằng năm 981. Tổ năm đời là Đoàn tướng công húy Văn Khâm, tự Phúc Vấn làm quan Thượng thu bộ công kiêm giáo thụ Quốc Tử Giám đời Lý Nhân Tông. Tổ bốn đời là Đoàn tướng quân húy Thiện Hồng, tự Phúc Hương đỗ khoa thi năm Bính Dần (1086) đời Lý Nhân Tông có công dẹp loạn ở Thượng Nguyên (Thái Nguyên). Tổ ba đời là Đoàn tướng công húy Quang Dao, tự Phúc Trực đỗ khoa thi năm Bính Thân (1116), có công khởi dựng thương cảng Vân Đồn và giữ yên bờ cõi phía Đông Đại Việt. Đoàn Quang Dao sinh ra Đoàn Thiện Hổ, Đoàn Văn An, Đoàn Phúc Lãnh, Đoàn Chủ và Đoàn Thị Ngọc. Tất cả đều là những bậc hiền tài: 27
- Đoàn Thiện Hổ tự Phúc Thung, có tên là Đoàn Hiền làm quan đô đốc thần vũ thủy quân, có công dẹp giặc ở Bãi Ngang ( nay là xã Quảng Thái, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa) đời nhà Lý – năm Đại Định thứ 15. Đoàn Văn An tự Phúc Quang làm quan nhà Lý, vợ là bà Trương Thị Ban sinh ra Đoàn Thưởng – người có công bình Chiêm Thành được vua Lý Cao Tông phong tước công Bạ Hầu, giúp Đoàn Thượng phù Lý chống Trần. Đoàn Phúc Lãnh, tự Phúc Hiền, làm quan tới chức Huyện lệnh Trường Tân, lộ Hồng Châu (Gia Lộc – Hải Dương) đời vua Lý Anh Tông, niên hiệu Chính Long Bảo Ứng đời thứ 3. Lại có công trị thủy vùng Đông Bắc, lộ Hải Thanh (nay thuộc Thái Bình, Nam Định). Ngài là chú ruột và cũng là cha nuôi dạy Đoàn Thượng. Phu nhân ngài là bà Lý Thị Thông hiệu Từ Thiên sinh ra Đoàn Văn Lôi, bà cũng chính là nhũ mẫu của Đoàn Thượng và Hoàng Tử lý Hạo Sảm, sau là vua Lý Huệ Tông [5, tr.17 – 18]. Đoàn Chủ là tướng nhà Lý, tháng 9 năm Đinh Mão (1207) cùng tướng quân Đoàn Thượng nổi dậy ở Hồng Châu. Còn bà Đoàn Thị Ngọc là hoàng phi của vua Lý Anh Tông. Đoàn Văn Lôi con của Đoàn Phúc Lãnh và nhũ mẫu Lý Thị Thông, là tướng của nhà Lý, được Vua Lý Huệ Tông phong tước Hồng hầu, sinh ra Đoàn Nguyễn và Đoàn Cấm cùng Đoàn Thượng phù Lý chống Trần (1217 – 1218). Đoàn Thiện Hổ sinh ra Đoàn Thượng, Đoàn Đại, Đoàn Hoà, đều làm tướng triều Lý. Đoàn Thượng sớm mô côi cha mẹ, nhờ chú ruột là Đoàn Phúc Lãnh nuôi dạy, nên được ở với nhũ mẫu của vua Lý Huệ Tông trong hoàng cung nhà Lý từ tấm bé, học hành đến nơi đến chốn. Là người có sức khoẻ, thông minh, quyền biến, Đoàn Thượng thi đỗ Tiến sĩ khoa thi năm Giáp Tý, niên hiệu Thiên Bảo Gia Hựu thứ 3, đời vua Lý Cao Tông (1204)” [5, tr. 17]. Theo Bản Đông Hải Đại Vương Thượng Đẳng tối linh thần tích bằng chữ Hán, được tạm dịch: “Đại vương húy Thượng họ Đoàn Thân phụ Ngài là Đoàn Trung, một hào trưởng có thế lực và có uy tín trong vùng Thân mẫu Ngài là Lý thị, người họ hàng gần gũi với Hoàng tộc đương triều Quê Ngài: làng Thung Đô, huyện Gia Lộc, Châu Hồng”. 28
- Theo ngọc phả ở Hải Dương, ông sinh ngày 10 tháng Giêng năm Giáp Thìn (1184) đời Lý Cao Tông, là con của Đoàn Trung và bà Hoàng Thị Mỹ. Sử sách thống nhất ghi ông người làng Thung Độ, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương, Việt Nam. Cho đến nay thân mẫu của Ngài họ tên là gì? Các sách cổ không chép tên họ của song thân của Ngài, chỉ trong một số đình miếu có ghi nhưng vẫn là của người đời sau gán ghép như kiểu Trần Thị Dung mà thôi. Không bàn đến tên của thân mẫu của Đoàn Thượng mà chỉ bàn đến họ. Bà họ Hoàng hay họ Lý? Các tài liệu chính thức đều xác nhận Đoàn Thượng và Lý Hạo Sảm chung một người Vú nuôi. Vậy thì thân mẫu Đoàn Thượng phải là người gần gũi hoặc chính là người của Hoàng Tộc. Nói cách khác Bà có thể là người họ Lý. Họ Hoàng chỉ là một cách gọi không trực tiếp họ Vua. Như vậy xét theo gia phả dòng họ Đoàn thì Đoàn Thượng là hậu duệ đời thứ 8 của Đoàn Duy Thượng, tự Phúc Cao; và là hậu duệ đời thứ 5 của Đoàn Văn Khâm, tự Phúc Vấn. Con trai của Đoàn Thiện Hổ. Nhưng chẳng bao lâu sau: “Mười lăm tuổi, người mẹ hiền từ lâm trọng bệnh đã đứt gánh quy tiên. Bốn năm sau, người cha tôn kính cũng về cùng Tiên Tổ. Niềm đau thương con trẻ mất mất mẹ cha chưa mấy nguôi ngoai. Chí lập nghiệp nam nhi thời ly loạn đã dần nhen nhóm” Đoàn Thượng về ở với chú là Phúc Lãnh, được học hành cẩn thận, sớm hưng danh sự nghiệp. Rồi lấy vợ, vợ cả sinh ra Đoàn Hưng Nhượng, năm 1220, làm chủ tướng giữ thành Ngọc Trục, chống Trần phù Lý, lập căn cứ ở vùng đất nay là xã Đông Lỗ, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây, có đền thờ ở Ngọc Trục. Người vợ thứ là bà Phạm Thị Đoan, người làng Gia Viên, huyện An Dương, nay là Phường Gia Viên, quận Ngô Quyền, Hải Phòng. Bà đã sinh hạ cho Ông hai người con là Đoàn Văn và Đoàn Thị Châu. Tướng Đoàn Văn giữ chức Đô thống trấn thủ Vân Đồn, còn gọi là Đảo Quan (nay là huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh). Sau khi thất thủ chạy vào Núi Ngọc, Ái Châu (Thanh Hóa) để khai hoang lập nghiệp. Đoàn Thượng được ở với nhũ mẫu của vua Lý Huệ Tông nên được học hành đầy đủ, đến nơi đến chốn và nhất mực trung thành với triều đình nhà Lý. Trong dòng họ Đoàn, đời nào cũng là quan cho triều đình nhà Lý, có người làm đến thái sư với nam nhi và dạy dỗ các hoàng tử, công chúa trong cung , nhưng Đoàn Thượng lại xuất hiện như một người tài giỏi với văn võ thao lược, có sức khỏe, thông minh, siêng học hành lại có tính quả quyết. Sự nghiệp của Ngài chính thức khởi nghiệp từ năm 29
