Giáo trình Bản sắc xứ Thanh-Nhìn từ cội nguồn văn hóa truyền thống - Trần Thị An
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Bản sắc xứ Thanh-Nhìn từ cội nguồn văn hóa truyền thống - Trần Thị An", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_ban_sac_xu_thanh_nhin_tu_coi_nguon_van_hoa_truyen.pdf
Nội dung text: Giáo trình Bản sắc xứ Thanh-Nhìn từ cội nguồn văn hóa truyền thống - Trần Thị An
- Tạp chí Khoa học xã hộiNGÔN Việt Nam, NG số Ữ4( 101- VĂN) - 201 H6 ỌC - VĂN HÓA Bản sắc xứ Thanh - nhìn từ cội nguồn văn hóa truyền thống Trần Thị An * Tóm tắt: Xứ Thanh là một tiểu vùng văn hóa với hai đặc điểm nổi trội là tính trung chuyển (xét từ góc độ địa lý, lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa) và tính kết tinh (chủ yếu xét từ góc độ lịch sử, văn hóa, con người). Hai đặc điểm này tạo nên bản sắc của một địa linh đã hun đúc nên tài năng, ý chí của nhiều nhân kiệt trong nhiều giai đoạn của lịch sử dân tộc. Tính bản sắc đó như những mã văn hóa đã và đang tạo nên sự cố kết cộng đồng trong suốt chiều dài lịch sử, đồng thời, đang tạo nên những sức bật mới và lộ diện cả những rào cản trong bối cảnh hội nhập sâu rộng hiện nay. Nhận diện sức mạnh và hạn chế sự cản trở của sức ỳ đang là vấn đề cần giải quyết đối với vấn đề bản sắc văn hóa vùng đang có xu hướng nổi lên hiện nay không chỉ ở xứ Thanh mà trên phạm vi toàn quốc. Từ khóa: Bản sắc; văn hóa; truyền thống; hiện đại; Thanh Hóa; xứ Thanh. 1. Mở đầu tính trung chuyển Bắc Bộ - Trung Bộ, núi - Thanh Hóa xuất hiện với tên của một lộ đồng bằng - biển ở địa hình Thanh Hóa. vào đời Lý và được thành lập là đơn vị Nhà địa lý học Lê Bá Thảo cho rằng, có ý hành chính tỉnh năm 1841 (dưới thời Thiệu kiến muốn ghép đồng bằng châu thổ sông Trị, nhà Nguyễn) nhưng trong lịch sử lâu Mã vào đồng bằng Bắc Bộ nhưng(*)“có lẽ dài, xứ Thanh đã định hình và biết đến là điều đó không cần thiết và cũng không đủ một tiểu vùng văn hóa. Đã có nhiều công lý do” bởi “nếu muốn tìm ở đâu sự chuyển trình nghiên cứu phân tích về khía cạnh của tiếp trong tự nhiên của các đồng bằng thì có bản sắc văn hóa xứ Thanh [3, 6, 8, 9, 14, thể tìm thấy ở đây: càng đi về phía nam Hà 17]. Bài viết muốn khẳng định và tô đậm Tĩnh, tự nhiên càng mang đặc tính của miền thêm một số đường viền để thấy sự hình nhiệt đới ẩm điển hình, càng đi về phía bắc thành tiểu vùng văn hóa bởi các điều kiện Thanh Hóa, tự nhiên càng thay đổi dưới ảnh địa lý tự nhiên, các bối cảnh xã hội nhân hưởng của một mùa đông lạnh” [12, tr.205]. văn và các cơ duyên lịch sử. Ở các yếu tố Bên cạnh đó, địa hình của Thanh Hóa mang này, có thể thấy hai khía cạnh đặc trưng của tính “nối” với Tây Bắc bởi các dãy núi mà vùng đất Thanh Hóa là tính trung chuyển và theo Lê Bá Thảo thì “toàn vùng gồm có tính kết tinh từ đó, định hình những giá trị những đợt núi và đồi cuối cùng từ Tây Bắc bền vững trong thời gian, kiến tạo nên bản đến: dải đá vôi đi từ Bỉm Sơn xuống đồng sắc của vùng đất và con người nơi đây. bằng Thanh Hóa, khu vực phiến đá Thạch 2. Tính chất của tiểu vùng văn hóa xứ Thanh (*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Hàn lâm Khoa học xã 2.1. Tính trung chuyển hội Việt Nam. ĐT: 0915377133. Về địa lý, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra Email: trananvvh@gmail.com. 84
- Trần Thị An Thành, dãy núi trung lưu sông Chu, vùng đồi văn hóa Đa Bút chiếm cư đồng bằng ven núi sông Lam và sông Con” [12, tr.102]. biển Ninh Bình - Thanh Hóa khi mà đợt Về hành chính, theo dòng lịch sử, Thanh biển tiến Holocene đạt cực đại vào khoảng Hóa có khi là “lộ”, “phủ”, “phủ lộ”, “thừa 7.000 đến 5.000 năm và sau đó là thời kỳ tuyên”, “xứ”, có khi là “trấn” rồi định hình biển lùi. Một loạt niên đại C14 của các di là “tỉnh” nhưng tính trung chuyển giữa Bắc tích văn hóa Đa Bút hiện biết cho thấy, niên Bộ và Trung Bộ không thay đổi đã làm nên đại sớm nhất là địa điểm Đa Bút 6.390 ± 60 một đơn vị hành chính nằm giữa hai miền. năm BP, 6.430 ± 60 năm BP và muộn nhất Về phương ngữ, căn cứ vào 3 tiêu chí là là di tích Gò Trũng 4.700 ± 50 BP, xác thanh điệu, ngữ âm, từ vựng, các nhà ngôn nhận văn hóa Đa Bút tồn tại trong khung ngữ học về cơ bản thống nhất chia tiếng thời gian từ 7.000 đến 4.000 năm BP” [17, Việt thành 3 vùng phương ngữ: phương ngữ tr.15 - 31]. Nối tiếp Đa Bút, các thành tựu Bắc, phương ngữ Trung và phương ngữ của nền