Đồ án Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội

pdf 80 trang huongle 3180
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đồ án Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfdo_an_tim_hieu_hoat_dong_du_lich_tai_lang_van_hoa_du_lich_ca.pdf

Nội dung text: Đồ án Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội

  1. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngày nay cùng với sự phát triển nhanh chóng của ngành kinh doanh du lịch dịch vụ trên toàn thế giới, Việt Nam đƣợc đánh giá là quốc gia có tiềm năng du lịch to lớn, không chỉ bởi hệ thống cảnh quan thiên nhiên tƣơi đẹp, sơn thủy hữu tình mà còn bởi vốn văn hóa tinh thần vừa đa dạng phong phú vừa độc đáo đậm đà bản sắc dân tộc. Trải qua mấy nghìn năm lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc, ông cha ta đã tạo dựng và để lại những giá trị văn hóa vô cùng quý giá, là nguồn lực quan trọng cho sự phát triển đất nƣớc. Tuy nhiên di sản văn hóa cũng rất dễ bị mai một và luôn tiềm ẩn nguy cơ biến mất nhanh chóng. Đặc biệt trong những năm gần đây dƣới tác động của cơ chế thị trƣờng, của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc đã dẫn đến sự biến đổi văn hóa của dân tộc. Sự tác động mạnh mẽ đó giúp cho các tộc ngƣời tiếp thu những tinh hoa văn hóa làm phong phú thêm vốn văn hóa của mình, nhƣng đồng thời cũng đứng trƣớc nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa tộc ngƣời. Bởi vậy chủ trƣơng xây dựng Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam (sau đây viết tắt là Làng VHDL các DTVN) của Nhà nƣớc và ngành du lịch nhằm bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa trong sự phát triển toàn diện đất nƣớc, làm cho các giá trị văn hóa tiếp tục tỏa sáng trong xu thế giao lƣu hội nhập là thực sự cần thiết. Với vị trí thuận lợi, kết nối giao thông với nhiều tuyến giao thông đƣờng thủy, đƣờng bộ, đƣờng hàng không, lại tiếp giáp với nhiều điểm du lịch nổi tiếng nhƣ sân Golf Đồng Mô, Làng Việt cổ Đƣờng Lâm, khu công nghệ cao Hòa Lạc nên Bộ VHTT và DL cùng với UBND thành phố Hà Nội đã quyết định lựa chọn làng Đồng Mô thị xã Sơn Tây để xây dựng Làng VHDL các DTVN. SV: Nguyễn Thị Duyên Page 1
  2. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” Từ khi đi vào khai trƣơng từ ngày 19/9/2010, Làng VHDL các DTVN đã tổ chức thành công nhiều sự kiện văn hóa – du lịch có ý nghĩa nhằm tôn vinh giá trị văn hóa của các tộc ngƣời sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Thời gian gần đây Làng VHDL các DTVN đã tổ chức thành công Đêm tôn vinh văn hóa các dân tộc Việt Nam, chƣơng trình nghệ thuật Chào mừng ngày di sản Văn hóa Việt Nam, phiên chợ vùng cao đƣợc tổ chức, ngày hội đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam Với việc tổ chức thành công một số sự kiện nói trên cùng với những lợi thế về vị trí Làng VHDL các DTVN hoàn toàn có thể trở thành nơi bảo tồn, phát huy các giá trị truyền thống dân tộc, một trung tâm du lịch, một điểm đến hấp dẫn trong cả nƣớc và khu vực. Tuy nhiên hiện nay du lịch tại Làng VHDL các DTVN phát triển chƣa xứng với những tiềm năng của mình, chƣa khai thác một cách hiệu quả, hệ thống cơ sở kĩ thuật, cơ sở hạ tầng chƣa đồng bộ, hoạt động du lịch còn nhiều vấn đề bất cập. Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là việc khai thác các hoạt động du lịch chƣa thực sự thu hút khách và còn nhiều hạn chế. Từ những lý do trên ngƣời viết đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” cho bài khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Đề tài đi sâu tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng VHDL các DTVN – Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội dung nhằm: - Đánh giá 1 cách tƣơng đối và đầy đủ về tiềm năng phát triển du lịch tại Làng VHDL các DTVN. - Khái quát về thực trạng hoạt động du lịch tại Làng VHDL các DTVN, từ đó thấy đƣợc những tích cực và hạn chế trong việc phát triển các hoạt động du lịch tại đây. SV: Nguyễn Thị Duyên Page 2
  3. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” - Đƣa ra các khuyến nghị nhằm khai thác du lịch một cách có hiệu quả hơn nữa tại Làng VHDL các DTVN trong thời gian tới. 3. Ý nghĩa của đề tài Đối với Làng VHDL các DTVN: đề tài góp phần nhỏ bé trong việc đƣa ra những đánh giá khách quan về thực trạng khai thác du lịch hiện nay của Làng, đồng thời đề xuất những gợi ý nhằm giúp cho hoạt động quản lý và tổ chức các sự kiện văn hóa du lịch của Ban quản lý Làng VHDL các DTVN đƣợc hoàn thiện và hiệu quả hơn; từ đó hy vọng góp công sức vào sự phát triển du lịch của địa phƣơng nói riêng và của Hà Nội nói chung. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu chính của đề tài là Làng VHDL các DTVN bao gồm Qui hoạch không gian Làng, công tác quản lý và Hoạt động du lịch tại Làng. Phạm vi nghiên cứu của đề tài, về không gian: Đề tài đƣợc thực hiện trong phạm vi Làng VHDL các DTVN tại Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội. Về thời gian, đề tài nghiên cứu hoạt động của Làng kể từ khi chính thức khai tƣơng ngày 19/9/2010 cho đến nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp điều tra thực địa: Trong quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài, ngƣời viết đã đến quan sát, tìm hiểu, nghiên cứu, điều tra thực tế tại địa phƣơng nơi xây dựng Làng VHDL các DTVN và thực hiện phỏng vấn những ngƣời dân địa phƣơng cũng nhƣ một vài thành viên Ban quản lý. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin: Ngƣời viết đã thu thập và sử dụng thông tin từ các nguồn khác nhau nhƣ giáo trình, sách báo, tạp chí, các trang SV: Nguyễn Thị Duyên Page 3
  4. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” web, các báo cáo, tƣ liệu của chính quyền địa phƣơng để đảm bảo khối lƣợng thông tin đầy đủ, chính xác. Phương pháp phân tích tổng hợp: Trên cơ sở tài liệu thu thập đƣợc ngƣời viết đã tổng hợp, phân tích và rút ra những kết luận trong việc đánh giá tiềm năng và thực trạng khai thác hoạt động du lịch tại Làng VHDL các DTVN. 6. Bố cục của đề tài Ngoài Lời cảm ơn, phần mở đầu, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của đề tài đƣợc trình bày trong 3 chƣơng. : Chương 1: Tổng quan về Làng VHDL các DTVN - Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội. Chương 2: Thực trạng phát triển du lịch Làng VHDL các DTVN - Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội Chương 3: Một số khuyến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác hoạt động du lịch tại Làng VHDL các DTVN - Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội. SV: Nguyễn Thị Duyên Page 4
  5. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ LÀNG VĂN HÓA DU LỊCH CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM - ĐỒNG MÔ, SƠN TÂY, HÀ NỘI 1. 1. Vài nét về quá trình hình thành và phát triển của Làng văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam 1. 1. 1. Mục đích xây dựng Trải qua nhiều ngàn năm dựng nƣớc và giữ nƣớc, Việt Nam tự hào là một trong những quốc gia đa dạng về sắc màu văn hóa các dân tộc. Trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay có sự chung sống của 54 tộc ngƣời, mỗi tộc ngƣời là một bức tranh đặc sắc, phong phú về đời sống văn hóa vật chất và tinh thần. Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh chóng của xã hội công nghiệp hiện đại, cùng với xu thế hội nhập toàn cầu, dần dần có những tộc ngƣời ở nƣớc ta đang đứng trƣớc nguy cơ bị mai một về bản sắc văn hóa. Vì thế, việc nghiên cứu giữ gìn bản sắc văn hóa các tộc ngƣời ở nƣớc ta từ lâu đã đƣợc các giới chức của ngành văn hóa và du lịch quan tâm tìm hiểu. Một giải pháp đƣợc đƣa ra là cần thiết phải nhanh chóng xây dựng một Khu Làng văn hóa dành riêng cho các dân tộc. Mô hình Làng văn hóa vốn không lạ trên thế giới, đặc biệt là ở châu Á. Ở Trung Quốc và Campuchia, mô hình SV: Nguyễn Thị Duyên Page 5
  6. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” Làng văn hóa đƣợc vận hành dƣới dạng để ngƣời đóng thế chủ nhân ngôi làng tái hiện lại các hoạt động trong đời sống thƣờng nhật nhƣ làm nông nghiệp, làm nghề thủ công; “ngƣời dân” cũng đồng thời đóng vai trò là các hƣớng dẫn viên hƣớng dẫn khách tham quan, và tham gia trình diễn dân ca, dân vũ. Còn ở Malaysia và Indonesia, mô hình Làng văn hóa của họ thiên về bảo tồn, truyền dạy văn hóa, nghệ thuật dân tộc với sự tham gia của các chủ thể văn hóa đích thực [26]. Tuy nhiên mô hình xây dựng Làng văn hóa ở Việt Nam có điểm khác biệt và đƣợc gọi tên là Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam (tên viết tắt là Vinaculto). Mục đích đầu tiên của việc xây dựng công trình này là nhằm biến nơi đây trở thành trung tâm hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch mang tầm quốc gia. Qua việc tái hiện và giới thiệu lịch sử - văn hóa các dân tộc ở Việt Nam, Làng văn hóa du lịch này sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu giao lƣu văn hóa trong nƣớc, giới thiệu về văn hóa Việt Nam với nƣớc ngoài; tăng cƣờng tính phong phú, đa dạng trong đời sống tinh thần của nhân dân thủ đô và các tỉnh thành khác. Đây cũng sẽ là điểm tựa giáo dục lịch sử truyền thống dân tộc cho nhân dân, nhất là cho thế hệ trẻ (ở trong nƣớc và đồng bào ở nƣớc ngoài về thăm quê hƣơng), tăng cƣờng tình đoàn kết, hiểu biết lẫn nhau, giáo dục lòng tự hào dân tộc và tình yêu quê hƣơng đất nƣớc của công dân Việt Nam, góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Không chỉ có vậy, việc xây dựng mô hình Làng văn hóa du lịch các dân tộc còn nhằm tạo nên một cảnh quan thiên nhiên thoáng rộng; góp phần cân bằng sinh thái cho môi trƣờng của thủ đô Hà Nội, là nơi phục vụ nhu cầu tham quan du lịch và tìm hiểu nghiên cứu của nhân dân trong nƣớc và du khách quốc tế. Hơn thế nữa, dự án xây dựng Làng văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam còn nhằm biến nơi đây trở thành một trung tâm du lịch, dịch vụ nghỉ ngơi, vui chơi giải trí có quy mô lớn đồng bộ, tạo môi trƣờng đầu tƣ hấp dẫn khai thác các lợi thế sẵn có về tài nguyên văn hóa, thiên nhiên tạo động lực cho sự phát triển bền vững của ngành du lịch Việt Nam. SV: Nguyễn Thị Duyên Page 6
  7. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” 1. 1. 2. Quá trình xây dựng Cuối năm 1988 đầu năm 1989, Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) và UBND thành phố Hà Nội đã đề xƣớng xây dựng dự án Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam với định hình ban đầu đây chỉ là một dự án với một làng nhỏ với vài chục nhà bên hồ Tây. Ngày 26/09/1992, Văn phòng Chính phủ có Công văn số 4375/KG nêu yêu cầu về việc cần kết hợp thêm mục đích du lịch cho Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam. Do đó, ngày 19/10/1992, Bộ văn hóa thông tin cùng với UBND thành phố Hà Nội gửi công văn số 3387. VX/UB báo cáo thủ tƣớng Võ Văn Kiệt và Phó Thủ tƣớng Nguyễn Khánh nội dung cuộc họp giữa Bộ văn hóa Thông tin và UBND Thành phố Hà Nội về việc thống nhất xây dựng Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam. Tiếp đó, ngày 05/4/1993, Bộ Văn hóa thông tin ra quyết định 503 TC/QĐ thành lập Ban chuẩn bị đầu tƣ với nhiệm vụ xây dựng đề án chung tay xây dựng Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam. Ban Chuẩn bị đầu tƣ đã làm việc với Hội văn hóa các dân tộc Việt Nam, Viện Văn hóa dân gian về nội dung văn hóa dân tộc của dự án và đã tổ chức “Trƣng cầu ý tƣởng” quy hoạch Làng văn hóa các dân tộc việt Nam. Ban Chuẩn bị đầu tƣ đã mời 05 đơn vị trong nƣớc và 01 đơn vị nƣớc ngoài tham vấn. Đồng thời tổ chức một số triển lãm các ý tƣởng quy hoạch để giới thiệu, xin ý kiến các nhà chuyên môn, trí thức và đông đảo nhân dân trong nƣớc về việc xây dựng thực hiện dự án tiền khả thi Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam. Sau đó, đơn vị đƣợc chỉ định để thực hiện dự án tiền khả thi là Ban Chuẩn bị đầu tƣ và liên danh 3 đơn vị khác là Viện Quy hoạch Đô thị- Nông thôn, Viện Thiết kế công trình Văn hóa và Công ty Goh Hock Guan and Asociates [19]. Đầu tháng 09/1995 dự án tiền khả thi đƣợc hoàn thành trình Chính phủ và Bộ Kế hoạch Đầu tƣ. Ngày 21/8/1997 Chính Phủ ra quyết định số 667/TTg do Thủ tƣớng Võ Văn Kiệt ký phê duyệt Quy hoạch tổng thể và nêu rõ tên dự án “Làng SV: Nguyễn Thị Duyên Page 7