- 1204, tức năm Giáp Tý, niên hiệu Thiên Gia Bảo Hựu thứ 3 đời Lý Cao Tông. Ngài đã thi đỗ Mậu tài và ra làm quan cho nhà Lý khi Ngài 23 tuổi. Từ đó, Ngài được triều đình trọng dụng, một năm sau tức năm Ất Sửu (1205), giặc Muỗi ở Quốc Oai (Hà Tây) chiếm giữ và cướp phá với lực lượng hùng mạnh, Ngài được vua Lý Cao Tông cử về trấn giữ và cai quản vùng Hồng Châu (gồm Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Kiến An, Bắc Thái Bình, Đông Quảng Ninh, Bắc Ninh ). Nhân dân được hưởng ơn Ngài được thay đổi cuộc sống, lại trừ được bọn cướp biển hoành hành tại vùng biển phía Đông Nhưng hai năm sau tức năm Đinh Mão (1207), thấy nhân dân lầm than đói khổ, lại bị chính quan lại trong triều cướp bóc, thương dân, Ngài mở kho cứu thế. Nên trong cung bọn gian thần nịnh bợ, sàm tấu Đoàn Thượng làm trái luật lệ triều đình, nên Ngài đã bị bắt giam. Sinh ra vào thời loạn lạc, cuối thời Lý, đầu thời Trần, lại giữ chữ Trung, một lòng phò giúp nhà Lý. Nhưng lúc này cơ nghiệp nhà Lý đã suy đồi, nhà vua chơi bời vô độ, chính sự, hình pháp không rõ ràng, lại gặp nạn thiên tai mất mùa, đói kém liên miên, giặc cướp nổi lên khắp nơi. Năm 1202, người làng Đại Hoàng bị bắt đi phu xây cửa Đại Thành ở Thăng Long cực khổ quá nên khởi nghĩa. Người chỉ huy là Phí Lang cùng với Đinh Khả, người tự xưng là hậu duệ nhà Đinh. Nhà Lý sai Trần Hinh và Từ Anh Nhĩ đi đàn áp nhưng bị đánh bại, Anh Nhĩ chết tại trận. Tháng 5 năm 1205, vua Lý Cao Tông lại sai Đỗ Anh Doãn đi đánh, vẫn thua. Đến tháng 10, Đàm dĩ Mông đem quân đắp lũy để đánh nghĩa quân, cùng lúc quân Phí Lang đốt hành cung Ứng Phong (Nam Định), phá kho thóc, đốt nhà cửa. Đến tháng 8 năm đó, vua đành phải dụ hòa. Phí Lang và 170 hào trưởng ra hàng, song thực tế từ đó họ đã hoàn toàn chiếm lĩnh Ninh Bình. Trước những rối ren mà triều đình không còn sức chống đỡ, nhận thấy không thể cứu vãn tình thế của nhà Lý với các chính sách và cai quản không hợp lý của vua Lý Cao Tông. Tháng 3 năm 1207, Đoàn Thượng và Đoàn Chủ nổi dậy chống lại triều đình. Ông xây đắp thành, đắp lũy được nhân dân hét lòng ủng hộ và lực lượng ngày càng lớn do được lòng dân chúng, nên nhân dân theo ông ngày càng nhiều. Lý Cao Tông sai đem đại binh đi đánh. Đàm Dĩ Mông đem quân đạo Đại Thông (miền Hà Đông cũ dọc sông Đáy), Phạm Bỉnh Di đem quân đạo Khả Liễu, Trần Hinh đem quân đạo Phù Đái (Vĩnh Bảo, Hải Phòng), Bảo Trinh hầu đem quân đạo Nam Sách (Nam 30
- Sách, Hải Dương), cùng họp nhau đánh Đoàn Thượng. Thấy thế lực quân triều đình quá mạnh, Đoàn Thượng liền ngầm sai người đem của cải đút lót cho Thượng phẩm phụng ngự Phạm Du, nguyện xin đem quân chúng theo Du. Cuộc liên minh giữa Đoàn Thượng và Phạm Du bắt đầu từ đó. Phạm Du cố vì Thượng mà xin với Cao Tông tha cho ông. Đầu năm 1209, vua Cao Tông sai Phạm Du coi việc quân ở châu Nghệ An. Du làm trái lệnh chống triều đình. Vua Lý Cao Tông liền sai Phạm Bỉnh Di lấy quân ở Đằng Châu (thị xã Hưng Yên) để đánh Phạm Du. Du trở về Cổ Miệt (Hồng Châu) cùng với Đoàn Thượng, Đoàn Chủ ở hợp binh, đánh Đằng Châu, Bỉnh Di bị thua. Tháng 2 năm 1209, Bỉnh Di lại đem binh ở Đằng Châu, Khoái Châu đi đánh Du. Phạm Du thua trận đành bỏ trốn. Bỉnh Di tịch biên gia sản của Du rồi đốt hết. Tháng 4 năm 1209, Phạm Bỉnh Di lại đánh quân Đoàn Thượng. Tuy nhiên, trong lúc Đoàn Thượng suy yếu thì Phạm Du ngầm sai người về kinh tố cáo với vua Cao Tông và cho các quan lại trong triều Bỉnh Di đã tàn ác, giết hại người vô tội, Đoàn Thượng bị tình oan, xin về kinh đợi tội. Cao Tông sai Trần Hinh triệu Phạm Du về kinh, lại triệu cả Bỉnh Di về triều. Phạm Du đã nhanh chóng về kinh trước hầu Cao Tông, được vua tin theo; Bỉnh Di đến kinh sau, vào triều phụng mệnh. Cao Tông sai bắt Bỉnh Di và con là Phụ giết chết. Tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc nghe tin đó, đem binh lính phá cửa Đại Thanh kéo vào nội điện để cứu chủ. Du cùng em là Phạm Kinh giết Bỉnh Di và con là Bỉnh Di là Phụ rồi cùng Cao Tông chạy trốn. Quách Bốc liền tôn hoàng tử nhỏ là Thầm lên làm vua. Cao Tông chạy về Tam Nông (Phú Thọ) nương nhờ nhà Hà Vạn, một thủ lĩnh miền thiểu số có thế lực. Thái tử Sảm cùng mẹ là nguyên phi Đàm Thị và hai em gái chạy về Hải Ấp, Thái Bình, được thủ lĩnh địa phương là Trần Lý và Tô Trung Từ lập làm vua, tôn xưng là Thắng Vương. Thấy con gái của Trần Lý là Trần Thị Dung có nhan sắc, Lý Sảm bèn lấy làm vợ, nhân đó Trần Lý được phong làm Minh Tự, Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ. Biết tin thái tử Sảm lập triều đình riêng và tự ý phong tước cho Trần Lý, Tô Trung Từ, nên vua Lý Cao Tông ở Quy Hoá muốn đánh dẹp, bèn sai Phạm Du đi để liên lạc với Đoàn Thượng. Nhưng Du lại ham sắc, tư thông với công chúa Thiên Cực, nên lỡ hẹn với ông. Khi thuyền của ông đến đón không gặp Du, bèn trở về. Khi Du lên 31
- thuyền khác đi gặp họ Đoàn, tới Ma Lãng thì bị quân của hào trưởng Bắc Giang là Nguyễn Nộn và Nguyễn Nải đón bắt và giết chết. Trần Lý và Tô Trung Từ bèn mang quân đánh về kinh thành dẹp Quách Bốc. Trần Lý tử trận, Tô Trung Từ đón vua Cao Tông về cung. Năm 1210 Cao Tông chết, thái tử Sảm lên ngôi, tức là Lý Huệ Tông. Tô Trung Từ trở thành quyền thần trong triều. Sau một loạt biến cố, năm 1211, nhiều đại thần nhà Lý và cả Trung Từ bị giết. Cháu gọi Trung Từ bằng cậu là Trần Tự Khánh ở Hải Ấp lại mang quân về kinh, an táng Trung Từ. Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi nhân đó nói với vua Huệ Tông rằng: “Trần Tự Khánh đem binh về kinh sư là muốn mưu đồ việc phế lập”. Huệ Tông tin theo, nổi giận, bèn hạ chiếu cho các đạo binh đánh Trần Tự Khánh và giáng Nguyên phi Trần thị Dung xuống làm Ngự nữ. Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi đem binh về kinh sư. Huệ Tông hạ chiếu tấn phong cho Đoàn Thượng là Thái Úy, quyền tiết chế các đạo quan của triều đình. Họ Trần kiểm soát được cả miền Lý Nhân (Hà Nam). Trần Tự Khánh tìm cách liên kết với hào trưởng Nguyễn Tự để đối địch với Đoàn Thượng. Trong thời gian này, nhà Lý hoàn toàn lương nhờ vào lực lượng họ Đoàn để chống lại nhà Trần. Sau đó Ngài được phong nhiều tước hiệu, như: Lý triều Quốc Sư, Thái Sư tể phụ, Kinh Đô phụ quốc, Thái Úy, quyền trưởng các đạo cấm quân, thống lĩnh tổng đốc binh sự, Tiết chế Nguyên Soái, Binh bộ thượng thư, Tham nghị Đô đài ngự sử, Tuần sát sứ giả, Đô Thống, Đốc bộ Sơn Nam, Đông Hải bản lộ Hồng Châu trấn thủ, Trợ tán Hoàng Gia huệ trạch. Năm 1213, Đoàn Thượng phối hợp với quân triều đình đụng độ với Trần Tự Khánh. Tuy nhiên, lực lượng họ Trần mạnh hơn, có nhiều tướng giỏi hơn; trong khi đó quân nhà Lý do vua Huệ Tông và thái sư Đàm Dĩ Mông không có tài làm tướng chỉ huy nhanh chóng bị thua trận. Đoàn Thượng cử đi một đạo quân do Đoàn Cấm và Vũ Hốt chỉ huy nhưng do thế lực không cân sức, đã bị bộ tướng của Tự Khánh là Nguyễn Nộn đánh bại. Lý Huệ Tông thân chinh giao chiến nhưng sau lên Lạng châu. Từ đó Ngài trở về cùng Hồng Châu, tháng 4 năm 1214, anh em họ Đoàn tấn công đất Bắc Giang do tướng của Tự Khánh là Nguyễn Nộn đóng giữ. Hai bên đánh nhau ở núi Đông Cứu (Gia Lương, Bắc Ninh). Lúc đó nội bộ phe Tự Khánh xảy ra phản loạn lớn. Tướng ở Cam Giá (thị xãSơn Tây) là Đỗ Bị lại nổi lên chống cự. Miền Cam Giá lại tách khỏi phạm vi thế lực của anh em họ Trần, hình thành một thế lực 32