văn minh kim khí với đỉnh cao là Nam [2, tr.87]. Trong sự phân chia này, Đông Sơn đã được kiến tạo và tỏa sáng rực phương ngữ Thanh Hóa nổi lên thành một rỡ nơi đây, xây nên nền tảng cho sự ra đời hiện tượng, khi có nhà nghiên cứu xếp vào nước Văn Lang. nhóm phương ngữ Bắc [5, 15, 16], lại có Tính cổ của vùng đất có con người sinh nhà nghiên cứu xếp vào nhóm phương ngữ sống càng được minh chứng thêm bởi các Trung [1, 6] hay xẻ nó làm đôi khi xếp chứng cứ ngôn ngữ học. Trong một công phương ngữ Bắc Thanh Hóa vào phương trình nghiên cứu về phương ngữ, Hoàng Thị ngữ Bắc, phương ngữ Nam Thanh Hóa vào Châu khi so sánh xứ Thanh với các vùng có nhóm phương ngữ Trung Bắc [13, tr.51 - nhiều thổ ngữ khác đã chỉ ra sự trùng khớp 60], hoặc coi phương ngữ Thanh Hóa là “đến mức kinh ngạc” của vùng có nhiều thổ phương ngữ chuyển tiếp giữa phương ngữ ngữ với vùng đất cổ - xét từ phương diện Bắc và phương ngữ Trung bởi ở Thanh Hóa khảo cổ học và sử học. Kết hợp tiếng nói có cả đường đồng ngữ tuyến phương ngữ của khảo cổ học và tiếng nói của phương Bắc và đường đồng ngữ tuyến phương ngữ ngữ học, Hoàng Thị Châu nhận thấy, vùng Trung chạy qua [2, tr.89]. châu thổ sông Hồng, sông Mã và đồng bằng 2.2. Tính kết tinh ven biển Nghệ Tĩnh mà cụ thể là các tỉnh Đặc trưng giá trị quan trọng của văn hóa Vĩnh Phú (nay là Phú Thọ và Vĩnh Phúc), tiểu vùng này được thể hiện ở ba khía cạnh: Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh, là nơi đã phát lịch sử, văn hóa, con người. hiện được các di chỉ khảo cổ học của những 2.2.1. Về lịch sử thời kỳ liên tiếp từ đá mới đến hậu kỳ đồ Sự xuất hiện của người Việt cổ với các đồng, là nơi phát tích các nền văn hóa rực công cụ bằng đá ở Núi Đọ cách nay 30 rỡ từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn, cũng nghìn năm và sự miên tục của các nền văn chính là vùng có nhiều thổ ngữ đậm đặc hóa rực rỡ Đa Bút, Hoa Lộc, Đông Sơn đã nhất. Bà cho rằng, “nền kinh tế tự cung, tự thể hiện các giá trị kết tinh đỉnh cao của văn cấp trong một xã hội làm ruộng nước lấy hóa và văn minh Việt thời tiền sử và sơ sử. làng làm đơn vị cộng cư, với những phong Các chứng cứ khảo cổ học rõ ràng đã khẳng tục tập quán riêng, trong đó, người dân định việc chiếm lĩnh đồng bằng của các sống một cuộc sống gần như khép kín đã cộng đồng cư dân người Việt cổ ở Thanh củng cố những dấu vết cổ xưa của ngôn Hóa cách đây gần chục nghìn năm. “Cư dân ngữ” [2, tr.221]. Từ nhận định của C.Mác: 85
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016 “Thổ ngữ là sản phẩm của một công xã, khí chung đúc nên xứng đáng đứng đầu cả cũng như nếu xét theo một quan điểm nào nước” [3, tr. 47]. đó, nó là bản thân sự tồn tại của công xã: là 2.2.2. Về văn hóa cách công xã tự biểu hiện” [4, tr.230] và từ Quá trình định cư lâu dài của người Việt sự phân tích ngôn ngữ học của mình, ở vùng đất Thanh Hóa đã làm nên sự hội tụ Hoàng Thị Châu khẳng định rằng, thổ ngữ và định hình các giá trị văn hóa vật thể, phi là “di sản quý giá” kiến tạo nên các biểu vật thể của phức thể văn hóa núi, văn hóa tượng văn hóa làng xã, là hành trang đặc đồng bằng, văn hóa biển trong tiểu vùng thù mà người dân mang theo trong các cuộc văn hóa này. di cư, sử dụng khi gặp những người cùng Có thể nói, ở xứ Thanh, hiện diện sự cộng đồng làng xã với mình để tạo mối dây phong phú của các tín ngưỡng, sự tập trung thân thiết, phân biệt với các nhóm dân cư ở mức độ cao những tín ngưỡng điển hình khác không cùng thổ ngữ với những mức của Bắc Bộ và phần nào đó của Trung Bộ. độ kỳ thị khác nhau, giữ lại bên mình như Về phương diện này, Hoàng Bá Tường đã một mối dây kết nối mạnh mẽ với cội khẳng định: “Trên đất nước ta có bao nhiêu nguồn nơi họ ra đi, nơi họ “muốn được trở tôn giáo tín ngưỡng thì ở xứ Thanh cũng có về khi nằm xuống để được thỏa lòng, an bằng ấy tôn giáo tín ngưỡng được người dạ” [2, tr.232]. dân ở đây ngưỡng vọng và chiêm bái” [14]. Để nói về các vùng và tiểu vùng văn hóa Văn hóa núi Việt Nam, khái niệm “địa linh nhân kiệt” có Với địa hình có sự kết nối mạch núi từ thể dùng cho nhiều nơi, nhưng xứ Thanh có Tây Bắc nghiêng xuống, không có gì lạ khi thể nói là một vùng thực sự đặc biệt bởi đây xứ Thanh có nhiều di tích thần núi. Theo là vùng đất phát tích của “tam vương nhị Thanh Hóa chư thần lục, Thanh Hóa có 414 chúa” - những người làm nên những bước di tích thờ thần