  8. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” Văn hóa Du lịch các dân tộc Việt Nam” (viết tắt Làng VHDL các DTVN) khẳng định dự án phục vụ du lịch bằng hoạt động văn hóa. Mặc dù ý tƣởng đã đƣợc thành hình từ năm 1995, nhƣng đến ngày 03/10/1999, Dự án Làng VHDL các DTVN mới chính thức đƣợc khởi công xây dựng, đánh dấu sự ra đời trên thực tế. Ban quản lý Làng VHDL các DTVN đã nhanh chóng chuẩn bị các hạng mục đầu tƣ xây dựng, đồng thời tổ chức nhiều hội nghị với các Bộ, Ngành và các đơn vị liên quan cũng nhƣ tiến hành hàng loạt các công việc cần thiết trong đó đặc biệt coi trọng công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, công tác rà phá bom mìn, khảo sát cổ học và thực hiện các dự án bƣớc đầu về hạ tầng kỹ thuật chung. Với chủ chƣơng để chủ thể văn hóa tự giới thiệu mình, tạo điều kiện để các địa phƣơng, đồng bào các dân tộc tham gia từ khâu thiết kế thi công đến quản lý vận hành, khai thác các làng, các dân tộc; Ban quản lý Làng VHDL các DTVN luôn tích cực xin ý kiến các nhà chuyên môn, nhân sĩ trí thức, già làng, trƣởng bản, các nhà quản lý về văn hóa dân tộc và kịp thời áp dụng vào công trình. Từ năm 2005-2007 cơ bản hoàn tất việc xin ý kiến chủ thể văn hóa, các cấp địa phƣơng, các cơ quan Trung ƣơng liên quan về xây dựng Khu các làng dân tộc với 17 hội nghị, hội thảo và tổ chức thành công “Ngày hội văn hóa các dân tộc Việt Nam” [19]. Tuy nhiên, do còn những bất cập tồn tại trong quá trình triển khai các dự án đầu tƣ xây dựng, lãnh đạo Ban quản lý Làng VHDL các DTVN đã chỉ đạo xây dựng lại đề án tổng thể xây dựng phát triển Làng VHDL các DTVN giai đoạn 2006-2010. Đề án này đã đƣợc chuẩn bị công phu nhằm đề xuất với Bộ văn hóa Thông tin các giải pháp đồng bộ, tổng thể để khắc phục những vƣớng mắc tồn tại. Cuối cùng, ngày 19/8/2005, đề án đã đƣợc Bộ trƣởng Bộ Văn hóa Thông tin phê duyệt tại quyết định số 6630/QĐ- BVHTT [19]. SV: Nguyễn Thị Duyên Page 8
  9. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” Sau khi đề án đƣơc phê duyệt, từ 2007 trở đi, Ban quản lý Làng VHDL các DTVN đã triển khai đồng bộ các giải pháp về chỉ đạo, điều hành quản lý đầu tƣ xây dựng cơ bản, hợp tác huy động các nguồn lực xã hội, xây dựng cơ chế ƣu đãi thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao hƣớng tới mục tiêu khai trƣơng Làng VHDL các DTVN vào năm 2010. Trên cơ sở đó Ban Quản lý Làng VHDL các DTVN đã đề xuất với Bộ VHTT và DL, UBND tỉnh Hà Tây (cũ) và Chính Phủ về việc chuyển giao Nông trƣờng Đồng Mô về trực thuộc Ban Quản lý Làng VHDL các DTVN. Theo đó đến năm 2008, công tác đền bù và giải phóng mặt bằng đƣợc hoàn thiện. Bên cạnh đó, Ban quản lý Làng VHDL các DTVN đã đề xuất và xây dựng đề án về Ngày văn hóa các dân tộc Việt Nam và đƣợc thủ tƣớng Chính Phủ phê duyệt tại quyết định số 1668/ QĐ-TTg ngày 17/11/2008, lấy ngày 19/4 là Ngày văn hóa các dân tộc Việt Nam và tổ chức thành công Lễ công bố ngày văn hóa các dân tộc Việt Nam tại Làng VHDL các DTVN vào đúng ngày 19/4/2009. Ngày 19/4/2010 ban quản lý Làng VHDL các DTVN đã tổ chức thành công hội nghị cơ chế phối hợp với các địa phƣơng, dân tộc trong quản lý, khai thác vận hành khu các làng dân tộc thuộc Làng VHDL các DTVN với sự tham dự của 270 đại biểu, các nhà quản lý của các Bộ, Ban, Ngành, Tổng cục, Cục, Vụ, Viện ở Trung ƣơng, UBND, sở VHTTDL, UB dân tộc của 40 tỉnh, thành phố, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu về văn hóa dân tộc, nhân sĩ trí thức, già làng nghệ nhân dân gian của 47 dân tộc trong 54 dân tộc anh em. [19]. Cũng trong năm 2010, nhằm góp phần thiết thực kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, Ban Quản lý Làng VHDL các DTVN đã tập trung hoàn thành xây dựng hạ tầng kỹ thuật chung, thúc đẩy hoàn thiện không gian văn hóa tiêu biểu của 54 dân tộc Việt Nam và tổ chức thành công sự kiện khai trƣơng, chính thức đƣa vào hoạt động một phần Làng VHDL các DTVN vào ngày 19/9/2010. Bên cạnh đó, song song với việc đẩy mạnh các hoạt động thu hút đầu tƣ và từng bƣớc vận hành, SV: Nguyễn Thị Duyên Page 9
  10. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” khai thác Khu các làng dân tộc (thuộc Làng VHDL các DTVN), tổ chức thành công nhiều sự kiện văn hóa, thể thao và du lịch với sự tham gia của các chủ thể văn hóa, các địa phƣơng trong cả nƣớc, Ban Quản lý Làng VHDL các DTVN cũng đồng thời tiếp tục triển khai Kế hoạch đầu tƣ phát triển Làng VHDL các DTVN giai đoạn từ 2010 đến 2015 và hy vọng đến năm 2015, toàn bộ hạng mục đầu tƣ của Dự án sẽ đƣợc hoàn thành, đƣa Làng VHDL các DTVN trở thành một trong những mô hình Làng văn hóa đặc sắc và thành công trên thế giới. 1.2. Tổ chức bộ máy và công tác quản lý Làng văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam 1.2 1. Ban Quản lý Làng VHDL các DTVN Làng VHDL các DTVN do Ban quản lý Làng VHDL các DTVN trực tiếp quản lý. Ban quản lý Làng VHDL các DTVN là cơ quan trực thuộc Bộ văn hóa Thể thao và Du lịch, là cơ quan tƣơng đƣơng tổng cục, có tƣ cách pháp nhân, sử dụng con dấu hình quốc huy, đƣợc mở tại kho bạc nhà nƣớc, ngân hàng ; là đầu mối kế hoạch đầu tƣ và ngân sách trực thuộc Trung ƣơng (đơn vị dự toán cấp 1), đƣợc quyết định thu chi ngân sách thuộc các lĩnh vực đầu tƣ phát triển hành chính sự nghiệp, các chƣơng trình mục tiêu và các lĩnh vực khác theo quy định của pháp luật. Theo Quyết định số: 95/2008/QĐ-TTg ngày 10/7/2008, nhiệm vụ chính của Ban là: - Quy hoạch, kế hoạch phát triển hàng năm và dài hạn đối với Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam. - Chỉ đạo lập, phê duyệt, quản lý và giám sát thực hiện quy hoạch chi tiết các khu chức năng tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam. - Quản lý, kiểm tra việc thực hiện các biện pháp bảo vệ tài nguyên và môi trƣờng trong Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam; xử lý hoặc kiến nghị SV: Nguyễn Thị Duyên Page 10
  11. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” cấp có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ tài nguyên và môi trƣờng theo quy định của pháp luật. - Quản lý thống nhất các hoạt động khai thác, kinh doanh, dịch vụ, sử dụng các công trình đầu tƣ trên địa bàn Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam; trực tiếp khai thác, kinh doanh và sử dụng các công trình do Nhà nƣớc đầu tƣ và các công trình do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch giao. - Tổ chức các hoạt động văn hóa, thông tin, nghiên cứu khoa học, sƣu tầm, bảo tồn, phổ biến và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc. - Tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tƣ, thƣơng mại, du lịch, quảng bá, giới thiệu ở trong nƣớc và nƣớc ngoài để thu hút các nguồn vốn đầu tƣ cho dự án Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam bằng các hình thức phù hợp theo quy định của pháp luật; tiếp nhận hồ sơ, giải quyết theo thẩm quyền những khó khăn, vƣớng mắc phát sinh trong quá trình hoạt động tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam. - Quản lý và tổ chức việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động và phát triển Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam . Lãnh đạo của Ban gồm Đồng chí Hồ Anh Tuấn - Thứ Trƣởng Bộ VHTT và DL chịu trách nhiệm là Trƣởng ban quản lý Làng VHDL các DTVN (2004 đến nay) và 3 phó trƣởng ban là các đồng chí Nguyễn Đình Lợi (2007 đến nay), đồng chí Nguyễn Hữu Thinh (2007 đến nay) và đồng chí Lâm Văn Khang (2011 đến nay). 1.2.2. Các đơn vị tham mưu SV: Nguyễn Thị Duyên Page 11
  12. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” Theo quyết định số: 167/2009/ QĐ- LVH ngày 23/7/ 2009 của Trƣởng Ban quản lý Làng VHDL các DTVN, đóng vai trò quan trọng trong việc tham mƣu cho Ban quản lý gồm các đơn vị trực thuộc sau: * Văn phòng: Văn phòng là cơ quan chuyên môn trực thuộc Ban Quản lý Làng Văn hóa Du lịch các dân tộc Việt Nam, có chức năng tham mƣu, giúp Trƣởng Ban Quản lý Làng Văn hóa Du lịch các dân tộc Việt Nam tổng hợp, điều phối, xử lý các thông tin trong chỉ đạo, điều hành đơn vị theo chƣơng trình, kế hoạch công tác của Ban; tổ chức thực hiện công tác hành chính, văn thƣ, lƣu trữ, quản trị, y tế, bảo vệ; quản lý tài chính, tài sản, cơ sở vật chất, đảm bảo điều kiện và phƣơng tiện làm việc của Ban Quản lý Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam. Văn phòng có tƣ cách pháp nhân, có con dấu riêng, là đơn vị dự toán cấp II, có tài khoản tại kho bạc nhà nƣớc và ngân hàng, đƣợc sử dụng ngân sách thuộc các lĩnh vực hành chính sự nghiệp, các chƣơng trình mục tiêu và các lĩnh vực khác theo quyết định của Trƣởng ban và quy định của pháp luật [19]. * Ban tổ chức cán bộ: Ban Tổ chức Cán bộ là cơ quan chuyên môn trực thuộc Ban Quản lý Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam, có chức năng tham mƣu, giúp Trƣởng Ban Quản lý Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam trong công tác quản lý bộ máy, tô chức cán bộ, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động của Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam. Ban Tổ chức Cán bộ có Trƣởng Ban, các Phó Trƣởng Ban, các công chức chuyên môn nghiệp vụ [19]. * Ban kế hoạch- tài chính: Ban Kế hoạch Tài chính là cơ quan chuyên môn thuộc Ban Quản lý Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam, có chức năng tham mƣu, giúp Trƣờng Ban Quản lý Làng Văn hóa - Du Lịch các dân tộc Việt Nam quản lý và tổ chức thực hiện về lĩnh vực kế hoạch, đầu tƣ phát triển, tài chính, SV: Nguyễn Thị Duyên Page 12
  13. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” kế toán, thống kê theo quy định của pháp luật. Ban Kế hoạch Tài chính có Trƣởng Ban, các Phó Trƣởng Ban, các công chức chuyên môn nghiệp vụ. * Ban đối ngoại và xúc tiến đầu tƣ: Ban Đối ngoại và Xúc tiến đầu tƣ là cơ quan chuyên môn trực thuộc Ban Quản lý Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam, có chức năng tham mƣu, giúp Trƣởng Ban Quản lý Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam trong công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế, xúc tiến thu hút đầu tƣ tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam. Ban đối ngoại và xúc tiến đầu tƣ có Trƣởng Ban, các Phó Trƣởng Ban, các công chức chuyên môn nghiệp vụ. * Ban quy hoạch, kiến trúc và môi trƣờng: Ban Quy hoạch, Kiến trúc và Môi trƣờng là cơ quan chuyên môn trực thuộc Ban Quản lý Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam, có chức năng tham mƣu, giúp Trƣởng Ban Quản lý Làng Vãn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực quy hoạch, kiến trúc và môi trƣờng tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam. Là đầu mối, phối hợp với các đơn vị, cơ quan liên quan tổ chức việc lập, điều chỉnh quy hoạch tổng thể, quy hoạch chung của Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam để Trƣởng ban trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Bên cạnh đó, Ban quy hoạch, kiến trúc và môi trƣờng còn chịu trách nhiệm chủ trì giúp Trƣởng ban tổ chức lập, điều chỉnh, phê duyệt quy hoạch chi tiết các Khu chức năng thuộc Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam theo quy định của pháp luật. Ban quy hoạch, kiến trúc và môi trƣờng có Trƣởng Ban, các Phó Trƣởng Ban, các công chức chuyên môn nghiệp vụ. * Ban nghiệp vụ văn hóa dân tộc: Ban Nghiệp vụ Văn hóa dân tộc là cơ quan chuyên môn trực thuộc Ban Quản lý Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam, có chức năng tham mƣu giúp Trƣởng Ban Quản lý làng Văn hóa - Du lịch các dân SV: Nguyễn Thị Duyên Page 13
  14. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” tộc Việt Nam quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch, nghiên cứu khoa học, sƣu tầm, bảo tồn, phổ biến, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam. Xây dựng, báo cáo Trƣởng ban các kế hoạch, chƣơng trình nghiên cứu khoa học, bảo tồn, phổ biến, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc (văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể) và tinh hoa văn hóa thế giới phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Ban Quản lý Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam và chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức thực hiện sau khi đƣợc phê duyệt. Đồng thời, Ban nghiệp vụ văn hóa dân tộc cũng chịu trách nhiệm chủ trì tổ chức hoặc phối hợp tổ chức các hội nghị, hội thảo khoa học; biên soạn, xuất bản các tài liệu, các ấn phẩm, tổ chức các hoạt động thông tin tuyên truyền về văn hóa dân tộc phục vụ cho hoạt động và phái triên Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam. Ban nghiệp vụ văn hóa dân tộc có Trƣởng Ban, các Phó Trƣởng Ban, các công chức chuyên môn nghiệp vụ. * Thanh tra: chịu trách nhiệm thanh kiểm tra các hoạt động của các đơn vị thuộc Ban quản lý Làng VHDL các DTVN. 1.2.3. Các đơn vị sự nghiệp * Trung tâm thông tin – Dữ liệu: Trung tâm Thông tin - Dữ liệu là đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc Ban Quản lý Làng Văn hóa các Dân tộc Việt nam, có chức năng thu thập và quản lý thông tin, dữ liệu phục vụ cho các hoạt động của Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam. Trung tâm Thông tin - Dữ liệu có tƣ cách pháp nhân, có con dấu riêng, có tài khoản tại kho bạc nhà nƣớc và ngân hàng. Nhiệm vụ của Trung tâm Thông tin - Dữ liệu là nghiên cứu, thu thập, xử lý lƣu trữ thông tin tƣ liệu, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ thông tin để phục vụ cho hoạt động của Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam; Xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin điện tử phục vụ cho sự phát triển của Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam; Quản trị hệ thống, quản trị mạng thông tin và là đầu mối kết nối kỹ SV: Nguyễn Thị Duyên Page 14