- mới. Cùng lúc đó, Nguyễn Nộn ở Bắc Giang sau khi giao chiến với Đoàn Thượng cũng phản lại Tự Khánh, xây dựng một thế lực rất lớn. Do việc cát cứ của Đỗ Bị, Nguyễn Nộn, kinh thành Thăng Long bị uy hiếp. Tự Khánh phóng hỏa đốt kinh đô rồi chạy về Lý Nhân (Hà Nam). Vua Huệ Tông phải lui đến hương Bình Hợp (Phúc Thọ, Hà Tây). Sau hàng loạt biến cố khác, thế lực của Trần Tự Khánh ngày càng mạnh hơn, buộc vua Huệ Tông phải dựa vào họ Trần vào tháng 4 năm Bính Tý (1216). Nhiều thế lực cát cứ lần lượt bị Trần Tự Khánh đánh dẹp. Tuy nhiên, bộ tướng của Khánh là Nguyễn Nộn lại phản họ Trần mà cát cứ ở Bắc Giang. Tháng 6 năm 1217, Đoàn Thượng được phong là Đông Hải Đại Vương nhưng nhà Trần đã gả em gái là Trần Tam Nương chho Đoàn Văn Lôi để bớt đi mộ thế lực chống đối quan trọng. Thấy thế lực họ Trần mạnh, ông tạm quy hàng triều đình, được phong tước vương và vẫn giữ vùng Hồng châu. “Huệ Tông bị ép xuống tóc đi tu chùa Chân Giáo. Chiêu Thánh ngây thơ, nhường ngôi báu cho chồng. Nhà Trần tuy chiếm được ngai vàng, nhưng còn đó lưỡng tướng Nguyễn, Đoàn giương cờ phù Lý”. Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”: “Lý Huệ Tông bị mắc chứng điên, chính sự không quyết đoán, giao phó cả chho Trần Tự Khánh. Quyền lớn trong cả nước dần dần đã về tay kẻ khác” [3, tập I, tr. 337]. Năm Mậu Dần (1218), nhà Trần đã dần tiêu diệt được các thế lực cát cứ. Lý Huệ Tông lại không có con trai chỉ có hai cong chúa là Thuận Thiên và Chiêu Thánh. Sau khi Trần Tự Khánh chết (1223), em họ là Trần Thủ Độ lên thay, tiếp tục thao túng nhà Lý. Năm 1225, ép Lý Huệ Tông nhường ngôi cho chiêu Thánh mới 7 tuổi và Thủ Độ sắp đặt đưa cháu là Trần Cảnh (con Trần Thừa) lên thay ngôi nhà Lý vào ngày 1 tháng 1 năm 1226, lập ra nhà Trần. Sát hại vua Lý Huệ Tông và hàng loạt các quan đại thần và thân tín nhà Lý. Trần Thủ Độ mang quân đánh Đoàn Thượng nhưng không thắng, đành phải hứa hẹn phong tước cho ông trong suốt 10 năm. Thủ Độ định ngày hội họp, làm lễ minh thệ, phong vương cho Ông, nhưng Đoàn Thượng không đến họp. Rồi ngấm ngầm cho vàng, gấm vóc cho Nộn, để Nộn đánh Đoàn Thượng. Nộn đã mừng thầm và tin theo. 33
- Rồi trong triều Trần Thủ Độ đã cấu kết với Nguyễn Nộn âm mưu giết hại Phạm Du và Đoàn Thượng. Hai tướng hẹn gặp nhau ở Đồng Đao vào ngày mùng 6 tháng Chạp năm 1238 [5, tr.28]. Nhưng do tính tình Phạm du ham chơi tiểu sắc mà đã quên mất, trung tín Ngài tin theo và đã đến chỗ hẹn một mình. Rơi vào cạm bẫy của Nộn. Truyền thuyết kể lại rằng khi Ngài bị chém trên cổ chỉ còn dính một ít da và Ngài đã tháo đai lưng ra buộc lại nhưng chạy đến vùng Mao Điền thì nằm xuống và mối đùn thành gò mả, từ đó người dân lập đền thờ cúng. Sau đó con trai, con gái và gia quyến và sản vật của Hồng Châu đều bị cướp bóc. Và toàn bộ đã về tay nhà Trần khi Nguyễn Nộn đột ngột qua đời. Xét dưới góc độ lịch sử, tình hình chiến sự thời Lý mạt có nhiều biến động, nhân dân lầm than, đói khổ, vua chơi bời vô độ, thế lực nhà Trần với âm mưu thoán đoạt ngai vàng, lực lượng cát cứ nổi lên khắp nơi, giặc cướp phá hoành hành ngang ngược Đoàn Thượng đã đứng trên vai trò là đại tướng thương yêu nhân dân, một lòng phù giúp nhà Lý, muốn vực dậy một triều đình đổ nát là việc hoàn toàn khó. Ông quyết định lập bà xưng vương chống lại các thế lực làm mưu hại đến cuộc sống của nhân dân, ông được nhân dân hết lòng hưởng ứng, cảm phục. Nhưng sử sách có phần ghi chép sai lệch và mất nhiều tư liệu nên còn nhiều điều chưa chauanr xác, nhưng trong lòng dân chúng ở khắp nơi Ngài là một người có ơn huệ cao cả, nhân dân được hưởng ơn mưa nóc, đến nay tính chỉ tính trên địa bàn từ vùng Bần Yên Nhân đến Mao Điền đã có 72 nơi lập đình, đền để thờ Ngài. 2.1.2. Các nơi thờ tự ở Việt Nam: Đức Thánh Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng là vị Viễn tổ thứ 5 ( tính từ Cao tổ Đoàn Văn Khâm). Một đại thần trung thành của vương triều Lý, người rất Đức độ, tài năng và có công lao to lớn đối với dân với nước. Vì vậy Ngài được nhân dân nhiều nơi lập đền thờ, tính tổng số có đến 280 di tích và được các triều đại ghi nhận, sắc phong. Các thông tin về Đức thánh được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau: thông tin điện tử, tài liệu từ các kho lưu trữ, sách và công trình nghiên cứu đã xuất bản, thần tích, thần sắc các địa phương Sinh thời Đông Hải Đại vương Đoàn Thượng đã được nhân dân làng Định Công, huyện Thanh Trì, Hà Nội lập sinh từ phụng thờ. Sau khi Ngài hiển thánh, theo thống kê chưa đầy đủ ở Bắc bộ và Bắc Trung bộ nước ta đã có hàng trăm làng xã lập 34
