Giáo trình Báo chí truyền hình (Bản đẹp)

doc 276 trang huongle 3630
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Báo chí truyền hình (Bản đẹp)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docgiao_trinh_bao_chi_truyen_hinh_ban_dep.doc

Nội dung text: Giáo trình Báo chí truyền hình (Bản đẹp)

  1. MỤC LỤC Lời nói đầu 7 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRUYỀN HÌNH 17 1, Khái niệm 8 2, Đặc trưng của truyền hình 10 3, Đặc điểm của báo chí truyền hình và sản phẩm của truyền hình. 12 4, Những yếu tố cơ bản trong truyền hình 13 NGUYÊN LÝ TRUYỀN HÌNH 34 1, Nguyên lý truyền hình 19 2, Các thiết bị truyền hình 21 LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRUYỀN HÌNH 45 1.Truyền hình thế giới. 32 2, Truyền hình Việt Nam 41 CHỨC NĂNG CỦA BÁO CHÍ TRUYỀN HÌNH 58 1, Khái niệm về chức năng 46 2. Các chức năng của báo chí truyền hình 46 KỊCH BẢN VÀ KỊCH BẢN TRUYỀN HÌNH 90 1. Khái niệm về kịch bản 59 2, Nguồn gốc kịch bản 61 3, Những đặc trưng và yếu tố của kịch 62 4, Kịch bản điện ảnh 67 5, Kịch bản điện ảnh 75 1
  2. 6, Kich bản truyền hình 79 SẢN XUẤT CHƯƠNG TRÌNH TRUYÊN HÌNH 97 1, Chương trình truyền hình trực tiếp 91 2, Loại chương trình sản xuất qua băng từ 94 CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH 105 1, Khái niệm 98 2, Kế hoạch và các yếu tố xây dựng chương trình 101 Một số mô hình sản xuất chương trình truyền hình 278 CẦU TRUYỀN HÌNH 124 1, Vai trò của các chương trình truyền hình trực tiếp 107 2, Nguyên lý cầu truyền hình 109 3, Đặc điểm của chương trình Cầu truyền hình 112 4. Quá trình chuẩn bị một chương trình Cầu truyền hình 114 5. Thực hiện ghi hình và phát sóng 120 TIN TRUYỀN HÌNH 145 1, Khái quát chung về tin 125 2. Viết tin như thế nào? 126 3. Cấu trúc viết tin 129 4. Các dạng tin 133 5, Tin truyền hình 136 2
  3. PHỎNG VẤN TRUYỀN HÌNH 165 1, Khái niệm phỏng vấn 146 2, Các dạng phỏng vấn 147 3, Phương pháp, kỹ năng phỏng vấn 149 4, Phỏng vấn truyền hình 151 5, Phương pháp thực hiện phỏng vấn truyền hình 157 6, Nghệ thuật phỏng vấn truyền hình 160 7. Kịch bản phỏng vấn truyền hình 162 PHÓNG SỰ TRUYỀN HÌNH 192 1. Sơ lược sự hình thành và phát triển của phóng sự 166 2, Khái niệm và đặc trưng của phóng sự truyền hình 169 3, Vai trò và các dạng kịch bản phóng sự truyền hình 176 4, Các loại phóng sự truyền hình 179 5. Quy trình thực hiện phóng sự truyền hình 182 6. Phân biệt phóng sự truyền hình với một số thể loại khác. 188 BÌNH LUẬN TRUYỀN HÌNH 213 1, Khái niệm 193 2, Bình luận trên truyền hình 195 3, Đặc điểm và các yếu tố của bình luận truyền hình 200 4, Các dạng bình luận truyền hình 201 5, Kịch bản bình luận truyền hình 206 6, Quy trình thực hiện bình luận truyền hình 207 KÝ SỰ TRUYỀN HÌNH 229 1, Những vấn đề chung về ký 214 2, Phân biệt ký sự truyền hình với một số thể loại khác 217 3
  4. 3, Các dạng ký sự truyền hình 220 4, Sáng tạo tác phẩm ký sự truyền hình 224 PHIM TÀI LIỆU TRUYỀN HÌNH 261 1, Khái niệm 230 2, Sự ra đời và phát triển của phim tài liệu 235 3, Chức năng của phim tài liệu truyền hình. 237 4, Điểm khác nhau giữa phim tài liệu truyền hình 238 và phim tài liệu điện ảnh 5, Những điểm phim tài liệu truyền hình được kế thừa 245 từ phim tài liệu điện ảnh 6, Các thể loại phim tài liệu truyền hình 247 7, Các phương pháp khai thác chất liệu 249 8, Các yếu tố trong kịch bản phim tài liệu truyền hình 250 9, Kết cấu và bố cục kịch bản phim tài liệu truyền hình 252 10, Lời bình 257 11, Phong cách 261 CÁC THUẬT NGỮ SỬ DỤNG TRONG TRUYỀN HÌNH 272 TÀI LIỆU THAM KHẢO 283 PHỤ LỤC 4
  5. Lời nói đầu Truyền hình là một loại hình truyền thông đại chúng chuyển tải thông tin bằng hình ảnh và âm thanh về một vật thể hoặc một cảnh đi xa bằng sóng vô tuyến điện. Truyền hình xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ XX và phát triển với tốc độ như vũ bão nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, tạo ra một kênh thông tin quan trọng trong đời sống xã hội. Ngày nay, truyền hình là phương tiện thiết yếu cho mỗi gia đình, mỗi quốc gia, dân tộc. Truyền hình trở thành vũ khí, công cụ sắc bén trên mặt trận tư tưởng văn hóa cũng như lĩnh vực kinh tế xã hội. Ở thập kỷ 50 của thế kỷ XX, truyền hình chỉ được sử dụng như là công cụ giải trí, rồi thêm chức năng thông tin. Dần dần truyền hình đã trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý và giám sát xã hội, tạo lập và định hương dư luận, giáo dục và phổ biến kiến thức, phát triển văn hóa, quảng cáo và các dịch vụ khác. Sự ra đời của truyền hình đã góp phần làm cho hệ thống truyền thông đại chúng càng thêm hùng mạnh, không chỉ tăng về số lượng mà còn tăng về chất lượng. Công chúng của truyền hình ngày càng đông đảo trên khắp hành tinh. Với những ưu thế về kỹ thuật và công nghệ, truyền hình đã làm cho cuộc sống như được cô đọng lại, làm giàu thêm ý nghĩa, sáng tỏ hơn về hình thức và phong phú hơn về nội dung. Ngày 7/9/1970 là ngày phát sóng đầu tiên của chương trình truyền hình Việt Nam. Thấm thoắt đã 35 năm. Ngày 7/9 trở thành ngày kỉ niệm truyền thống của truyền hình Việt Nam. Từ ngày ấy đến nay, truyền hình Việt Nam đã trưởng thành nhanh chóng và có những tiến bộ vượt bậc. Từ phát hình đen trắng chuyển sang phát hình màu, từ phát thử nghiệm chương trình 4 giờ/ ngày vào ban đêm, đến năm 1995 phát 10 giờ/ ngày; đến nay Đài Truyền hình Việt Nam phát với tổng số thời lượng là 200 giờ/ ngày trên 5 kênh VTV1, VTV2, VTV3, 5
  6. VTV4, VTV5 cùng với 4 kênh truyền hình cáp hữu tuyến và 64 đài phát thanh - truyền hình địa phương. Ngành truyền hình Việt Nam đã có nhiều nỗ lực vượt bậc nhằm cải tiến, nâng cao chất lượng các chương trình truyền hình, đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao của công chúng. Truyền hình Việt Nam còn chú trọng đẩy mạnh việc đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân viên, cán bộ kỹ thuật, đặc biệt là đội ngũ phóng viên, biên tập nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp và sự quy chuẩn của đội ngũ người làm truyền hình hiện đại. Như vậy, cùng với sự phát triển của các loại hình truyền hình, việc nâng cao chất lượng thông tin trên truyền hình ngày càng trở nên cấp thiết. Tuy nhiên, ở Việt Nam các tài liệu nghiên cứu về lý luận và thực hành truyền hình phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập ở các trường, khoa còn quá ít ỏi, chưa có hệ thống, chưa tương xứng với sự phát triển của truyền hình. Báo chí truyền hình là môn học cơ sở trong chương trình đào tạo về lý luận và nghiệp vụ truyền hình tại Khoa Báo chí – Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Nhằm giúp cho người dạy và người học có thêm căn cứ khoa học để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, chúng tôi biên soạn bài giảng về lý luận và thực hành Báo chí truyền hình, trên cơ sở các bài giảng của giảng viên về môn học này từ các khóa K36 (khóa 1 của Khoa Báo chí, 1991) đến nay. Tập bài giảng này tập trung trình bày các vấn đề của báo chí truyền hình như: vị trí, vai trò; lịch sử ra đời phát triển của truyền hình; khái niệm, đặc trưng; nguyên lý của truyền hình; chức năng xã hội của truyền hình; kịch bản và kịch bản truyền hình; quy trình sản xuất chương trình truyền hình; các thể loại báo chí truyền hình; các thuật ngữ truyền hình; phần phụ lục kèm theo các dạng kịch bản theo thể loại và chương trình truyền hình. Trong tập bài giảng này, chúng tôi sử dụng các nguồn tài liệu của nước ngoài về truyền hình như Mỹ, Anh, Pháp, Nhật Bản, Nga, Đức, Singapo, Australia, Trung Quốc, và một số tài liệu của các đồng nghiệp, một số luận văn, khóa luận tốt nghiệp, đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên, học viên 6
  7. cao học Khoa Báo chí - Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội; một số băng tư liệu về các thể loại, chương trình truyền hình đã được phát trên Đài THVN và các đài địa phương từ 1995 đến nay. Tuy nhiên, do những hạn chế về tư liệu và băng hình cũng như trình độ hiểu biết của tác giả bài giảng Báo chí truyền hình không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định, rất mong được sự đóng góp ý kiến quý báu và bổ ích của các đồng nghiệp và các bạn trong và ngoài trường. 7
  8. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRUYỀN HÌNH 1, Khái niệm Hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng (Mass Communication), hay Mass Media gồm có báo in, báo phát thanh, báo truyền hình, báo điện tử phát trên mạng Internet, sản phẩm thông tin của chúng có tính định kỳ hết sức đa dạng và phong phú. Bên cạnh đó còn có những sản phẩm không định kỳ của truyền thông như các ấn phẩm của ngành xuất bản, các phương pháp truyền thông trực tiếp như: tuyên truyền miệng, quảng cáo, Nội dung và tính chất thông tin đều mang tính phổ cập và có phạm vi tác động rộng lớn trên toàn xã hội. Thuật ngữ truyền hình (Television) có nguồn gốc từ tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp. Theo tiếng Hy Lạp, từ “Tele” có nghĩa là ''ở xa'' còn “videre” là ''thấy được'', còn tiếng Latinh có nghĩa là xem được từ xa. Ghép hai từ đó lại “Televidere” có nghĩa là xem được ở xa. Tiếng Anh là “Television”, tiếng Pháp là “Television”, tiếng Nga gọi là “Tелевидение”. Như vậy, dù có phát triển bất cứ ở đâu, ở quốc gia nào thì tên gọi truyền hình cũng có chung một nghĩa. Truyền hình xuất hiện vào đầu thế kỉ thứ XX và phát triển với tôc độ như vũ bão nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, tạo ra một kênh thông tin quan trọng trong đời sống xã hội. Ngày nay, truyền hình là phương tiện thiết yếu cho mỗi gia đình, mỗi quốc gia, dân tộc. Truyền hình trở thành công cụ sắc bén trên mặt trận tư tưởng văn hóa cũng như các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng. Ở thập kỉ 50 của thế kỉ XX, truyền hình chỉ được sử dụng như là công cụ giải trí, rồi thêm chức năng thông tin. Dần dần truyền hình đã trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý và giám sát xã hội, tạo lập và định hướng dư luận, 8
  9. giáo dục và phổ biến kiến thức, phát triển văn hóa, quảng cáo và các dịch vụ khác. Sự ra đời của truyền hình đã góp phần làm cho hệ thống truyền thông đại chúng càng thêm hùng mạnh, không chỉ tăng về số lượng mà còn tăng về chất lượng. Công chúng của truyền hình ngày càng đông đảo trên khắp hành tinh. Với những ưu thế về kỹ thuật và công nghệ truyền hình đã làm cho cuộc sống như được cô đọng lại làm giàu thêm ý nghĩa, sáng tỏ hơn về hình thức và phong phú hơn về nội dung. Xét theo góc độ kỹ thuật truyền tải có truyền hình sóng (wireless TV) và truyền hình cáp (CATV). Xét dưới góc độ thương mại có truyền hình công cộng (public TV) và truyền hình thương mại (commercial TV). Xét theo tiêu chí mục đích nội dung, người ta chia truyền hình thành truyền hình giáo dục, truyền hình giải trí, Xét theo góc độ kỹ thuật có truyền hình tương tự (Analog TV) và truyền hình số (Digital TV) Truyền hình sóng: (vô tuyến truyền hình- Wireless TV) được thực hiện theo nguyên tắc kỹ thuật như sau: hình ảnh và âm thanh được mã hóa dưới dạng các tín hiệu sóng và phát vào không trung. Các máy thu tiếp nhận các tín hiệu rồi giải mã nhằm tạo ra hình ảnh động và âm thanh trên máy thu hình (ti vi). Còn sóng truyền hình là sóng phát thẳng, vì thế ăngten thu bắt buộc phải ''nhìn thấy'' được ăngten máy phát và phải nằm trong vùng phủ sóng thì mứoi nhận được tín hiệu tốt. Từ những đặc điểm kỹ thuật trên, nên truyền hình sóng chỉ có khả năng đáp ứng nhu cầu của công chúng bằng các chương trình cho các đối tượng; không có khả năng đáp ứng mọi nhu cầu hay dịch vụ cá nhân. Truyền hình cáp: (hữu tuyến – CATV- viết tắt tiếng Anh là Community Antenna Television) đáp ứng nhu cầu phục vụ tốt hơn cho công chúng. Nguyên tắc thực hiện của truyền hình cáp là tín hiệu được truyền trực tiếp qua cáp nối từ đầu máy phát đến từng máy thu hình. Từ đó, truyền hình cáp 9