  15. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” thuật công nghệ với mạng thông tin của Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các cơ quan có liên quan theo quy định của pháp luật; Tổ chức thiết kế, xây dựng, biên tập nội dung thông tin và vận hành trang Web của Ban Quản lý Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam; Tổ chức các hoạt động dịch vụ thông tin nhằm quảng bá, giới thiệu, phổ biến và phát huy các giá trị vãn hóa dân tộc phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và quy định của pháp luật. (Trích theo Quyết định số: 143/2009/ QĐ – LVH ngày 23/7/2009 của Trưởng Ban quản lý Làng VHDL các DTVN) * Ban quản lý khu các làng dân tộc: Ban Quản lý Khu các làng dân tộc là đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc Ban Quản lý Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam, có chức năng quản lý, khai thác các công trình, dự án thuộc Khu các làng dân tộc, tổ chức giữ gìn, bảo tồn, phổ biến và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc phù hợp với chức năng, nhiệm vụ đƣợc giao và quy định của pháp luật. Ban Quản lý Khu các làng dân tộc có tƣ cách pháp nhân, có con dấu riêng, có tài khoản mở tại Kho bạc Nhà nƣớc và Ngân hàng; trụ sở đặt tại Đồng Mô - Sơn Tây - Hà Nội. Nhiệm vụ của Ban Quản lý Khu các làng dân tộc là tổ chức các hoạt động văn hóa, thông tin, vui chơi giải trí và các hình thức tuyên truyền giới thiệu về di sản văn hóa dân tộc phù hợp với chức năng, nhiệm vụ đƣợc giao; Hƣớng dẫn, phục vụ nhân dân trong nƣớc và khách nƣớc ngoài tham quan, nghiên cứu tại Khu các làng dân tộc; thực hiện các hình thức tuyên truyền về văn hóa dân tộc thông qua các tài liệu, hiện vật trƣng bày tại Khu các làng dân tộc; Tổ chức, sƣu tầm, bảo quản tài liệu, hiện vật; trƣng bày giới thiệu các tƣ liệu, hiện vật về văn hóa (vật thể và phi vật thể) và nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật vào hóat động của Ban Quản lý Khu các làng dân tộc; Tổ chức thực hiện việc duy tu, bảo dƣỡng hạ tầng, cảnh quan và các công trình thuộc Khu các làng dân tộc [19]. SV: Nguyễn Thị Duyên Page 15
  16. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” Ban Quản lý Khu các làng dân tộc có Giám đốc và 2 Phó Giám đốc, đồng thời gồm các phòng chuyên môn nghiệp vụ nhƣ: Phòng Hành chính - tổng hợp, Phòng Tài vụ - Kế toán, Phòng Nghiệp vụ và Phòng Bảo vệ. * Tạp chí Làng Việt: Tạp chí Làng Việt là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Ban quản lý Làng VHDL các DTVN, có chức năng nghiên cứu thông tin về văn hóa, dân tộc và du lịch, tuyên truyền phổ biến đƣờng lối chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nƣớc phù hợp với chức năng, nhiệm vụ đƣợc giao. Tạp chí Làng Việt có tƣ cách pháp nhân, có con dấu riêng, có tài khoản mở tại kho bạc nhà nƣớc và của ngân hàng. Nhiệm vụ chủ yếu của tạp chí Làng Việt là tổ chức biên tập, xuất bản, phát hành Tạp chí Làng Việt và các ấn phẩm khác theo giấy phép hoạt động, quy định của pháp luật về báo chí; Thông tin tuyên truyền chủ chƣơng, đƣờng lối chính sách của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nƣớc và chỉ đạo của Trƣởng ban về quản lý và hoạt động của Ban quản lý Làng VHDL các DTVN; Nghiên cứu, giới thiệu biên soạn, dịch thuật, xuất bản các công trình nghiên cứu, sƣu tầm, sƣu tập phê bình, học thuật về lĩnh vực văn hóa dân tộc của Việt Nam và của nƣớc ngoài theo quy định của pháp luật [19]. * Các Ban Đầu tư và Xây dựng: gồm Ban đầu tƣ và xây dựng 307, Ban Đầu tƣ và Xây dựng 195, Ban Đầu tƣ và Xây dựng hạ tầng kĩ thuật chung. Nhiệm vụ chính của các Ban Đầu tƣ và xây dựng là thực hiện chức năng chủ đầu tƣ đối với các dự án nhóm B, C đầu tƣ bằng nguồn vốn ngân sách nhà nƣớc tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam đo Trƣởng Ban Quản lý Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam giao. Mỗi Ban Đầu tƣ và Xây dựng đều là các đơn vị có tƣ cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản tại kho bạc nhà nƣớc và ngân hàng, đƣợc sử dụng ngân sách thuộc lĩnh vực đầu tƣ xây dựng cơ bản và các lĩnh vực khác theo quyết định của Trƣởng ban và quy định của pháp luật [19]. 1.3. Quy hoạch chi tiết Làng văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam SV: Nguyễn Thị Duyên Page 16
  17. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” 1.3.1. Giới thiệu chung Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam nằm ở khu phía Nam hồ Đồng Mô (Sơn Tây, Hà Nội), cách trung tâm Hà Nội về phía Tây khoảng 40 km; về phía Bắc giáp xã Kim Sơn (Sơn Tây); phía Đông giáp doanh trại quân đội, xã Sơn Đông (Sơn Tây), phía Nam giáp đƣờng Hòa Lạc kéo dài, Sân bay Hòa Lạc, xã Yên Bình, huyện Thạch Thất và phía Tây giáp sân Goft Đồng Mô, xã Yên Bài, huyện Ba Vì, Hà Nội. Tổng diện tích của Làng VHDL các DTVN là 1500ha, đƣợc chia thành nhiều khu vực khác nhau nhƣ: Khu các làng dân tộc, Khu Di sản văn hóa thế giới, Khu trung tâm văn hóa và vui chơi giải trí, Khu công viên bến thuyền, Khu dịch vụ, du lịch tổng hợp, Khu cây xanh mặt nƣớc hồ Đồng Mô, Khu Quản lý điều hành văn phòng. Các công trình của Làng văn hóa nằm rải rác trên đồi, thung lũng với địa hình phong phú thể hiện sự phân bố các làng dân tộc trải rộng trên mọi miền đất nƣớc. Các làng của các dân tộc đều đƣợc xây dựng thành quần thể tái hiện các cấu trúc làng, bản của dân tộc với kiến trúc dân gian nhằm gìn giữ, phát triển và giới thiệu các giá trị văn hóa truyền thống cộng đồng của cả 54 dân tộc Việt Nam. Mỗi một khu chức năng lại đƣợc qui hoạch riêng với nhiều công trình, hạng mục trong đó. Quan trọng nhất và là trung tâm của Làng VHDL các DTVN chính là Khu các Làng dân tộc. Đây cũng là khu vực đƣợc xây dựng hoàn chỉnh nhất so với các khu chức năng khác. 1.3.2. Khu các Làng dân tộc Với diện tích 198, 61 ha, nằm giữa bán đảo phía Bắc của Làng VHDL các DTVN, trên khu đất có đồi cao, có thung lũng, mặt nƣớc, địa hình phong phú, thể hiện sự phân bố các làng dân tộc trải rộng trên mọi miền đất nƣớc, Khu các làng SV: Nguyễn Thị Duyên Page 17
  18. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” dân tộc đƣợc xây dựng thành quần thể tái hiện các cấu trúc làng, bản của các dân tộc Việt Nam với quy hoạch và kiến trúc dân gian nhằm giới thiệu, gìn giữ và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam. Không chỉ tái hiện không gian văn hóa tiêu biểu của 54 dân tộc Viêt Nam, giới thiệu văn hóa và đất nƣớc Việt nam qua các thời kì dựng nƣớc, giữ nƣớc, đây còn là nơi gặp gỡ, giao lƣu của đồng bào các dân tộc, nơi tổ chức các hoạt động văn hóa du lịch nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam và tăng cƣờng củng cố sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các chỉ tiêu quy hoạch xây dựng của khu đã kế thừa theo quy hoạch chi tiết đƣợc duyệt tại quyết định số 1151/ QĐ- BXĐ ngày 26 tháng 8 năm 2003 của Bộ Trƣởng Bộ Xây dựng và Điều chỉnh quy hoạch chi tiết theo quyết định số 276/QĐ - LVH ngày 26/11/ 2008 của Trƣởng ban quản lý Làng VHDL các DTVN với các chỉ tiêu cụ thể: Mật độ xây dựng : 11, 3% và tầng cao trung bình là 1, 1 tầng. Khu các làng dân tộc có 04 cụm: * Cụm các Làng dân tộc I (Khu làng I): gồm các công trình văn hóa và cảnh quan đặc trƣng 28 dân tộc vùng rẻo cao, thung lũng, trung du thuộc các vùng văn hóa Việt Bắc, Tây Bắc và miền núi Bắc Trung Bộ với hệ ngôn ngữ Tày - Thái, Tạng - Miến, Mông - Dao, Việt - Mƣờng, Ka Đai nhƣ: Lô Lô, Pu Péo, Hà Nhì, Mƣờng, Hmông, Dao, Thái, Khơ mú, Tày, Cống, La Hủ, Phù Lá, Si La, Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Sán Chay, Kháng, Mảng, Ơ đu, Xinh mun, Pà Thẻn, Cơ Lao, La Chí, La Ha, Thổ [19]. * Cụm các Làng dân tộc II (Khu làng II): gồm các công trình văn hóa và cảnh quan 18 dân tộc vùng cao nguyên, đồi núi thuộc các dân tộc vùng văn hóa Bắc SV: Nguyễn Thị Duyên Page 18
  19. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” Trung Bộ, Trƣờng Sơn, Tây Nguyên với hệ ngôn ngữ Môn - Khơ me, Nam Đảo nhƣ: Ba na, Bru-Vân Kiều, Tà ôi, Mnông, Mạ, Xơ đăng, Giẻ Triêng, Xtiêng, Rơ măm, Hrê, Cơ ho, Co, Raglai, Giarai, Ê đê, Cơ tu, Brâu, Chứt [19]. * Cụm các Làng dân tộc III (Khu làng III): gồm các dân tộc cƣ trú ở các vùng có cảnh quan bán sơn địa, cao nguyên, đồi núi, triền sông. Với tổng diện tích 14, 91 ha, đây là khu vực tái hiện làng của những dân tộc thuộc vùng Nam Trung Bộ, Nam Bộ, bao gồm các công trình chủ yếu thuộc 4 làng dân tộc: Chăm, Khơ me, Chơ Ro, Chu ru. 12 công trình kiến trúc thuộc khu các làng dân tộc III có đặc trƣng kiến trúc là nhà sàn, cột gỗ, vì kèo gỗ, mái lợp tranh, mái lá và bên cạnh các nhà ở thƣờng có các công trình phụ phục vụ cho sinh hoạt gia đình. Làng dân tộc Chăm An Giang có: 02 nhà ở, làng dân tộc Chăm Ninh Thuận có: 02 nhà ở, 01 nhà bếp, 01 chuồng gia súc, làng dân tộc Khơ me có: 02 nhà ở, làng dân tộc Chu ru có: 02 nhà ở, làng dân tộc Chơ ro có: 02 nhà ở. Ngoài ra, Khu các làng dân tộc III còn có các công trình phụ trợ nhƣ cổng chào, khu dịch vụ đón tiếp, nhà triển lãm quản lý điều hành, nhà dịch vụ phục vụ nghỉ ngơi, nghiên cứu khoa học, lầu vọng cảnh và các công trình cảnh quan, cây xanh. Trong tổng thể làng III, Tháp Chăm là công trình quan trọng nhất vì đây là biểu tƣợng của nền văn hóa, tôn giáo của dân tộc Chăm và là một trong những điểm nhấn của khu làng III, giữ vai trò quan trọng trong không gian kiến trúc chính. Tiếp đến là Khu chùa Khơ me, cũng là một điểm nhấn trong tổng thể của Khu các làng dân tộc III [19]. * Cụm các Làng dân tộc IV (Khu làng IV): gồm các công trình văn hóa và cảnh quan các dân tộc đa văn hóa, cƣ trú ở vùng bán sơn địa, đồi núi, đồng bằng, SV: Nguyễn Thị Duyên Page 19
  20. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” duyên hải, triền sông, thị trấn, thị tứ thuộc nhiều vùng văn hóa khác nhau nhƣ: Kinh, Hoa, Ngái, Sán Dìu thuộc hệ ngôn ngữ Hán, Việt - Mƣờng [19]. 1.3.3. Các khu chức năng khác * Khu Trung tâm văn hóa và khu vui chơi giải trí: Diện tích 125, 22 ha, nằm ở trung tâm của Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam, kết nối với cổng chính và các khu chức năng. Đây là một trung tâm hoạt động văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí hiện đại, đa chức năng nhƣng mang đậm nét văn hóa dân tộc [19]. * Khu di sản văn hóa thế giới: Với diện tích 46, 50 ha, đây là một quần thể tái hiện các công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới nhƣng với qui mô thu nhỏ nhƣ Vạn Lý Trƣờng Thành, tháp Effen, Kim tự tháp và là một trung tâm hoạt động văn hóa sinh động giới thiệu di sản văn hóa đặc sắc của các nền văn minh trên thế giới. Các chỉ tiêu quy hoạch của khu là: Mật độ xây dựng không quá 23%; Tầng cao trung bình 1, 7 tầng; * Khu công viên bến thuyền: Quy mô diện tích 341, 53 ha( gồm 310, 04 ha mặt nƣớc hồ Đồng Mô và 31, 49 ha đất có mặt nƣớc). Đây là khu vực dịch vụ du lịch, nơi tổ chức các hoạt động tham quan, thể thao, du lịch dịch vụ gắn với mặt nƣớc hồ Đồng Mô và cổng B làng VHDL các DTVN. Khu có chỉ tiêu quy hoạch là mật độ xây dựng không quá 20% (cho phần mặt đất) [19]. * Khu cây xanh mặt nước hồ Đồng Mô: Quy mô diện tích 600, 9 ha (đƣợc xác định bằng phần diện tích mặt nƣớc có ranh giới cốt nƣớc + 20, 0 m của hồ Đồng mô). Đây là không gian sinh thái cảnh quan, mặt nƣớc hồ Đồng Mô có sử dụng khai thác phát triển một số hoạt động sinh thái phù hợp để tăng tính hấp dẫn cảnh quan, cây xanh, mặt nƣớc trên cơ sở đảm bảo môi trƣờng và phát triển du lịch bền vững. [19] * Khu dịch vụ du lịch tổng hợp: Quy mô diện tích 138, 89ha. Đây là khu phức hợp các dịch vụ du lịch tổng hợp, thể thao có quy mô lớn để khai thác có hiệu SV: Nguyễn Thị Duyên Page 20