- đền, đình, nghè, miếu thờ cúng Ngài. Nhiều nhất là các tỉnh thành Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định Đặc biệ (Cát Hải) lập 3 đình, làng Cổ Trai (Kiến Thụy) lập 2 đình, Đoàn Xá (Kiến Thụy) lập 3 đình thờ Đức Thánh Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng. Xét trên địa bàn các tỉnh thành phố thuộc Hồng Châu xưa kia, có các đình miếu thờ Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng như sau: 2.1.2.1. Trên địa bàn thành phố Hưng Yên Gắn với truyền thuyết “đầu Bần thân Mao”, nơi đây đã xảy ra cuộc chiến giữa Nguyễn Nộn, Trần Thủ Độ và Đoàn Thượng. Xét xung quanh khu vực Hưng yên trên địa bàn tỉnh hiện nay có đến 57 di tích thờ. Gồm huyện Mỹ Hào có bốn nơi thờ; huyện Yên Mỹ, nơi tiếp giáp với thị trấn Bần có 17 nơi thờ; huyện Kim Động 10 nơi; huyện Tiên Lữ 6 nơi; huyện Khoái Châu có 6 nơi; huyện Ân Thi có 5 nơi; huyện Phù Cừ có 4 nơi, thành phố Hưng Yên có 4 nơi và huyện Văn Giang có 1 nơi thờ. Trong đó, khu vực đền Bần xưa thuộc xã Yên Nhân là nơi thể hiện tín ngưỡng đặc sắc nhất. 2.1.2.2. Trên địa bàn thành phố Hải Dương Là quê hương nơi Ông sinh ra và nhân dân nơi đây đã được cấp nhiều ruộng đất, miễn giảm tô thuế, mở trường học Cũng là nơi mà theo truyền thuyết khi bị quân Nguyễn Nộn và Trần Thủ Độ chặt đầu, Ông đã lấy đai lưng buộc lại và phi ngữa chạy về quê hương Mao Điền và hy sinh mối đùn thành gò, người dân đã xây dựng đền miếu để thờ tự. Tất cả tỉnh Hải Dương có 25 di tích thừ tự 2.1.2.3. Trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa Đoàn Thượng đã có công đánh giặc trừ cướp, an dân. Nơi đây chính là nơi con trưởng Đoàn Thượng là Đoàn Văn khi nghe tin cha thất trận, đã hóa trang xuống thuyền chạy vào Châu Ái đến vùng núi Ngọc khai hoang lập làng, sinh họ ở đây, rồi đến thời Bắc thuộc bị giăc Minh đuổi con cháu họ Đoàn ở đây đã tham gia khởi nghĩa cùng Lê Lợi diệt giăc Minh trong phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. 2.1.2.4. Trên địa bàn tỉnh Thái Bình Theo câu đối ở Từ Đường họ Đoàn: “Tiền cư Lai Cáo, hậu đáo Tô Xuyên, Ký sử Hồng Châu, lưu cổ tích. Ốc tại Tu Trình, an cư Đoạn Xá, vân nhưng kế thế, cái tiền cơ”. Theo phả tộc họ Đoàn ghi chép, Tổ tiên họ Đoàn phát tích tại Sơn Lĩnh, chuyển cư đến Lai Cáo hay Noi Cáo, nằm hai bờ sông Nhuệ, nay thuộc ba xã Phú Diễn, Cổ 35
- Nhuế, Xuân Đỉnh (huyện Từ Liêm, Hà Nội). Niên hiệu Thuận Thiên thứ 11, năm Canh Thân (1020) đến Tô Xuyên, nay thuộc xã An Mĩ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Rồi đến ở Hồng Thị, Hồng Châu, Cổ Phục huyện Kim Thành và Trường Tân huyện Gia Lộc tỉnh Hải Dương. Niên hiệu Chính Long Bảo Ứng thứ 8 năm Canh Dần (1170), chuyển cư đến Trại Mắt, nay là thôn Tu Trình, xã Thụy Hồng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Tại đây, Đoàn Thượng đã có công trị an lộ Hải Thanh. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 13 di tích thờ Ngài. 2.1.2.5. Trên địa bàn tỉnh Nam Định Nam Định thuộc Hồng Châu, lộ Hải Thanh, Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng đã có công đánh đuổi giặc cướp, trị an cho cuộc sống của nhân dân nơi đậy. Hiện nay có 13 di tích thờ trên toàn bộ địa bàn của tỉnh. 2.1.2.6. Trên địa bàn thành phố Hà Nội Là nơi phát tích của dòng họ Đoàn, tiền thân là Đông Hý Tràng Sơ Nguyên Soái Đô Sát Dực Thánh Quốc Vương Chương long chu thủy đạo Hùng Lạc đại tướng quân, Phụ Chính Quốc tể dực vũ Đại Vương đời vua Hùng, Ngài là Hoàng tử con vua Hùng thứ 17 là Hùng Nghi Vương. Sau khi thắng trận đánh quân Thục xâm phạm bờ cõi Văn Lang, Ngài đã hóa thanh Giao Long nhào lộn dưới biển. Và hậu thân chính là Đoàn Thượng mà theo truyền thuyết khi mẫu thân Đoàn Thượng nằm mơ bắt đuộc Giao Long và về mang thai sinh hạ Đoàn Thượng. Hiện nay trên địa bàn Hà Nội có 11 di tích thờ Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng (bao gồm cả Hà Tây cũ). 2.1.2.7. Trên địa bàn tỉnh Ninh Bình Trên địa bàn tỉnh có 2 di tích thờ Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng đã có công trừ cướp an dân là Đình Chấn Lữ, tổng Dương Vũ và Đình Thanh Khê tổng Quan Vĩnh, huyện Gia Khánh. 2.1.2.8. Trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc Vĩnh Phúc có 3 di tích thờ Đoàn Thượng nằm trên địa bàn huyện Kim Anh là Đình Tào Mai, Đình Song Mai, Đình Thái Phù. 2.1.2.9. Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh Tỉnh Bắc Ninh hiện nay cũng có 3 di tich thờ Ngài là Đình Làng Bốn, Đình Bái Uyên và Đình Thanh Khê. Gắn với công cuộc xây dựng và bảo vệ Đại Việt thời Lý mạt. 2.1.2.10. Trên địa bàn tỉnh Hà Nam 36
- Gắn với công lao hưng doanh Đại Việt lại có công trong việc đắp đê trị thủy, Ngài được nhân dân thờ phụng tại 6 di tích trên địa bàn tỉnh. 2.1.2.11. Trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh Hiện nay trên địa bàn tỉnh có hai di tích thờ tài Đền Đông Hải Đại Vương và Đình Trà Cổ gắn với chiến công chấn thủ vùng biển Đông và đánh giặc cướp biển, an cư cho nhân dân. 2.1.2.12. Trên địa bàn thành phố Hải Phòng Thống kê theo ông Đoàn Văn Minh và bảng điều tra của các phòng ban văn hóa trong toàn thành phố có đến 141 di tích thờ Đông Hải Đại Vương trong đó có cả thờ chính và phối thờ. (bảng phụ lục số 1) 2.2. Đông Hải Đại Vƣơng Đoàn Thƣợng với Cát Hải, Hải Phòng 2.2.1. Tìm hiểu về vùng đất Hồng Châu 2.2.1.1. Lịch sử về vùng Hồng Để thấy rõ được lịch sử và sự hình thành của vùng đất này, những triều đại trước đã từng thay đổi tên và phân chia các vùng địa lý như sau: Đời Hùng Vương xưa, Hải Dương là bộ Dương Tuyền; thời nhà Hán thuộc quận Giao Chỉ; thời nhà Đông Ngô thuộc Giao Châu; nhà Đường đặt Hải Môn trấn, lại gọi là Hồng Châu. Nhà Đinh chia làm đạo; nhà Tiền Lê và nhà Lý cũng theo như nhà Đinh. Đời nhà Trần đổi làm 4 lộ: Hồng Châu thượng, Hồng Châu hạ và Nam Sách thượng, Nam Sách hạ. Năm Quang Thái thứ 10 (1397) vua Trần Thuận Tông đổi làm trấn Hải Đông. Thời kỳ thuộc Minh (1407-1427), thuộc hai phủ Lạng Giang và nhà Lê là Tân An. Năm Thuận Thiên (1428-1433) vua Lê Thái Tổ cho thuộc Đông Đạo. Khoảng niên hiệu Diên Ninh (1454-1459) vua Lê Nhân Tông chia làm 2 lộ: Nam Sách thượng và Nam Sách hạ. Năm Quang Thuận thứ 7 (1466) vua Lê Thánh Tông đặt thừa tuyên Nam Sách; năm 1469, đổi làm thừa tuyên Hải Dương; năm Hồng Đức thứ 21 (1479) đổi làm xứ. Khoảng giữa năm Hồng Thuận (1510-1516) vua Lê Tương Dực đổi làm trấn. Nhà Mạc lấy Nghi Dương làm Dương Kinh, trích phủ Thuận An ở Kinh Bắc và các phủ Khoái Châu, Tân Hưng, Kiến Xương, Thái Bình ở Sơn Nam cho lệ thuộc vào Dương Kinh. 37