núi. Theo Ngô Đức Thịnh, ngoặt lịch sử, định hình diện mạo lịch sử “điều này phản ánh tâm thức hướng về dân tộc trong những thời đoạn phục hưng vĩ nguồn cỗi núi rừng, nơi mà theo các kết quả đại, đồng thời, cũng tạo nên những sóng gió nghiên cứu khảo cổ học những năm gần dữ dội trong các thời kỳ tao loạn của lịch sử đây, người miền núi hang động đã xuôi theo dân tộc. Nhận định về vùng đất này, Phan lưu vực sông Mã xuống khai thác đồng Huy Chú [trong cuốn Lịch triều hiến chương bằng Thanh Hóa trong thời kỳ đá mới và sơ loại chí được biên soạn vào đầu thế kỷ kỳ kim khí” [17, tr.229]. XIX, sách được dâng lên vua Minh Mạng Văn hóa đồng bằng năm 1821] đã có những lời ngợi ca hết Xứ Thanh đã tiếp nối một cách độc đáo mực, trong đó, nhấn mạnh đến tính sáng tín ngưỡng thờ Mẫu vùng Bắc Bộ với việc chói của các nhân cách lịch sử phi thường. phụng thờ vị thần chủ là Liễu Hạnh tại một Ông cho rằng, vùng đất này “các triều trước trong những trung tâm thờ Mẫu là đền vẫn gọi là một trấn rất quan trọng. Đến Lê Sòng. Không chỉ là nơi có nhiều đền thờ lại là nơi căn bản. Vẻ non sông tươi tốt Liễu Hạnh, xứ Thanh, theo truyền thuyết, chung đúc nên sinh ra nhiều bậc vương còn là nơi diễn ra cuộc quyết đấu của hai tướng, khí tinh hoa tụ họp lại, nảy ra nhiều dòng phái tín ngưỡng chịu ảnh hưởng của văn nho. Đến những sản vật quý, cũng khác Đạo giáo là Nội đạo tràng và tín ngưỡng mọi nơi. Bởi vì đất thiêng thì người giỏi thờ Mẫu, một bên là phái phù thủy và một nên nảy ra những bậc phi thường; vượng bên là phái thần tiên, một bên là đạo trưởng 86
- Trần Thị An là nam và một bên thần chủ là nữ. Và điều chứng một cách sinh động quá trình chiếm thú vị là dù là thua trận nhưng tín ngưỡng lĩnh và thích ứng với biển: “cư dân văn hóa thờ Mẫu sau đó lại tăng thanh thế và phát Đa Bút chiếm cư đồng bằng ven biển qua 3 huy ảnh hưởng mạnh mẽ ở vùng đất này. giai đoạn theo trật tự thăng giảm của mực Sự khựng lại ở Thanh Hóa của tín ngưỡng nước biển giai đoạn Holocene: giai đoạn thờ Mẫu Liễu Hạnh trên bước đường “Nam sớm từ sau 7.000 năm đến 5.500 năm BP, tiến” thế kỷ XVII không chỉ là truyền chiếm lĩnh đồng bằng trước núi, khai thác thuyết mà đã là một thực tế lịch sử: từ Nghệ nguồn thủy sản vùng cửa sông, chủ yếu là An trở vào, mật độ các đền thờ Mẫu Liễu hến; sau 5.500 năm, khi biển tiến đạt cực Hạnh thưa thớt hẳn, các nghi thức diễn đại, nước biển dâng, làm chìm ngập vùng xướng thờ Mẫu trong một thời gian dài thấp, khiến cho một số nhóm cư dân bám không bén rễ vào các mảnh đất này và chỉ trụ, khai thác sản vật biển như Cồn Cổ thực sự được nối mạch và thông thương từ Ngựa trong khi một số chuyển lên cư trú sau đổi mới với sự khẳng định sức mạnh nơi cao hơn như Làng Còng, Đồng Vườn, của kinh tế thị trường. Thực tế, theo chúng hoặc có nhóm vào cư trú trong hang động tôi, đã chỉ ra tính giới hạn Bắc Bộ ở Thanh như Hang Sáo; và sau 5.000 năm, con Hóa, và dù các yếu tố chuyển tiếp về địa người vươn ra khai thác biển thuộc đới ven hình, hành chính, ngôn ngữ vẫn hiện diện bờ như Gò Trũng (Thanh Hóa), Hang Cò, nhưng tính giới hạn Bắc Bộ quả thực đã Hang Mo (Ninh Bình)” [11, tr.24 - 38]. Sự làm nên nhiều nét khác biệt của vùng văn thích ứng sớm cùng với quá trình chiếm hóa xứ Thanh và vùng văn hóa xứ Nghệ lĩnh biển lâu dài, con người xứ Thanh đã được hình thành trong lịch sử. sáng tạo nên một nền văn hóa hướng biển, Văn hóa biển trong đó, các yếu tố văn hóa vật thể và phi Xét từ góc độ tín ngưỡng, có thể thấy nét vật thể như: phong tục, tín ngưỡng và lễ hội đặc sắc thể hiện trên mảnh đất này. Ba vị thờ cúng thần biển, ẩm thực, sinh kế, thần biển được thờ cúng rộng rãi ở Bắc Bộ thuyền bè, làng chài và ngư dân đan quyện và Trung Bộ đã bám rễ và gắn chặt đến vào nhau tạo nên nét đặc trưng của một tiểu mức trở thành nét đặc trưng của xứ Thanh vùng văn hóa mà tính “cận duyên Bắc Bộ” là Tứ vị Thánh nương, Đông Hải đại vương đã phai nhạt dần để đậm đà hơn yếu tố “ra và thần Độc Cước. Bên cạnh đó, với 5 cửa khơi” trong những ngư trường rộng lớn hơn lạch sông Mã đổ ra biển gồm Lạch Sung, của ngư dân miền Trung. Lạch Trường (Linh Trường), Lạch Hới (Hội 2.2.3. Về con người Triều), sông Yên: Lạch Ghép (Lạch Trào), Xứ Thanh vừa mang trong mình “tính sông Bạng: Lạch Bạng (Cửa Tấn), Thanh trung chuyển” được thể hiện ở sự uyển Hóa còn có một hệ thống các di tích thờ chuyển, linh hoạt; vừa