  10. trong cùng một lúc có thể chuyển đi nhiều chương trình khác nhau đáp ứng theo nhu cầu của người sử dụng. Ngoài ra truyền hình cáp còn phục vụ nhiều dịch vụ khác mà truyền hình sóng không thể thực hiện được. 2, Đặc trưng của truyền hình Truyền hình mặc dù là một loại hình báo chí nhưng bên cạnh những đặc điểm chung của báo chí nó còn có những đặc điểm riêng biệt mang đặc trưng của truyền hình. 2.1, Tính thời sự Tính thời sự là đặc điểm chung của báo chí. Nhưng truyền hình với tư cách là một phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại có khả năng thông tin nhanh chóng, kịp thời hơn so với các loại phương tiện khác. Với truyền hình, sự kiện được phản ánh ngay lập tức khi nó vừa mới diễn ra thậm chí khi nó đang diễn ra, người xem có thể quan sát một cách chi tiết, tường tận qua truyền hình trực tiếp và cầu truyền hình. Truyền hình có khả năng phát sóng liên tục 24/24h trong ngày, luôn mang đến cho người xem những thông tin nóng hổi nhất về các sự kiện diễn ra, cập nhật những tin tức mới nhất. Đây là ưu thế đặc biệt của truyền hình so với các loại hình báo chí khác. Nhờ các thiết bị kỹ thuật hiện đại truyền hình có đặc trưng cơ bản là truyền trực tiếp cả hình ảnh và âm thanh trong cùng một thời gian về cùng một sự kiện, sự việc “khi sự kiện diễn ra phát thanh báo tin, truyền hình trình bày và báo in giảng giải nó”. 2.2, Ngôn ngữ truyền hình là ngôn ngữ hình ảnh và âm thanh Một ưu thế của truyền hình chính là đã truyền tải cả hình ảnh và âm thanh cùng một lúc. Khác với báo in, người đọc chỉ tiếp nhận bằng con đường thị giác, phát thanh bằng con đường thính giác, người xem truyền hình tiếp cận 10
  11. sự kiện bằng cả thị giác và thính giác. Qua các cuộc nghiên cứu người ta thấy 70% lượng thông tin con người thu được là qua thị giác và 20% qua thính giác. Do vậy truyền hình trở thành một phương tiện cung cấp thông tin rất lớn, có độ tin cậy cao, có khả năng làm thay đổi nhận thức của con người trước sự kiện. 2.3, Tính phổ cập và quảng bá Do những ưư thế về hình ảnh và âm thanh, truyền hình có khả năng thu hút hàng tỉ người xem cùng một lúc. Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ truyền hình ngày càng mở rộng phạm vi phủ sóng phục vụ được nhiều đối tượng người xem ở vùng sâu, vùng xa. Tính quảng bá của truyền hình còn thể hiện ở chỗ một sự kiện xảy ra ở bất kì đâu được đưa lên vệ tinh sẽ truyền đi khắp cả thế giới, được hàng tỉ người biết đến. Ngày nay ngồi tại phòng nhưng người ta vẫn có thể nắm bắt được sự kiện diễn ra trên thế giới. 2.4, Khả năng thuyết phục công chúng Truyền hình đem đến cho khán giả cùng lúc hai tín hiệu cơ bản là hình ảnh và âm thanh đem lại độ tin cậy, thông tin cao cho công chúng, có khả năng tác động mạnh mẽ vào nhận thức của con người. Truyền hình có khả năng truyền tải một cách chân thực hình ảnh của sự kiện đi xa nên đáp ứng yêu cầu chứng kiến tận mắt của công chúng. “Trăm nghe không bằng mắt thấy”, chính truyền hình đã cung cấp những hình ảnh về sự kiện thỏa mãn nhu cầu “thấy” của người xem. Đây là lợi thế lớn của truyền hình so với các loại hình báo in và phát thanh. 2.5, Khả năng tác động dư luận xã hội mạnh mẽ và trở thành diễn đàn của nhân dân Các chương trình truyền hình mang tính thời sự, cập nhật, nóng hổi, hấp dẫn người xem bằng cả hình ảnh, âm thanh và lời bình, vừa cho người xem thấy 11
  12. được thực tế của vấn đề vừa tác động vào nhận thức của công chúng. Vì vậy, truyền hình có khả năng tác động vào dư luận mạnh mẽ. Các chương trình của Đài truyền hình Việt Nam như các chuyên mục “Sự kiện và bình luận”, “Đối thoại trực tiếp”, “Chào buổi sáng” của ban Thời sự VTV1 không chỉ tác động dư luận mà còn định hướng dư luận, hướng dẫn dư luận phù hợp với sự phát triển của xã hội và các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Ngày nay, do sự phát triển của khoa học công nghệ, công chúng của truyền hình ngày càng đông đảo, nên sự tác động dư luận ngày càng rộng rãi. Chính vì thế,truyền hình có khả năng trở thành diễn đàn của nhân dân. Các chuyên mục “ý kiến bạn xem truyền hình”, “với khán giả VTV3”, “Hộp thư bạn xem truyền hình” , đã trở thành cầu nối giữa người xem và những người làm truyền hình. Qua đó người dân có thể nêu lên những ý kiến khen chê, ủng hộ, phản đối, góp ý phê bình về các chương trình truyền hình của đài truyền hình hoặc gửi đi những thắc mắc, bất cập, sai trái ở địa phương. Rất nhiều vụ tham nhũng, lạm dụng quyền hạn đã được người làm báo làm sáng tỏ qua sự phản ánh của nhân dân. 3, Đặc điểm của báo chí truyền hình và sản phẩm của truyền hình. 3.1, Về nội dung kỹ thuật Trong các loại hình truyền thông đại chúng, truyền hình là phương tiện ra đời muộn, tuy nhiên nó là sản phẩm của nền văn minh khoa học công nghệ phát triển. Truyền hình đã thừa hưởng kinh nghiệm và phương pháp tạo hình, tiếng của điện ảnh và phát thanh. Ở truyền hình có sự khái quát triết lý của báo in, tính chuẩn xác cụ thể bằng hình ảnh, âm thanh của điện ảnh, phát thanh, tính hình tượng của hội họa, cảm xúc tư duy của âm nhạc. Sự phát triển của các phương tiện kỹ thuật công nghệ giúp truyền hình tạo ra phương pháp mới trong truyền đạt thông tin. Truyền hình là loại hình truyền thông có cac yếu tố kỹ 12
  13. thuật hiện đại, là sự kết hợp giữa: kỹ thuật + mỹ thuật + nghệ thuật + kinh tế + báo chí. 3.2, Về tư duy và sáng tạo tác phẩm Mỗi loại hình truyền thông đại chúng đều có những đặc thù riêng. Nếu chỉ xét trên phương diện quá trình làm ra một sản phẩm, ở báo in mỗi tác phẩm, mỗi bài báo có thể là sản phẩm riêng, là sự sáng tạo riêng của mỗi cá nhân, mỗi nhà báo. Nhưng để sáng tạo một tác phẩm truyền hình còn công phu hơn nhiều, đó là đứa con tinh thần của cả một tập thể, đạo diễn, biên kịch và những người làm kỹ thuật. Sản phẩm đó thể hiện ý kiến thống nhất của từng thành viên trong đoàn làm phim, giữa người biên tập và người quay phim. Vì vậy đối với báo in, nhà báo có thể viết đề cương rồi viết luôn thành bài, còn ở truyền hình do tính chất đặc thù quy định, đề cương đó được thể hiện ở kịch bản. Kịch bản là sương sống cho một tác phẩm truyền hình, đồng thời tạo ra sự thống nhất giữa đạo diễn và quay phim trong quá trình làm phim, sự ăn ý giữa hình ảnh và lời bình 4, Những yếu tố cơ bản trong truyền hình 4.1, Lượng thông tin Do trực quan cảm giác truyền hình rất hạn chế lượng thông tin lý luận và tư duy trừu tượng. Ký hiệu thông tin truyền hình thuộc ký hiệu đồng nhât (sự phù hợp hoàn toàn giữa nội dung ký hiệu và vật thể mà ký hiệu đại diện), thông tin trong truyền hình thường mang tính cụ thể, dễ hiểu bằng hình ảnh, âm thanh tự nhiên, có tính thuyêt phục cao. 4.2, Hình ảnh trong truyền hình Hình ảnh trong truyền hình vừa là phương tiện vừa là nội dung thể hiện ý đồ tư tưởng của tác phẩm. Hình ảnh trong truyền hình phản ánh không gian ba chiều lên mặt phảng hai chiều của truyền hình. Khác với hình ảnh tĩnh tại của 13
  14. các nghệ thuật tạo hình như hội họa, nhiếp ảnh. Hình ảnh trong truyền hình là hình ảnh động có thực đã qua xử lý kỹ thuật Năm 1828, nhà vật lý người Bỉ J.Plateau đã chứng minh nguyên lý lưu ảnh trên võng mạc của mắt người và chính ông là người đã xác định nguyên lý cơ bản của nghệ thuật thứ bảy. Nguyên lý đó là sự biến đổi những hình ảnh tĩnh của nhiếp ảnh thành những hình ảnh động của điện ảnh 24 hình/giây và sau này, truyền hình với việc truyền và tái tạo hình ảnh điện tử 25 hình / giây. Ở điện ảnh và truyền hình, hình ảnh được tái tạo sinh động, liên tục về quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng, còn ở nhíêp ảnh, hình ảnh là sự tái hiện cuộc sống trong khoảng khắc. trong tác phẩm truyền hình, hình ảnh không chỉ mô tả sự họat động của con người mà còn giúp khán giả “tham gia” sự kiện. Chỉ cần ngồi tại chỗ với chiếc máy thu hình, người xem có thể biết được sự việc xảy ra xung quanh mình hoặc cách xa mình hàng vạn cây số, hàng năm ánh sáng. Truyền hình đã kế thừa kinh nghiệm của điện ảnh về cỡ cảnh, góc độ máy, động tác máy và nghệ thuật Montage. Các cỡ cảnh chính trong truyền hình là: toàn cảnh, trung cảnh, cận cảnh, Với các cỡ cảnh này, truyền hình có thể thỏa mãn nhu cầu muốn biết cái gì đang xảy ra, nó xảy ra như thế nào của khán giả. Mặt khác qua các cỡ cảnh tác giả có thể bộc lộ được thái độ tâm lý của con người trong sự kiện đó. Qua các góc quay cao thấp, chính diện, ¾ góc độ chủ quan và khách quan, các tác phẩm truyền hình có thể giúp cho người xem “tham gia” sự kiện hay “đứng trên” nhìn vào sự kiện. Tuy nhiên, hình ảnh trong truyền hình có nhiều điểm khác hình ảnh trong phim truyện. Mục đích của các cảnh trong các tác phẩm truyền hình là thông tin thời sự và xác thực. Tính thời sự, tính phổ biến không thể thiếu được trong các tác phẩm báo chí. Còn điện ảnh, với mục đích giải trí, với phương pháp tái tạo cuộc sống bằng hình tượng nghệ thuật, việc hư cấu là không thể xóa bỏ. Bởi vậy, khi làm phim truyện, người ta phải mất nhiều thời gian dàn 14
  15. cảnh, bố trí đạo cụ, phục trang, hóa trang . Trong khi đó, người phóng viên khi quay phim phóng sự hay tin truyền hình, ít khi có điều kiện dàn dựng hiện trường, ít có góc độ thời gian để chọn góc độ, ánh sáng. Thậm chí khi công chúng phát hiện ra sự dàn dựng giả tạo, tính thuyết phục của tác phẩm truyền hình sẽ giảm sút. Truyền hình là phương tiện quan sát trực tiếp cuộc sống của mỗi gia đình, khả năng trực quan có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình nhận thức của con người. Chỉ riêng một khuôn hình thôi cũng có thể truyền đạt trực tiếp hình ảnh của sự vật cụ thể. Trong các tác phẩm truyền hình , mỗi hình ảnh đều phải bao hàm một ý nghĩa, một nội dung nào đó hoặc là nguyên nhân, diễn biến hoặc là kết quả của quá trình phát triển sự kiện trong cuộc sống. Các hình ảnh liên kết với nhau theo tuyến tính thời gian. Hiình ảnh trong tác phẩm truyền hình là phương tiện để tác giả biểu thị ý đồ, tư tưởng: “ bản thân sự thể hiện hình ảnh đã là nội dung, là hành động rồi và vì vậy, nó hàm chứa những nguyên nhân của chính cách xây dựng khuôn hình, hoặc thay thế khuôn hình này bằng một khuôn hình khác.” Ý nghĩa của hình ảnh trong tác phẩm truyền hình thể hiện ở chỗ cảnh quay cho xem cái gì, góc quay và động tác máy có ý nghĩa như thế nào, tác giả muốn biểu lộ ý đồ qua góc quay này. Khả năng biểu hiện của hình ảnh trong tác phẩm truyền hình còn thể hiện ở mối liên hệ trong các hình ảnh. Qua phương pháp Montage, nội dung tự thân của mỗi hình ảnh phối hớp với nhau, tạo ra nội dung thông tin mới mang tính tổng thể. Sự sắp xếp hình ảnh trong quá trình truyền đạt thông tin giúp con người cảm nhận được tính đa chiều, lập thể trong mỗi sự kiện, vấn đề, số phận con người. Tư duy làm khán giả phát hiện được tính ẩn dụ của hình ảnh, của các hiện tượng lắp ráp và qua đó biểu hiện được mối quan hệ của sự kiện, sự vật. 15
  16. Cũng như các loại hình “nghệ thuật ống kính” khác (nhiếp ảnh, điện ảnh) truyền hình phải lựa chọn những hình ảnh truyền thông đắt nhất để phản ánh nét bản chất của vấn đề. Quá trình xử lý hình ảnh trong tác phẩm truyền hình phải phù hợp với điều kiện và môi trường giao tiếp thông tin (trong gia đình với khoảng cách gần và màn ảnh). Thông thường để hiểu được nội dung một cận cảnh, người ta cần từ 2-5 giây, để hiểu được nội dung trung cảnh, người ta cần 5-8 giây, còn toàn cảnh lượng thời gian còn nhiều hơn nữa. Hình ảnh trong các tác phẩm truyền hình phải tuân thủ theo nguyên tắc cảm nhận như thói quen quan sát khuôn hình từ trái sang phải, từ trên xuống dưới, quy luật hình khối, xa gần, cân đối đường nét, màu sắc, kích thước sự vật, đường vàng (đường chéo), đường mạch, điểm mạch, chiều vận động của đối tượng. 4.3, Âm thanh Âm thanh là những yếu tố tồn tại khách quan trong đời sống xã hội. Nó đóng vai trò quan trọng trong quá trình thông tin, truyền hình đã kế thừa kinh nghiệm xử lí, thể hiện âm thanh của phát thanh. Ba yếu tố của âm thanh (lời bình, tiếng động, âm nhạc) được sử dụng trong truyền hình nhằm thông tin phản ánh cuộc sống. Nhờ sự trợ giúp của âm thanh tác phẩm truyền hình trở nên sống động chư bản thân cuộc sống. Âm nhạc trong bản thân tác phẩm truyền hình phải là âm thanh từ cuộc sống thực tế không được dàn dựng, giả tạo bởi mục đích của các tác phẩm truyền hình là những hình ảnh và âm thanh ghi lại hơi thở, động thái của cuộc sống. Tính xác thực trong âm thanh truyền hình là sức mạnh của thể loại này. Lời bình trong tác phẩm truyền hình là sự bổ sung cho những gì người xem thấy trên màn hình chứ không phải những gì họ đã nhìn thấy. Lời bình được tiến hành song song với hình ảnh. Lời bình ( thuyết minh) bắt đầu hình thành trong giai đoạn xây dựng kịch bản. Lời thuyết minh phải nảy sinh không 16