  21. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” quả không gian cảnh quan tự nhiên, tăng tính hấp dẫn của dự án, thu hút đầu tƣ phát triển. Các chỉ tiêu quy hoạch của khu: Mật độ xây dựng không quá 23%, Tầng cao trung bình 3, 5 tầng. [19] * Khu quản lý điều hành văn phòng: Quy mô diện tích 78, 5ha, bao gồm: khu 1 rộng 10, 53 ha và khu 2 rộng 67, 97ha. Khu 1 là khu văn phòng, quản lý điều hành trung tâm toàn Làng VHDL các DTVN; Khu 2 là khu nhà công vụ của cán bộ nhân viên của Làng VHDL các DTVN thực hiện nhiệm vụ quản lý, khai thác, vận hành thƣờng xuyên; là nơi ăn ở, sinh hoạt của đồng bào trong cả nƣớc trong các hoạt động thƣờng xuyên, theo các dịp lễ hội nhằm tái hiện đời sống lao động sản xuất, sinh hoạt văn hóa lễ hội của 54 dân tộc và là nơi đón tiếp các đoàn khách trong nƣớc và quốc tế tới tham quan hàng năm. Các chỉ tiêu quy hoạch dự kiến: Khu 1- khu quản lý điều hành văn phòng: Mật độ xây dựng không quá 22%, Tầng cao trung bình là 3, 0 tầng; Khu 2 - khu nhà công vụ và đón tiếp: Mật độ xây dựng không quá 28, 0%, Tầng cao trung bình là 6, 0 tầng [19]. Mặc dù có qui hoạch tổng quan nhƣ vậy, nhƣng phần lớn các khu chức năng tại Làng VHDL các DTVN vẫn chƣa đƣợc hoàn thành và đang đƣợc kêu gọi hợp tác đầu tƣ, cụ thể là: 1. Khu Trung tâm văn hóa và vui chơi giải trí: kêu gọi các dự án đầu tƣ Tổ hợp vui chơi giải trí; Dự án đầu tƣ trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật biểu diễn; Dự án đầu tƣ trong lĩnh vực thể thao có gắn với mặt nƣớc hồ Đồng Mô. 2. Khu Dịch vụ, du lịch tổng hợp: kêu gọi đầu tƣ Phức hợp các dịch vụ thể thao, nghỉ dƣỡng, chăm sóc sức khoẻ; Các khách sạn, biệt thự cao cấp, có sử dụng mặt nƣớc hồ Đồng Mô. SV: Nguyễn Thị Duyên Page 21
  22. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” 3. Khu Di sản văn hóa thế giới: kêu gọi Các dự án đầu tƣ giới thiệu các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của thế giới; Các dự án đầu tƣ giới thiệu các tinh hoa văn hóa của nhân loại. 4. Khu Công viên bến thuyền và Khu cây xanh mặt nƣớc hồ Đồng Mô: kêu gọi các dự án đầu tƣ trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch có gắn với mặt nƣớc hồ Đồng Mô; Phức hợp các dịch vụ nghỉ dƣỡng, chăm sóc sức khoẻ có gắn với mặt nƣớc hồ Đồng Mô. Ngay cả Khu các Làng dân tộc, cho đến nay là khu chức năng đƣợc nhà nƣớc đầu tƣ hoàn thiện và hoàn chỉnh nhất, cũng đang kêu gọi đầu tƣ một số hạng mục mới, cụ thể là: Khu đón tiếp khách và dịch vụ: Là nơi trƣng bày và bán các sản phẩm đặc trƣng của mỗi dân tộc, hội chợ mua bán quà tặng, các cửa hàng ăn đồ dân tộc, các thuyền xƣa của các dân tộc, làng nghề làm thuyền, khu câu cá, . Khu nghi lễ dân gian và biểu tƣợng các dân tộc: Những công trình mang tính biểu tƣợng, xác định sự hiện diện của các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Khu lễ hội lịch sử: Nơi sẽ diễn ra các hoạt động Hội mùa, biểu diễn và thể thao dân tộc, với các không gian đa năng, phù hợp với nhiều chủ đề, phục vụ các hoạt động đông ngƣời nhƣ: biểu diễn, lễ hội, trò chơi, thể thao với quy mô hoành tráng, hấp dẫn. Khu nghi lễ thờ tổ: Bao gồm trung tâm nghi lễ thờ tổ, khu truyền thuyết Âu Lạc, công viên không gian, trung tâm nghi lễ hội mùa, khu vƣờn điêu khắc dân gian, tháp vọng cảnh . SV: Nguyễn Thị Duyên Page 22
  23. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” Khu Lâm viên: Bao gồm các khu vực trồng cây xanh, mặt nƣớc tạo cho du khách có đƣợc cảm giác hòa mình vào thiên nhiên trong lành. Hy vọng trong tƣơng lai gần, với sự quan tâm của nhà nƣớc, sự nỗ lực không ngừng của Ban quản lý Làng VHDL các DTVN, cùng với sự quan tâm của các nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc cũng nhƣ của những ngƣời có tâm với dự án bảo lƣu, giữ gìn những vốn quí của văn hóa dân tộc, một mô hình Làng VHDL các DTVN hoàn chỉnh sẽ đƣợc hoàn thành, trở thành một trong những trung tâm văn hóa du lịch lƣớn của cả nƣớc, là điểm dừng chân không thể thiếu của mỗi du khách khi đến với thủ đô Hà Nội - Việt Nam. Tiểu kết chƣơng 1 Chƣơng 1 của đề tài đã tổng quan đƣợc Làng VHDL các DTVN, quá trình hình thành và phát triển cũng nhƣ công tác quản lý Làng VHDL các DTVN. Chƣơng 1 có cái nhìn hoàn chỉnh về quy hoạch của Làng VHDL các DTVN. Những kết quả nghiên cứu của chƣơng 1 sẽ là tiền đề cho những nghiên cứu sẽ đƣợc triên khai ở chƣơng 2 và chƣơng 3. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc, 54 dân tộc anh em đã đoàn kết một lòng, vƣợt qua muôn vàn khó khăn gian khổ để xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nƣớc; đồng thời không ngừng sáng tạo, trao truyền, bồi đắp nền văn hóa Việt Nam, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, kết tinh thành giá trị văn hóa truyền thống, mang bản sắc dân tộc Việt Nam hết sức đặc sắc, độc đáo. Ðảng và Nhà nƣớc ta luôn chú trọng thực hiện nhất quán chính sách bình đẳng, đại đoàn kết các dân tộc, quan tâm chăm lo phát triển văn hóa, xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nƣớc. Các chủ SV: Nguyễn Thị Duyên Page 23
  24. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” trƣơng, chính sách phát triển văn hóa ngày càng đƣợc hoàn thiện, nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đẩy mạnh giao lƣu quốc tế, xây dựng những giá trị văn hóa mới, đi đôi với việc tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cũng khẳng định: Hoạt động giao lƣu văn hóa giữa các dân tộc, các địa phƣơng, vùng, miền, tôn vinh bản sắc văn hóa của các dân tộc sẽ góp phần tích cực trong bảo tồn, quảng bá và phát triển văn hóa Việt Nam, tăng cƣờng sức mạnh khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam và tạo động lực cho sự phát triển phồn vinh của đất nƣớc. CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH TẠI LÀNG VĂN HÓA DU LỊCH CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM 2. 1. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch Làng VHDL các DTVN đƣợc xây dựng ở Đồng Mô, thị xã Sơn Tây, Hà Nội. Sơn Tây là một thị xã giàu tiềm năng du lịch, cộng với cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn là lợi thế lớn nhất để đầu tƣ phát triển du lịch tại đây. Thị xã Sơn Tây đƣợc SV: Nguyễn Thị Duyên Page 24
  25. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” công nhận là đô thị loại III ngày 30/5/2006 và đã đƣợc thủ tƣớng chính phủ ký quyết định nâng cấp lên thành phố Sơn Tây trực thuộc tỉnh Hà Tây ngày 2/8/2007. Ngày 1/8/2008, cùng với toàn bộ tỉnh Hà Tây, thành phố Sơn Tây đƣợc nhập về thủ đô Hà Nội, ngày 8/5/2009, Chính phủ ra nghị quyết chuyển thành phố Sơn Tây thành thị xã Sơn Tây trực thuộc Hà Nội. Đây là thuận lợi cơ bản nhất giúp cho thị xã Sơn Tây có đƣợc sự quan tâm nhiều hơn của nhà nƣớc và các dự án đầu tƣ vào các lĩnh vực khác nhau trong đó có lĩnh vực du lịch. Nhờ có sự quan tâm của nhà nƣớc và các cấp chính quyền mà nơi đây đã và đang đƣợc đầu tƣ hệ thống cơ sở hạ tầng khá tốt nhƣ hệ thống đƣờng giao thông, hệ thống điện nƣớc và các công trình khác nhằm phục vụ nhân dân và cũng là để phát triển du lịch. Thuận lợi về mặt cơ sở hạ tầng của thị xã Sơn Tây cũng là lợi thế chung của Làng VHDL các DTVN. 2. 1. 1. Cơ sở hạ tầng 2.1.1.1. Mạng lưới giao thông Một trong những điều kiện quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của du lịch là cơ sở hạ tầng của khu vực. Toàn bộ hạ tầng chung của dự án nhƣ trục đƣờng trung tâm, bãi để xe, hệ thống điện nƣớc, cảnh quan cây xanh chung sẽ đƣợc nhà nƣớc Việt Nam đầu tƣ. Bên cạnh đó, Làng VHDL các DTVN nằm trong khu vực có một mạng lƣới giao thông vô cùng thông thoáng và thuận lợi. Cụ thể: Về phía Tây Nam, Làng VHDL các DTVN tiếp giáp với tuyến đƣờng Láng – Hòa Lạc kéo dài, kết nối cổng chính của Làng với các nút giao thông khác đảm bảo giao thông an toàn và thuận tiện. Về phía Đông Bắc có đƣờng quốc lộ 21 tiếp giáp cổng phụ của Làng VHDL các DTVN nhằm tạo khả năng tiếp cận từ nhiều hƣớng. Về phía Bắc, không có đƣờng bộ nhƣng thay vào đó là cảng đƣờng sông trên địa bàn thị xã Sơn Tây, tạo cho Làng có khả năng đƣa đón khách du lịch tới bằng SV: Nguyễn Thị Duyên Page 25
  26. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” đƣờng thủy. Tuy nhiên, hiện trạng khả năng khai thác đƣa đón khách còn hạn chế, cần đƣợc nâng cấp để khai thác nhiều hơn trong tƣơng lai. Đồng thời mạng lƣới giao thông nội bộ của Làng cũng đang đƣợc khẩn trƣơng xây dựng và hoàn thành. Về cơ bản mạng lƣới giao thông nội bộ kế thừa quy hoạch hạ tầng giao thông trong dự án điều chỉnh hệ thống hạ tầng kỹ thuật chung Làng VVHDL các DTVN đƣợc duyệt năm 2007. Theo nhƣ đó thì, đƣờng trục giao thông chính lối toàn bộ các khu chức năng trong Làng VHDL các DTVN có mặt cắt 12, 5 m và chiều dài 9km ; bên cạnh đó là đƣờng kĩ thuật nối từ khu dịch vụ - du lịch chạy qua khu vực cổng chính khu trung tâm hoạt động văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí, khu các Làng dân tộc đến khu di sản văn hóa Thế giới. Bên trong từng khu chức năng cũng có hai tuyến đƣờng: Đƣờng trục chính và Đƣờng cảnh quan (đƣờng nhỏ dành cho ngƣời đi bộ). Ngoài ra, khi dự án đi vào giai đoạn hoàn thiện sẽ có thêm đƣờng monoral (tàu du lịch trên cao) chạy theo tuyến khép kín nối giữa các khu chức năng với nhau đồng thời điều chỉnh bổ sung đƣờng (quy mô làn 2 xe) nối kết khu các làng dân tộc và khu quản lý điều hành, văn phòng [19]. Bên cạnh hệ thống đƣờng giao thông bên ngoài và nội bộ, nhằm đảm bảo không xảy ra tình trạng ách tắc giao thông vào dịp tổ chức các sự kiện văn hóa du lịch lớn, Ban quản lý Làng VHDL các DTVN đã xem xét xây dựng tới ba bãi đỗ xe. Bãi đỗ xe số 1 đƣợc thiết kế hiện đại trên diện tích 5 ha tại khu vực cổng chính, có hệ thống cầu vƣợt và đƣờng ngầm cho ngƣời đi bộ ; Bãi đỗ xe thứ 2 có diện tích 1, 8 ha tại khu các làng dân tộc và Bãi đỗ xe thứ 3 có diện tích 2ha tại khu bến thuyền [19]. 2.1.1.2. Hệ thống thông tin liên lạc SV: Nguyễn Thị Duyên Page 26
  27. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” Theo thống kê năm 2011 trên địa bàn thành phố Sơn Tây đã đặt hơn 4000 máy điện thoại cố định. Tổng số máy điện thoại cố định trên địa bàn của thị xã đến năm 2012 là 20. 000, số ngƣời sử dụng điện thoại là 50/100 ngƣời dân. Bên cạnh đó, cũng đã có 4000 hợp đồng đăng kí sử dụng thuê bao internet trên toàn địa bàn của thị xã và 2 đơn vị truyền hình cáp đƣợc cấp giấy phép đi vào hoạt đông góp phần nâng cao dân trí cho ngƣời dân địa phƣơng. Với hệ thống thông tin liên lạc rộng khắp thị xã Sơn Tây là điều kiện thuận lợ để phát triển du lịch và cũng là điều kiện tốt cho ngƣời dân địa phƣơng và khách du lịch khi đến cƣ trú và tham quan tại Làng VHDL các DTVN. [33] 2.1.1.3. Hệ thống cấp thoát nước Hiện nay 100% hộ gia đình trên địa bàn thị xã Sơn Tây đƣợc sử dụng nguồn nƣớc sạch cho hoạt động sinh hoạt hàng ngày trong đó có 60% sử dụng nguồn nƣớc máy. Công suất khai thác của nhà máy nƣớc tại đây đạt 4. 8 triệu m3 tƣơng đƣơng đạt 109% kế hoạch năm. [NTD?] Hệ thống nƣớc máy của thị xã đã góp phần rất lớn đảm bảo yêu cầu sử dụng nƣớc sạch của nhân dân trong vùng đồng thời đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. Hơn thế nữa, việc sử dụng nƣớc đã qua xử lý còn liên quan trực tiếp đến tình trạng sức khỏe của khách du lịch trong thời gian lƣu trú tại địa phƣơng. Vì vậy đây cũng chính là điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch của Làng VHDL các DTVN. Cụ thể nƣớc sinh hoạt của Làng văn hóa đƣợc cấp từ hệ thống cấp nƣớc sông Đà - Hà Nội với điểm đầu nối nằm cách cổng chính Làng VHDL các DTVN khoảng 4km, trong Làng có bể chứa nƣớc sinh hoạt dung tích tới 2000m3, có trạm bơm cấp nƣớc sinh hoạt riêng đồng thời còn có hệ thống nƣớc cấp phục vụ cho cứu hỏa, rửa đƣờng, tƣới cây sử dụng nƣớc từ hồ Đồng Mô qua 2 trạm bơm. Về hệ thống thoát nƣớc mƣa đƣợc thiết kế cho từng khu vực riêng biệt và thoát theo từng lƣu vực. Tại các khu chức năng, hệ thống thoát nƣớc mƣa đƣợc quy SV: Nguyễn Thị Duyên Page 27
  28. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” hoạch riêng biệt với hệ thống thoát nƣớc thải. Hệ thống thoát nƣớc mƣa đƣợc chia thành 4 lƣu vực chính, nƣớc mƣa sẽ tự chảy dọc theo hệ thống cống ngầm kết hợp với rãnh thu có nắp đan và mƣơng hở để xả ra suối tự nhiên và xả vào hồ Đồng Mô. Trong khi đó hệ thống thoát nƣớc thải đƣợc thiết kế tách riêng hoàn toàn với hệ thống nƣớc mƣa. Nƣớc thải đƣợc thoát và xử lý cục bộ tại khu chức năng và đạt tiêu chuẩn Việt Nam trƣớc khi xả vào hồ Đồng Mô. Nƣớc thải từ các công trình công cộng xử lý tại chỗ qua các bể tự hoại, bể phốt sau đó đƣợc thu gom vào hệ thống thoát nƣớc thải dẫn về trạm xử lý đặt trong các khu. Đối với các khu vực trung tâm văn hóa và khu vui chơi giải trí, khu các làng dân tộc đã và đang đầu tƣ xây dựng hệ thống xử lý nƣớc thải tuân theo các quy hoạch chi tiết đã đƣợc phê duyệt. Đối với khu Quản lý điều hành văn phòng đầu tƣ xây dựng trạm xử lý nƣớc thải ngay trong giai đoạn đầu, không xả trực tiếp ra hồ Đồng Mô [19]. 2.1.1.4. Mạng lưới cấp điện Hệ thống điện của thị xã Sơn Tây trong những năm qua không ngừng đƣợc đầu tƣ, nâng cấp có đƣợc những tiến bộ và phát triển mạnh hơn trƣớc, góp phần đảm bảo cho nhu cầu sinh hoạt của ngƣời dân, quá trình phát triển du lịch và các ngành kinh tế khác của thành phố. Hiện trạng hệ thống điện của thị xã tƣơng đối hoàn chỉnh và phủ kín toàn bộ các xã phƣờng. Trạm hạ thế 110 KV đến 35 (10 )KV trung gian E7 Xuân Khanh với 3 máy biến áp với tổng công suất 96. 000 KVA có nguồn điện tƣơng đối đảm bảo. Dự báo phụ tải: Tổng công suất tiêu thụ của Làng VHDL các DTVN khoảng 124 MCA. Nguồn điện: sử dụng tuyến đƣờng dây 110 KV - Hà Đông – Xuân Thanh do công ty điện lực quản lý cấp cho trạm biến áp 110/22 KV của Làng VHDL các DTVN có vị trí nằm phía tây của Làng văn hóa Về phần chiếu sáng các khu vực sẽ thực hiện theo từng dự án riêng, có lƣu ý đến việc lựa chọn phƣơng thức chiếu sáng đảm bảo độ chiếu sáng cần thiết, tạo tính SV: Nguyễn Thị Duyên Page 28