mang “tính kết thần biển hết sức phong phú. Việc thờ cúng tinh” được thể hiện ở sự định hình bản sắc các vị thần biển phổ biến ở Bắc Bộ và và sự lan tỏa tính bản sắc theo bước chân Trung Bộ cùng các vị thần riêng biệt của nam tiến của nhiều đợt di dân trong lịch Thanh Hóa (bà Triều) đã chứng tỏ không sử. Đơn cử ở cố đô Huế, các vị tổ nghề là chỉ sự chiếm lĩnh và thích ứng với biển sớm người Thanh Hóa chiếm số lượng khá cao; của người xứ Thanh mà còn các mối giao ở một số làng ven Kinh thành Huế, vị lưu sâu sắc và thường xuyên diễn ra trong thành hoàng làng được thờ là người Thanh lịch sử. Các di chỉ khảo cổ học đã minh Hóa. Philippe Papin có lý khi nói rằng, 87
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016 người Việt đã sử dụng thành ngữ “ra Bắc, thực thể này với thực thể khác, và đó cũng vào Nam” như một mặc định, điều này thể là định nghĩa mà ta có thể tìm thấy ở Từ hiện vị trí đứng giữa của người nói với một điển Oxford: bản sắc là sự giống nhau ở bên là đất rộng, bằng phẳng (Bắc) và một một người/thực thể ở mọi thời gian và bối bên là chốn hiểm địa xa xôi, mù mịt cảnh, trạng thái hay thực tế của chính bản (Nam). Vị trí đứng giữa này, xét từ không thân người/thực thể đó, phân biệt với gian địa lý và thời gian lịch sử, phần nào người/thực thể khác ở tính cách hoặc đặc gắn với sự chuyển cư của người Thanh trưng riêng. Tuy nhiên, tính giới hạn, tính Hóa, Nghệ Tĩnh mà sự lan tỏa tính bản sắc có thể chấp nhận/hay tính hòa đồng, tính của họ tới các vùng miền khác của cả nước giá trị của bản sắc mà trong thực tế, rất khó là một thực tế không thể phủ nhận. tự nhận chân đối với chính cộng đồng mang Hai khía cạnh bản sắc của người xứ bản sắc và rất khó chấp nhận đối với một Thanh được hình thành, đắp bồi từ các cộng đồng khác, là vấn đề dễ gây ra các nguyên nhân địa lý, lịch sử, văn hóa trong hệ/hậu quả, lại chưa được đề cập tới trong thời gian, theo quan điểm của tôi, đã thể quan niệm phổ biến này. Ở một mức độ hiện sự dùng dằng của hai đối cực mà tính khái quát rộng và khách quan cao hơn, có chuyển tiếp mềm mại, linh hoạt không thể tìm thấy trong định nghĩa của Günter - làm mềm đi tính kết tinh cứng cỏi và cao Trommsdorff, nhà xã hội học nổi tiếng ngạo. Nét đặc trưng này của người xứ người Đức. Ông cho rằng, bản sắc là một Thanh sẽ được chúng tôi phân tích kỹ hơn phức thể được cấu thành bởi ba yếu tố: sự ở phần sau. tự quan niệm (tổng thể những yếu tố văn 3. Bản sắc: sản phẩm của lịch sử hay hóa vật thể - phi vật thể), cảm giác về giá câu chuyện đương đại? trị tự thân (khả năng tự đánh giá mình) 3.1. Bản sắc, bản sắc văn hóa và câu và niềm tin kiểm soát (sự thể hiện bản sắc chuyện bản sắc văn hóa vùng ở Việt Nam của một cộng đồng trong giao lưu với các Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vấn đề cộng đồng khác, ở đó, bản sắc của cộng bản sắc đang được đặt ra hết sức bức thiết, đồng này sẽ được đánh giá một cách khách đặc biệt, với các nước mới bắt đầu quá quan bởi các cộng đồng khác) [22, tr.21]. trình hội nhập quốc tế sâu rộng như Việt Từ quan niệm này, ta nghĩ tới quan niệm Nam. Tuy nhiên, hiện đang có nhiều quan về bản sắc văn hóa, đó đương nhiên cũng niệm về vấn đề bản sắc và bản sắc văn hóa, phải là sự định hình các giá trị văn hóa vật và từ sự khác nhau về mặt quan niệm, dẫn thể, phi vật thể của các cộng đồng/ quốc tới sự khác nhau về ứng xử văn hóa, mà gia, sự tự nhận diện các giá trị đó và sự một trong số những ứng xử cực đoan là sự đánh giá của bên ngoài đối với các giá trị cục bộ, sự kỳ thị khiến “tính đa dạng” nổi đó trong các hoạt động giao lưu. lên, thậm chí được cổ xúy dẫn đến nguy cơ Gắn kết, tạo vốn xã hội làm rạn nứt và đe dọa khối đoàn kết được Từ khía cạnh chủ quan, dễ dàng nhận tạo nên bởi “tính thống nhất” của văn hóa thấy bản sắc có giá trị gắn kết các cá nhân Việt Nam. có những điểm tương đồng về văn hóa, dù Các khía cạnh chủ quan - khách quan không phải là thân tộc nhưng khá gần gũi của bản sắc và vững bền. Hội đồng hương các cấp (tỉnh, Vậy bản sắc là gì? Cách hiểu phổ biến huyện, xã) được tổ chức khá sôi nổi ở Việt cho rằng, bản sắc là nét riêng để phân biệt Nam hiện nay là minh chứng cho sự kết nối 88