  17. trước thì cũng đồng thời với việc xây dựng kịch bản. Lời thuyết minh phải truyền đạt được nội dung tư tưởng của phim. Vậy lời thuyết minh phải đạt được những yêu cầu sau: phải giúp người xem tổng hợp, khái quát được ý nghĩa của sự việc, sự kiện phản ánh trong tác phẩm của truyền hình. 4.4, Tiếng động hiện trường: Tiếng động hiện trường bao gồm âm thanh của thiên nhiên ( mưa, gió, nước chảy ), âm thanh do sinh hoạt con người tạo nên( tiếng dụng cụ lao động, máy móc, tiếng reo hò ), tiếng động nhân tạo Có người cho rằng: “ Phim tài liệu, phóng sự truyền hình không có tiếng động khác nào phim câm”. Rõ ràng tiếng động sẽ làm tăng sự gợi cảm, tính chân thực của tác phẩm truyền hình nhằm tác động vào nhận thức, tình cảm của người xem truyền hình. Tuy nhiên, việc sử dụng tiếng động phải đúng cường độ, đúng lúc. Sử dụng tiếng động hiện trường không tốt sẽ làm giảm hiệu quả của tiếng động truyền hình. Việc sử dụng tiếng động quá to, át lời bình sẽ gây cảm giác khó chịu cho khán giả. Mặt khác, tiếng động trong các tác phẩm truyền hình không nên là tiếng động giả tạo như trong phim truyện. Theo kinh nghiệm của những nhà làm phim Canada thì trong phim phóng sự tài liệu Canada trước đây: 90% là lời bình, 5% là phỏng vấn, 1% là tiếng động. Sau đó một thời gian tỉ lệ này đã thay đổi: 80% là lời bình, 15% phỏng vấn, 5% tiếng động. Hiện nay 40% lời bình, 40% phỏng vấn, 20% tiếng động. Điều này chứng tỏ tiếng động hiện trường rất quan trọng trong phim phóng sự truyền hình.Vấn đề là sử dụng tiếng động hiện trường như thế nào cho hiệu quả, tạo được sự hấp dẫn đối với người xem. 4.5, Âm nhạc: Âm nhạc là một trong ba yếu tố quan trọng của tác phẩm truyền hình. Âm nhạc trong tác phẩm truyền hình có tác dụng làm tôn thêm hình ảnh và sự 17
  18. kiện, không chỉ lúc nào cũng vang lên mà chỉ sử dụng lúc cần thiết. Mỗi bản nhạc khi sử dụng phải phù hợp với kết cấu, ý đồ cũng như chủ đề tư tưởng của tác phẩm truyền hình. Âm nhạc thường xen kẽ tiếng động hiện trường. Âm nhạc cũng phải có kịch tính gợi cảm chứ không chỉ minh hoạ cho phim. Không thể sử dụng âm nhạc một cách tuỳ tiện mà phải phụ thuộc vào nội dung, cách thể hiện hình ảnh trong phim. 18
  19. NGUYÊN LÝ TRUYỀN HÌNH 1, Nguyên lý truyền hình Vô tuyến truyền hình là truyền hình ảnh của một vật thể hoặc cảnh đi xa bằng sóng vô tuyến điện. Nguyên lý cơ bản của kỹ thuật truyền hình có thể được giải thich một cách vắn tắt như sau: - Hình ảnh cần truyền được camera điện tử (video camera) biến đổi thành tín hiệu mang thông tin về độ sáng tối và màu sắc của vật. Tín hiệu này được gọi là tín hiệu hình hay tín hiệu Video. - Tín hiệu hình sau khi được khuếch đại, xử lý sẽ được truyền đi trên sóng truyền hình nhờ máy phát hình hoặc hệ thống cáp - Tại nơi nhận máy thu hình tách tín hiệu hình nhận được từ sóng truyền hình rồi đưa đến đèn hình để biến đổi ngược lại thành hình ảnh tái hiện trên màn hình. - Đương nhiên phần âm thanh đi kèm với hình ảnh cũng được biến đổi thành tín hiệu rồi cũng được truyền đi cùng tín hiệu hình. Tại nơi thu tín hiệu âm thanh được đưa ra loa để tạo ra âm thanh. Hệ thống truyền hình đen trắng chỉ có thể truyền đi và tái hiện được hình ảnh đen trắng, tức là độ sáng tối của hình ảnh. Hệ thống truyền hình màu ngoài việc truyền đi và tái hiện hình ảnh đen trắng còn phải truyền đi tái hiện màu sắc của vật. Để xây dựng hệ thống truyền hình màu, người ta dựa trên cơ sở nguyên lý ba màu cơ bản. Nội dung của nguyên lý này như sau: Mọi màu sắc đều có thể phân chia thành ba thành phần mà cơ bản là: màu đỏ (R), màu xanh (B) và màu xanh lá cây (G). 19
  20. Hay nói cách khác, bất kỳ một màu sắc nào có trong tự nhiên cũng đều có thể tạo ra được bằng cách ba màu đỏ, xanh là xanh lá cây theo những tỷ lệ thích hợp. Trên cơ sở quá trình hoạt động của hệ thống truyền hình màu có thể mô tả vắn tắt gồm năm quá trình vật lý sau: 1. Hình ảnh nhiều màu cần truyền tách ta thành ba ảnh một màu cơ bản: ảnh màu đỏ, ảnh màu xanh và ảnh màu xanh lá cây. 2. Biến đổi ba ảnh màu cơ bản thành ba tín hiệu điện mang thông tin màu cơ bản tương ứng Er, Eb, Eg 3. Truyền các tín hiệu màu tới nơi thu 4. Tại nơi thu các tín hiệu này được biến đổi ngược lại thành ba ảnh màu cơ bản 5. Tổng hợp (cộng) ba ảnh màu cơ bản thành một ảnh nhiều màu Trong việc truyền các tín hiệu màu đi, người ta không truyền từng tín hiệu màu trên các kênh truyền riêng rẽ mà từ ba tín hiệu màu Er, Eb, Eg người ta mã hóa chúng thành một tín hiệu video màu tổng hợp rồi mới truyền đi chỉ trên một kênh truyền. Căn cứ vào phương pháp mã hóa tín hiệu video màu mà xuất hiện các hệ truyền hình khác nhau. Trên thế giới hiện nay tồn tại ba hệ truyền hình màu cơ bản là hệ:NTSC, PAL, SECAM. Điều hiển nhiên là tín hiệu truyền hình màu phát đi được mã hóa theo hệ màu nào thì phải dùng máy thu có bộ giải mã màu có hệ tương ứng. Quét hình điện tử: Khác với kỹ thuật điện ảnh, trong kỹ thuật truyền hình, người ta không truyền nguyên vẹn cả một hình ảnh (khuôn hình) đi tức thời mà hình ảnh cần truyền được phân thành những phân tử rất nhỏ gọi là điểm hình. Những điểm hình này được xếp theo từng dòng là 525 dòng (hệ FCC) và 625 (hệ CCIR hoặc OIRT). 20
  21. Nhờ hệ thống quét hình điện tử camera các giá trị sáng tối của từng điểm hình được biến đổi thành tín hiệu video rồi truyền đi với tốc độ quét ra 1750 dòng (hệ FCC) hoặc 15625 dòng (hệ CCIR hoặc OIRT) trong một giây. Để tạo cảm giác hình ảnh chuyển động liên tục người ta cũng truyền đi 30 hình (hệ FCC) hoặc 25 hình (hệ CCIR và OIRT) trong một giây. Để tái hiện hình ảnh ở trên màn hình, trong máy thu hình (TV) cũng có một hệ thống quét hình làm việc với tốc độ quét như ở camera. Nếu việc quét ở máy thu hình không chính xác như ở camera (không đồng bộ) thì trên màn hình thu ta sẽ thấy hình bị đổ hoặc rung theo chiều ngang (thường nói là mất đồng bộ dòng) hoặc hình bị trôi xuống (mất đồng bộ mặt). 2, Các thiết bị truyền hình Hệ thống truyền hình gồm rất nhiều thiết bị điện tử thực hiện các chức năng khác nhau: tạo tín hiệu hình, gia công xử lý tín hiệu, tạo các dạng kỹ xảo truyền hình, phát sóng, ghi, thu tín hiệu hình. Ngoài ra còn có cả các thiết bị âm thanh, ánh sáng, trường quay, 2.1, Video cmera Video camera hoặc camera truyền hình là loại thiết bị điện tử có chức năng biến đổi hình ảnh của vật quay thành tín hiệu video Có nhiều loại camera: loại chuyên dùng trong các studio truyền hình, loại này có kích thước lớn, cấu tạo phức tạp nhưng lại cho chất lượng hình ảnh hoàn hảo như: độ nét cao, màu sắc trung thực. Có loại camera vừa dùng được trong các sudio, vừa dễ dàng mang đi lưu động ngoài trời, loại này có kích thước gọn, trọng lượng nhỏ, thao tác không mấy khó khăn, thuận tiện cho phóng viên truyền hình đi lưu động. Loại camera lưu động (portable camera thường có kèm theo một máy ghi 21
  22. hình(portable video cassette recorder) để ghi tín hiệu video lấy từ camera lên băng từ video. Loại này được dùng cả với ácquy. Để gọn nhẹ hơn nữa, hiện nay người ta còn sản xuất loại máy gọi là CAMCORDER gồm hai phần: camera và máy ghi âm (recorder) lắp ghép với nhau, khi cần có thể tháo rời thành hai máy dùng riêng biệt. Để phục vụ cho những người không làm truyền hình chuyên nghiệp, người ta sản xuất loại máy quay video lưu động (video movie) với nhiều chủng loại và kích thước khác nhau. ở loại này cả hai phần camera và máy ghi hình đều được đặt trong một vỏ chung. Video Movie thường được thiết kế gọn nhẹ, nhiều chức năng điều khiển tự động, thuận tiện cho người sử dụng, không đòi hỏi người sử dụng phải có kiến thức sâu về kỹ thuật Trong một Video camera thường có các bộ phận chính: ống kính, thân camera, ống ngắm hình. 2.1.1, Ống kính (Lens) Ống kính của video camera làm nhiệm vụ hồi tụ hình ảnh lên màn cảm quang của bộ phận thu hình điện tử nằm bên trong thân camera. Cấu tạo của ông kính video camera cũng tương tự như ống kính của máy ảnh hoặc máy quay phim. Ta có thể đổi kích thước của khẩu độ đóng mở ống kính (IRIS DIAPHAM) để ánh sáng vào màn cảm quang nhiều hay ít mà cho hình ảnh rõ hay mờ theo ý muốn. Nhiều camera có bộ phận bù trừ ánh sáng giúp ta khắc phục vấn đề ngược sáng khi quay. Tất cả các video camera đều sử dụng ống kính zoom (ống kính đa tiêu cự) Zoom có tiêu cự thay đổi liên tục, giúp ta dễ dáng thay đổi khuôn hình (toàn cảnh, trung cảnh hoặc cận cảnh) mà không cần thay đổi khoảng cách từ camera 22
  23. đến cảnh vật cần quay. Bộ phận lấy nét (Focus) giúp điều chỉnh để hình ảnh cần quay hội tụ vào màn cảm quang cho hình ảnh được nét. Các cơ chế điều chỉnh khẩu độ ống kính (Iris), Zoom và Focus có thể thực hiện bằng tay (Manual) hoặc tự động (Auto) bằng các phím điều khiển mô tơ tương ứng. Nhiều Video camera lắp thêm một kính phóng đại cho phép quay được cảnh vật có chi tiết nhỏ (cơ chế MACRO). 2.1.2, Thân Camera Thân Camera chứa ống thu hình (pickup – tube) và các mạch điện tử. Ống thu hình làm nhiệm vụ biến đổi ánh sáng thành tín hiệu Video. Ngày nay trong nhiều camera ống thu hình được thay thế bằng bộ phận cảm quang ghép điện tích (CCD- Chip), có kích thước cực kỳ nhỏ. CCD – Chip có ưu điểm gọn nhẹ, tiêu thụ điện ít, chịu chấn động tốt, ít bị hư hỏng khi bị ánh sáng mạnh chiếu vào, không bị hiện tượng lưu hình (hình bị kéo vệt) khi ánh sáng yếu. Đối với camera màu, trước ống kính thu hình có lắp hệ thống lăng kính để tách ánh sáng thành ba dải ánh sáng màu R, G, B. Phía trước hệ thống lăng kính, nơi ống kính lắp với thân camera còn đặt các kính biến đổi nhiệt độ màu (filten) để bù lại sự thay đổi điều kiện chiếu sáng. Các mạch điện tử bảo gồm các mạch tạo xung quét hình, mạch sửa méo, trong các camera màu có các mạch mã hóa màu. Ngoài ra còn có các mạch điện tử tạo tín hiệu chuẩn (sọc màu), các tín hiệu cảnh báo, tạo ký tự để chỉ thị trạng thái làm việc của máy, Mạch khuếch đại tín hiệu với chuyển mạch đặt bên ngoài camera có ký hiêu kà GAIN cùng các nấc chỉ 0dB, 6dB, 9dB, 18dB, cho phép tăng mức tín hiệu video khi quay cảnh chiếu sáng. (Lưu ý, khi tăng tốc độ khuếch đại đồng thời với mức nhiễu trên hình cũng tăng theo). 23
  24. Trong các video camera không chuyên nghiệp đôi khi còn có thêm các mạch tạo, các dạng kỹ xảo đơn giản. Điều cần chú ý, khi sử dụng ngoài việc chỉnh lấy nét (Focus), để có được màu chính xác khi quay cần chọn đặt các filten ở các vị trí thích hợp và nhất thiết phải chỉnh cân bằng trắng (While Balance) phù hợp với điều kiện ánh sáng. 2.1.3, Kính ngắm hình (Viewfinder) Phần lớn các Video camera đều có một kính ngắm hình điện tử, hầu hết là đen trắng Thực chất nó gần giống như một chiếc tivi đen trắng thu nhỏ giúp cho người quay phim quan sát được hình ảnh trên màn hình để bố cục khuôn hình, kiểm tra độ nét chất lượng hình quay. Trên kính ngắm hình thường có núm điều chỉnh độ sáng tối (Brightness) và độ tương phản (Contrast). Ngoài các bộ phận chính trên, ở các camera lưu động thường gắn thêm một micro để tiện ghi âm thanh đồng bộ với hình ảnh. Đi kèm với video camera còn có thể có các thiết bị hỗ trợ như bộ phối hợp nguồn (AC camera adaptor) hoặc bộ điều khiển camera (CCU – Camera Control Unit). 2.1.4, Sử dụng camera Video camera có rất nhiều loại khác nhau, do vậy việc sử dụng đúng và không để xảy ra các hư hỏng đáng tiếc, kéo dài tuổi thọ của chúng và khai thác có hiệu quả tính năng của camera; trước khi dùng cần đọc kỹ các tài liệu hướng dẫn sử dụng (đi kèm theo máy). Tốt nhất là nên nhờ những người có kinh nghiệm, có kỹ thuật kiểm tra và hướng dẫn trước. Trong tài liệu hướng dẫn chỉ rõ: 24