- Nhà Lê, khoảng niên hiệu Quang Hưng (1578-1599) vua Lê Thế Tông đổi làm trấn theo nguyên như cũ. Năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741) vua Lê Hiển Tông chia làm 4 đạo: Thượng Hồng, Hạ Hồng, Đông Triều và An Lão. Nhà Tây Sơn đem phủ Kinh Môn đổi thuộc vào Yên Quảng. Năm 1802, vua Gia Long đem Kinh Môn thuộc về trấn cũ và lệ thuộc vào Bắc Thành. Năm 1804, đời Vua Gia Long, lị sở Hải Dương được chuyển từ Mao Điền về tổng Hàn Giang, đặt trên vùng đất cao thuộc ngã ba sông Thái Bình và sông Sặt với mục tiêu trấn thành án ngữ vùng biên hải phía đông Kinh đô Thăng Long, chính vì vậy có tên gọi là Thành Đông - có nghĩa: tòa thành ở phía đông. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822) đổi Thượng Hồng làm phủ Bình Giang, Hạ Hồng làm phủ Ninh Giang, còn hai đạo Đông Triều và An Lão thì đặt làm hai huyện. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) chia thành một hạt độc lập và đổi làm tỉnh Hải Dương gồm 5 phủ 19 huyện. Năm 1887, thực dân Pháp tách một số huyện ven biển của Hải Dương, đặt thành tỉnh Hải Phòng; đến 1906, đổi thành tỉnh Kiến An. Năm 1968, tỉnh Hải Dương sáp nhập với Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng, đến năm 1997 lại tách riêng ra với tên gọi như ngày nay. Như vậy, vùng Hồng Châu xưa chính là vùng đất Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên ngày nay. Xét theo chiều dài lịch sử, vào thời nhà Lý, Yên Nhân là nơi đặt lỵ sở lộ Hồng Châu, một trung tâm kinh tê chính trị văn hóa xã hội lớn của xứ Đông. Giao thông thuận tiện có con đường cái chính xứ Đông Bắc chạy qua (nay là đường quốc lộ 5). Yên Nhân nằm trên bờ sông Hồng Giang, còn gọi là sông Bần chảy từ sông Hồng Hà tại Xuân Quan (Mỹ Văn) đổ nước vào sông Thái Bình, đem phù sa tưới mát phủ Thượng Hồng. Lòng sông xưa rộng trung bình khoảng trên 50m, sâu khoảng 10m, tháng Chạp mà nước vẫn đỏ hồng. Cửa Xuân Quan nay đã làm cống Xuân Quan. Lộ Hồng Châu thời Lý còn có tên là lộ Đông Hải, lớn bằng hai lộ Hồng và Hải Đông thời Trần. Thời Trần, Lộ Hồng là phần đất tỉnh Hải Dương và Hải Phòng ngày nay. Lộ Hải Đông nay là đông Quảng Ninh và Cát Hải, Hải Phòng. 38
- Chiến sự lịch sử diến ra ở nơi này lịch sử ghi chép còn chưa đầy đủ, nhưng đứng trên góc độ nghiên cứu và tìm lại những dấu tích ở đây có thể hiểu được tình hình lúc đó thế nào trên mảnh đất Hồng Châu này. Sau khi nhà Lý trong thế suy vi (tháng 9 năm 1207) Đoàn Thượng và Đoàn Chủ đã về Hồng Châu xây dựng căn cứ chống lại nhà Trần, xây thành xưng vương. Vua sai Đàm Dĩ Mông, Phạm Bỉnh Di, Trần Hinh, Bảo Trinh họp quân đàn áp. Đoàn Thượng không chống nổi, ngầm mua chuộc quan trong triều là Phạm Du tâu vua rút quân về. Từ đó họ Đoàn ngày càng lớn mạnh, ngầm liên minh với Phạm Du, trở thành một trong ba thế lực lớn nhất đất nước thời cuối Lý (họ Trần, họ Đoàn và họ Nguyễn). Họ Đoàn ở Hồng Châu (Hải Dương, Hải Phòng), thì Họ Trần ở Lưu Xá (Thái Bình). Bắt đầu là ông Trần Lý, vốn nghề đánh cá, sau giàu có, liên kết với họ Tô và họ Lưu trong vùng, mua 1 chức quan nhỏ, trở thành người có thế lực. Mới đầu họ ko tham dự gì vào các cuộc phân tranh, chỉ ngấm ngầm mở rộng thế lực, chiếm cứ Hải Ấp ( là Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên ngày nay). Khi Quách Bốc nổi loạn, họ tạm về phe với Quách Bốc. Ngay trong năm 1209, họ Trần thôn tính phe Quách Bốc. Một thời gian sau, Tô Trung Từ qua đời vì tai nạn, nên họ Trần kế thừa luôn lực lượng của Tô Trung Từ rồi mở rộng thế lực. Cát cứ chính ở Thiên Trường, do hai anh em Trần Thừa và Trần Tự Khánh lãnh đạo (huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, phía hữu ngạn sông Hồng). Thế là họ đã bành trướng ra được ba vùng Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên, và các địa phương như Bắc Ninh, Bắc Giang, trở thành phe thống nhất quốc gia sau này. Từ trong tình hình chiến sự thay đổi đó, triều đình nhà Lý đến năm này thì họ chỉ còn nắm được khu vực quanh Thăng Long. Họ Nguyễn ở Quốc Oai ( thuộc Hà Tây). Cầm đầu bởi Nguyễn Nộn là 1 tướng cũ của nhà Lý chiếm giữ phía bắc sông Đuống – tên cổ thời là sông Thiên Đức, gồm các quận Tiên Du, Từ Sơn, Quế Võ tỉnh Bắc Ninh ngày nay, cũng là một trong ba thế lực mạnh nhất thời cuối Lý. Phạm Bỉnh Di, Quách Bốc ở Đằng Châu ( Hưng Yên). Vốn là 1 hoạn quan được vua tin cẩn. Năm 1209, Phạm Bỉnh Di được lệnh mang quân đánh loạn Phạm Du. Nhưng đánh bại Phạm Du và Đoàn Thượng rồi, ông ta lại bị vu tấu và bắt giam, giết chết. Tướng dưới quyền là Quách Bốc nghe tin giận quá, kéo quân đánh vào kinh đô, khiến Lý Cao Tông phải bỏ chạy. Ban đầu, phe phái này liên minh với họ Trần nhưng ngay trong năm ấy bị chính họ Trần tiêu diệt và thôn tín. 39
- Các thế lực khác tại các vùng lân cận cũng có phần can dự vào chiến sự lúc này: khởi nghĩa Phí Lang ở làng Đại Hoàng (Ninh Bình) nổi dậy như một thế lực khác nhưng cúng bị nhà Trần thôn tính vào tháng 5 năm 1216. Một thế lực cát cứ khác là Ô Kim hầu Nguyễn Bát ở Ô Kim ( Hoài Đức thuộc Hà Tây), cầm đầu bởi 1 tướng cũ của nhà Lý, tuy chống triều đình nhà Lý nhưng không theo họ Trần. Có một dạo nhà Lý phải nương nhờ họ để chống lại Đỗ Át, Đỗ Nhuế ( là Từ Liêm thuộc Hà Nội bây giờ) hai tướng cũ của nhà Lý, nổi loạn vào tháng 4 năm 1216 nhưng không thắng. Khi Lý Cao Tông bị loạn Quách Bốc, Ông đã chạy lên nương nhờ họ Hà ở Quy Hóa (Yên Bái, Tuyên Quang dọc sông Hồng). Một họ miền núi có thế lực Thế lực này tồn tại đến tận khi nhà Trần thống nhất đất nước, nhưng không can dự gì vào bất cứ cuộc xung đột nào, dù là một phe mạnh. Do thế lực chưa đủ mạnh để trấn áp tất cả các lực lượng nổi dậy, họ Trần phải dùng chiến thuật khi đánh khi hoà, thậm chí cả biện pháp hôn nhân; và tận dụng sự xung đột của chính các thế lực này tự làm yếu nhau. Cuộc phân tranh bắt đầu chấm dứt vào năm 1225 khi nhà Trần thay thế nhà Lý. Sau khi nhà Trần thành lập, Nguyễn Nộn đánh bại giết chết Đoàn Thượng năm 1228. Nhưng không lâu sau, cuối năm 1229, Nguyễn Nộn ốm chết, lực lượng của Nộn tự tan rã. Nhà Trần chấm dứt được cục diện chia cắt, tập trung củng cố nội chính sau nhiều năm nghiêng ngả dưới thời Lý. (số liệu về năm mất còn nhiều điều chưa thống nhất). Như vậy, xét trên địa bàn vùng Hồng Châu xưa đã có nhiều lực lượng phân cát lướn tại các vùng khác nhau, do đó óc thể thấy rõ hơn lực lượng và thế lực cát cứ của Đoàn Thượng tại nơi đây. 2.2.1.2. Tài nguyên vùng Hồng Châu Lộ Hồng Châu thời Lý ở vùng Đồng bằng châu thổ sông Hồng và sông Thái Bình, phía Đông giáp biển, sản vật nhiều, đất đai phì nhiêu thuộc vào loại thượng hạng. Thế đất rộng rãi, rồng lượn hổ chầu, phong vật đông đúc lại được thiên nhiên ưu đãi với khí hậu ôn hòa. Khi xưa, chợ Hồng Châu còn có tên là chợ Bần, trên bến dưới thuyền, người buôn kẻ bán tấp nập. Khu vực Yên Nhân khi xưa là nơi đặt lỵ sở vùng Hồng nên đã nổi tiếng với nghề nặn nồi đất nung và làm tương. 40