  29. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” thẩm mỹ, tạo vẻ đẹp trung hòa với cảnh quan của một khu du lịch văn hóa. Trong đó, đƣờng giao thông chính trong Làng văn hóa sử dụng hệ thống chiếu sáng đèn thủy ngân cao áp hoặc đèn hơi Natri; với đƣờng 11 m bố trí chiếu sáng hai phía [19]. 2.1.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch Cơ sở vật chất kỹ thuật đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình tạo ra và thực hiện sản phẩm du lịch cũng nhƣ quyết định khai thác tiềm năng du lịch nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch. Chính vì vậy nên sự phát triển của ngành du lịch bao giờ cũng gắn liền với việc xây dựng và hoàn thiện cơ sở vật chất kĩ thuật. Du lịch là ngành “sản xuất” nhiều và đa dạng về thể loại dịch vụ, hàng hóa, nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch. Do vậy cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch gồm nhiều thành phần khác nhau. Việc tiêu dùng dịch vụ, hàng hóa du lịch đòi hỏi phải có một hệ thống cơ sở công trình đặc biệt, trong đó tài nguyên du lịch chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong tiêu dùng của khách du lịch. 2.1.2.1. Cơ sở lưu trú Tính đến nay, tổng số cơ sở lƣu trú trên địa bàn thị xã Sơn Tây là 70 (trong đó có 40 khách sạn và 30 nhà nghỉ) với tổng số phòng là 985 phòng và 2050 giƣờng. Trong số các khách sạn đƣợc xếp hạng có 17 cơ sở đƣợc xếp hạng từ 1-2 sao và một số cơ sở đang đề nghị đƣợc xếp hạng 3 – 4 sao nhƣ các khách sạn Yên Bình, Khách sạn Sơn Tây . Tuy nhiên, việc xếp hạng còn đòi hỏi nhiều thời gian thẩm tra và nâng cấp vì những khách sạn này cho đến nay vẫn chƣa đáp ứng đƣợc các dịch vụ bổ sung mà một khách sạn cao cấp cần phải có nhƣ có hệ thống nhà hàng, bể bơi, phòng tập đa chức năng, khu massage sauna Bảng thống kê số lƣợng cơ sở lƣu trú trên địa bàn thị xã Sơn Tây năm 2012 SV: Nguyễn Thị Duyên Page 29
  30. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” Stt Các chỉ tiêu Số cuối kỳ 1. Tổng số khách sạn, nhà nghỉ 70 2. Khách sạn 2 sao 06 3. Khách sạn 1 sao 11 4. Tổng số phòng nghỉ 985 5. Tổng số giƣờng nghỉ 2. 050 6. Xe ô tô 40 7. Tổng số lao động trực tiếp 2. 400 (Nguồn: Phòng Văn hóa thể thao và du lịch Sơn Tây) Với hệ thống nhà nghỉ, khách sạn nêu trên đã đáp ứng đƣợc phần lớn nhu cầu ở lại qua đêm của du khách. Hệ thống cơ sở vật chất tạm thời phục vụ đƣợc cho các đối tƣợng khách đa dạng, có nhu cầu và khả năng chi trả khác nhau. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho du khách đến tham quan nghỉ ngơi, vui chơi giải trí tại địa phƣơng. Trong tƣơng lai không xa, khi hoạt động du lịch tại Làng VHDL các DTVN phát triển mạnh mẽ, các cơ sở lƣu trú này sẽ đóng góp quan trọng vào việc cung ứng dịch vụ cho du khách. Sau đây, xin điểm một số khách sạn tiêu biểu trên địa bàn thị xã Sơn Tây: - Khách sạn Thiên Mã: nằm sát ven hồ theo đƣờng du lịch Đồng Mô với 24 phòng ngủ hiện đại, có phòng hội thảo lớn có sức chức tầm 150 ngƣời, phòng ăn rất phù hợp cho các cuộc hội thảo, ngoài ra còn có 3 phòng ăn vip; 1 phòng ăn trung tâm, 1 phòng ăn dã chiến (phòng nhà lá). [32]. SV: Nguyễn Thị Duyên Page 30
  31. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” - Khách sạn Hải Cảng: có địa chỉ tại Đồng Mô- Sơn Tây với hệ thống phòng nghỉ đƣợc thiết kế trang nhã lịch sự bao gồm điều hòa 2 chiều, tivi, truyền hình cáp, wifi. Khách sạn cũng đã trang bị phòng hội thảo tiện nghi, hiện đại dành cho từ 200 khách. Ngoài ra còn có bể bơi, massage ngoài trời, sân tập gôn, sân đá bóng và khu dành cho các hoạt động thể thao khác nhƣ bi a, bóng bàn, cầu lông, câu cá, đi xe đạp đôi, hát karaoke, khu vui chơi đồi cỏ, đu quay, cầu trƣợt, hố cát dành cho trẻ em. Khách sạn có nhà hàng là Khu nhà sàn thóang mát có sức chứa 250 khách tọa lạc bên hồ. Đến với nhà hàng Hải Cảng quý khách có thể đặt ăn theo sở thích riêng biệt hoặc lựa chọn món ăn từ thực đơn phong phú với hơn 150 món ăn. Một số món ăn dân dã: ốc nấu, gà nồi đất, cá nheo nƣớng lá chuối, đuôi bò hầm rƣợu vang [32]. - Khách sạn Yên Bình: Tọa lạc ngay tại quốc lộ 21, đƣờng Hòa Lạc – Sơn Tây, bao quanh là các điểm du lịch nhƣ hồ Đồng Mô, sân Gofl Đồng mô, Làng VHDL các DTVN. Khách sạn cách trung tâm Hà Nội 40km, du khách có thể đến với khách sạn đi theo đại lộ Thăng Long hoặc đƣờng 32 rất thuận lợi. Đây thực sự là một địa điểm lí tƣởng để nghỉ ngơi, tham quan du lịch, phù hợp với việc mua sắm và đi lại của quý khách. Với 5 tầng và 30 phòng nghỉ, các phòng đƣợc trang bị điện thoại, wifi miễn phí, bồn tắm nóng lạnh, thang máy hiện đại cùng các dịch vụ nhƣ: massage, xông hơi, sục xoáy thuốc bắc Ngoài ra khách sạn còn cho thuê xe du lịch chất lƣợng từ 4 - 45 chỗ đƣa đón quý khách ra sân bay và tham quan du lịch các địa phận lân cạn, đăng kí vé máy bay, nhận tour du lịch trọn gói Đây là một trong những khách sạn dƣợc đánh giá đạt tiêu chuẩn 3 sao ở Sơn Tây [32]. - Khách sạn Sơn Tây: Nằm ở Sơn Lộc – Sơn Tây - Hà Nội, khách sạn Sơn Tây có một địa thế thuận lợi về giao thông với 18 phòng nghỉ đạt tiêu chuẩn 2 sao cùng với hệ thống nhà ăn với sức chứa trên 800 khách một lúc. Khách sạn Sơn Tây là một điểm dừng chân lý tƣởng cho quý khách. Tiện nghi trong phòng: Điều hòa, SV: Nguyễn Thị Duyên Page 31
  32. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” bình nóng lạnh, bàn ghế, tủ đồ, tủ lạnh, bồn tắm, tivi, wifi cùng các dịch vụ nhà hàng, quán bar [32?]. 2.1.2.2. Nhà hàng và các công trình khác Cùng với hệ thống nhà nghỉ, khách sạn, thị xã Sơn Tây còn có một hệ thống các nhà hàng với nhiều món ăn dân dã, đặc sản, góp phần đáp ứng nhu cầu của du khách khi đến với Sơn Tây nói chung và Làng VHDL các DTVN nói riêng. Một số nhà hàng tiêu biểu: - Nhà hàng lá cọ Minh Hoa tọa lạc ở Xuân Khanh - Sơn Tây – Hà Nội: đƣợc xây dựng trên diện tích 1000m2 với quy mô thiết kế kiến trúc hiện đại sang trọng nhƣng không kém phần truyền thống. Nhà hàng bao gồm 3 đại sảnh đãi tiệc hiện đại, không gian thóang đãng và một bãi đỗ xe an toàn, thuận tiện với tổng sức chứa lên đến 1200 khách. Bên cạnh đó với đội ngũ quản lý có năng lực, đầu bếp giỏi, tay nghề cao cùng với các nhân viên phục vụ chuyên nghiệp, nhiệt tình chắc chắn sẽ làm hài lòng quý khách. [32]. - Nhà hàng Hồng Giang: Địa chỉ ở Đƣờng tránh 32, Vân Gia, Sơn Tây, Hà Nội. Nhà hàng Hồng Giang có không gian rộng, nằm ở trên đồi, có bãi đỗ xe rộng, an toàn. Nhà hàng đƣợc thiết kế đẹp cùng với đội ngũ đầu bếp chuyên nghiệp luôn phục vụ các món ăn đặc sản nhƣ: Gà đồi, cá song, Baba, lẩu nấm Tây Tạng. [32]. - Nhà hàng Phƣơng Kha- quán cơm Việt Nam: Địa chỉ ở Đƣờng Đôi - Đồng Mô - Sơn Tây – Hà Nội. Nhà hàng Phƣơng Kha - Quán cơm Việt Nam nằm ngay cạnh cổng đƣờng vào sân golf Đồng Mô. Nhà hàng phục vụ nhiều món ăn ngon và rẻ. Đến với nhà hàng du khách sẽ đƣợc thƣởng thức những món đặc sản tƣơi sống nhƣ nheo om hoa chuối, cá nheo nƣớng, gà đồi . Với không gian thóang đạt cùng với đầu bếp chuyên nghiêp sẽ mang đến những món ăn ngon và đem tới sự hài lòng cho quý khách [32]. SV: Nguyễn Thị Duyên Page 32
  33. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” Ngoài ra, hiện nay trên địa bàn Sơn Tây còn có 5 siêu thị, 13 chợ xã, phƣờng cũng nhƣ có đầy đủ các công trình nhà văn hóa, trạm y tế . góp phần đáp ứng nhu cầu mua sắm và du lịch của nhân dân địa phƣơng và du khách. 2.2. Một số hoạt động du lịch đƣợc tổ chức tại Làng VHDL các DTVN 2.2.1. Lễ khai trương Làng VHDL các DTVN Ngày 19/9/2010, tại Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội đã diễn ra Lễ khai trƣơng Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam với nhiều hoạt động phong phú chào mừng đợt kỉ niệm đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Đây cũng là hoạt động mở đầu cho các hoạt động quản lý, khai thác, vận hành Làng VHDL các DTVN, góp phần tôn vinh bản sắc văn hóa của các dân tộc Việt Nam đồng thời tăng cƣờng sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Ngay từ sáng sớm, từ khắp các nẻo đƣờng, nƣờm nƣợp ngƣời, xe nô nức kéo về khu du lịch Đồng Mô để tham gia vào sự kiện trọng đại này. Đúng 9 giờ sáng, đông đảo nhân dân tham dự lễ hội, các nghệ nhân, diễn viên các đoàn nghệ thuật đại diện cho 54 dân tộc anh em đã tề tựu trƣớc cổng làng để tham gia vào nghi thức đặc biệt quan trọng mở đầu cho Lễ khai trƣơng Làng VHDL các DTVN - Lễ mở cổng Làng. Tham gia nghi thức Lễ mở cổng Làng có Phó Thủ tƣớng thƣờng trực Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch UBTƢ MTTQ Việt Nam Huỳnh Đảm, Bộ trƣởng Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch Hoàng Tuấn Anh, Bộ trƣởng Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc Giàng Seo Phử, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thƣ ký UBTƢ MTTQ Việt Nam Vũ Trọng Kim, Phó Chủ tịch UBTƢ MTTQ Việt Nam Hà Văn Núi . Phát biểu tại Lễ mở cổng Làng, ông Vũ Trọng Kim nhấn mạnh: Kể từ giờ phút này, nơi đây sẽ là mái nhà chung của cộng đồng 54 dân tộc anh em trên đất nƣớc ta và của cộng đồng ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài. Đây là nơi biểu hiện sinh động sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của tình hữu nghị với bạn bè quốc tế thông qua các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch và bảo tồn phát huy SV: Nguyễn Thị Duyên Page 33
  34. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” những di sản văn hóa của dân tộc Để Làng VHDL các DTVN thực sự là ngôi nhà chung của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam, Phó Chủ tịch Vũ Trọng Kim mong muốn, các nhân sỹ trí thức, già làng, trƣởng bản, nghệ nhân dân gian, các làng nghề, phố nghề, hội nghề tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền vận động nhân dân đóng góp, tham gia vào nội dung hoạt động và quảng bá cho ngôi nhà chung, để nơi đây xứng đáng là trung tâm hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch của quốc gia và quốc tế. Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc, MTTQ Việt Nam, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thƣ ký UBTƢ MTTQ Việt Nam Vũ Trọng Kim đã tuyên bố mở cổng Làng VHDL các DTVN - chào mừng Đại lễ kỷ niệm 1. 000 năm Thăng Long - Hà Nội, trong tiếng cồng chiêng vào hội rền vang [21]. Trong buổi lễ đã diễn ra nhiều hoạt động văn hóa độc đáo thu hút rất đông nhân dân từ nhiều nơi trong cả nƣớc về tham dự nhƣ: Lễ mở cổng Làng, lễ vinh danh một số làng nghề truyền thống của 54 dân tộc anh em; trƣng bày triển lãm đặc trƣng văn hóa cộng đồng 54 dân tộc; trƣng bày giới thiệu các làng nghề, ẩm thực, trò chơi dân gian Ngày hội vui càng thêm vui bởi nhiều màu sắc với chƣơng trình giao lƣu của các nghệ nhân, nghệ sĩ các dân tộc đến từ mọi vùng, miền. Cùng các làn điệu Quan họ mƣợt mà của các liền anh, liền chị vùng quê Kinh Bắc, các nghệ nhân Tày, Nùng (Lạng Sơn) cũng mang đến “đặc sản” hát then, đàn tính rộn ràng, náo nức. Không gian quảng trƣờng Tây Nguyên bỗng chốc trở nên cuốn hút với các cô gái Mƣờng và những hòa âm cồng chiêng sâu lắng, các thiếu nữ Ê Đê lại rộn rã với những vũ điệu xoang thấm đẫm hồn dân tộc [21] Tối cùng ngày, sau phần lễ, phần hội đƣợc tiếp diễn bằng chƣơng trình nghệ thuật đặc sắc với chủ đề: “Phác hoạ bức tranh thu nhỏ của đất nƣớc Việt Nam tƣơi đẹp - nhịp sống trẻ trung - vui cùng bầu bạn - hƣớng về Đại lễ” đƣợc thể hiện sống động, chân thực, hấp dẫn, đậm tính nghệ thuật. Chƣơng trình có sự tham gia của gần 600 diễn viên, trong đó có SV: Nguyễn Thị Duyên Page 34