  25. - Các thông số kỹ thuật như: độ nhạy, độ chiếu sáng tối thiểu, chuẩn), độ phân giải, hệ màu, nguồn điện nuôi, công suất tiêu thụ, kích thước, trọng lượng, điều kiện làm việc cho phép, - Các phụ kiệ kèm theo máy hoặc cần mua thêm nếu muốn mở rộng khả năng hoạt động của máy. - Vị trí, chức năng các bộ phận, các chuyển mạch, phím bấm, vận hành máy. - Các ghép nối máy, các phương thức, quy trình khai thác máy. - Cách bảo quản và các hiện tượng trục trặc kỹ thuật thường gặp và cách xử lý, 2.2, Máy ghi hình (Video cassetle recorder) Trong kỹ thuật truyền hình hiện nay để ghi tín hiệu video phần lớn đều dùng máy ghi hình từ tính (Video tape recorder hoặc video recorder) ghi lên băng từ (video tape). Nguyên lý ghi đọc trên băng từ của máy ghi hình về cơ bản giống như máy ghi âm. Song do đặc điểm của tín hiệu Video có giải tần số rất rộng so với dải tần số của tín hiệu âm thanh nên trong nguyên tắc làm việc và kết cấu máy có nhiều điểm khác biệt so với máy ghi âm như: - Trong các máy ghi hình đều có hệ thống mạch điện từ xử lý đặc biệt đối với tín hiệu Video (đen trắng và màu) trước khi ghi lên băng từ hoặc đọc băng từ ra. - Các đầu từ ghi đọc tín hiệu (video head) có kích thước rất nhỏ, mảnh, khe từ hẹp và gắn trên trống đầu từ quay với tốc độ 25 hoặc 30 vòng/giây. - Trên băng từ tín hiệu Video được ghi thành những vệt từ có bề rộng rất nhỏ và nằm trên một góc anpha từ 5 - 7 độ so với mép băng. - Tín hiệu âm thanh được ghi dọc theo một mép băng từ. Còn dọc theo mép băng thứ hai được ghi tín hiệu điều khiển (CLT) dùng để làm chuẩn điều chỉnh tốc độ kéo băng khi đọc. 25
  26. - Có hệ thống tự động ổn định tốc độ kéo băng và tốc độ quay trống đầu từ (hệ thống servo) đảm bảo cho tín hiệu video được ghi chính xác ở những vị trí nhất định trên băng từ và các đầu từ video đọc đúng vệt từ đã ghi. - Có hệ thống dàn băng để kéo băng từ hộp ra, ôm lấy trống đầu từ khi ghi, đọc băng và thu băng vào hộp băng khi dừng máy. - Có hệ thống điều chỉnh tự động nhờ một IC điều khiển các hoạt động của máy thực hiện chính xác, nhịp nhàng. Ngoài ra trong các máy ghi hình dân dụng để thuận tiện cho người sử dụng, người ta còn lắp thêm đông hồ điện tử, bộ phận hẹn giờ, bộ thu tín hiệu truyền hình Trên thế giới hiện nay tồn tại rất nhiều máy ghi hình do nhiều hãng sản xuất và ngay trong cùng một hãng cũng sản xuất nhiều loại. Chúng có thể khác nhau về nhiều mặt: về cỡ băng (độ rộng băng) sử dụng, như hệ thống Umatic dùng ¾ inch (1 inch = 2,54cm), hệ VHS, Betamax dùng băng ½ inch (12,7mm), hệ video dùng băng 8mm; các hệ máy này còn khác nhau về kết cấu máy, các mạch điện tử xử lý tín hiệu, hệ màu, hệ thống dàn băng, kích thước đầu từ video, Do vậy, một băng được ghi ở hệ máy, hệ tiêu chuẩn kỹ thuật nào thì chỉ có thể đọc được trên các máy có hệ tiêu chuẩn cùng loại. Vì có quá nhiều loại máy ghi hình, nên khi sử dụng cần tìm hiểu kỹ qua các tài liệu hướng dẫn sử dụng của máy hoặc nhờ những người có chuyên môn, kinh nghiệm hướng dẫn cụ thể. Trong việc sử dụng máy ghi hình càn lưu ý tránh để máy bị bẩn bụi. Đặc biệt là vấn đề bảo quản băng cần tránh để bị rách, ướt, ẩm; nếu bị ẩm, băng dễ bị dính, mốc, rã bột từ; khi bột từ bị rã, mốc có thể bịt kín khe làm việc của đầu từ vốn đã rất hẹp, khiến cho không thể ghi, đọc được. Băng để ở nơi nóng quá cũng dễ làm cho mép băng bị quăn, khiến việc ghi đọc tín hiệu điều khiển không được hoặc sai, dẫn tới tốc độ kéo băng sai, chất lượng hình bị xấu, thậm chí bị hỏng. 26
  27. Đầu từ video cũng rất dễ gãy, nên cần lưu ý kỹ thuật lau đầu từ. 2.3, Kỹ thuật dựng băng Video Dựng băng video (video editing) là một công đoạn trong quy trình sản xuất phim hoặc chương trình video. Mục đich của việc dựng băng video là loại bỏ những hình ảnh, cảnh quay không sử dụng như cảnh mất nét, khuôn hình xấu, chất lượng hình ảnh không chấp nhận được và sắp xếp lại hình ảnh đã ghi được theo một trình tự mong muốn trong phim. Trong kỹ thuật truyền hình, không thể dùng phương pháp cắt xén và cắt dán trực tiếp các khuôn hình như trong kỹ thuật dựng phim nhựa của điện ảnh, mà phải dùng các thiết bị video chuyên dùng. Trường hợp đơn giản nhất là dùng máy ghi hình để đọc băng đã ghi, một máy thứ hai để ghi những hình ảnh đã chọn trên một băng mới. Việc thao tác chọn các điểm đầu và điểm cuối của từng cảnh và ghép nối các hình ảnh lại với nhau bằng cách bấm trên bàn điều khiển, dựng băng hoặc trực tiếp trên các máy ghi hình. Nhờ các mạch điều khiển ở trong máy, các mạch chức năng sẽ tự động điều khiển hai máy ghi, đọc hoạt động nhịp nhàng, chính xác. Có hai chế độ dựng băng: 2.3.1, Dựng nối tiếp (Assemble Editing) Đây là cách dựng đơn giản, chỉ là cách in lại các cảnh đã quay được chọn trên băng gốc sang các băng trắng khác và sắp xếp lại theo trình tự hợp lý đúng với kịch bản phim. Ở chế độ dựng này, cả ba tín hiệu: tín hiệu hình, tín hiệu âm thanh và tín hiệu điều khiển đều được ghi lại trên băng mới. 2.3.2, Dựng xen kẽ (Insert Editing) 27
  28. Chế độ này chỉ thực hiện trên các máy ghi hình có chức năng dựng xen kẽ. Chức năng dựng xen kẽ (Insert Editing) cho phép ta thay thế một cảnh mới vào một cảnh đã ghi trước đó (vá hình), trong khi tiếng cũ vẫn có thể giữ nguyên. Hoặc ngược lại ta có thể thay thế một âm thanh cũ bằng một âm thanh mới trong khi vẫn giữ nguyên hình. Ở chế độ này, việc xác định các điểm dựng vào và điểm dựng ra đòi hỏi phải chính xác, hai máy phải làm việc đồng bộ với nhau. Trên băng muốn vá hình hoặc vá tiếng thì đường tín hiệu hình hoặc tín hiệu tiếng cũ có thể bị xóa để ghi mới, song đường tín hiệu điều khiển (CTL) vẫn được giữ nguyên. Việc thao tác máy để dựng băng video không khó, song đòi hỏi phải chuẩn xác để tránh xóa nhầm vào những cảnh hoặc tiếng cần giữ. Do vậy, phải có thời gian làm quen với từng loại máy cụ thể và thuần thục sử dụng máy. 2.4, Âm thanh Trong một phim video ngoài hình ảnh, âm thanh cũng là một yếu tố quan trọng. Âm thanh dù là lời thuyết minh, tiếng động hay đối thoại đều phải rõ ràng, dễ nghe, khớp với hình ảnh, âm nhạc nếu dùng phải hay và phù hợp với nội dung phim. Hầu hết các video camera lưu động đều có gắn một micro trên thân camera. Điều đó cho phép thu âm thanh đồng bộ với hình ảnh. Tuy nhiên, phần lớn các loại micro có sẵn trên máy chỉ thu tốt trong phạm vi vài ba mét. Càng xa nguồn âm, chất lượng âm thanh thu được càng kém, mặt khác chúng cũng dễ dàng thu các tạp âm, tiếng ồn xung quanh. 28
  29. Để thu được âm thanh chất lượng tốt nên dùng một micro ngoài rồi cắm vào lỗ Exmic (micro ngoài) trên camera hoặc vào máy ghi hình. Có rất nhiều loại micro khác nhau, micro định hướng, micro không định hướng, micro điện động, micro tụ, Để đi ghi lưu động nên dùng loại micro điện động vì loại này bền hơn, không cần pin cấp điên cho micro, tránh được tình trạng tiếp xúc pin xấu hoặc khi pin yếu ảnh hưởng đến chất lượng thu thanh. Cũng nên chọn loại micro định hướng nếu muốn tránh tiếng ồn xung quanh. Trong các phim ghi hình lưuđộng nên cố gắng ghi được tiếng hiện trường đồng thời với hình ảnh. Trường hợp cần ghi tiếng thuyết minh, lời bình luận hoặc thêm nhạc thì có thể thực hiện trong phòng thu qua bàn pha âm (Audio Mixer) để trộn chúng với nhau và điều chỉnh các to nhỏ cho hợp lý. 2.5, Quay phim Người quay phim về truyền thông phải nắm bắt được nội dung chủ đề thể hiện bằng ngôn ngữ hình ảnh trong các thể loại. 2.5.1, Đối với thể loại có cốt truyện Để cho câu chuyện diễn ra thật tự nhiên và hợp lí, chúng ta phải thay đổi khoảng cách và góc độ: Có thể để camera ở cùng một vị trỉ rồi dùng ống kính thay đổi tiêu cự lấy toàn cảnh rồi zoom vào trung cảnh, zoom vào cận cảnh, zoom vào đặc tả. Bốn cú máy này thực hiện cùng một vị trí của camera, ví dụ: khi chúng ta cách 200m in vào một chủ thể đang nói về vấn đề an toàn giao thông để nói và ý thức của người tham gia giao thông, với camera ở vị trí cố định thì chúng ta chỉ bó chặt khuôn hình quanh một chủ thể liên tục bành trướng, kích thước. Mọi vật thể trong bối cảnh vẫn giữ nguyên các vị trí tương đối của chúng. Kết quả là chúng ta nhìn thấy chủ thể mỗi lúc một lớn mà không có cảm giác rằng mình đang thật sự đến gần chủ thể. 29
  30. 2.5.2, Khi quay những cảnh phỏng vấn Tránh để khuôn hình cắt ngang nhân vật ở những khớp nối tự nhiên. Nên chọn những điểm cắt ở giữa đường chân trời luôn nằm ngang khuôn hình, theo nguyên tắc phân ba, đólà hai đường thẳng ngang trong khuôn hình, và hai đường thẳng đứng. Nên đặt các nhân vật chính ở đường giao tuyến này. Khi bố cục khuôn mặt để quay phỏng vấn nên bố trí sao cho đôi mắt nhân vật nằm ở 1/3 khuôn hình từ trên nhìn xuống, nhớ dành khoẻng không gian để thu hình chọn mái tóc. Khi quay gương mặt trông nghiêng này hãy bố trí nhân vật khuôn hình sao cho phía trước của nhân vật có nhiều khoảng trống hơn phía sau. Chú ý hậu cảnh nhất là khi quay phỏng vấn không để gối đầu họ lên cột đèn, thân cây, nhánh cây. Chỉ cần dịch chuyển camera là dễ dàng tránh được những hậu cảnh này. Góc độ thu hình là tầm nhìn của camera hướng tới chủ thể thêm vào đó để cảnh quay chuyển tiếp mượt mà dễ hiểu từ cú máy này sang cú máy khác. Chúng ta luôn luôn nhớ những gì trước đoạn phim bạn đang quay và những gì tiếp sau đó, dựa trên bốn góc độ camera cơ bản để sử dụng chúng: ngang tầm mắt, góc độ thấp, góc độ cao – qua vai, đây là kĩ thuật tiêu biểu chuẩn bị khi quay một cuộc đối thoại hai người. Thông thường, camera hướng ống kính về phía người trả lời qua vai người phỏng vấn, chúng ta có thể cho người xem thấy dáng của người phóng viên, một phần gương mặt trông nghiêng của người phỏng vấn từ sau lưng tới. Có lúc bạn muốn trình bày phản ứng của người nghe trước những lời của người nói, trong trường hợp này bạn đổi cách quay bàng cách đảo vị trí đã nói trên và thu hình trọn gương mặt của người nghe. Hoặc có thể di chuyển tới lui thu hình hết qua vai người này đến qua vai người kia. Để tránh sai trục hình ảnh bạn phải nhớ lại đúng vị trí mà bạn đã 30
  31. đứng trước đây. Ví dụ: Nếu bạn khởi đầu bằng cú bấm máy quay từ phía bờ vai bên trái của cùng nhân vật thì cứ trở lại vị trí đó. Nếu bạn đổi qua vị trí bờ vai bên phải của cùng nhân vật đó thì khi xem lại sẽ thấy nhân vật của bạn bất ngờ đổi chỗ. Nếu bạn muốn thay đổi vị trí camera hay của các chủ thể thì hãy báo cho người xem biết bạn sắp làm điều đó. Cách tốt nhất để thực hiện sự thông báo này là di chuyển camera theo chiều ngang lưới qua của chủ thể trong khi quay, hoặc ta có thể đạo diễn cho các chủ thể, hoặc thay đổi vị trí trong cú bấm máy trong khi camera vẫn giữ nguyên ở một chỗ. Trong bố cục nhiều nhân vật nên bố trí trong hoàn cảnh thoải mái để hợp vị trí của họ trong khuôn hình được tự nhiên. Nếu phù hợp với mục đích nội dung câu chuyện thì chúng ta nên sắp xếp cho đầu các nhân vật ở những độ cao khác nhau và khuôn mặt nhìn theo những hướng khác nhau, tránh xếp nhiều nhân vật theo một hàng ngang, tất cả đều nhìn về phía camera. Khi quay phong cảnh mà lia máy ngang, trong lúc đang thu hình động tác đưa camera phải trơn tru, nên để camera trên chân máy có ổ bi để đảm bảo cho chuyển động được êm và ổn định. Nếu giữ camera bằng tay thì đứng thật vững, nếu lia máy phải chuẩn bị trước tư thế đứng. Nếu tĩnh nên có điểm tì để giữ camera khỏi rung, cảnh lia cũng như cảnh tĩnh phải rõ ràng, dứt khoát điểm đầu và điểm cuối, cú lia quay trong cảnh nên có tiền cảnh để tạo chiều sâu. Sắp xếp khuôn hình khi đổi cảnh dựng thì đổi cỡ cảnh (toàn, trung, cận, đặc tả) đổi góc độ camera từ cú máy này sang cúmáy khác. Mức khác biệt giữa toàn cảnh và trung cảnh, cận cảnh phải rõ ràng, phân biệt chứ không mơ hồ, do dự. Việc thay đổi góc độ đột ngột quá khiến khán giả khó chịu. Đừng bao giờ đảo ngược tầm nhìn của bạn đối với chủ thể mà không cung cấp những thông tin hình ảnh báo trước cho người xem, là bạn đổi hướng nhìn; và đừng bao giờ dùng một thủ pháp cho hai cú máy riêng lẻ liên tiếp nhau. 31
  32. Sự liên tục của các hoạt động, các cảnh trước, song phải nhất quán nghĩa là hãy giữ cho hành động chuyển từ cú máy quay này sang cú máy quay khác theo một phong thái hợp lí và rõ ràng trong một trình tự liên tục của hành động, các mấu nối động tác ở khuôn hình sau phải liên tục ở khuôn hình trước dù khuôn hình có thay đổi những phần chọn lọc của hành động. Các mấu nối phải đồng trực, muốn phá trục hình ảnh phải có cảnh truyền. Màu sắc giữa hai khuôn hình không được tương phản lớn cũng như hành động ở cú quay trước, hành động của cú quay sau. Nếu hành động thay đổi đột ngột thì phải nhớ thay đổi một số thông tin hình ảnh, có thể là bằng một cú quay phụ để báo cho người xem biết trước. 2.5.3, Hướng chuyển động Đừng làm người xem bối rối vì chuyển động của nhân vật trong phim chuyển hướng bất thình lình. Khi một chủ thể đi ra phía trái khuôn hình thì hãy cho nhân vật đi từ phía phải trong các cú quay sau. Cần nhớ là khán giả chỉ thấy những gì trên màn ảnh chứ không thấy toàn bộ cảnh trí của bạn. Người quay phim, nếu chiều hướng của chuyển động thay đổi thì bạn phải giải thích bằng hình ảnh lí do đổi hướng. 2.5.4, Tính nhất quán của nguồn sáng Nguồn sáng không đồng nhất cũng có thể gây khó chịu như nhân vật đột nhiên thay đổi mà không thấy tiến trình thay đổi giữa cảnh đêm và ngày, nên có cảnh đệm. Nếu quay phim trong nhà thì ta dễ bố trí nguồn sáng cho nhất quán. Khi quay ngoài trời, cố gắng thu hình ở cùng giờ giấc trong ngày với những ánh sáng chiếu cùng một hướng ở mỗi cú quay.Tất nhiên không có thể điều khiển được thời tiết cho nên đôi lúc chúng ta phải tìm giải pháp thoả hiệp. 2.6, Ánh sáng 32
  33. Video – Camera có khả năng tạo ra chất lượng hình ảnh tối ưu dưới nhiều tình huống ánh sáng biến đổi, các chế độ mở ống kính tự động, kích sáng sẽ họat động để nâng cao hình ảnh tự động hay điều chỉnh bằng tay. Những cơ chế nói trên chỉ kiểm soát được lượng sáng chứ không quyết định được tính thẩm mỹ của ánh sáng. Độ sáng mục tiêu đầu tiên của chúng ta là cung cấp cho camera một lượng sáng thích hợp để tạo hình ảnh rõ, trong sáng, chú ý đừng để thừa sáng hoặc thiếu sáng, hoặc thiếu chiều sâu. Khi chiếu sáng phải phải tạo được khối, chi tiết bị tối và người xem không nhìn thấy được, và tạo ra được khối và chi tiết nâng tính thẩm mỹ của ánh sáng. 2.6.1, Nguồn sáng pha trộn Nên tránh những nguồn sáng pha trộn bởi vì nó làm cho màu sắc của hình ảnh không đúng, còn để tái tạo lại hình ảnh chúng ta có thể dùng kính lọc xanh kêt hợp với giấy tản sáng. Ánh sáng bố trí thường cần bốn nguồn sáng cơ bản: đèn chủ quang, đèn phụ quay, đèn ven, đèn phông. 2.6.2, Ánh sáng thiên nhiên Nguồn sáng ngoài trời thông thường là mặt trời, tính chất của nguồn sáng này thường biến đổi rất lớn từ ánh nắng trực tiếp, tương phản sang ánh sáng hoàn toàn phân tán của bầu trời đầy mây. 2.6.3, Ngược sáng Tránh dùng nguồn sáng ngược làm nguồn sáng duy nhất trừ khi bạn muốn ghi hình chủ thể thành bóng đen. Nhưng ánh sáng ngược có thể trở nên hấp dẫn khi ta dùng nguồn sáng phụ hay tấm phản quang. Mặt trời chếch sau chủ thể cho ánh sáng xem rất đẹp. Mặt trời lúc này là ánh sáng chính còn đằng trước chủ thể có thể dùng phản quang. 33
  34. LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRUYỀN HÌNH Có thể nói, hiện nay truyền hình là phương tiện truyền thông phổ biến nhất thế giới. Hầu hết mọi người không có cơ hội trực tiếp gặp mặt các nguyên thủ quốc gia, du hành tới mặt trăng, chứng kiến một cuộc chiến hay xem một trận thi đấu thể thao với truyền hình, họ có được cơ hội làm những việc đó. Không chỉ là một phương tiện truyền thông, phương tiện giải trí thuần tuý, ngày nay truyền hình còn được ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống hiện đại. Bộ phận an ninh sử dụng truyền hình như một công cụ bảo vệ, giám sát. Ngành tàu điện ngầm dùng truyền hình để quản lý hệ thống đường tàu điện hay ngầm hay để điều khiển con tàu từ xa. Các bác sĩ khám nội tạng bệnh nhân bằng camera hiển vi thay vì mổ. Ngành giáo dục tiến hành đào tạo từ xa cũng thông qua truyền hình. Truyền hình là loại hình phương tiện thông tin đại chúng mới xuất hiện từ khoảng giữa thế kỷ XX, nhưng đã phát triển rất nhanh chóng, mạnh mẽ và được phổ biến hết sức rộng rãi trong vòng vài ba thập niên trở lại đây. Thế mạnh đặc trưng của truyền hình là cung cấp thông tin dưới dạng hình ảnh (Kết hợp âm thanh và ở mức độ nhất định cả với chữ viết) mang tính hẫp dẫn sinh động, trực tiếp và tổng hợp. Từ đó, loại hình phương tiện truyền thông độc đáo, đặc biệt này tạo nên được ở người tiếp nhận thông tin hiệu quả tổng hợp tức thời về nhận thức và thẩm mỹ, trước hết là ở trình độ trực quan, trực cảm. Bằng sự kết hợp các chức năng phản ánh- nhận thức thẩm mỹ- giải trí với nhau, truyền hình ngày càng thu hút được nhiều khán giả. Vai trò, vị trí, ảnh hưởng và tác động của truyền hình đối với công chúng nói chung, quá trình hình thành và định hướng dư luận xã hội nói riêng đã và đang tăng lên nhanh chóng. 34
  35. 1.Truyền hình thế giới. Truyền hình là hệ thống phát và thu hình ảnh và âm thành bằng những thiết bị truyền dẫn tín hiệu từ qua cáp, sợi quang và quan trọng nhất là sóng điện từ. Những hệ thống truyền hình thật sự đầu tiên bắt đầu đi vào hoạt động chính thức trong thập niên 40 của thế kỷ này, không lâu sau khi khái niệm "truyền hình" được sử dụng với nghĩa như chúng ta vẫn hiểu ngày nay. Ngành truyền hình thế giới đã phải trải qua một thời gian dài phát triển mới có được thành tựu đó. Năm 1873, nhà khoa học người Scotland James Cleck Maxwell tiên đoán sự tồn tại của sóng điện từ, phương tiện chuyền tải tín hiệu truyền hình. Cùng năm này, nhà khoa học người Anh Willoughby Smith và trợ lý Joseph May chứng minh rằng điện trở suất cảu nguyên tố Selen thay đổi khi được chiếu sáng. Phát minh này đã đưa ra khái niệm "suất quang dẫn", nguyên lý hoạt động của ống vidicon truyền ảnh. 15 năm sau, năm 1888, nhà vật lý người Đức Wihelm Hallwachs tìm ra khả năng phóng thích điện tử của một số vật liệu. Hiện tượng này được gọi là "phóng tia điện tử", nguyên lý của ống orthicon truyền ảnh. Mặc dù nhiều phương thức chuyển đổi ánh sáng thành dòng điện tử đã được phát minh và hoàn thiện nhưng hệ thống truyền hình đầu tiên vẫn chưa đủ điều kiện để ra đời. Vấn đề cốt yếu là dòng điện tạo ra còn yếu và chưa tìm sđược một phương pháp khuyếch đại hiệu quả. Mãi cho tới năm 1906, khi Lee De Forest, một kỹ sư người Mỹ đăng ký sáng chế ống triode chân không thì vấn đề mới được giải quyết. 1.1, Đĩa Nipkow 35
  36. Năm 1884, kỹ sư Paul Nipkow chế tạo thành công thiết bị thực nghiệm truyền hình đầu tiên, đĩa Nipkow. Ông đặt chiếc đĩa có đục lỗ theo hình xoáy ốc phía trước một bức tranh được chiếu sáng. Khi quay đĩa, lỗ thủng đầu tiên quét qua điểm cao nhất của bức tranh, lỗ thứ hai quét thấp hơn lỗ đầu tiên một chút, lỗ thứ 3 lại thấp hơn chút nữa, và cứ như vậy cho tới tâm bức tranh. Để thu được hình ảnh, Nipkow quay chiếc đĩa, sau mỗi vòng quay, tất cả các điểm của bức tranh lần lượt hiện lên. Những chiếc đĩa tương tự quay ở điểm nhận. Khi tốc độ quay đạt 15 vòng/'giây, ánh sáng đi qua hệ thống đĩa tái tạo được hình ảnh tĩnh của bức tranh. Thiết bị của Nipkow được sử dụng mãi tới thập kỷ 20 của thế kỷ này. Sau đó kỹ thuật truyền ảnh tĩnh dựa trên hệ thống đĩa Nipkow được Jenkins và Baird tiếp tục hoàn thiện. Những hình ảnh thu được tuy còn thô nhưng đã có thể nhận ra. Thiết bị thu vẫn sử dụng đĩa Nipkow đặt phía trước một ngọn đèn được điểu khiển độ sáng bằng tin hiệu từ bộ phận cảm quang phía sau đĩa ở thiết bị phát. Năm 1926 Baird công bố một hệ thống truyền ảnh tĩnh sử dụng đĩa Nipkow 30 lỗ. Kỹ thuật này được gọi là phương pháp quét cơ học, hay phương pháp phân tích cơ học. 1.2, Truyền hình điện tử. Đồng thời với sự phát triển của phương pháp phân tích cơ học, năm 1908 nhà sáng chế người Anh Campbell Swinton đưa ra phương pháp phân hình điện tử. Ông sử dụng một màn ảnh để thu nhận một điện tích thay đổi tương ứng với hình ảnh, và một súng điện tử trung hoà điện tích này, tạo ra dòng biến tử biến thiên. Nguyên lý này được Zworykin áp dụng trong ống ghi hình iconoscope, bộ phận quan trọng nhất của camera. Về sau, chiếc đèn orthicon hiện đại hơn cũng sử dụng một thiết bị tương tự như vậy. 36
  37. Năm 1878, nhà vật lý và hoá học người Anh, William Crookes phát minh ra tia âm cực. Tới năm 1908, Campbell Swinton và Boris Rosing, người Nga, độc lập nghiên cứu những kết qủa thu được của hai ông lại tương đồng. Theo đó, hình ảnh được tái tạo bằng cách dùng một ống phóng tia âm cực (cathode- rays, tube-CRT) bắn phá màn hình phủ phóphor. Trong suốt những năm 30, công nghệ CRT được kỹ sư điện tử người Mỹ tên là Allen DuMont tập trung nghiên cứu. Phương pháp tái hiện hình ảnh của DuMont về cơ bản giống phương pháp chúng ta đang sử dụng ngày nay. Ngày 13/1/1928, nhà phát minh Emst Alexanderson cho ra đời chiếc máy thu hình áp dụng phương pháp phân hình điện tử đầu tiên trên thế giới tại Schenectady, New York, Mỹ. Hình ảnh trên màn hình 76 mm (3 inch) xấu và không ổn định nhưng máy thu hình vẫn phổ biến ở nhiều gia đình. Nhiều máy thu kiểu này đã được sản xuất và bán tại Schenectady. Cũng tại đây, ngày 10/5/ 1928, đài WGY bắt đầu phát sóng đều đặn. 1.3, Phát hình công cộng. Trong khi đó chương trình truyền hình công cộng đầu tiên lại xuất hiện ở London năm 1936. Những buổi phát hình này do 2 công ty cạnh tranh với nhau thực hiện. Marconi- EMI phát bằng hình ảnh 405 dòng quét ngang với 25 mành hình/ giây (25 frame/s) và hãng truyền hình Baird phát bằng hình ảnh 240 dòng quét ngang cũng với 25 frame/s. Đầu năm 1937, hệ Marconi với chất lượng hình ảnh tốt được chọn làm chuẩn. Năm 1941, Mỹ chấp nhận chuẩn 525 dòng quét với 30 frame/s cho bộ phận giải của mình. Thánh 11/1937, BBC thực hiện buổi phát hình ngoài trời đáng chú ý đầu tiên. Đó là buổi phát hình lễ đăng quang của vua George VI tại công viên Hyde, London. BBC đã sử dụng một máy phát xách tay đặt trên chiếc xe đặc biệt. Vài ngàn khán giả đã chứng kiến buổi phát hình này. 37
  38. 1.4, Truyền hình màu. Ngay từ năm 1904 người ta đã biết rằng có thể chế tạo thiết bị truyền hình màu bằng cách sử dụng 3 màu cơ bản là đỏ, lục và xanh. Năm 1928, Baird cho ra mắt truyền hình màu dùng 3 bộ đĩa Nipkow quét hình ảnh. 12 năm sau, Peter Goldmark chế tạo được hệ thống truyển hình màu với khả năng lọc tốt hơn. Năm 1951 buổi phát hình màu đầu tiên đã sử dụng hệ thống của Goldmark. Tuy nhiên, hệ thống này không thích hợp với truyền hình đơn sắc nên cuối năm đó thí nghiệm bị hủy bỏ. Cuối cùng thì hệ thống truyển hình màu thích hợp với truyền hình đơn sắc cũng ra đời năm 1953. Một năm sau, phát hình màu công cộng lại xuất hiện. Những bước phát triển tiếp theo của nghành truyền hình thế giới chỉ là hoàn thiệt chất lượng truyền hình bằng những màn hình lớn hơn, công nghệ phát và truyền dẫn tín hiệu truyền hình tốt hơn mà thôi. Những màn hình đầu tiên chỉ đạt 18 hoặc 25 cách mạng (7 hoặc 10 inch) kích thước đường chéo. Màn hình ngày nay có kích thước lớn hơn rất nhiều. Với sự ra đời của máy chiếu, mán ảnh truyền hình có thể phục vụ những mán hình có kích thước đường chéo lên tới 2m. Nhưng các nhà sản xuất cũng không quên phát triển máy thu hình để nhỏ gọn, chẳng hạn một máy thu hình cỡ 3 inch (7,6 cm) Ngày nay, ngành truyền hình thế giới đang từng bước chuyển dần từ công nghệ tương tự (hay tuần tự- analog) sang truyền hình kỹ thuật số (digital). Từ thập kỷ 80, hệ truyền hình độ nét cao (high-definition television - HDTV) sử dụng kỹ thuật số bắt đầu được nghiên cứu. 1.5, Các giai đoạn phát triển của truyền hình thế giới Truyền hình có mối liên hệ mất thiết với một số loại hình truyền thống hay nghệ thuật khác như phát thanh, điện ảnh Tuy nhiên, chỉ sau một vài thập kỷ sơ khai, truyền hình đã tiến hành những bước dài và thực sự tách ra khỏi các loại hình khác, trở thành phương tiện truyền thông độc lập và có sức mạnh to 38