- Con người nơi đây cần cù chịu khó, chuộng nghĩa khí, giữ chữ tiết, có phong tục lâu đời. Hồng Châu là đất dụng võ của nhiều nhân tài hào kiệt, nổi bật là Đức Thánh Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng. 2.2.2. Công trạng của Đoàn Thượng với vùng đất Hồng Châu Công trạng của Đoàn Thượng ở vùng đất này phải được kể từ năm Ất Sửu (1205), đời Lý Cao Tông, niên hiệu Trị Bình Long Ứng thứ nhất. Lộ Quốc Oai có giặc Muỗi chiếm cứ vùng núi Tản Viên, cướp phá vùng Thanh Oai với lực lượng lớn và mạnh, dân chúng sợ hãi, không thể chống đỡ nổi, vua sai Đoàn Thượng đi đánh dẹp và hoàn toàn chiến thắng. Vua ban thưởng cho Ngài chức tước và giao trọng trách cai quản vùng biển Đông, hưng danh đất Hồng Châu. Lúc ấy, vùng châu thổ sông Hồng và sông Thái Bình đang hình thành chỗ cao chỗ trũng, thường xuyên lụt lội, Ngài vận động người trong dòng họ và nhân dân chung sức trị thủy, cơi đắp bờ vùng, quai đê ngăn lũ, cấp ruộng đất, tìm giống lúa chín thu hoạch trước mùa nước lớn vừa lo chiến đấu, vừa chăm chỉ trồng trọt, cày cấy, hạn chế thiên tai dịch bệnh làm cho cuộc sống của nhân dân nơi đây ngày một tăng cao hiệu quả. Đặc biệt với vùng Hồng Châu, ngài được nhân dân tưởng nhớ như một mẫu tử của dân, miễn lao dịch, mở trường khuyến học, khuyến tài, đánh giặc cướp biển Đoàn Thượng đem quân đánh anh em họ Trần ở ải Hoàng Điểm. Trần Tự Khánh sai bộ tướng Lại Linh cùng tướng Khoái Châu là Nguyễn Đường ra chống cự. Nguyễn Đường bị bắt. Tự Khánh bị thua, giận dữ phá đê cho nước sông chảy tràn vào các ấp rồi về. Miền Khoái Châu mất tin tưởng ở họ Trần, theo về với họ Đoàn. Từ đó người dân hết lòng tin theo Đoàn Thượng. Không chỉ khi sống Ngài luôn được nhân dân tin theo, luôn hết lòng vì dân mà khi đã hóa Ngài vẫn “âm phù vận nước”. Khi vua Lê Thái Tổ đánh giặc Minh, đi qua đền Gia Viên cầu khấn nằm mộng thấy Ngài hiển linh cứu giúp, được phong là “Đông Hải Linh Ứng Đại Vương”, sau lại được hong là “Phù tộ an dân”; đời Vua Lê Thánh Tông được tặng hai chữ “cương nghị” và được sắc phong “Anh uy hiển ứng”, người dân cầu được ước thấy, mọi sự đều an hiện nay mới thống kê được tất cả có 17 sắc phong được tạm dịch qua các triều đại Trần, Hậu Lê, Tây Sơn, Nguyễn, và đời nào cũng được sắc phong thượng đẳng thần. 2.2.3. Hệ thống các di tích thờ Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng ở thành phố Hải Phòng 41
- Như đã nói trên, Hồng Châu là mảnh đất được bồi tụ phần lớn bởi sông Hồng và sông Thái Bình, bao gồm các tỉnh thành từ Lạng Sơn, Hà Tây đến Nghệ An Thanh Hóa, phân chia thành các lộ tỉnh khác nhau. Vào thời nhà Lý, đại hạt Hải Phòng ngày nay chính là một phần của lộ Hồng Châu, còn gọi là lộ Đông Hải. Thời Trần, một phần Hải Phòng và Quảng Ninh thuộc lộ Hải Đông, phần lớn Hải Phòng và Hải Dương thuộc lộ Hồng. Thời Hậu Lê thuộc đạo thừa tuyên Nam Sách, sau đổi là trấn Hải Dương. Thời Tây Sơn như thời Hậu Lê. Sang đầu thời Nguyễn vẫn là một phần trấn Hải Dương, như đến năm 1831, vua Minh Mạng đổi lại thành tỉnh Hải Dương, trong đó bao gồm cả vùng đất của Hải Phòng ngày nay. Trước năm 1963 là hai đơn vị hành chính : tỉnh Kiến An và thành phố Hải Phòng. Nhưng hệ thống thờ Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng được nhân dân ghi tạc trong các văn bia và thần phả, thần tích tại các đình đền thờ Ngài. Trên toàn thành phố Hải Phòng ngày nay thóng kê có 141 di tích thờ tại các quận, huyện. Xét theo “Đại nam nhất thống chí” của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn (6), các vùng quận huyện Hải Phòng ngày nay đều thuộc Hồng Châu và chia theo các lộ khác nhau. a) Quận Hồng Bàng trước kia thuộc Tổng Gia Viên, huyện An Dương, Phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương, lộ Hồng Châu. Khu vực này xưa kia là địa bàn đóng quân của Đoàn Thượng. Hiện nay có hai di tích thờ Ngài là Đình Hạ (trước kia là Đình làng Hạ Lý) và Đình Thượng Lý. b) Quận Lê Chân hiện nay có một di tích thờ là Đình Hàng Kênh. Nơi đây Đức Thánh Đoàn Thượng được hợp tự thờ để ghi nhớ công lao của Ngài trong đánh giặc trừ trộm cướp, bảo an cho dân, chiêu dân trị thủy, khẩn hoang mở ấp. c) Quận Ngô Quyền xưa kia cũng thuộc lộ Hồng Châu. Hiện nay có 10 di tích thờ đê tưởng nhờ công ơn khai hoang lập ấp, đánh giặc trừ cướp, an dân, trị thủy, cấp ruộng đất và tìm giống lúa mới d) Huyện An Hải là phần đất thuộc lộ Hồng Châu còn gọi là lộ Đông Hải thời nhà Lý đã trừ cướp biển, dạy dân làm muối, và làm nghề cá, mở trường học, lập đồn ở Cửa Tấn, cửa biển Ba Lộ, sau khi mất lại âm phù vận nước được nhân dân thờ tự tại 33 di tích trên toàn huyện. e) Huyện An Lão thời cổ thuộc huyện Câu Lậu, thời Lý thuộc lộ Hồng Châu, còn gọi là lộ Đông Hải. Đã có công chiêu dân quai đê trị thủy, dạy dân trồng lúa, 42