  35. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” nhiều nghệ nhân các dân tộc. Kết thúc lễ khai trƣơng là màn bắn pháo hoa ấn tƣợng ngay trên hòn đảo “Việt Nam gấm hoa” [22]. Đƣợc biết, Lễ khai trƣơng Làng VHDL các DTVN đã thu hút khoảng 3000 du khách đến tham quan trực tiếp với gần 600 diễn viên và đại diện đoàn ngoại giao cũng nhƣ của các tổ chức quốc tế đến từ 40 quốc gia trên thế giới [21], [22]. 2.2.2. Festival Thanh niên và Ngày hội các dân tộc Việt Nam - 4/2011 Ngày 17/4/2011, Festival thanh niên các dân tộc Việt Nam đã diễn ra tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam, Hà Nội với hơn 300 đại biểu đại diện cho thanh niên các dân tộc Việt Nam cùng tham gia sự kiện này. Festival lần này do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với Trung ƣơng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Ủy ban Dân tộc, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, thiếu niên và nhi đồng Quốc hội, Ban Tuyên giáo Trung ƣơng phối hợp tổ chức [9]. Trong suốt ngày 17/ 4, đã diễn ra các hoạt động hƣởng ứng Festival nhƣ hội trại “Thanh niên đoàn kết” và trình diễn trò chơi dân gian, thể thao truyền thống dân tộc. Đây là các hoạt động hào hứng, sôi nổi, giúp bạn trẻ các dân tộc thêm hiểu về phong tục, tập quán và văn hóa của nhau. Chiều 17/ 4/ 2011, các bạn trẻ đã tham gia hội thảo “Tuổi trẻ Việt Nam với sự nghiệp bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong thời kỳ đổi mới, hội nhập của đất nƣớc”. Hội thảo khẳng định bạn trẻ các dân tộc chính là lực lƣợng nòng cốt để đƣa đất nƣớc hội nhập với thế giới nhƣng không hòa tan, mỗi bạn trẻ mỗi dân tộc có trách nhiệm sƣu tầm, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc mình và các dân tộc anh em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Hội thảo cũng phát động cuộc vận động tuổi trẻ cả nƣớc hiến tặng hiện vật, đồ dùng, dụng cụ và các sản phẩm tự làm hoặc sƣu tầm [23]. Tối 17. 4 diễn ra điểm nhấn của Festival, đó là chƣơng trình tôn vinh Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam 19. 4, giao lƣu văn hóa nghệ thuật các dân tộc với SV: Nguyễn Thị Duyên Page 35
  36. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” chủ đề “Sắc màu tuổi trẻ - Sắc màu đoàn kết” (Chƣơng trình đƣợc truyền hình trực tiếp trên kênh VTV5, VTV6) với sự tham gia của khoảng 1. 500 bạn trẻ các dân tộc và ngƣời dân. Bên cạnh các tiết mục ca múa nhạc ca ngợi tinh hoa văn hóa các dân tộc, thể hình tình đoàn kết hƣớng tới tƣơng lai, đêm hội cũng diễn ra lễ trao học bổng Vừ A Dính cho 40 học sinh, sinh viên dân tộc vƣợt khó học tập tiến bộ. 2.2.3. Trình diễn trang phục truyền thống các dân tộc Việt Nam lần thứ nhất Tối ngày 28/11/2011, tại Quảng trƣờng Tây Nguyên thuộc Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam đã diễn ra cuộc trình diễn trang phục cộng đồng các dân tộc Việt Nam lần thứ nhất. Tham dự cuộc trình diễn có các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nƣớc: Đồng chí Uông Chu Lƣu - Ủy viên BCH Trung ƣơng Đảng, Phó Chủ tịch Quốc Hội; đồng chí Giàng Seo Phử - Ủy viên BCH Trung ƣơng Đảng, Bộ trƣởng Uỷ Ban Dân tộc; đồng chí Hoàng Tuấn Anh, Ủy viên BCH Trung ƣơng Đảng, Bộ trƣởng Bộ VHTTDL; đồng chí Hà Văn Núi - Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ƣơng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; đồng chí Danh Út - Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Quốc hội; đồng chí Nguyễn Thế Kỷ, Phó Trƣởng ban Tuyên giáo Trung ƣơng; đồng chí Nguyễn Thị Bích Ngọc - Phó Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội; ngài Him Chem - Bộ trƣởng Bộ Văn hóa Nghệ thuật Vƣơng quốc Campuchia và đại diện một số tổ chức quốc tế tại Hà Nội, các đồng chí lãnh đạo Ban, Bộ, ngành, đoàn thể trung ƣơng và địa phƣơng; các nhân sỹ, trí thức, già làng, nghệ nhân, trƣởng bản đại diện cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam [24]. Phát biểu khai mạc chƣơng trình, Bộ trƣởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Giàng Seo Phử cho biết: gần một năm qua Ủy ban Dân tộc đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các Bộ, Ngành Trung ƣơng, các địa phƣơng SV: Nguyễn Thị Duyên Page 36
  37. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” trong cả nƣớc tích cực xây dựng kế hoạch, đề án, tuyển chọn và tổ chức trình diễn trang phục của 54 dân tộc anh em từ cấp cơ sở ở các tỉnh, thành phố trong cả nƣớc và sự kiện trình diễn trang phục cộng đồng các dân tộc Việt Nam lần này đã đƣợc đồng bào cả nƣớc đón nhận, nhằm tôn vinh các giá trị văn hóa. Đồng chí cho rằng: đây cũng là dịp tổng kiểm kê việc bảo tồn, gìn giữ trang phục của từng dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam và khẳng định, mặc dù đây là lần đầu tiên tổ chức trình diễn trang phục truyền thống cộng đồng các dân tộc quy mô cấp quốc gia, nhƣng đƣợc các nƣớc trong khu vực đánh giá cao, các nhà nghiên cứu văn hóa, dân tộc học, văn nghệ sĩ, báo chí, bạn bè quốc tế quan tâm theo dõi. Điều đó, chứng tỏ đây là một chủ trƣơng đúng đắn, hợp lòng dân, khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nƣớc là: Tôn trọng, gìn giữ, phát huy các giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc anh em trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Đồng chí tin tƣởng, qua trình diễn trang phục truyền thống dân tộc lần này sẽ khơi dậy lòng tự hào dân tộc, biến sức mạnh văn hóa tinh thần thành sức mạnh vật chất, sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc, góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng một nƣớc Việt Nam “Dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” [24]. Chƣơng trình có sự tham gia của 255 thí sinh, đại diện cho 54 dân tộc thuộc 63 tỉnh, thành trong cả nƣớc. Các thí sinh đã trình diễn khoảng hơn 100 loại trang phục truyền thống của dân tộc mình (trang phục sinh hoạt, đám cƣới, lễ hội truyền thống), đi kèm đồ trang sức (nhƣ vòng cổ, vòng chân, tay, hoa tai ) theo đúng truyền thống, không đƣợc cách tân, lai tạp. Ngoài khả năng trình diễn, các thí sinh phải thể hiện đƣợc khả năng ứng xử cũng nhƣ sự hiểu biết về văn hóa dân tộc mình. Trong lần trình diễn này, Ban Tổ chức đã thành lập hội đồng thẩm định bao gồm các chuyên gia ở Làng VHDL các DTVN Việt Nam, Viện Dân tộc học và một số cơ quan liên quan để kiểm tra toàn bộ các trang phục gốc trƣớc khi trình diễn ở cấp quốc gia [25]. SV: Nguyễn Thị Duyên Page 37
  38. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” Đƣợc biết, đây là lần đầu tiên những trang phục nguyên bản với chất liệu, họa tiết hoa văn thêu đặc trƣng trong trang phục của các dân tộc đƣợc trình diễn trên sân khấu; từ trang phục của ngƣời Mông, Dao, Pà Thẻn, Lô Lô, Thái, Mƣờng, Tày, Nùng ở vùng núi phía Bắc, trang phục của ngƣời Ơ Đu, Bru-Vân Kiều, Tà Ôi, Ba Na, Ê Đê, Gia Rai ở miền Trung-Tây Nguyên đến trang phục của ngƣời Hoa, Chăm, Khơ Me ở đồng bằng sông Cửu Long. Đây thực sự là ngày hội của sắc màu văn hóa trang phục các dân tộc Việt Nam. Tỉnh Bắc Giang góp mặt cùng lễ hội là 02 đại diện dân tộc Sán Dìu đến từ huyện Lục Ngạn, thực sự là một nét riêng độc đáo đối với 53 dân tộc còn lại. Bên cạnh những trang phục đã trở nên quen thuộc nhƣ trang phục ngƣời Thái, ngƣời Mƣờng, ngƣời Khmer, ngƣời Chăm là những bộ trang phục lần đầu tiên ra mắt nhƣ trang phục của ngƣời Ơ Đu, Chứt, RagLay Đây là những dân tộc mà trang phục truyền thống đã biến mất khỏi đời sống cộng đồng từ lâu, nay đƣợc ngƣời dân tìm tòi, khôi phục lại để tham gia chƣơng trình Trình diễn trang phục truyền thống cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Sau hơn 6 tháng chuẩn bị, Trình diễn trang phục truyền thống cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã góp phần đáng kể vào việc khích lệ đồng bào các dân tộc khôi phục và gìn giữ các trang phục truyền thống. Dù vẫn còn một vài dân tộc thiểu số phải mặc trang phục phổ thông lên trình diễn, nhƣng phần lớn các trang phục mang đến chƣơng trình đều đƣợc Hội đồng thẩm định đánh giá cao về sự chính xác, gần gũi với trang phục gốc. Có thể nói việc Ban quản lý Làng VHDL các DTVN tổ chức một chƣơng trình trình diễn công phu trang phục truyền thống cộng đồng các dân tộc Việt Nam là việc làm hết sức cần thiết bởi trang phục dân tộc chính là dấu hiệu đầu tiên và nhanh nhất để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác, giữ đƣợc trang phục truyền thống chính là giữ đƣợc hồn cốt, bản sắc của cả một tộc ngƣời. Đồng thời màu sắc SV: Nguyễn Thị Duyên Page 38
  39. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” rực rỡ cùng những họa tiết thuê thùa, trang trí độc đáo và kiểu dáng vô cùng đa dạng của các bộ trang phục cho thấy khả năng thẩm mỹ và một đời sống tinh thần phong phú của đồng bào các dân tộc. Lễ hội Trình diễn trang phục truyền thống cộng đồng các dân tộc Việt Nam lần thứ nhất thể hiện chính sách của Ðảng và Nhà nƣớc về quyền bình đẳng, tôn trọng các dân tộc, là cơ hội cho các dân tộc trực tiếp giao lƣu, tìm hiểu và phát huy thế mạnh văn hóa tốt đẹp của nhau, tạo điều kiện để cộng đồng các dân tộc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của mình, đồng thời cũng là biện pháp để đƣa Nghị quyết Trung ƣơng 5 khóa VIII về: Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tiếp tục đi vào cuộc sống. 2.2.4. Liên hoan Văn hóa các dân tộc Việt Nam - 19/4/2012 Từ ngày 18 – 19/4/2012, tại Làng VHDL các DTVN đã diễn ra Liên hoan văn hóa các dân tộc Việt Nam do Ban Quản lý Làng VHDL các DTVN phối hợp với các cơ quan hữu quan tổ chức, nhằm đẩy mạnh giao lƣu, trao đổi văn hóa giữa các dân tộc, các địa phƣơng vùng miền, tạo không gian văn hóa đặc sắc, tiêu biểu tại “Ngôi nhà chung” của 54 dân tộc anh em. Ngoài ra, ban tổ chức cũng khẳng định, sự kiện là hoạt động ghi nhận những đóng góp tích cực của các cộng đồng dân tộc trong quá trình tham gia khai thác, vận hành Khu các làng dân tộc thuộc Làng VHDL các DTVN đồng thời Liên hoan còn là cơ hội quảng bá, giới thiệu hình ảnh của Làng tới du khách trong và ngoài nƣớc. Hƣớng tới mục tiêu tôn vinh, bảo tồn văn hóa, phát huy các giá trị văn hóa, quảng bá, đầu tƣ, phát triển các sản phẩm du lịch với các hoạt động hấp dẫn, mới lạ, thu hút mọi đối tƣợng khách thăm quan, theo đó, Liên hoan đã huy động 13 cộng đồng dân tộc từ tám tỉnh thành trong cả nƣớc, bao gồm: H’Mông, Tày (Hà Giang); Dao, Thái (Sơn La); Mƣờng (Hòa Bình); Nùng (Lạng Sơn); Ba Na, Gia Rai SV: Nguyễn Thị Duyên Page 39
  40. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” (Kon Tum); M’Nông (Đắk Nông), Ê Đê (Đắk Lắk); Chăm, Khơ Me (An Giang); Hoa (TP.Hồ Chí Minh) . Tại Liên hoan lần này sẽ có 8 nội dung hoạt động đƣợc tổ chức, bao gồm: Hội nghị sơ kết 03 năm thực hiện Quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ về "Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam” 19-4; Hội nghị Xúc tiến Đầu tƣ xây dựng sản phẩm văn hóa du lịch; Đêm hội tôn vinh văn hóa các dân tộc Việt Nam; Tổ chức chợ vùng cao phía Bắc; Chƣơng trình hoạt động của đại diện 13 cộng đồng dân tộc đƣợc diễn ra luân phiên định kỳ tại Làng Văn hóa (hoạt động lễ hội, trò chơi dân gian, tham gia thi đấu các môn thể thao: tu lu, bắn nỏ, đẩy gậy, kéo co ); Triển lãm Làng nghề dân gian truyền thống với khoảng 20 không gian trƣng bày tái hiện trên 10 làng nghề dân gian truyền thống: tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống, tranh đúc đồng, làm trống, gốm ; Trình diễn các trò chơi dân gian, thể thao giải trí; Hội trại Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Bộ VHTTDL [28]. Bên cạnh đó, Liên hoan còn có nhiều hoạt động cộng đồng bổ trợ khác nhƣ: trình diễn xe ô tô địa hình, đấu vật (Bắc Ninh), nhảy lửa (Pà Thẻn), võ thuật Lâm Sơn Động, võ Sáo (Bắc Giang, thi trƣợt pa-tanh, thi câu cá 13 cộng đồng dân tộc sẽ tham gia thi đấu ba môn thể thao dân tộc: Tu Lu, bắn Nỏ, đẩy gậy [27] Sáng ngày 19/04/2012, Lễ khai mạc "Phiên Chợ vùng cao phía Bắc” đã đƣợc diễn ra. Chợ vùng cao nằm trong khu các làng dân tộc I – nơi tái hiện khá đầy đủ không gian văn hóa của 28 cộng đồng các dân tộc vùng Đông Bắc, Tây Bắc. Chợ đƣợc xây dựng theo hình ảnh quen thuộc theo mô hình chợ vùng cao Đồng Văn – Hà Giang với kết cấu xây dựng bằng đá, trên sƣờn đồi. Chợ vùng cao tại Làng VHDL các DTVN là mô hình phiên chợ có thể phục vụ cho việc trao đổi các sản vật miền núi phía Bắc cho hầu hết các dân tộc Đông Bắc - Tây Bắc. Mô hình phiên chợ này dự kiến sẽ diễn ra một tháng một lần trong thời gian tới. Trong tổng thể 4 ngày diễn ra chợ Ban tổ chức sẽ tái hiện nhiều hình ảnh đặc trƣng của một phiên SV: Nguyễn Thị Duyên Page 40