  39. lớn trong việc tạo dựng và định hướng dư luận. Việc phát sóng truyền hình đầu tiên ở Mỹ được bắt đầu từ những năm 1930, và truyền hình chỉ thực sự phổ biến từ những năm 1950. Những đài phát thanh như NBC, CBS, ABC sau khi phát triển thêm hệ thống truyền hình đã thực sự lớn mạnh và trở thành những tập đoàn phát thanh - truyền hình tầm cỡ thế giới. Trên thực tế, sự hình thành và phát triển của truyền hình gắn liền với các sự kiện khoa học - công nghệ cũng như các sự kiện chính trị - xã hội khác. Ngay từ đầu những năm 1920, người ta đã chú ý đến truyền hình do họ nhận thức được vai trò của truyền hình trong việc tuyên truyền, quảng bá trên các mặt kinh tế, chính trị, xã hội có thể điểm qua một vài mốc quan trọng trong niên đại truyền hình như sau. 1887: Heinrich Hertz (người Đức) chứng minh những tính chất của sóng điện từ. 1890-1895: Edouart Branly (người Pháp), Oliver Lodge (người Anh) và Alexandre Popov (người Nga) hoàn chỉnh điện báo vô tuyến. 1895: Guglielmo Marconi (người Ý) ứng dụng những công trình nghiên cứu về vô tuyến điện. Tháng 3/1899: Liên lạc vô tuyến quốc tế đầu tiên ra đời ở Anh và Pháp, dài 46 Km 1923: Vladimir Zworykin (người Nga) phát minh ra ống iconoscop, cho phép biến năng lượng ánh sáng thành năng lượng điện. 1929: Chương trình phát hình đâu tiên của BBC được thực hiện từ kết quả nghiên cứu của John Baird về quét cơ học. Tháng 4/1931: Chương trình phát hình đầu tiên được thực hiện ở Pháp dựa trên những nghiên cứu của René Barthélemy. 1934: Vladimir Zworykin hoàn chỉnh nghiên cứu về iconoscop và bắt đầu ứng dụng vào việc xây dựng và phát sóng truyền hình. 1935: Pháp đặt máy phát trên tháp Eiffel 39
  40. 1936: Thế vận hội Berlin được truyền hình tại một số thành phố lớn. 1939: Truyền hình Liên Xô phát đều đặn hàng ngày 1941: Mỹ chấp nhận 525 dòng quét với bộ phân giải của mình Trong và sau chiến tranh thế giới thứ II: Các cường quốc chạy đua gay gắt để phát các chương trình truyền hình nhằm vận động nhân dân ủng hộ các chiến lược quân sự và kinh tế của mình. 1948: Pháp chấp nhận chuẩn 819 dòng quét, kết quả nghiên cứu của Henri de France. 1954: Đài RTF phát những buổi tryền hình đầu tiên bằng điều biến tần số. 1956: Hãng Ampex giới thiệu máy ghi hình từ (thu hình ảnh trên băng từ) Tháng 10/1960 truyền hình trực tiếp cuộc tranh luận trên kênh truyền hình giữa 2 ứng cử viên tổng thống Mỹ: Richard Nixon và John Kennedey 1964: Vệ tinh đĩa tĩnh đầu tiên được phóng lên quỹ đạo mang tên Early Bird. 1965: Diễn ra cuộc chiến về các chuẩn truyền hình màu SECAM (Pháp) và PAL (Đức) tại Châu Âu Tháng 10/1967: Khánh thành truyền hình màu ở Pháp và Liên Xô 1969: Cuộc đổ bộ lên bề mặt trăng của tàu Apollo 11 được chuyền hình trực tiếp qua Mondovision. 1970: Hiệp hội viễn thông quốc tế phân chia các sóng truyền hình centimet cho các nước và giới thiệu loại băng hình video dùng cho công chúng. 1992: Truyền hình kỹ thuật số trở thành hiện thực Như vậy, có thể thấy, lịch sử phát triển của truyền hình luôn nằm trong và cùng song hành với lịch sử tiến bộ nhân loại. Truyền hình ngày một lớn mạnh lớn là do nhu cầu thông tin của công chúng ngày càng cao, khoa học kỹ thuật phát triển và xuất hiện nhu cầu được giao lưu quốc tế. Chính bản thân các vấn đề sự kiện chính trị, xã hội cũng góp phần thúc đẩy truyền hình phải tự phát 40
  41. triển và phát huy hơn nữa những ưu thế của mình, từ đó dần tạo nên những đặc trưng riêng biệt mang tính loại hình trong hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng hiện nay. Được thiết kế với những màn ảnh rộng áp dụng kỹ thuật hình ảnh 1125 dòng quét ngang thay cho máy thu hình truyền thống chỉ 525 hoặc 625 dòng quét. 2, Truyền hình Việt Nam 2.1, Sự ra đời của Truyền hình Việt Nam Ngày 7/9/1970, chương trình truyền hình thử nghiệm đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được phát sóng. Chương trình này do Đài tiếng nói Việt Nam thực hiện. Trước đó, ngày 4/1/1968, phó thủ tướng Lê Thanh Nghi ký quyết định số 01/TTG-VP cho phép tổng cục thông tin (trực thuộc Chính Phủ) thành lập"Xưởng phim vô tuyến truyền hình Việt Nam ". Đây là một xưởng phim nhựa 16 ly, có nhiệm vụ làm phim thời sự tài liệu truyền hình gửi ra nước ngoài nhờ đài truyền hình các nước xã hội chủ nghĩa phát trên sóng của họ để tuyên truyền đối ngoại, đồng thời hướng dẫn và hợp tác với các đoàn làm phim vô tuyến truyền hình nước ngoài đến quay phim ở Việt Nam. Năm 1971, Chính Phủ đã quyết định chuyển xưởng phim vô tuyến truyền hình tử tổng cục thông tin sang Đài tiếng nói Việt Nam, tăng cường cho truyền hình một đội ngũ làm phim thời sự tài liệu có kinh nghiệm thực tế và có một số vốn tư liệu quý. Giữa năm 1966, Mỹ đưa truyền hình vào miền Nam. Khi nhận được thông tin này, bộ biên tập và đội ngũ cán bộ kỹ thuật Đài tiếng nói Việt Nam quyết tâm lao vào cuộc đua chuẩn bị cho được truyền hình để có thể tiếp quản và điều hành các Đài truyền hình miền Nam ngay sau khi giải phóng. Nhiều đoàn cán bộ, kỹ thuật viên được gửi ra nước ngoài học truyền hình. Sau một thời gian dài nỗ lực của cả một đội ngũ đông đảo cán bộ, kỹ thuật viên, ngày 41
  42. 7/9/1970 chương trình truyền hình đầu tiên được tổ chức trong phòng thu nhạc lớn, thường gọi là Studio M, của Đài tiếng nói Việt Nam tại trụ sở 58 Quán Sứ. Chương trình gồm 15 phút tin tức do phát thanh viên trực tiếp đọc trên micro và 45 phút ca nhạc. Sau một thời gian làm thử, tối 30 tết Tân Hợi (27/1/1971), nhân dân Thủ đô Hà Nội được xem chương trình truyền hình đầu tiên. Chương trình ra mắt khán giả Thủ đô lần đầu tiên, lại là đêm 30 tết nên khá phong phú: 30 phút thời sự trong nước và quốc tế do các phát thanh viên nam nữ thay nhau đọc trước micro, thu vào camera điện tử chuyển thẳng lên sóng, chương trình ca nhạc 30 phút dùng phương pháp playlack; chương trình phim truyện, phim tài liệu được chiếu lên tường, dùng camera điện tử thu lại và phát lên sóng qua máy phát. Như vậy, ngay từ những chương trình truyền hình thử nghiệm cũng như chương trình phát sóng phục vụ nhân dân đầu tiên, truyền hình Việt Nam đã dùng hình thức phát trực tiếp là do những hạn chế về mặt thiết bị kỹ thuật. Lúc đó chúng ta chưa có máy ghi hình dùng băng từ và cũng chưa có telecine (máy chiếu phim truyền hình). Sau khi thử nghiệm phát sóng thành công, chương trình thử nghiệm được phát hai tối mỗi tuần, mỗi tối 2h30' rồi tăng lên ba tối, bốn tối một tuần. Kéo dài đến tháng 4 năm 1972 khi Mỹ mở rộng chiến tranh bằng không gian đánh phá ác liệt vào Hà Nội . Trong thời gian này các phóng viên, biên tập viên của Đài truyền hình vẫn tiếp tục làm việc nhằm ghi lại những hình ảnh chiến đấu dũng cảm của quân và dân Thủ đô. Những bộ phim tài liệu được thực hiện trong thời gian này như: Hà Nội - Điện Biên Phủ, Hà Nội 5 ngày đọ sức, Tiếng Trống Trường đã giành được nhiều giải thưởng Bông Sen Bạc quốc tế và trong nước. Sau khi hiệp định Pari được ký kết, các chương trình của đài THVN lại được tiếp tục phát sóng. Các chương trình của đài lần lượt được ra mắt công chúng như: Vì an ninh Tổ quốc (27.1.1973) (Buổi phát sóng đầu tiên của chương trình này là tối 16-8-1972), Câu lạc bộ nghệ thuật (21.2.1976) văn hoá 42
  43. xã hội (21.3.1976) Quân đội nhân dân (24-4-1976), thể dục thể thao (26.5.1976), Kinh tế (9.5.1976). Tới khi chuyển về trung tâm truyền hình Giảng Võ, từ 16/6/1976 mới phát chính thức hàng ngày. 2.2, Thời kỳ phát sóng chính thức hàng ngày Ngày 16/6/1976 việc khai thác sóng chuyển từ 58 Quán Sứ về trung tâm Giảng Võ. Tại đây đã có một trung tâm hoàn chỉnh với 3 trường quay (S1, S2, S3), tổng khống chế (master control room), máy phát 1kW kênh 6 và cột ăngten cao 60m. Năm 1976, Đài truyền hình thành phố Hồ Chí Minh đã thử nghiệm phát hình màu. Một năm sau, 1977, Đài truyền hình Trung ương cũng bắt đầu phát thử nghiệm truyền hình màu vào các sáng Chủ nhật. Từ giữa năm 1980, khi Đài Hoa sen đi vào hoạt động, chương trình phát sóng của Đài truyền hình Trung ương xen kẽ lúc có màu, lúc không do sử dụng nhiều chương trình màu thu từ Đài Hoa sen. Ngày 1/8/1986, Đài truyền hình Trung ương chuyển hẳn sang phát màu hệ SECAM 3b bằng các thiết bị chuyên dùng, từ bỏ hoàn toàn truyền hình đen trắng. Sở dĩ chúng ta chọn hệ màu SECAM 3b vì đây là hệ màu được Liên Xô và phần lớn các nước xã hội chủ nghĩa sử dụng. Bắt đầu từ ngày 1/1/1991, hệ truyền hình màu của Đài truyền hình Việt Nam chuyển từ hệ SECAM 3b sang phát bằng hệ PAL/D/K. Sự thay đổi này là đúng đắn và kịp thời, định hướng thống nhất cho sự phát triển mạnh mẽ của ngành trong những năm sau đó và thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới. Ngày 30/1/1991, Chính phủ ra quyết định số 26/CP giao cho Tổng cục bưu điện thuê vệ tinh Intesputnik truyền dẫn tín hiệu phát thanh truyền hình năm 1991. Tết âm lịch Tân Mùi (đầu năm 1991) bắt đầu truyền chính thức bằng 43
  44. cách phủ sóng qua vệ sinh chương trình truyền hình quốc gia cho các đài địa phương. Ngày 31/3/1998, Đài truyền hình Việt Nam chính thức tách kênh VTV1, VTV2, VTV3. Đây là một bước nhảy vọt của Đài truyền hình Việt Nam về cả nội dung chương trình lẫn thời lượng phát sóng. VTV1 lấy nội dung trọng tâm là chính trị - kinh tế - xã hội với thời lượng 11,5h/ngày trên kênh 9 và phủ sóng qua vệ tinh. VTV2 chú trọng phần khoa học - giáo dục, phát sóng 13h/ngày trên kênh 9 và phủ sóng qua vệ tinh. VTV3 là kênh giải trí - văn hoá thể thao, kinh tế, thời lượng 12h/ngày trên kênh 22 UHF và cũng được phủ sóng qua vệ sinh. Ngoài ra, đài truyền hình Việt Nam còn có chương trình MMDS (9 kênh) và chương trình VTV4 dành cho cộng đồng người Việt sinh sống ở nước ngoài, phát sóng qua vệ sinh, 4 giờ/ngày. Từ 10-12-2002 kênh VTV5 truyền hình tiếng dân tộc thiểu số của Trung ương đã phát chính thức qua vệ tinh 3 lần/tuần và phát các 3 lần/tuần với thời lượng 2 giờ để các đài địa phương thu lại và phát sóng phục vụ đồng bào vào thời lượng thích hợp. 2.3, Sự hình thành các đài truyền hình địa phương Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đài truyền hình Sài Gòn được đổi tên thành Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh. Đã có các đài phát lại chương trình truyền hình ở Cần Thơ, Nha Trang, Quy Nhơn và Huế. Từ đầu nhưng năm 1990, nhiều địa phương như Đà Nẵng, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ An lần lượt dùng ngân sách địa phương mua máy phát truyền hình công suất 1kW hoặc 100 W, 200W. Đặc biệt là từ khi Đài truyền hình Việt Nam sử dụng vệ tinh để phủ sóng toàn quốc thì các đài truyền hình các tỉnh, thành phố đã có một bước tăng trưởng về số lượng. Đến nay, hệ thống truyền hình Việt Nam đã có 1 Đài truyền hình quốc gia, 5 đài truyền hình khu vực (Huế, Đà Nẵng, Cần thơ, Phú Yên, Sơn La) và 64 đài phát thanh - truyền hình đại phương; 4 kênh truyền hình cáp hữu tuyến 44
  45. CATV; tổng thời lượng 200 giờ/ngày được phủ sóng 80% toàn quốc. Ngoài việc nâng cao cơ sở vật chất, kỹ thuật, trang thiết bị hiện đại về máy móc . Truyền hình Việt Nam chú trọng việc đẩy mạnh đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân viên, cán bộ kỹ thuật, đặc biệt là đội ngũ phóng viên, biên tập, tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ phục vụ cho ngành truyền hình hiện đại phù hợp với xu thế toàn cầu hoá trong truyền thông đại chúng thế giới. 45