- Trần Thị An này. Có tác dụng như một chất keo, bản sắc Câu chuyện “bản sắc xuyên vùng” ở văn hóa có giá trị tạo nên một thứ “vốn” Việt Nam đặc biệt, không phải là vốn tài chính mà là Ở Việt Nam, bản sắc văn hóa vùng “vốn xã hội”, một cá nhân gia nhập vào thường được nhìn nhận ở phạm vi hẹp là cộng đồng mang tính bản sắc sẽ sở hữu các ứng xử cộng đồng (của con người thuộc được vốn xã hội này và nhiều người đã khai một vùng/tiểu vùng văn hóa nào đó: ví dụ thác thành công loại vốn này để phát triển phong cách người Hà Nội là thanh lịch, bản thân và kiến tạo sự nghiệp. người Nam Bộ là phóng khoáng, người Bản sắc nhóm - nhìn từ lý thuyết bản sắc miền Trung là thô phác), và trên thực tế, sự xuyên quốc gia (transnational identity) khác biệt tương đối lớn giữa ứng xử của Một nghiên cứu gần đây của Stephen con người ở các vùng/tiểu vùng văn hóa ở James ở Anh đã bàn đến vấn đề bản sắc Việt Nam đã tạo nên các khoảng cách xuyên quốc gia [23] từ việc khảo sát cộng không dễ vượt qua, thậm chí làm hằn sâu đồng người Việt Nam tại Anh. Nghiên cứu các định kiến, nghi kỵ và chia cắt. Ở Việt này chỉ ra rằng, bản sắc được kiến tạo từ Nam, văn hóa làng đã hình thành các mô các giá trị nguồn cội (resources-based thức khá ổn định trong một thời gian dài, identity) sẽ trở thành một bản sắc mang tính tạo nên tâm lý ưa sự tương đồng, ghét sự giá trị (value-based identity) và sẽ trở thành khác biệt; nét tâm lý này vẫn tồn tại dai một bản sắc xuyên quốc gia (transnational dẳng trong tâm tính người Việt cho đến tận identity); nó có thể gắn với quốc gia (địa hôm nay. Do đó, cần thẳng thắn nhìn nhận phương) nguyên quán nhưng cũng có thể một thực tế là, ở Việt Nam, hiện hữu tâm lý tách rời, hoặc chuyển trọng tâm sang một không sẵn sàng đón nhận cái mới, không dễ quốc gia hay thành phố/cụm dân cư khác. chấp nhận sự khác biệt (hay khác bản sắc): Nghiên cứu này hoàn toàn có thể áp dụng ở chẳng hạn, sự khác biệt giới tính, sự khác Việt Nam ở một phạm vi hẹp hơn mà tôi biệt về nghề nghiệp, khác biệt về vùng tạm dùng thuật ngữ “bản sắc xuyên vùng” miền Thực tế của việc khó cảm thông, (interregional identity) với hàm ý chỉ việc không tôn trọng và không vượt qua rào cản một bản sắc mang tính vùng miền đã được của sự khác biệt đó đã gây nên nhiều hệ lụy mang tới một vùng miền khác mà vẫn giữ ở nhiều cấp độ: trong quan hệ gia đình, đã nguyên giá trị của nó và phát huy tác dụng có quá nhiều cuộc hôn nhân tan vỡ vì khác tích/tiêu cực của nó khi đến vùng/ miền biệt văn hóa vùng/miền; trong quan hệ xã mới. Hiện tượng này đã và đang rất phổ hội, đã có hiện tượng khá phổ biến khi biến ở Việt Nam, đặc biệt từ sau Đổi mới, người ở vùng/miền này không được các cơ khi mà các luồng di dân tự do ngày càng quan, tổ chức ở vùng/miền khác tin dùng; tăng bởi sự chuyển dịch nhanh chóng của đã định thành một xu hướng không khó cơ cấu kinh tế kéo theo sự phát triển không nhận ra: người của một vùng/tiểu vùng đều giữa các vùng kinh tế và sự gia tăng thường co cụm thành một nhóm xã hội và khoảng cách nông thôn - thành thị, khoảng đấu tranh cho lợi ích của nhóm mình, bất cách vùng miền. Và cái gọi là “bản sắc chấp nguyên tắc và chuẩn mực chung xuyên vùng” đã tạo nên/gây ra nhiều hệ quả Đó là những tiền đề lý thuyết và thực đáng lưu ý trong bối cảnh phát triển mới tiễn để chúng tôi thử phân tích bản sắc con (công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa) người xứ Thanh (vốn được hình thành từ ở Việt Nam hiện nay. truyền thống) trong bối cảnh hiện nay. 89
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016 3.2. Bản sắc con người xứ Thanh - đến Về bản sắc của người xứ Thanh, có thể hiện đại từ truyền thống và những vấn đề nói đến ba đối cực sau: đặt ra Một là, sáng tạo vượt trội của cá nhân Từ việc nhận diện các tính chất của tiểu và sức ỳ tập quán vùng văn hóa xứ Thanh, có thể thấy rằng, Không khó nhận ra sự xuất hiện nhiều mảnh đất này đã hun đúc trong con người ý nhân vật lịch sử vĩ đại, nhiều nhà văn hóa chí sống mãnh liệt, ý thức về tính tự tôn và kiệt xuất được sinh ra, lớn lên từ mảnh đất kỹ năng sống (“kỹ năng sống” với nghĩa là Thanh Hóa. Những nhân vật kiệt xuất đó đã “khả năng thích nghi và hành vi tích cực làm nên những đổi thay lịch sử hoặc ghi cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu dấu ấn không thể mờ phai. Ta không thể quả với nhu cầu và thách thức của cuộc không nhắc đến “tam vua, nhị chúa” và (1) sống hàng ngày” ) khá thuần thục. những biến thiên của lịch sử trong suốt hơn Việc tự nhận diện bản sắc bao giờ cũng 5 thế kỷ, không thể không nhắc đến Bà là khó khăn bởi con người khó vượt qua sự Triệu với tuyên ngôn đầy khí phách, Lê tự ái (với nghĩa là tự yêu mình, còn với Văn Hưu uyên thâm, Đào Duy Từ mưu nghĩa là không muốn/không thể nhìn thấy lược, văn võ song toàn và nhiều danh điểm yếu của mình và không muốn nghe nhân khác mà các công trình nghiên cứu đã người khác chỉ ra và nhận xét về chỗ yếu (1) nhắc đến. kém của mình). Với con người xứ Thanh Sự vượt trội của các nhân vật kiệt xuất cũng vậy, mặc dầu họ luôn tự vấn về vùng người Thanh Hóa được hình thành không đất và bản thân mình. Có một giai thoại mà thể thiếu bệ đỡ văn hóa của quê hương, một hẳn người Thanh Hóa nào cũng biết là hai bệ đỡ được hình thành bởi những tảng nền vế đối: Rừng nhiều, đất nhiều, người nhiều; chắc chắn của truyền thống sâu dày. Sách làm sớm, làm chiều, sao vẫn đói (do Bí thư tỉnh ủy Lê Huy Ngọ ra trong Hội thảo về Lê Lịch triều hiến chương loại chí đã khẳng Văn Hưu tổ chức ở Thanh Hóa năm 1990), định tính “địa linh” của vùng đất Thanh Vua có, Chúa có, Trạng có; nói trăng, nói Hóa như đã dẫn ở trên. Sách Đại Nam nhất gió, bụng không no (không rõ tác giả). thống chí (được biên soạn dưới thời Tự Trong đôi câu đối này, có sự khẳng định giá Đức) đã phác họa tính cần cù và sáng tạo trị, có ý thức tự tôn và có sự băn khoăn, trăn của người Thanh Hóa là “sĩ tử thích văn trở đối với việc phát huy giá trị/bản sắc văn học, nông dân chăm cày cấy, thợ thì có hộ hóa trong sự phát triển của tỉnh nhà. Từ một đẽo đá sở trường hơn cả, ít người buôn chiều cạnh khác, một số hiện tượng chưa bán ” [9, tr.218]. Tuy nhiên, bên cạnh đó, thành công trong giới thiệu bản sắc ra bên ta đồng thời cũng nhận thấy những giới hạn ngoài (tình trạng một số công ty từ chối cố hữu trong truyền thống định hình đó đã nhận công nhân Thanh Hóa, Nghệ An, Hà tạo nên các lực cản trì níu sức sáng tạo, ít Tĩnh) lại thêm một nhắc nhở về tính cần nhiều gây nên những bất ổn của xã hội thiết của việc nhận diện điểm mạnh, điểm nông thôn Thanh Hóa trong một thời gian yếu của con người xứ Thanh để xây dựng tương đối dài. Ám ảnh về sự ngột ngạt nặng con người mới “đáp ứng yêu cầu của thời trĩu một vùng quê trong “Cái đêm hôm ấy kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê đêm gì” (Phùng Gia Lộc) như vẫn thấp hương và xây dựng hình ảnh người Thanh thoáng đâu đây trong hình ảnh một đơn vị Hóa đẹp trong lòng bạn bè trong nước và quốc tế” như chủ trương của tỉnh đề ra. (1) Định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới. 90
- Trần Thị An hành chính quy mô nhỏ mà có tới vài trăm chúng để triển khai sớm và phát triển thành cán bộ ở xã Quảng Vinh (Quảng Xương) công du lịch ở Thanh Hóa. [19] hay việc người dân phải đóng quá Tuy nhiên, sự phát triển du lịch của nhiều khoản đóng góp lạ lùng trong Thanh Hóa những năm gần đây đang bộc lộ “Chuyện khó tin ở một vùng quê” ở Hải sự thiếu bền vững nghiêm trọng do sự thiếu Lộc (Hậu Lộc) [20] Những lực cản đó là chuyên nghiệp trong khai thác du lịch, đặc gì, nó là tập quán của cách vận hành bộ biệt là các ứng xử với du khách, làm giảm máy tổ chức, là thói quen của một lối tư niềm tin và số lượng du khách. Nếu thiếu duy đã hằn sâu vào não trạng của việc thực các điều chỉnh cần thiết thì trong tương lai thi quyền lực, hay là gì nữa? Đó là những gần, số lượng khách sẽ giảm, Sầm Sơn có câu hỏi mà người Thanh Hóa ở các vị trí thể thua trong cuộc cạnh tranh này. khác nhau cần chung sức tìm ra câu trả lời. Ba là, sức bật trong kinh tế thị trường và Hai là, sự nhanh nhạy trong cách nhìn lực kéo của văn hóa làng và sự cản trở của tầm nhìn Như đã nói ở trên, đã từng có nhiều cuộc Trong quá trình tìm kiếm các đột phá Nam tiến của dân cư Thanh Hóa trong lịch tăng trưởng mới của cả nước, người Thanh sử. Ngô Đức Thịnh cho rằng: “Trong quá Hóa đã có những bước đi tiên phong trong trình khai phá phương Nam như vậy, Chúa phát triển du lịch. Không khó để nhận ra sự Nguyễn vận động nhiều cư dân vùng Thanh bứt phá này và hiệu quả của nó qua việc so Nghệ vào lập nghiệp, là tổ tiên chính của sánh các số liệu thống kê về du lịch Sầm người Việt ở vùng Trung và Nam Trung Bộ Sơn (Thanh Hóa) và Cửa Lò (Nghệ An) - ngày nay. Do vậy, những mối dây liên hệ hai bãi biển có tiếng là đẹp và thu hút một về xã hội và văn hoá giữa Thanh Hoá với lượng khách lớn hàng năm. Đàng Trong, nhất