- chống giặc cướp và dựng đồn trấn thủ trên toàn địa bàn huyện hiện nay có 10 di tích thờ tự. f) Thị xã Đồ Sơn thời Lý thuộc lộ Hông Châu, còn gọi là lộ Đông Hải, lập đồn lớn ở cửa biển Đại Bàng, đóng quân ở Tiểu Bàng, có công trừ giặc đánh cướp, mở thương cảng giao thương với người Tàu có tên Phố Nhội g) Huyện Kiến Thụy là đơn vị hành chính thuộc lộ Hồng Châu thời Lý, thời Trần thuộc lộ Hồng, thời Hậu Lê là huyện Khúc Dương. Sau đổi là huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, chấn Hải Dương, trước năm 1945 là phủ Kiến Thụy, tỉnh Kiến An. Hiện có 22 di tích thờ. Ngài đã có công dạy dân trị thủy, khuyên dân cấy trồng, đánh cá rồi làm nghề nông, cấp ruộng đất và mở trường khuyến học h) Huyện Tiên Lãng dưới thời Lý thuộc lộ Hồng Châu, còn gọi là lộ Đông Hải, thời Trần là Hồng Lộ. Thời Hậu Lê thuộc huyện Tiên Minh thuộc phủ Hạ Hồng, sau là phủ Nam Sách, trấn Hải Dương. Hiện có 17 di tích thờ trên toàn huyện i) Huyện Vĩnh Bảo thời nhà Lý là vùng đất ranh giới giữa lộ Hồng Châu và lộ Hải Thanh (Thái Bình và Nam Định). Nơi Ông đóng đồn lớn ở khẩu Đài Bàng, còn gọi là Gảnh Ba Ra, dạy dân cấy trồng và lấy lương thực nuôi quân, mở trường dạy học tam cương ngũ thường, khai khẩn, trị thủy có 13 di tích thờ trên toàn huyện. j) Huyện Thủy Nguyên thuộc lộ Hồng Châu. Có 15 di tích thờ tưởng nhớ đến công khai khẩn, trị thủy, dạy dân cấy lúa, chăn nuôi, trừ cướp, bảo an cho dân k) Huyện Cát Hải hiện nay có 13 di tích thờ Ngài tại các đình đền miếu. (bảng phụ lục số 2) 2.3. Đông Hải Đại Vƣơng Đoàn Thƣợng với Cát Hải – Hải Phòng: 2.3.1. Đông Hải Đại Vương với Cát Hải xưa. Hải đảo thời Lý thuộc lộ Hồng Châu, còn gọi là lộ Đông Hải. Thời nhà Trần thuộc lộ Hải Đông, thời Hậu Lê là huyện Ân Phong, Chi Phong, Tư Phong, sau lại được đổi lại là Hoa Phong. Phủ Hải Đông thuộc đạo thừa tuyên An Bang, tên cũ là trấn Triều Dương, còn gọi là châu Vĩnh An, sau đổi thành trấn An Quảng. Thời Nguyễn là huyện Hoa Phong, phủ Hải Đông, trấn Quảng Yên. Từ năm 1841, vua Thiệu Trị đổi tên là huyện Nghiêu Phong (hay Ngao Phong), phủ Sơn Định, tỉnh Quảng Yên. Từ 1945 đến 1956 là huyện Cát Hải, tỉnh Quảng Ninh, từ 1956 đến nay là huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng. 43
- Dưới thời vua Lý Cao Tông, giặc cướp biển hoành hành, lại giặc ngoại bang xâm chiếm, nhân dân phải chịu cảnh khổ cực, khó yên ổn chài lưới kiếm sống trong triều chỉ có duy nhất tướng quân Đoàn Thượng với văn võ toàn tài, lại từng lập nhiều chiến công, vua đã ban cho Đoàn Thượng chức Đô Nguyên Soái ra trấn giữ vùng cửa biển phía Đông. Gia Lộc là nơi từng đóng quân, lập đồn phòng thủ ở các cửa biển như Ninh Tiếp, đồn lớn ở Đảo Quan nay gọi là đảo Vân Đồn (xưa thuộc châu Vân Đồn, tỉnh Quảng Yên) do con trai của Đoàn Thượng là Đoàn Văn giữ chức Đô thống trấn giữ vùng biển Đông Bắc. Đây là môt cửa quan ải mặt biển có tầm chiến lược quan trọng về quố phòng và giao thương. Và cửa biển Ninh Tiếp, bến Gót, xác định chủ quyền quốc gia, có công đánh giặc, trừ bọn cướp biển đặc biệt nổi lên là bọn cướp Ưng Thiên, giữ cho ngư dân có cuộc sống làm ăn ổn định. Sau khi vua Lý Cao Tông mất, triều đình về tay nhà Trần, nhận thấy không thể phục hưng lại một triều đình đã suy vi, Ngài trở về vùng Hồng Châu lập căn cứ chống lại nhà Trần, lúc này không những được người dân tin theo khắp nơi, mà Ngài còn coi trọng vùng cửa biển và cho lập căn cứ quân sự ở nơi đây, mở trường khuyến học cho ngư dân, trừ cướp biển, dạy ngư dân trồng lúa, Sau khi Ngài mất, để tưởng nhớ công ơn người dân đa lập đền thờ khắp nơi trên vùng đất Cát Hải, sau khi hóa lại “âm phù vận nước”, “hộ quốc tý dân” được sắc phong Dực Vũ Đại Vương Thượng Đẳng Thần, được người dân nơi đây tổ chức lễ hôi tưởng nhớ hàng năm. Hiện nay trên địa bàn thị trấn có 13 di tích thờ Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng. (bảng phụ lục 2) 2.3.2. Lễ hội thờ Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng ở Cát Hải Thần không thể tách rời di tích, và càng không thể xa được các nghi thức thờ cúng, đó chính là Lễ hội. Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng là một nhân vật có thật trong lịch sử cuối thời Lý đầu thời Trần. Nhiều truyền thuyết và thấn tích kể lại, Ngài chính là hóa thân của Giao Long, hay là người con thứ 50 theo cha xuống biển của Lạc Long Quân Ngài đã có nhiều công lao trong suốt cuộc đời đáu tranh vì dân vì triều đình Nhà Lý, khi hóa lại “hộ quốc tí dân” được nhân dân khắp nơi tin theo và thờ phụng. Cùng với các hệ thống di tích đó chính là các lễ hội tưởng nhớ đến Ngài. Khác với lễ hội thờ cá Ông – cá Voi của ngư dân vùng miền Trung, thì ở Bắc Bộ lại thờ Đức Thánh Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng như vị thần bảo hộ nghề nghiệp. Một 44
- không gian đa tầng văn hóa hiện ra thật độc đáo với những lễ hội của ngư dân vùng biển Cát Hải, Hải Phòng. Đó là lễ hội Rước Kiệu tại khắp các đình làng, bản thổ Cát Hải, đặc biệt là lễ hội Xa Mã xã Hoàng Châu. Ăn sâu trong tiềm thức của người dân Cát Hải đó là các ngày lễ lớn trong năm tại đình làng để tưởng nhớ đến vị thần mà họ tôn thờ. Họ có 3 lễ hội lớn và được tổ chức chính hàng năm. Đó là lễ hội Chèo thuyền được tổ chức ngày 21 tháng Giêng; thứ hai là lễ hội cầu ngư tổ chức vào mùng 1 tháng 4 âm lịch; và thứ ba là lễ hội Rước Kiệu thánh ngày 10 đến 12 tháng 6 âm lịch hàng năm. Riêng ở xã Hoàng Châu cúng tổ chức vào những ngày này nhưng có lễ hội độc đáo hơn đó là lễ hội Xa Mã Rước Kiệu. Theo từng làng, xã có các lễ hội khác nữa tuy nhiên ở đây chúng tôi chỉ xin đề cập đến các lễ hội tưởng nhớ Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng. 2.3.2.1. Lễ hội Chèo thuyền Lễ hội này được tổ chức hàng năm vào ngày 21 tháng Giêng. Còn được gọi là lễ hội Chèo thờ Thiên Thánh. Được tổ chức nhằm cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, gặp mùa bội thu. Tưởng nhớ đến Đức Thánh đã có nhiều công lao trong việc đánh giệt bọn cướp biển hoành hành, khi ấy chỉ với công cụ thô sơ và vũ khí đánh giặc chủ yếu là thuyền. Lễ hội này như diễn lại thời hào hùng chống giặc của tướng quân Đoàn Thượng. Nhưng lễ hội là của cả Tổng chia theo 3 giáp của 6 làng, mỗi giáp dùng một thuyền dài 15 mét, trên thuyền còn có 22 