  46. CHỨC NĂNG CỦA BÁO CHÍ TRUYỀN HÌNH 1, Khái niệm về chức năng: Chức năng (tiếng Latinh: Functio – mục đích, công dụng, tác dụng) được hiểu là tổng hợp những vai trò và tác dụng của một hoạt động nào đó trong tự nhiên và xã hội. Ngày nay, hệ thống báo chí bao gồm nhiều loại hình: báo in, báo phát thanh, báo truyền hình, báo internet. Truyền hình là một loại hình báo chí có lịch sử phát triển ngắn hơn so với các loại hình truyền thông khác. Ra đời đầu thế kỷ XX, vô tuyến truyền hình gắn bó chặt chẽ với khoa học kỹ thuật, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử phát triển của các phương tiện truyền thông. Xét vai trò của truyền hình như một tiểu hệ thống trong hệ thống báo chí nói riêng và hệ thống xã hội liên tục vận động và phát triển nói chung, truyền hình có những chức năng cơ bản như sau: chức năng thông tin, chức năng tư tưởng, chức tổ chức quản lý xã hội, chức năng phát triển khai sáng và giải trí, chức năng chỉ đạo giám sát xã hội. 2. Các chức năng của báo chí truyền hình 2.1, Chức năng thông tin Nhiệm vụ hàng đầu và cũng là lý do ra đời của báo chí là thông tin. Có thể nói, thông tin là chức năng khởi nguồn, chức năng cơ bản nhất của báo chí nói chung và của truyền hình nói riêng. Thông tin là nhu cầu sống của con người và xã hội. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu thông tin càng cao và do đó, báo chí nói chung và truyền hình nói riêng càng phải nỗ lực hơn nữa trong việc đáp ứng nhu cầu thông tin cho xã hội. Truyền hình có những lợi thế nhất định so với các loại hình báo chí khác trong việc phản ánh thông tin. 46
  47. Trước hết, truyền hình cũng như báo chí nói chung đều phải thông tin một cách nhanh chóng, kịp thời, đúng lúc nhất, đảm bảo tính cập nhật, tính thời sự của thông tin. Trong thời đại bùng nổ thông tin như ngày nay, cuộc cạnh tranh trong việc đưa tin của các loại hình báo chí ngày càng trở nên quyết liệt.Trên thực tế, cơ quan báo chí nào đưa tinh nhanh nhất về một sự kiến mới nhất, thu hút được sự quan tâm của công chúng, thì cơ quan báo chí đó giành được thắng lợi trong cuộc cạnh tranh độc giả và bán báo. Truyền hình cũng tương tự, sự thành công và phát triển của truyền hình phụ thuộc vào số lượng người xem và số tiền mà họ bỏ ra để mua các kênh truyền hình. Truyền hình Việt Nam là một cơ quan truyền thông đại chúng, phục vụ đắc lực cho công tác tuyên truyền của Đảng và Nhà nước, nhưng chức năng trên hết là thông tin, và yêu cầu của công chúng đòi hỏi thông tin phải nhanh chóng, chính xác, đảm bảo tính thời sự. Nhanh chóng và hợp thời là hai yếu tố làm nên giá trị thông tin báo chí. Nếu thông tinh nhanh và đảm bảo tính hợp thời sẽ đem lại khả năng tạo ra hiệu quả tác động của thông tin từ đó mà tăng hiệu quả của công tác tuyên truyền. Truyền hình có những lợi thế đặc biệt trong việc đưa tin nhanh chóng và hợp thời. Không giống như báo in, thông tin được phóng viên thu thập về cho dù có “nóng hổi” đến đâu đi chăng nữa thì có thể sẽ vẫn phải dành cho số báo ngày hôm sau, phải qua khâu in ấn rồi mới phát hành. Chính vì vậy mà cho dù trên báo in có chạy hàng tít “hot news” thì nó đã không còn “nóng”. Truyền hình hoàn toàn ngược lại, ngay lập tức nó có thể đưa đến cho công chúng những hình ảnh mới nhất, nóng nhất vừa quay từ hiện trường về và phát ngay lên sóng truyền hình nếu như đó là thông tin được toàn thể công chúng quan tâm. Những hình ảnh mới, chưa qua bàn dựng cắt gọt sẽ đưa đến cho công chúng những thông tin trung thực, sống động mà không loại hình báo chí nào theo kịp. Nếu báo in sử dụng từ ngữ, ảnh là phương tiện chính để truyền tải thông tin, với phát thanh là âm thanh thì truyền hình có khả năng truyền tải thông bằng cả âm thanh và hình ảnh ngay tại hiện trường. Yếu tố tác động chủ yếu đến công 47
  48. chúng là yếu tố nghe nhìn. Do vậy truyền hình tác động đến công chúng thông qua ngôn ngữ ở cấp độ xem. Điều này có thể nói lên độ trung thực rất cao của thông tin trên truyền hình. Lấy một ví dụ rất đơn giản đưa tin về một đám cháy ở một trung tâm thương mại lớn, những lời miêu tả cùng ảnh tĩnh trên báo in hay qua giọng đọc của phát thanh viên trên đài phát thanh sẽ không sống động bằng những hình ảnh lửa cháy cùng tiếng la hét của nhân dân ngay tại hiện trường trên màn ảnh nhỏ. Đó là một lợi thế và cũng chính là một đặc trưng bổi bật của truyền hình. Tuy vậy, thông tin trên truyền hình không thể xem lại và cho công chúng có thời gian suy nghĩ như báo in để họ hiểu sâu thông tin nên những hình ảnh trên truyền hình phải đặc biệt gây ấn tượng sâu sắc cho công chúng. Điều này đòi hỏi người phóng viên phải hết sức nhanh nhạy, nắm bắt thông tin và chọn được những góc quay hợp lý nhất sao cho những âm thanh và hình ảnh trên truyền hình sẽ ngay lập tức thu hút được sự quan tâm của công chúng. Cuộc sống của con người hết sức phong phú và đa dạng nên việc đáp ứng nhu cầu thông tin trên sóng truyền hình cũng phải rất đa dạng và phong phú. Đời sống tinh thần của con người ngày càng phát triển, do đó không chấp nhận cách đưa tin đơn điệu, nghèo nàn. Điều này yêu cầu thông tin trên báo chí phải cực kỳ phong phú, phản ánh mọi mặt, mọi khía cạnh trong đời sống xã hội, đáp ứng một cách tối đa nhu cầu thông tin của công chúng. Trên thực tế, tờ báo cũng như kênh phát thanh truyền hình nào cung cấp được lượng thông tin lớn thì nó sẽ trở thành sự lựa chọn của số đông công chúng. Không những thông tin nhanh nhạy, phong phú đa dạng mà thông tin trên truyền hình phải đảm bảo tính trung thực, độ chính xác cao. Một trong những nguyên tắc của hoạt động báo chí và truyền thông đại chúng là bảo đảm tính khách quan và chân thật. Hoạt động của truyền hình cũng không nằm ngoài nguyên tắc đó. Do vậy, thông tin trên truyền hình phải trung thực. Không những thế thông tin đưa ra phải nhằm những mục đích nhất định. Điều này cũng đáp 48
  49. ứng một trong những yêu cầu của thông tin báo chí như Hồ Chủ tịch đã từng đề ra trong những nguyên tắc làm báo, đó là: viết cái gì, viết cho ai, viết để làm gì, viết như thế nào Một yêu cầu khác mà thông tin trên báo chí phải hết sức lưu ý đó là thông tin phải phù hợp với hệ thống giá trị văn hoá và đạo lý của dân tộc, thông tin phù hợp với sự phát triển và phục vụ sự phát triển. Thông tin trên truyền hình cũng phải nhằm vào việc định hướng dư luận xã hội, định hướng thái độ, nhận thức và hành vi cho công chúng. Đây là yêu cầu xuyên suốt, bao trùm mọi hoạt động thông tin của truyền thông đại chúng nói chung và của truyền hình nói riêng. Do đó thông tin truyền hình phải đặc biệt chú ý đến những yêu cầu này để đáp ứng công tác tuyên truyền của Đảng và Nhà nước. 2.2, Chức năng tư tưởng: Công tác tư tưởng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các chính đảng, các hệ thống xã hội cũng như các giai cấp nắm quyền lãnh đạo xã hội. Mục đích của công tác tư tưởng là nhằm tác động vào ý thức xã hội, hình thành một hệ thống tư tưởng thống trị với những định hướng nhất định. Đây chính là một phương thức để phát huy những quyền lực trong các lĩnh vực kinh tế xã hội, tập hợp lực lượng quần chúng, phát huy được những tiềm năng to lớn của nhân dân nhằm xây dựng xã hội theo con đường đã định. Với khả năng tác động một cách rộng lớn, nhanh chóng và mạnh mẽ vào xã hội, hoạt động báo chí nói chung cũng như của truyền hình nói riêng có vai trò và ý nghĩa rất lớn trong công tác tư tưởng. Các phương tiện truyền thông đại chúng tác động vào quần chúng, lôi kéo, tập hợp thuyết phục họ và tổ chức họ thành lực lượng cách mạng để thực hiện những mục tiêu cụ thể trong từng thời kỳ. Truyền hình với những lợi thế đặc biệt về âm thanh và hình ảnh có khả năng thể hiện một lượng thông tin lớn sinh động và cụ thể sẽ xây dựng một thế giới quan sinh động cho khán thính giả 49
  50. của truyền hình và có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục tư tưởng cho người xem. Thông tin trên truyền hình có tác động rất lớn đến nhận thức của người xem, từ đó quyết định hành vi của họ. Vì thế, thông tin phải hết sức khách quan, trung thực, thẳng thắn để đem đến cho khán giả nhận thức đúng đắn, phù hợp với đường lối của Đảng và Nhà nước. Báo chí nước ta hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, nên mọi thông tin đều phải đảm bảo đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng, cũng như nhu cầu tuyên truyền. Truyền hình luôn bám sát đời sống thực tiễn, tập trung phản ánh những điển hình trong xã hội, đồng thời phê phán những cái tiêu cực trong xã hội. Báo chí nói chung cũng như truyền hình nói riêng có vai trò rất lớn trong việc tạo ra dư luận xã hội. Dư luận xã hội là phản ứng, thái độ của xã hội đối với một sự kiện, hiện tượng vấn đề hoặc một nhân vật nào đó. Tính chất của dư luận xã hội phụ thuộc vào nội dung thông tin được phản ánh. Điều đó chứng tỏ nếu thông tin bị bóp méo hay xuyên tạc thì hậu quả sẽ rất lớn vì nó tạo ra dư luận xã hội không tốt mà không dễ gì dập tắt được. Có thể lấy một ví dụ rất đơn giản về việc dư luận được tạo ra từ những thông tin sai lệch do báo chí tung ra. Người dân nước Mỹ cũng như các nước đồng minh của Mỹ đã được xem rất nhiều hình ảnh những người lính Nam Tư ngược đãi người Coxovo, cảnh những người dân Coxovo sống sau hàng rào thép gai, hay những hố chôn người tập thể Tất cả những hình ảnh dã man đó đã gây nên sự phẫn nộ của người dân, tạo nên làn sóng dư luận phản đối Nam Tư, tạo điều kiện cho Mỹ lấy cớ bảo vệ nhân quyền để tiến hành một cuộc chiến tranh khiến hàng ngàn người dân vô tội thiệt mạng vì bom đạn Mỹ. Sư thật là tất cả những hình ảnh đã được phát trên toàn nước Mỹ và thế giới đó đã được dàn dựng và nó đã gây nên cuộc chiến đẫm máu vô lý ở Nam Tư. Ví dụ này đã cho ta thấy tác động to lớn của báo chí, đặc biệt là truyền hình, trong việc tạo dư luận và định hướng dư luận. 50
  51. 2.3, Chức năng tổ chức – quản lý xã hội Báo chí nói chung và truyền hình nói riêng đang hàng ngày hàng giờ tham gia vào công tác tổ chức, quản lý xã hội. Truyền hình góp phần tuyên truyền những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đến cho nhân dân, đòng thời cũng là diễn đàn để phản ánh những tâm tư nguyện vọng của người dân. Truyền hình là kênh thông tin hai chiều để mọi chính sách mà Đảng và Nhà nước đề ra đều phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Báo chí được coi là “quyền lực thứ tư trong xã hội” vì nó tạo sức mạnh dư luận thông qua thông tin. Trên truyền hình Việt Nam hiện nay có những chương trình đặc biệt thu hút được sự quan tâm của đông đảo khán giả xem truyền hình như: Sự kiện và dư luận, Diễn đàn Đó là những chương trình mà tính công khai dân chủ được thể hiện rất rõ ràng. Cũng như các kênh truyền thông đại chúng khác báo truyền hình có vai trò quan trọng trong tiến trình tham gia tổ chức xã hội. Vì khái niệm tổ chức có thể được hiểu là khơi dậy năng lực, liên kết các yếu tố, bộ phận trong mối quan hệ nhất định nhằm tạo ra sức mạnh và hướng vào mục đích được xác định để tăng cường tính ưu việt và hiệu quả của tiến trình hoạt động. Ở góc độ khác, vai trò tổ chức của báo chí truyền hình còn được thể hiện ở các khía cạnh khác như biểu dương nhân tố, hình mẫu tích cực tiên tiến và nhân rộng ra thành phong trào, làm cho cái đơn lẻ tích cực thành cái phổ biến, uốn nắn nhận thức và hoạt động của con người và các tổ chức, trong sự phù hợp với định hướng phát triển. Trong khi thực hiện vai trò tổ chức xã hội, báo chí truyền hình đồng thời thể hiện vai trò quản lý xã hội. Quản lý có thể được hiểu là quá trình tác động, chi phối của chủ thể đối với khách thể, đảm bảo cho sự vận hành, hoạt động của các tiểu hệ thống và toàn bộ hệ thống xã hội cùng nhằm vào mục tiêu và đạt hiệu quả. Vì thế, để quá trình quản lý xã hội đạt hiệu quả, cần phải đạt các yếu tố như: hoạch định chính sách, chủ trương phù hợp với tình hình và điều kiện cụ 51