là các tỉnh miền Trung là Trong những năm qua, số lượng khách một thực tế lịch sử” [17, tr.223]. Trong các du lịch đến Sầm Sơn lần lượt là: 2012: 2,1 cuộc di dân lịch sử đó, người xứ Thanh là triệu lượt người, 2013: 2,5 triệu; 2014: 3,1 những người “ly hương bất ly truyền thống”, triệu; 2015: vào dịp nghỉ lễ 30/4 và họ mang theo hành trang văn hóa của mình 1/5/2015, ước tính số khách đến Sầm Sơn là đến vùng đất mới, lan tỏa ở đó một thứ bản 30 nghìn người, đã xảy ra hiện tượng tắc sắc không dễ phôi pha của cộng đồng mình, đường từ thành phố Thanh Hóa xuống bãi khiến cho vài trăm năm sau, các dấu ấn bản biển Sầm Sơn, bãi biển đặc kín người. sắc đó vẫn có thể nhận ra (chẳng hạn, qua Trong khi đó, số lượng khách du lịch đến hệ thống các làng nghề, hệ thống các di Cửa Lò lần lượt là: 2012: 1,935 triệu; 2013: tích, tín ngưỡng ở trung Trung bộ và nam 2,12 triệu; 2014: 2,25 triệu; 2015: trong dịp Trung bộ). Từ điểm nhìn đương đại, các nghỉ lễ 30/4 và 1/5, ước tính có đến 35 “hóa thạch văn hóa - lịch sử” mà người nghìn du khách đến Cửa Lò [10]. Thanh Hóa mang theo đều là những mặt giá Cả hai tỉnh Nghệ An và Thanh Hóa đều trị, có ý nghĩa tích cực được các cộng đồng có 2 bãi biển đẹp nhưng Sầm Sơn có nhiều khác chấp nhận, chia sẻ. lợi thế hơn Cửa Lò: gần Hà Nội hơn, dân số Trong những năm gần đây, để kiếm tìm Thanh Hóa đông hơn (theo số liệu điều tra và thử sức các cơ hội, việc di cư của người 2009, dân số Thanh Hóa là 3,4 triệu người, xứ Thanh không chỉ theo hướng “nam tiến” dân số Nghệ An là 2,9 triệu người). Đó là mà đã phủ khắp cả nước và đi ra nước các lợi thế lớn, và Thanh Hóa đã sử dụng ngoài, và ở đây, người Thanh Hóa đã tỏ rõ 91
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016 sự nhanh nhạy đối với thị trường và đạt nguồn “địa linh” nguồn cội. Nét tâm lý, nét được nhiều thành công nhất định. Trong tính cách này đã hình thành nên các mô quá trình di dân hiện nay, các yếu tố bản thức ứng xử của người xứ Thanh khiến họ sắc, bản tính với tất cả ưu, nhược điểm của không nhận được sự chia sẻ của người ở con người Thanh Hóa bộc lộ rõ nét, mà vùng khác. Các nghiên cứu về “bản sắc văn trong thời buổi kỹ thuật số, nhược điểm của hóa” trên thế giới đã đặt vấn đề: bản sắc là một số người đã nhanh chóng bị đẩy lên sản phẩm của lịch sử, của quá khứ hay là theo cấp số nhân trên mạng internet. Những câu chuyện đương đại [20] đều nghiêng về nhận xét ác ý lọt vào tầm chú ý của cộng nhận định: bản sắc vừa được định hình đồng mạng khiến nó có lúc xuất hiện thành trong quá khứ, vừa được bổ sung thêm phong trào kỳ thị và tẩy chay người lao nhiều nét mới trong bối cảnh đương đại. động Thanh Hóa. Với người xứ Thanh, điều này hoàn toàn Nhận thấy sự bất công vô lý này, các đúng, khi ta nhìn thấy các yếu tố giá trị nghiên cứu cũng đã cố gắng lí giải động cơ truyền thống trong hiện tại, cũng như thấy của các phản ứng cực đoan, đồng thời, chỉ ra cả những bất cập của truyền thống rất cần nguyên nhân gây ra các phản ứng cực đoan khắc phục trong sự thay đổi nhanh của xã đó. Tác giả Phan Quang viết: “Những công hội hiện nay. việc đòi hỏi sự tỉ mẩn, cẩn trọng trong từng Như vậy, xét tổng thể 3 khía cạnh của chi tiết không phải là thế mạnh mà thay vào con người Thanh Hóa vừa nêu một cách sơ đó là tư tưởng ưa làm thủ lĩnh và trung thành lược trên đây, với những suy nghĩ bước với những gì vốn có Đồng bằng sông Mã đầu, có thể nói rằng, trong tâm lý, tính cách lớn thứ ba trong toàn quốc, nhưng người xứ con người xứ Thanh có sự tồn tại mạnh mẽ Thanh không lớn lên bằng gạo trắng nước của các đối cực (tiên tiến và bảo thủ; nhanh trong. Quanh năm họ phải vật lộn với nắng nhạy nhưng thiển cận; sức bật của nền kinh hạn, bão và cái lạnh thấu xương khi trời tế hiện đại và lực kéo của mô thức ứng xử đông. Hạt lúa, củ khoai, củ sắn luôn có nguy cộng đồng được hình thành trong văn hóa cơ bị thiên tai cướp đi bất cứ khi nào. Từ bản làng). Các đối cực đó được hình thành nên thân sự gian lao ấy đã hình thành nên tập từ các mã văn hóa, lịch sử mà tính trung tính người xứ Thanh là cần kiệm, chi li” [8]. chuyển và tính kết tinh là những yếu tố tập Ngô Đức Thịnh thì lại cho rằng, người trung nhất; trong đó, tính trung chuyển tạo Thanh Hóa có xu hướng muốn trở thành đầu nên sự uyển chuyển, linh hoạt và tính kết lĩnh, do đó, không phục nhau, dẫn đến tình tinh tạo nên sự