  41. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” chợ vùng cao với việc mua bán hòa quyện âm nhạc, các điệu múa, các điệu nhảy và các trò chơi dân tộc đặc sắc. Bên cạnh không gian chợ Ban tổ chức cũng sẽ tổ chức khai đấu môn đấu vật với các vận động viên đến từ Bắc Ninh và Hà Nội. Chợ vùng cao lần này có sự tham gia trực tiếp của 6 cộng đồng dân tộc phía Bắc: H’Mông, Dao, Tày, Nùng, Mƣờng, Thái của các tỉnh Hà Giang, Lạng Sơn, Sơn La, Bắc Giang, Hòa Bình và đặc biệt là sự tham gia và giao lƣu của cộng đồng ngƣời Hoa đến từ thành phố Hồ Chí Minh. Du khách ghé chợ vùng cao sẽ tìm thấy những sản vật, đặc sắc nhƣ táo Điện Biên, thắng cố, vịt và lợn quay Bắc Giang, Lạng Sơn, rƣợu ngô Ngoài ra những sản phẩm quen thuộc đƣợc ƣa chuộng nhƣ rƣợu Kiên Thành phục vụ bà con đi chợ [30]. Một phiên chợ độc đáo, sôi nổi với tiếng vó ngựa, tiếng cƣời nói, tiếng kèn của ngƣời H’Mông đang diễn ra ngay tại Hà Nội. Thông qua phiên chợ đồng bào đã giới thiệu về những nét đẹp văn hóa truyền thống của mình. Bên cạnh Phiên chợ vùng cao, tối 19/4/2012, điểm nhấn của Liên hoan Văn hóa các dân tộc Việt Nam là Đêm hội tôn vinh văn hóa các dân tộc đã diễn ra hoành tráng tại khu vực sân khấu nổi - Khu các làng dân tộc. Với chủ đề "Vận hội năm Rồng - Ðại đoàn kết, khát vọng và thăng hoa", đêm hội tôn vinh văn hóa các dân tộc là một chƣơng trình nghệ thuật đặc sắc, hội tụ tinh hoa văn hóa dân tộc, khắc họa hình tƣợng Rồng bay lên cùng vận hội mới của đất nƣớc, hƣớng tới tầm nhìn 2015 - 2020. Sân khấu nổi trên mặt nƣớc hồ Ðồng Mô lung linh, huyền ảo cùng biểu tƣợng Ðền Hùng linh thiêng và những đóa sen hồng 54 cánh, thể hiện hình ảnh 54 dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; điểm nhấn đan xen là những hình ảnh các phiên chợ vùng cao, chợ nổi Nam Bộ và chợ đồng bằng và trung du Bắc Bộ bên những biểu tƣợng, di sản văn hóa vùng, miền nhƣ thánh địa Mỹ Sơn, tƣợng mồ Tây Nguyên. Chƣơng trình đêm hội là chƣơng trình biểu diễn nghệ thuật của hơn 100 diễn viên đến từ các đơn vị nghệ thuật và hơn 200 nghệ SV: Nguyễn Thị Duyên Page 41
  42. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” nhân của 14 cộng đồng dân tộc đại diện cho 54 cộng đồng dân tộc trong cả nƣớc [28]. 2.2.5. Ngày hội đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam từ ngày 20 - 23/11/2012 Ngay sau sự kiện Liên hoan văn hóa các dân tộc Việt Nam đƣợc tổ chức vào tháng 4, từ ngày 18 – 23/11/2012 tại Làng VHDL các DTVN lại diễn ra Ngày hội đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam. Vào đúng sáng ngày 22/11, tại không gian văn hóa dân tộc H’rê, Khu các làng dân tộc, đã diễn ra Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam với nhiều hoạt động mang ý nghĩa sâu sắc chào mừng Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam, Kỷ niệm 82 năm Ngày thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam và Khánh thành quần thể Tháp Chăm tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam. Tới dự Ngày hội có các đồng chí: Huỳnh Đảm, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng, Chủ tịch Uỷ ban Trung ƣơng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Hà Thị Liên, Phó Chủ tịch Uỷ ban Trung ƣơng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Hồ Anh Tuấn, Thứ trƣởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; các đồng chí Lãnh đạo Ban Quản lý Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam và gần 160 đại diện nhân sĩ, trí thức, nghệ nhân, đồng bào dân tộc Chăm, Raglai, H’rê đến từ các tỉnh, thành phố: Ninh Thuận, An Giang, Bình Thuận, Bình Định, Tây Ninh, Quảng Ngãi, TP Hồ Chí Minh [29]. Đánh giá cao ý tƣởng và công tác tổ chức Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Ban Quản lý Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam, đồng chí Huỳnh Đảm đề nghị: những năm tiếp theo, Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam tiếp tục tổ chức Ngày hội Đoàn kết các dân tộc, đƣa sự kiện này trở thành ngày hội truyền thống đại đoàn kết các dân tộc hàng năm của cộng đồng các dân tộc Việt Nam tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam. SV: Nguyễn Thị Duyên Page 42
  43. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” Với các nội dung chính: lễ khai mạc, giao lƣu văn hóa văn nghệ của cộng đồng các dân tộc, lễ mừng nhà mới dân tộc H’rê Ngày hội Đại đoàn kết các dân tộc mang ý nghĩa sâu sắc, là dịp ôn lại truyền thống của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phát huy tinh thần đại đoàn kết các dân tộc, để từ đó các dân tộc Việt Nam cùng quan tâm, chia sẻ, động viên, hỗ trợ nhau vƣơn lên trong cuộc sống Đặc biệt, cũng trong ngày 23/11/2012 đã diễn ra Lễ khánh thành quần thể Tháp Chăm tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam, đây đƣợc ghi nhận là 1 trong 10 sự kiện nổi bật của ngành văn hóa, thể thao và du lịch năm 2012. Quần thể Tháp Chăm lần đầu tiên đƣợc xây dựng nguyên mẫu theo tỷ lệ 1:1 tại Việt Nam, là một trong những công trình đƣợc xây dựng với nhiều tâm huyết, công sức và trí tuệ của Ban Quản lý, thợ thủ công, nghệ nhân, trí thức dân tộc Chăm. Cùng với Lễ khánh thành, nghi lễ truyền thống mở cửa tháp Chăm và lễ hội Ka tê cũng đƣợc tổ chức Các vị cả sƣ và đồng bào Chăm Ninh Thuận đã thực hiện nghi lễ truyền thống nhập linh cho quần thể Tháp Chăm, và từ nay, đồng bào Chăm trong cả nƣớc và du khách có thêm một địa chỉ tâm linh để dâng hƣơng và thực hiện các nghi thức tín ngƣỡng dân tộc tại Thủ đô. 2.2.6. Ngày hội “Sắc xuân trên mọi miền Tổ quốc” - 2013 Ngày 10/01/2013, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 108/QĐ-BVHTTDL về việc tổ chức các hoạt động mừng Đảng, mừng Xuân và Chủ tịch nƣớc chúc Tết cộng đồng các dân tộc Việt Nam tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam trong Ngày hội “Sắc xuân trên mọi miền Tổ quốc”. Theo đó, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch giao Ban Quản lý Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam phối hợp với Sở VHTTDL các tỉnh/thành phố: Hà Giang, Sơn La, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Bắc Giang, Hoà Bình, Thanh Hóa, Yên SV: Nguyễn Thị Duyên Page 43
  44. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” Bái, Trƣờng Trung cấp Đam San và các đơn vị liên quan tổ chức các hoạt động mừng Đảng, mừng Xuân và Chủ tịch nƣớc chúc Tết cộng đồng các dân tộc Việt Nam tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam trong Ngày hội “Sắc xuân trên mọi miền Tổ quốc”, thời gian từ ngày 18 đến ngày 21/02/2013 (mùng 9 đến 11 tháng Giêng) [24]. Ngày hội “Sắc xuân trên mọi miền Tổ quốc” tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam sẽ có sự tham gia của cộng đồng các dân tộc: Mông, Pà Thẻn, La Chí, Pu Péo, Cơ Lao, Lô Lô, Giáy, Bố Y (tỉnh Hà Giang); Xinh Mun, Kháng, La Ha, Lào (tỉnh Sơn La); Tày, Nùng (tỉnh Lạng Sơn); Dao, Sán Chay (tỉnh Tuyên Quang); Hoa, Ngái, Sán Dìu (tỉnh Bắc Giang); Mƣờng (tỉnh Hoà Bình); Thái, Thổ (Thanh Hóa); Khơ Mú, Phù Lá (tỉnh Yên Bái) và các dân tộc Giarai, Ê đê, Mơ nông, Cơ Ho (Trƣờng Trung cấp Đam San - tỉnh Đắc Lắc) gồm các nhân sỹ, trí thức, già làng, trƣởng bản, nghệ nhân, ngƣời dân tộc thiểu số có thành tích đóng góp trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc tại địa phƣơng, hạt nhân văn hóa văn nghệ quần chúng Trong Chƣơng trình Ngày hội sẽ có các hoạt động: Chủ tịch nƣớc chú Tết cộng đồng các dân tộc Việt Nam và đại diện các cộng đồng báo công trong việc tham gia bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc tại địa phƣơng và giao lƣu, chung vui, chúc Tết Chủ tịch nƣớc; Thực hiện Nghi thức “Hạ cây nêu ngày Tết” nhân dịp Chủ tịch nƣớc chúc Tết; Liên hoan ẩm thực mùa xuân; các hoạt động tái hiện một số nghi lễ đón Tết, lễ hội tiêu biểu, đặc sắc của các dân tộc vùng núi phía Bắc và Tây Nguyên; Giao lƣu văn nghệ, trò chơi dân gian, thể thao dân tộc và các lễ hội truyền thống [24]. CHƢƠNG TRÌNH HOẠT ĐỘNG SV: Nguyễn Thị Duyên Page 44
  45. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” Tổ chức Ngày hội “Sắc Xuân trên mọi miền Tổ quốc” tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam Ngày Nội dung 18/02/2013 (09 tháng - 14h00: Tổ chức hợp luyện các đoàn tham dự chƣơng Giêng) - Thứ Hai trình nghệ thuật tại Quảng trƣờng Khu các làng dân tộc II. 19/02/2013 (10 tháng - 08h30: Đón tiếp du khách tại nhà ở của các dân tộc Giêng) - Thứ Ba phía Bắc (Làng I). - 10h00: Biểu diễn giao lƣu văn hóa nghệ thuật và tổ chức Lễ hội Kỳ Yên dân tộc Hoa, Đám cƣới ngƣời Dao tại Quảng trƣờng Khu các làng dân tộc II. - 14h00: Đón tiếp du khách tại nhà ở của các dân tộc phía Bắc (Làng I). - 14h00: Tổ chức Nghi lễ Then dân tộc Tày tại nhà ngƣời Tày (Làng I); Lễ hội Pang A Nụu Ban - Dâng hoa măng dân tộc La Ha tại nhà ngƣời La Ha (Làng I). 20/02/2013 (11 tháng - 08h00: Lãnh đạo Bộ VHTTDL, BQL Làng VHDL Giêng) - Thứ Tƣ các DTVN và đại diện các cộng đồng dân tộc đón tiếp Lãnh đạo Đảng và Nhà nƣớc chúc Tết cộng đồng các dân tộc Việt Nam tại Nhà Công vụ. - 9h15: Lãnh đạo Đảng và Nhà nƣớc tham quan quần thể Tháp Chăm, thăm chùa Khơ Me. SV: Nguyễn Thị Duyên Page 45
  46. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” Ngày Nội dung - 10h00: Lãnh đạo Đảng và Nhà nƣớc dự Lễ hạ Nêu tại Quảng trƣờng Khu các làng dân tộc II. - 14h00: Các hoạt động đón tiếp du khách tại nhà của các dân tộc phía Bắc (Làng I). - 14h00: Tổ chức Lễ hội Gầu Tào tại nhà ngƣời H’Mông (Làng I). - 15h30: Lễ hội mừng năm mới dân tộc Lào tại nhà ngƣời Lào (Làng I). - 18h15: Tổ chức Lễ hội Nhảy lửa dân tộc Pà Thẻn, Giao lƣu giữa các dân tộc tại Quảng trƣờng Khu các làng dân tộc II. 21/02/2013 (12 tháng - 07h30: Tổ chức thăm quan Lăng Bác và chia tay các Giêng) - Thứ Năm đoàn. 2.2.7. Đoàn đại biểu Đại sứ quán các nước và các tổ chức quốc tế thăm quan Làng VHDL các DTVN - 19/4/2013 Chiều ngày 19/04/2013, Đoàn đại biểu Đại sứ quán thuộc 15 quốc gia và các tổ chức quốc tế đã đến thăm quan và giao lƣu với cộng đồng các dân tộc đang sinh hoạt tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam nhân các hoạt động chào mừng Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam 19/4 và Năm Gia đình Việt Nam 2013. Điểm đến thăm quan đầu tiên của Đoàn là phiên chợ vùng cao phía Bắc, không gian chợ truyền thống độc đáo của 8 cộng đồng dân tộc đến từ 6 tỉnh phía Bắc: H'mông, Dao (Hà Giang); Tày (Bắc Kạn); Nùng (Lạng Sơn); Mƣờng (Hòa SV: Nguyễn Thị Duyên Page 46
  47. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” Bình); Thái (Sơn La); Sán Chay, Sán Dìu (Bắc Giang). Các đại biểu đã thăm quan các gian hàng trƣng bày sản vật các vùng miền và thƣởng thức các tiết mục văn hóa, văn nghệ truyền thống cũng nhƣ các trò chơi dân gian đƣợc tổ chức tại chợ. Đặc biệt, các đại biểu đã vô cùng thích thú với công việc dệt vải và trang trí hoa văn sáp ong trên thổ cẩm của đồng bào H'mông ở đây [19]. Tiếp đó, Đoàn đã đến thăm quan không gian văn hóa dân tộc H'mông và Mƣờng tại Khu các Làng dân tộc I. Đoàn đã đƣợc cộng đồng dân tộc Mƣờng đến từ huyện Mai Châu và Tân Lạc tỉnh Hòa Bình tiếp đón nồng nhiệt với truyền thống hiếu khách vốn có của dân tộc bằng màn tấu cồng đón khách và vò rƣợu cần mời khách. Bà con dân tộc H'mông đến từ các huyện Đồng Văn, Quản Bạ và Mèo Vạc tỉnh Hà Giang đón tiếp đoàn với giai điệu réo rắt của khèn H'mông và những chén rƣợu mang hƣơng vị cay nồng của rƣợu ngô. Tiếp nối hành trình đó, Đoàn đã đến thăm quan và tìm hiểu không gian văn hóa Tháp Chăm thuộc Khu các làng dân tộc III. Tại đây, Đoàn đã đƣợc nghe giới thiệu về quá trình xây dựng và những nét độc đáo của Tháp Chăm. Kết thúc chuyến thăm, Đoàn đại biểu đại sứ quán và các tổ chức quốc tế đã tham dự chƣơng trình nghệ thuật “Bản sắc văn hóa Việt” tại Quảng trƣờng Khu các Làng dân tộc II. Đây không phải là lần đầu tiên Đoàn đại biểu đại sứ quán và các tổ chức quốc tế đến thăm quan và tham dự các chƣơng trình văn hóa, văn nghệ tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam, bởi nơi đây luôn là điểm đến quen thuộc của Đoàn, trong các sự kiện văn hóa đƣợc tổ chức tại "Làng". Sau phần lễ là Chƣơng trình nghệ thuật "Bản sắc Văn hóa Việt" với sự tham gia biểu diễn của hàng trăm nghệ sĩ, diễn viên của các đoàn nghệ thuật chuyên SV: Nguyễn Thị Duyên Page 47
  48. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” nghiệp cùng các nghệ nhân, thanh niên là đại diện cho các cộng đồng dân tộc thiểu số trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam. Thông qua ngôn ngữ và hình tƣợng nghệ thuật, chƣơng trình đã giới thiệu những nét văn hóa đặc sắc của các dân tộc Việt Nam. Đó là hình ảnh trống đồng, chim hạc, bánh chƣng, bánh giày, những hùng binh Âu Lạc đƣợc tái hiện trong tiếng nhạc trầm hùng với tiết mục “Nhớ về đất Tổ quê ta”; là tiếng kèn Saranai tƣng bừng trong lễ hội Kate của ngƣời Chăm; là không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên với những vũ điệu, cùng ánh lửa bập bùng quanh cây nêu dƣới mái nhà sàn của dân tộc Chơro; là tiếng đờn ca tài tử Nam Bộ với tác phẩm “Dạ cổ hoài lang” đi vào lòng ngƣời; là “Lời mẹ ru” mang đến những giấc mơ thật đẹp, nuôi dƣỡng tâm hồn của những con ngƣời Việt Nam [19] 2.2. Đánh giá hiệu quả hoạt động du lịch tại Làng VHDL các DTVN 2.2.1. Tích cực Hiện nay, trƣớc xu hƣớng thế giới ngày càng phẳng, ranh giới giữa các quốc gia, lãnh thổ dƣờng nhƣ ngày càng mong manh hơn, các quốc gia, các tộc ngƣời đều muốn thể hiện bản sắc riêng có của mình thì văn hóa, du lịch ngày càng xích gần nhau hơn, có trong nhau và là của nhau. Do đó, các tài sản văn hóa sẽ mãi ngủ yên nếu không có sự đánh thức của du lịch và du lịch sẽ trở nên thiếu tâm hồn nếu không có chất men, chất liệu của văn hóa. Đặc biệt, chiến lƣợc phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020 đã xác định rõ mục tiêu du lịch Việt Nam cơ bản trở thành nền kinh tế mũi nhọn, có tính chuyên nghiệp, có hệ thống cơ sở vật chất tƣơng đối đồng bộ, hiện đại và theo đó, du lịch sẽ phát triển có trọng tâm, trọng điểm, phát triển theo chiều sâu Trên cơ sở đó, hiện nay, Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam đã đƣợc ra đời và đang đƣợc Nhà nƣớc tập trung đầu tƣ cùng các doanh SV: Nguyễn Thị Duyên Page 48