người trạo nhi, một người phất cờ, một người chèo lái, 20 người còn lại chia thành 2 bên mạn thuyền mỗi bên 10 người, chèo thuyền 3 vòng quanh đích và cự ly mỗi vòng 1,5 km. Lễ hội được tổ chức trong 3 ngày từ ngày 19, công việc đã được chuẩn bị và đọc khai mạc lễ hội có văn nghệ chào mừng. Ngày 20, làm lễ rước nước mời tiên thánh, nước được lấy từ phía xa biển nơi có nước trong, được múc bằng gáo đồng rồi dựng trong chóe, rước về tại đình để thờ trong suốt những ngày diễn ra lễ hội. Cùng ngày đó, lễ rước kiệu thánh về thờ tại đình Gia Lộc. Nghi thức này được thực hiện theo quan niệm và lòng thành kính của người dân là mời cộng đồng tiên thánh về đình làng dự hội. Được nhân dân làm lễ trọng thể vào buổi sáng. Buổi chiều dựng cờ chèo bơi. Có ba loại cờ chèo màu đỏ, màu vàng, màu trắng. Công việc buổi tối là đọc lễ cáo yết làm chính lễ tại làng tại xã. Theo như lời của ban quản lý di tích: “có 3 thuyền rồng, mỗi thuyền có 20 người chèo, một người phất cờ, một người bẻ lái. 45
- Lễ hội này là của huyện đảo, gồm 6 làng xã chia đều thành 3 đội chèo bơi. Hàng năm cứ đến ngày này con cháu xa gần về hết, có các khách từ Trung ương, Thành phố, Bộ Văn hóa thể thao và du lịch, các sở phòng ban, các cơ quan huyện, và UBND các nơi và các xí nghiệp làm mắm tại Cát Hải về dự hội”. Ngày 21 là ngày tế đại lễ. Công việc được chuẩn bị từ trước đó có hai đội là Nam tế và Nữ tế. Sau lễ tế đại tế là ba đội bốc thăm thẻ cờ, đội nào bốc vào cờ màu nào thì treo cờ màu đó. Họ cũng quan niệm rằng, nếu thuyền cờ màu vàng thắng thì năm đó mùa màng bội thu, nều cờ màu đỏ thắng thì năm dó dân làng làm ăn không thuận. Họ thi đấu hết mình không vì thứng thua mà vì họ mong cho mùa màng bội thu, mong mưa thuận gió hòa, do đó họ muốn biết năm đó mùa màng của họ sẽ ra sao. Cùng song song với các nghi thức tế lễ, có các trò vui, trò hội thể hiện đúng văn hóa biển của họ như kéo co, thi đan lưới, thi làm bánh trôi để tưởng nhớ đến người có công đã dạy cho họ cách cày cấy. Trong thời chiến loạn, thuyền là phương tiện chiến đấu chủ yếu thì trong thời bình thuyền lại là phương tiện lao động, là công cụ kiếm sống chủ yếu của người dân biển, nghề ngư là nghề phụ thuộc và may rủi, họ tế lễ để cầu mùa, để thể hiện tinh thần yêu lao động, rèn luyện sức khỏe lấy tinh thần xây dựng và phát triển cuộc sống của ngư dân. 2.3.2.2. Lễ hội Rước Kiệu Thánh đình Gia Lộc Đình Gia Lộc được xây dựng trên nền móng của đồn binh cũ nơi Đoàn Thượng tướng quân làm căn cứ quân sự bảo vệ vùng biển phía Đông. Có tên chữ là Thiên Lộc. Đình được xây dựng với quy mô lớn vào thế kỷ XVII. Nhưng do biển lấn đình đã có 3 lần xây dựng lại. Đình hiện nay là được xây dựng lại làn thứ ba năm 1916, cạnh Nghè và chùa Gia Lộc. Đình trước đây hướng ra biển, nhưng đình hiện nay được xây dựng lại quay về hướng Bắc trên vị trí rất cao hướng về làng, người dân quan niệm rằng “thần hướng về làng để bảo vệ dân làng”. Và theo lịch sử thì hướng Bắc là hướng luôn luôn phải đề phòng, muôn thưở phải cảnh giác Nhưng xét theo nguyên tắc xây dựng đình phải tựa lưng vào tam bảo, do dó đình được xây dựng quay về hướng Bắc. Vị trí ngôi đình là lưng tựa tam bảo, bên trái là dải Hà Sen (đảo Cát Bà), bên phải có Hổ Phục (Đồ Sơn), ở giữa là hai dòng nước tụ lại ở phía trước. Đây là vị trí Rồng Chầu Hổ Phục, hội tụ được khí thiêng sông núi, đất trời và biển khơi, nơi bình yên nhất, đẹp nhất và an bình nhất. 46
- Làng Gia Lộc chia thành các giáp, việc tổ chức lễ hội cũng chia theo các giáp, mỗi giáp đăng cai tổ chức lễ hội hàng năm. Việc tổ chức đăng cai của một giáp là phải sắp đủ cỗ cả làng thụ lộc trong mấy ngày hội. Hội chính của Đình diễn ra từ ngày 11 đến hết ngày 14 tháng 6 âm lịch hàng năm. Đây là lễ hội lớn nhất trong năm gọi là lễ đại khánh kì phúc của Gia Lộc, chính lễ là ngày 12. Công việc tổ chức diễn ra từ ngày 11 là lễ rước nước, ngày 12 chính hội rước kiệu các chư vị tiên thánh về đình dự hội. Đội rước kiệu gồm có một đội nam rước kiệu Ông, một đội nữ rước kiệu Bà, một đội rước kiệu chức sắc (các bài vị sắc phong). Theo truyền thống là yêu cầu người rước kiệu phải thanh tịnh, không vướng bụi bặm, sau đó làm lễ tế cáo yết các chư vị trong ngày này. Ngày 13 làm lễ tế đại lễ, ban tê lễ được chia thành tế cao, tế trung, và tế thấp. Họ quan niệm “quần tụ long vân” là ngày các chư vị tiên thánh về hội tụ đông đủ. Các ban ngành từ thành phố, xa phường, thị trấn và các nhà máy xí nghiệp đều tham gia dâng cúng lễ vật tỏ lòng thành kính. Theo truyền thống lễ vật thường có xôi, gà, thịt lợn, kê nhưng ngày nay, lễ vật theo các ban ngành cơ quan hay cá nhân, gia đình tự sửa soạn để cúng tiến, cũng có thể là xôi, gà, oản cũng có thể là hoa, quả, bia rượu, bánh kẹo, và tiền vàng Ngày 14 làm lễ tế tại thiên quan, tế yên vị tiên thánh tại đình rồi làm lễ rước kiệu tiên thánh hồi cung, và làm lễ rã đám. Trong suốt những ngày diễn ra lễ hội, các trò chơi thi đấu được diễn ra song song cùng các nghi thức lễ tế, như đan lưới, chèo thuyền, cầu lông, bóng chuyền mà đến nay vẫn còn nguyên giá trị truyền thống vốn có của nó. 2.3.2.3. Lễ hội Xa Mã Rước Kiệu đình Hoàng Châu Đình Hoàng Châu hay còn gọi là đình Vàng Châu, thờ Lý triều quốc sư hiển thánh sắc phong Dực Vũ Đại Vương thượng đẳng thần, húy Đoàn Thượng. Ngài đã có công mở trường khuyên học, đánh giặc Ưng Thiên, bảo an cho nhân dân. Tài đình có lễ hội truyền thông rất dặc biệt được tổ chức hàng năm vào ngày 9 đến 12 tháng 6 âm lịch đó là lễ hội Xa mã rước kiệu. Theo truyền thuyết các cụ trong làng kể lại rằng; “trước kia khi đi trấn quan ải Đông Hải Đại Vương thường có hai tuấn mã đi trước, đi đến đâu thắng đến đó. Khi Ngài hóa hai tuấn mã theo ngài chinh chiến cũng được nhân dân thờ tự, và họ gọi là Ông Xa Mã”. Nhưng cũng có những câu chuyện “khi ngài trấn ải ở nơi đây, ngài chăm lo cho dân, mở hội khao quân dân thường tỏ chức hội kéo ngựa cho quân vui”. Theo 47