cứng cỏi, bản lĩnh kèm theo trạng thiếu cố kết cộng đồng (đặc biệt so với đôi chút sự cao ngạo khó hòa nhập với cộng dân Nghệ Tĩnh). [17, tr.224]. đồng. Với một con người, việc tách bạch Có người nghiên cứu cho rằng, nguyên chúng để thay đổi đã khó; với một vùng, sự nhân đó là phương ngữ hay tính cục bộ của tách bạch lại gần như luôn vấp phải các bức nhiều người xứ Thanh. Theo chúng tôi, tâm tường của lòng tự tôn nhiều khi hơi thái quá lý định kiến ở một số người đối với người mang đậm sắc thái của tâm lý tập thể. Thanh Hóa không phải do phương ngữ, 4. Kết luận cũng không hẳn vì tính cục bộ của người xứ Hiện nay, ở phạm vi quốc gia và phạm vi Thanh, mà do tính cao ngạo được hình từng tỉnh, đang thịnh hành một xu hướng thành bởi lòng tự tôn thái quá của những tập trung nghiên cứu bản sắc nhằm lí giải người sinh ra và lớn lên trong những mạch tình trạng “phát triển chưa xứng với tiềm 92
- Trần Thị An năng”, từ đó, việc tìm kiếm các lí do ở văn thống chí - Tập 2 , Viện Sử học phiên dịch hóa đang là một xu hướng nghiên cứu hứa và chú giải, Phạm Trọng Điềm dịch, Đào hẹn. Tuy nhiên, việc nghiên cứu bản sắc Duy Anh hiệu đính, Tái bản lần thứ 2, Nxb một cộng đồng cần đặt nó trong tương quan Thuận Hóa, Huế, 2006 với các cộng đồng khác để đề phòng xu [10] Số liệu thống kê của thị xã Sầm Sơn và thị hướng thái quá thể hiện ở sự cổ xúy bản sắc xã Cửa Lò. của từng vùng/miền bởi xu hướng này dễ [11] Nguyễn Khắc Sử, Nguyễn Xuân Ngọc biến tướng thành một kiểu co cụm mới, một (2004), “Khảo cổ học tiền - sơ sử Ninh kiểu cát cứ mới khiến đất nước phân tán lực Bình, nét phác thảo”, Tạp chí Khảo cổ học, lượng, thiếu cố kết, thiếu sự đồng lòng vì số 1. đất nước. Việc nghiên cứu bản sắc văn hóa [12] Lê Bá Thảo (2004), Thiên nhiên Việt Nam, xứ Thanh hôm nay nên nhìn nhận từ hai Nxb Giáo dục, Hà Nội. phía để vừa chỉ ra các yếu tố bản sắc vùng [13] Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Trọng Báu, đã và đang tạo nên sự cố kết cộng đồng, Nguyễn Văn Tu (1982), Tiếng Việt trên đồng thời, cần lí giải để nhận ra rào cản và đường phát triển, Nxb Khoa học xã hội, gỡ bỏ rào cản, chứ không nên chỉ tập trung Hà Nội. tô đậm các nét đặc trưng văn hóa vùng có [14] Hoàng Bá Tường, Bảo tồn, phát huy giá nguy cơ cản trở sự thống nhất trong đa dạng trị di sản văn hóa xây dựng và phát triển của văn hóa Việt Nam. văn hóa, con người tỉnh Thanh trong thời kỳ hội nhập, phát triển, Nguồn: Văn hóa Tài liệu tham khảo và đời sống Thanh Hóa online. [1] Hoàng Thị Châu (1963 - 1964), Giáo trình [15] Nguyễn Bạt Tụy (1950), Chữ và vần Việt, phương ngôn học Việt Nam cho sinh viên Nxb Khoa học, Sài Gòn. khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội. [16] Nguyễn Bạt Tụy (1961), “Ngữ Việt trên đất [2] Hoàng Thị Châu (1989), Tiếng Việt trên Việt”, Văn hóa nguyệt san, số 64, tháng 9. các miền đất nước (phương ngữ học), Nxb [17] Ngô Đức Thịnh (2003), Văn hóa vùng và Khoa học xã hội, Hà Nội. phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb Trẻ, [3] Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương Tp. Hồ Chí Minh. loại chí, t.1, Viện Sử học dịch và chú giải, [18] Bùi Vinh (1987), “Đa Bút - văn hóa và Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2008 văn minh”, Tạp chí Khảo cổ học, số 3. [4] C. Mác, Những hình thái xuất hiện trước [19] hanoimoi.com.vn khi có nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, dẫn [20] dantri.com.vn theo Hoàng Thị Châu. [21] Jean-Francois Bayart (2005), Những ảo [5] Nguyễn Hưng (1972), Ngôn ngữ học đại tưởng về bản sắc văn hóa (The Illusion of cương, Đại học Văn khoa, Đà Lạt. Cultural Identity), University Of Chicago [6] Đinh Gia Khánh - Cù Huy Cận, 1995 (chủ Press. biên): Các vùng văn hóa Việt Nam, Nxb. [22] Günter - Trommsdorff (2001), Từ điển xã Văn hóa, Hà Nội hội học, Nxb. Thế giới, Hà Nội. [7] Vương Hữu Lễ (1964), Những đặc tính [23] Stephen James 2011: Những người London của âm vị học Việt ngữ, Đại học Văn khoa gốc Việt: Các bản sắc xuyên quốc gia qua Sài Gòn. những liên kết cộng đồng, (Vietnamese [8] Phan Quang, “Đến với đất và người xứ Londoners: Transnational Identities Through Thanh”, Hội đồng hương Thanh Hóa online. Community Networks), Goldsmiths College, [9] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất University of London. 93
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016 94