  49. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” nghiệp đầu tƣ hoàn thiện theo mô hình một công viên chuyên đề, một tổ hợp văn hóa thể thao và du lịch quy mô lớn, là trọng tâm trọng điểm góp phần phát triển du lịch Việt Nam. Làng VHDL các DTVN sau gần ba năm khai trƣơng (19/09/2010) đi vào hoạt động, có thể nói cho đến nay một phần Khu các Làng dân tộc đã trở thành điểm đến hấp dẫn của khách du lịch giữa lòng thủ đô Hà Nội. Cùng với nhiều sự kiện văn hóa thể thao, Du lịch phục vụ kỉ niệm các ngày lễ lớn của đất nƣớc, đã có trên 50 cộng đồng dân tộc mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, vùng miền đã hội tụ tại ngôi nhà chung – Làng VHDL các DTVN để hoạt động luân phiên, định kỳ theo kế hoạch hàng năm nhằm giới thiệu bản sắc văn hóa, giao tiếp cộng đồng, trình diễn trang phục truyền thống, dân ca, dân vũ, giới thiệu ẩm thực dân tộc, nghề thủ công truyền thống (đan lát, dệt vải, đẽo tƣợng ), trò chơi dân gian (ném còn, đánh cù, leo cột, đảy gậy, đi cà kheo ) và tái hiện một số lễ hội dân gian truyền thống nhƣ lễ mừng năm mới, lễ mừng nhà mới, lễ kết bạn, lễ cƣới của ngƣời Chăm (An Giang), lễ cƣới của ngƣời Giẻ Chiêng (Kon Tum), lễ cấp sắc và lễ cƣới của ngƣời Dao (Tuyên Quang) lễ hội Lồng Tồng của các dân tộc miền núi phía Bắc Trong các hoạt động đó, việc tái hiện những lễ hội dân gian đặc sắc gắn với không gian văn hóa, tín ngƣỡng phong tục tập quán truyền thống của đồng bào các dân tộc, các vùng miền, địa phƣơng trong cả nƣớc đã góp phần bảo tồn gìn giữ phát huy di sản văn hóa truyền thống tại Làng VHDL các DTVN và phục vụ du khách trong và ngoài nƣớc bởi lễ hội truyền thống là những nét đẹp văn hóa có từ ngàn đời của các dân tộc. Hơn nữa, việc kiểm duyệt để đƣa ra tổ chức tại Ngôi nhà chung các dân tộc Việt Nam cũng góp phần bảo tồn những giá trị nguyên gốc làm nên những nét đặc trƣng tiêu biểu của từng dân tộc, duy trì những cái đẹp, tích cực phù hợp với thị hiếu, nhu cầu về đời sống tinh thần văn hóa của ngƣời dân, đồng thời giúp phát hiện, loại bỏ những yếu tố lỗi thời, lạc hậu nhất là những lễ hội gắn SV: Nguyễn Thị Duyên Page 49
  50. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” với mê tín dị đoan nhƣ cúng đuổi tà ma, lên đồng, lễ tảo hôn vừa tốn kém vừa ảnh hƣởng sức khỏe, tiền bạc của nhân dân. Theo thống kê trên cả nƣớc hiện có gần 8000 lễ hội lớn nhỏ trong đó có khoảng trên 80% là các lễ hội dân gian. Trong các loại hình lễ hội, lễ hội dân gian đóng vai trò quan trọng trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Do đó, với hàng loạt những lễ hội đƣợc nghiên cứu, phục dựng và đƣợc chính bản thân đồng bào các dân tộc đóng vai trò chủ thể thể hiện, tái hiện lại trong không gian của Làng VHDL các DTVN đã không chỉ phục vụ nhu cầu văn hóa tinh thần của nhân dân, tạo môi trƣờng văn hóa lành mạnh mà còn tạo sức hấp dẫn lớn thu hút khách du lịch trong và ngoài nƣớc và góp phần quảng bá, giới thiệu bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam với bạn bè quốc tế. Có thể nói, ngay từ khi ra đời, Làng văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam đã tiến hành khảo sát, nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống nguồn tài nguyên văn hóa của các địa phƣơng trên toàn quốc, chú trọng đến các di sản có giá trị lịch sử, tồn tại trong trạng thái tĩnh, đồng thời chú ý đến các giá trị văn hóa phi vật thể đang tồn tại sống động trong đời sống tinh thần của cộng đồng các dân tộc. Trên phƣơng diện phát huy, bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc, Làng VHDL các DTVN là đơn vị văn hóa tổng hợp vƣợt xa những gì đã nói tới, rất đa năng nhƣ chúng ta đang kì vọng. Đó là tổng thể hữu cơ tập trung tái hiện, giữ gìn, phát huy và khai thác các di sản văn hóa truyền thống của 54 dân tộc anh em; giới thiệu đất nƣớc, con ngƣời Việt Nam qua các thời kì lịch sử; giới thiệu các di sản văn hóa nổi tiếng của thế giới và là một quần thể nghỉ ngơi, vui chơi giải trí, du lịch, khách sạn tổng hợp, quy mô lớn của cả nƣớc. Trên cơ sở đó, các giá trị văn hóa của mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam đƣợc nâng niu bảo vệ và khai thác một cách khoa học, hợp lý, làm cho mỗi một giá trị luôn chú trọng thực hiện vai trò văn hóa không chỉ tồn tại bền SV: Nguyễn Thị Duyên Page 50
  51. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” vững mà còn đƣợc làm giàu đẹp hơn, phong phú hơn, không chỉ phổ biến ở địa phƣơng mình, cộng đồng dân tộc mình mà còn đƣợc quảng bá rộng rãi tới nhân dân cả nƣớc và bạn bè quốc tế. Đặc biệt ban quản lý Làng VHDL các DTVN đã đóng vai trò là sứ giả văn hóa của cộng đồng các dân tộc khi tham gia vào quá trình xây dựng chƣơng trình hoạt động luân phiên của cộng đồng các dân tộc và vận hành những hoạt động đó ở khu các Làng dân tộc. Đây là điểm nổi bật trong việc kết hợp giữa bảo tồn, gìn giữ với phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc trong cộng đồng 54 dân tộc anh em nói riêng, của dân tộc Việt Nam nói chung. Thông qua cơ chế này chủ thể văn hóa đƣợc tôn trọng đồng thời họ cũng ý thức rõ hơn vai trò trách nhiệm của mình trong việc sáng tạo, bảo tồn và quảng bá các giá trị văn hóa ấy đến du khách. Với một mô hình du lịch văn hóa tầm cỡ Quốc gia, có ý nghĩa to lớn về chính trị, văn hóa, xã hội nhƣ Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam, thì việc xây dựng những sản phẩm đặc trƣng càng trở nên cần thiết. Vƣợt qua nhiều khó khăn, thách thức, với nhiều năm tìm tòi, sáng tạo, những ngƣời làm văn hóa du lịch ở “Ngôi nhà chung” đã bƣớc đầu định hình đƣợc những sản phẩm văn hóa du lịch mang dấu ấn của riêng mình. Hiểu một cách đơn giản, sản phẩm văn hóa du lịch trƣớc hết là một sản phẩm văn hóa, cả trong lĩnh vực vật chất và tinh thần, vật thể và phi vật thể, do con ngƣời sáng tạo ra trong tiến trình phát triển của lịch sử để phục vụ cuộc sống, thỏa mãn những mục đích và nhu cầu khác nhau của các cá nhân cũng nhƣ cộng đồng ngƣời. Khi nó đƣợc đƣa vào thị trƣờng du lịch phục vụ du khách, lập tức trở thành một sản phẩm văn hóa du lịch - một dạng hàng hóa đặc biệt, có quá trình nghiên cứu, sáng tạo và sản xuất, có “cung” và có “cầu” nhƣ bao loại hàng hóa khác. Tuy nhiên, SV: Nguyễn Thị Duyên Page 51
  52. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” một sản phẩm văn hóa du lịch phải thỏa mãn đƣợc hai yêu cầu cơ bản - mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, có tính kế thừa, phát triển đồng thời đáp ứng và làm thỏa mãn những nhu cầu văn hóa ngày càng đa dạng của du khách. Những sản phẩm văn hóa du lịch của Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam đã và đang phục vụ du khách thời gian qua về cơ bản đáp ứng đƣợc hai yêu cầu đó. Tiêu biểu là các hoạt động mang tính sự kiện nhƣ: “Ngày hội sắc xuân trên mọi miền Tổ quốc”, “Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam” (19/4), “Tuần Đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam” (18/11 - 23/11), “Trình diễn trang phục truyền thống cộng đồng các dân tộc Việt Nam” . Trong mỗi sự kiện này bao gồm chuỗi những hoạt động văn hóa độc đáo, đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đƣợc liên kết bởi một kịch bản văn hóa chặt chẽ, khoa học, vừa phản ánh đƣợc những nét đặc thù tiêu biểu về vẻ đẹp văn hóa truyền thống của từng cộng đồng dân tộc, vừa làm nổi bật bức tranh văn hóa đa dạng trong thống nhất của văn hóa dân tộc. Điều này thỏa mãn đƣợc nhu cầu hàng đầu của những du khách khi đi du lịch văn hóa là cùng một lúc, họ vừa đƣợc trực tiếp trải nghiệm và khám phá một cách chân thật những nét văn hóa đặc sắc, mới lạ, phong phú của 54 dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, vừa có một cái nhìn toàn cảnh, có tính hệ thống về nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đặc biệt là du khách nƣớc ngoài, họ cảm thấy lý thú về điều mà khi trải nghiệm ở phạm vi một địa phƣơng, một vùng miền, họ không thể nào có đƣợc. Đơn cử nhƣ khi đƣợc chứng kiến cuộc trình diễn trang phục truyền thống cộng đồng các dân tộc Việt Nam, nhiều du khách nƣớc ngoài tỏ ra hứng khởi khi nhận thấy rằng, trầm tích trong từng sắc màu, kiểu dáng, từng nét hoa văn, từng đƣờng kim, mũi chỉ của những tà áo truyền thống cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là hình ảnh sinh động của cốt cách con ngƣời và văn hóa không chỉ của mỗi một cộng đồng tộc ngƣời mà còn là của cả một dân tộc, một đất nƣớc khác xa họ về văn hóa. SV: Nguyễn Thị Duyên Page 52
  53. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” Từ năm 2010 đến nay, Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam mỗi năm đón hàng vạn lƣợt khách đến tham quan. Đến thời điểm này, có lẽ những phiên chợ vùng cao Tây Bắc là để lại dấu ấn sâu sắc nhất với nhiều ngƣời khi đến với Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam. Anh Đỗ Anh Khoa (Ngọc Tảo, Phúc Thọ, Hà Nội) cho biết: Ngày nghỉ, anh đƣa cả gia đình đến đây để các con đƣợc biết thêm về văn hóa của các dân tộc. Đến đây, anh có thể mua những đặc sản, món ăn, bài thuốc do chính bà con mình làm, một cơ hội để những ngƣời Hà Nội tiếp cận với thực tế, những hình ảnh chân thực về văn hóa các dân tộc mà không chỉ là trong sách vở hay qua truyền hình nữa [24]. Đặc biệt, ghi nhận sau 5 ngày diễn ra các hoạt động tại chợ vùng cao vào dịp nghỉ lễ 30/4 và 1/5/2013 vừa qua, đã có xấp xỉ 1 vạn lƣợt du khách tham dự trong đó có khoảng 300 lƣợt khách quốc tế. Bên cạnh đó, dù mới chỉ đƣa vào hoạt động thí điểm, nhƣng dịch vụ xe điện tham quan theo tuyến điểm (Chợ vùng cao - Làng Bahnar - Quảng trƣờng làng II - Quần thể Tháp Chăm) đã thực sự hấp dẫn du khách, bƣớc đầu thu hút khoảng 600 lƣợt khách [24]. Niềm vui của du khách cũng là thành công của Ban Tổ chức khi đông đảo du khách đã đón nhận, hòa mình vào các điệu múa, điệu hát của ngƣời Mông, ngƣời Tày và nhất là múa sạp của ngƣời Thái Tất cả đã tạo nên nét đặc sắc, lý thú của phiên chợ vùng cao trong Ngôi nhà chung Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam. Tóm lại, có thể thấy Ban Quản lý Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam đã lựa chọn xây dựng, tổ chức các hoạt động văn hóa, du lịch tiêu biểu, mang bản sắc riêng để duy trì thƣờng niên, vừa góp phần bảo tồn văn hóa dân tộc, vừa tạo sức hấp dẫn, ấn tƣợng, thu hút du khách. Theo đó, các mảng công tác nhƣ: hậu cần; lễ tân, khánh tiết; quảng bá, tuyên truyền; đảm bảo vệ sinh, cảnh quan, trật tự SV: Nguyễn Thị Duyên Page 53
  54. “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” và công tác huy động lực lƣợng sinh viên tình nguyện đã đƣợc triển khai theo đúng tiến độ và yêu cầu đề ra của từng sự kiện; việc huy động các cộng đồng dân tộc tham gia luô đƣợc đảm bảo theo kế hoạch với sự tham gia đông đảo của các nhân sĩ trí thức, nghệ nhân, già làng và đồng bào các dân tộc. Dƣới góc độ tổ chức, vận hành và chuyển tải thông điệp văn hóa - một trong những yếu tố quan trọng tạo nên thƣơng hiệu cho mỗi sản phẩm văn hóa du lịch, Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam có cách làm sáng tạo và hiệu quả. Theo đó, cùng với tính chuyên nghiệp ngày càng cao, phong cách phục vụ ấn tƣợng, chu đáo, tận tình, đặc biệt phù hợp với chủ thể văn hóa trực tiếp hƣớng dẫn, giới thiệu và cùng du khách trải nghiệm những sản phẩm văn hóa của dân tộc mình, tạo nên sự gần gũi, chân thật, lý thú cho du khách đến tham quan mà không phải qua bất cứ một khâu trung gian hay một kênh thông tin gián tiếp nào. Đây là một trong những khác biệt hấp dẫn du khách. Từ năm 2010 đến nay là khoảng thời gian không phải là dài, điều kiện về mọi mặt còn nhiều khó khăn nhƣng Ban Quản lý Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam đã từng bƣớc xây dựng những sản phẩm văn hóa du lịch phù hợp và hiệu quả, có tính bền vững, đáp ứng nhu cầu đời sống sinh hoạt văn hóa - tinh thần của cộng đồng các dân tộc Việt Nam cũng nhƣ phục vụ nhu cầu nghiên cứu, khám phá du lịch của du khách, đồng thời góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Mặc dù để những sản phẩm văn hóa du lịch mang thƣơng hiệu “Làng Việt” thực sự phát triển bền vững, đem lại hiệu quả ngày càng cao, không phải là chuyện một sớm một chiều, song những ấn tƣợng tốt đẹp về những sản phẩm ấy đã và đang đƣợc khẳng định trong lòng du khách thập phƣơng. SV: Nguyễn Thị Duyên Page 54