  52. thể; truyền thông vận động xã hội, đảm bảo cho các chính sách, chủ trương, các quyết định quản lý được nhận thức đúng đắn và đầy đủ trong dân cư, tổ chức thực hiện, hướng dẫn tư tưởng và hoạt động. Muốn thế, giữa khách thể và chủ thể thường xuyên phải có mối quan hệ tác động hai chiều. Báo chí truyền hình đảm nhận vai trò vừa là yếu tố liên kết thông tin, cầu nối, vừa là động lực khơi dậy tiềm năng của chủ thể và khách thể. Như vây báo chí truyền hình là công cụ lợi hại, còn khách thể là diễn đàn. Báo chí truyền hình không chỉ thông tin, tuyên truyền để giáo dục nâng cao nhận thức, hiểu biết của công chúng về chủ trương, chính sách, thông tin phản hồi từ cuộc sống, từ bước đi, nhịp thở, tâm tư, nguyện vọng và những vấn đề bức xúc của cuộc sống. Truyền hình còn tham gia trực tiếp vào quá trình tổ chức và quản lý xã hội. Trên thực tế, báo chí truyền hình của nước ta đã thực hiện chức năng tổ chức và quản lý xã hội một cách có hiệu quả, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa. Xã hội càng phát triển vai trò tổ chức quản lý xã hội của báo chí truyền hình càng được chú trọng. Vai trò đó được thể hiện ở cả hai phương diện tổ chức và quản lý, đó là quản lý bằng pháp luật và bằng dư luận xã hội. Mối quan hệ này có liên quan và gắn bó chặt chẽ để tạo hiệu quả cao trong sự phát triển của xã hội. 2.4, Chức năng phát triển văn hoá và giải trí của truyền hình. Ngày nay, xem chương trình thời sự vào lúc 19 giờ sau mỗi bữa cơm là một thói quen của rất nhiều gia đình. Điều này cho thấy, truyền hình đã đi vào cuộc sống của từng gia đình, từng cá nhân và đã trở thành một nhu cầu giải trí không thể thiếu đối với họ. Đây là một trong những chức năng quan trọng không kém những chức năng của truyền hình đã đề cập ở trên. Ưu thế số một của truyền hình hiện nay đó là đáp ứng được một cách cao nhất nhu cầu thông tin giải trí cho khán giả xem truyền hình. Cuộc sống càng hiện đại, con người 52
  53. phải làm việc căng thằng thì nhu cầu giải trí càng cao. Truyền hình đã và đang là sự lựa chọn hàng đầu hiện nay. Nhờ vào khoa học kĩ thuật – công nghệ ngày càng hiện đại, người dân có thể ngồi tại nhà và chọn lựa tất cả những kênh truyền hình mà họ yêu thích. Nếu như phát thanh mới chỉ dáp ứng được yêu cầu về mặt âm thanh thì truyền hình là cả âm thanh và hình ảnh. Ca nhạc, phim ảnh tất cả những loại hình nghệ thuật đáp ứng nhu cầu giải trí và nâng cao kiến thức của con người đều có thể đáp ứng trên truyền hình. Đây là một ưu điểm đặc biệt mà không phải loại hình báo chí nào cũng có được. Chính vì vậy mà mặc dù xuất hiện sau các loại hình báo chí khác nhưng truyền hình đã nhanh chóng khẳng định được vị trí và có được một lượng khán giả đông đảo. Thông qua truyền hình, sự giao lưu văn hoá với các nước trong khu vực và trên thế giới đã trở nên dễ dàng hơn. Người xem có điều kiện mở rộng tầm mắt, cho dù ngồi ở nhà, họ vẫn được xem những hình ảnh mới nhất, sống động động nhất về nhiều nơi trên thế giới. Đây là một yếu tố quan trọng đối với việc phát triển văn hoá qua truyền hình. Trong cuộc cạnh tranh khốc liệt của thế giới truyền thông hiện nay, truyền hình đang đáp ứng những dịch vụ tốt nhất nhằm kéo khán giả đến với truyền hình nhiều hơn nữa. Ở Việt Nam hiện nay, không chỉ có duy nhất Đài THVN mà còn nhiều đài địa phương cũng đang nỗ lực nâng cao chất lượng để có được thế mạnh cạnh tranh. Có thể thấy nhiều đài truyền hình địa phương có số người xem khá lớn, vượt ra ngoài phạm vi địa phương đó, như: Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội, Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh, Đài Phát thanh vàTruyền hình Bình Dương Báo chí nói chung cũng như truyền hình nói riêng hoạt động dưới sự bảo trợ của nhà nước xong không thể vì thế mà ỷ lại, không tự thân vận động phát triển. Truyền hình cũng như các loại hình báo chí khác cần phải tập trung nhiều hơn nữa để nâng cao chất lượng thông tin, âm thanh hình ảnh, đáp ứng tốt nhất nhu cầu thông tin của công chúng. Một điều quan trọng nữa đó là xuất phát từ yêu cầu khách quan của thời đại, trong 53
  54. điều kiện toàn cầu hoá truyền thông đại chúng như ngày nay, nếu truyền hình không tự cải tiến thì sẽ lạc hậu so với thế giới, dẫn đến mất đi khán giả. Ở nước ta hiện nay đang có khá nhiều loại hình truyền hình cạnh tranh với nhau như truyền hình kĩ thuật số, truyền hình vệ tinh Các công ty về công nghệ truyền hình đang nỗ lực tìm mọi cách để giảm giá dịch vụ đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ để tạo thế cạnh tranh. Đó là một lợi thế, một môi trường tốt để truyền hình ngày càng phát triển hơn nữa. Và trong cuộc cạnh tranh đó thì quyền lợi thuộc về công chúng. Họ có nhiều sự lựa chọn hơn với gía dịch vụ rẻ hơn. Như vậy, bên cạnh sóng của đài THVN được phát miễn phí cho người dân, họ còn có thể lựa chọn thêm nhiều kênh truyền hình khác phù hợp với nhu cầu giải trí. Có thể nói, chức năng phát triển văn hoá, giải trí là một trong những chức năng quan trọng của truyền hình, là yếu tố có tính quyết định đến sự phát triển của truyền hình. Thông qua các chương trình truyền hình, khán giả vừa có điều kiện giải trí, vừa có điều kiện nâng cao kiến thức của mình về mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Có thể lấy ví dụ rất đơn giản về những chương trình trò chơi truyền hình vừa giúp khán giả giải trí, vừa cho họ có cơ hội học tập thêm như chương trình: “Ai là triệu phú” của Đài Truyền hình Việt Nam, “Vượt qua thử thách” của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội, “Rồng vàng” của Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh đó là những chương trình trò chơi kiến thức đang thu hút được sự theo dõi của đông dảo khán giả xem truyền hình. Khán giả xem truyền hình không những có được cảm giác hồi hộp, căng thằng cùng với người chơi mà họ còn được cung cấp thêm rất nhiều kiến thức về các lĩnh vực trong đời sống văn hoá xã hội như: lịch sử, địa lí, khoa học, văn học, nghệ thuật Bên cạnh đó còn rất nhiều những chương trình ca nhạc, phim truyện đặc sắc đáp ứng tối đa nhu cầu giải trí của công chúng. Truyền hình cũng là một trường học từ xa với rất nhiều những chương trình khoa học thường thức cung 54
  55. cấp kiến thức cho người xem trong mọi lĩnh vực. Hiện nay, Đài Truyền hình Việt Nam đã có những kênh chuyên biệt để tạo sự thuận lợi cho người xem. Kênh VTV 1 là chương trình thời sự, VTV 2 là kênh khoa học, giáo dục và kênh VTV 3 là kênh thể thao giải trí, thông tin kinh tế. Khán giả xem truyền hình có thể lựa chọn bất kì kênh truyền hình nào họ thích. Ngoài ra, với thời lượng phát sóng lớn, 12h/ngày, không kể các kênh truyền hình dịch vụ phát 24/24, khán giả đang ngày càng có nhiều sự lựa chọn hơn đối với truyền hình. 2.5, Chức năng chỉ đạo, giám sát xã hội. Báo chí tiền thân ra đời và phát triển từ khi xã hội chưa phân chia giai cấp. Từ khi xã hội phân chia thành giai cấp, Nhà nước ra đời và báo chí luôn luôn thuộc về một giai cấp, một lực lượng chính trị nhất định. Một công cụ lợi hại như báo chí, các giai cáp và lực lượng chính trị tìm mọi cách để chiếm giữ, thậm chí lũng đoạn. Này nay, báo chí còn là công cụ quan trọng của các tập đoàn kinh tế trong cuộc đấu tranh, cạnh tranh giành giật ảnh hưởng, chiếm lĩnh thị trường. Bởi vì, trong quá trình đấu tranh giành và giữ, cùng cố địa vị xã hội, các lực lượng chính trị sử dụng báo chí như một công cụ lợi hại, không chỉ để truyền bá tư tưởng, tuyên truyền ảnh hưởng mà quan trọng là chỉ đạo cuộc đấu tranh trong việc giành và giữ quyền lực chính trị của mình. Chức năng chỉ đạo của báo chí, chủ yếu xuất phát từ nhu cầu của chủ thể quản lý, lãnh đạo nhằm thúc đẩy công việc theo mục tiêu đã đề ra, uốn nắn những lệnh lạc hay cổ vũ mọi người tập trung thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch trọng tâm trong từng thời gian. Trong hoạt động lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước ta, sau khi đã đề ra chủ trương, chính sách thì vấn đề quan trọng là chỉ đạo thực hiện, để biến các chủ trương chính sách ấy thành hiện thực sinh động. Nhiệm vụ của báo chí là giải thích và giải đáp những vấn đề của cuộc sống, góp phần tháo gỡ và thúc đẩy tình hình phát triển. Trong cuộc sống hàng 55
  56. ngày có vô vàn những sự kiện xảy ra. Nhưng trong tình hình cụ thể, báo chí chọn sự kiện nào để thông tin, chọn vấn đề nào để phân tích là thể hiện hiện chức năng chỉ đạo của báo chí. Chọn sự kiện và vấn đề thời sự để thông tin và phân tích, nhưng nhìn nhận nó từ bình diện nào, với hệ thống chi tiết, ngôn từ giọng điệu như thế nào cũng thể hiện chức năng chỉ đạo. Chọn sự kiện đơn lẻ, tiêu biểu cho cái lạ và thổi phồng nó lên thành sự quan tâm của dư luận xã hội, đăng tải tràn lan những vụ án giật gân, săn đón các câu chuyện đời tư câu khách đều là những biểu hiện làm giảm tính chỉ đạo của báo chí. Bảo đảm tính chỉ đạo của báo chí, đòi hỏi nhà báo có tầm nhìn xa và trên nền tảng tri thức, văn hoá rộng, vững chắc, phong phú, có tính nhân văn và trách nhiệm xã hội cao cả trước công chúng và lịch sử. Biểu hiện chức năng chỉ đạo của báo chí không giống sự chỉ đạo của các tổ chức Đảng hay các cơ quan quyền lực khác. Báo chí không có quyền lực như chính quyền, không được ra lệnh mà chỉ tác động vào dư luận xã hội, tác động vào nhận thức của nhân dân. Cho nên, báo chí chỉ đạo thông qua việc đăng tải chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, qua việc thông tin, thông qua thuyết phục là chủ yếu. Vai trò tư vấn thuyết phục, định hướng nhận thức thay đổi thái độ và hành vi, do đó hướng dẫn hoạt động thực tiễn được coi là vai trò chỉ đạo của báo chí. Giám sát là một trong các chức năng cơ bản của báo chí. Chức năng giám sát đựơc báo chí phương Tây tuyệt đối hoá thành quyền lực thứ tư, (ở Thuỵ Điển là quyền lực thứ ba) sau quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhưng lại giám sát cả ba quyền này. Do đó, trong xã hội tư bản, báo chí trở thành siêu quyền lực. Đảng ta quan niệm rằng, báo chí là vũ khí sắc bén của Đảng và Nhà nước, là công cụ lợi hại trong cuộc đấu tranh phò chính trừ tà, là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và là diễn đàn của nhân dân. Trong Nghị quyết Trung ương 6 (khoá VIII) lần 2, Đảng ta xác định báo chí là một trong 4 hệ thống giám sát xã hội quan trọng. 56
  57. Đặc thù giám sát của báo chí là giám sát bằng dư luận xã hội, bằng tai mắt của nhân dân. đó là sự giám sát mọi nơi, mọi lúc. Do đó để báo chí làm tốt chức năng giám sát xã hội của mình, cần thiết chú ý một số vấn đề: - Tuyên truyền rộng khắp trong nhân dân về đường lối chủ trương chính sách, luật pháp của Đảng và Nhà nước. - Nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân để họ thực sự có thể là người có năng lực làm chủ, tham gia tích cực các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội; - Thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở và mở rộng tiến trình dân chủ hoá đời sống xã hội, bảo đảm để mọi người và mọi tổ chức kinh tế – xã hội đều hoạt động theo pháp luật, giữ nghiêm kỷ cương phép nước; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. - Nâng cao năng lực, đạo đức, phẩm chất chính trị, phẩm chất nghề nghiệp của người làm báo. Trong quá trình thực hiện chức năng giám sát xã hội, một số người chủ yếu nhấn mạnh vai trò đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, phanh phui các vụ việc không lành mạnh ra công luận. Điều đó thể hiện sự bức xúc của dư luận xã hội trong tình hình hiện nay. Tuy nhiên, chức năng giám sát được hiểu bằng cả việc kịp thời biểu dương các hiện tượng tích cực, phát hiện cổ vũ nhân tố mới Các chức năng xã hội của báo chí truyền hình quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau, khó có thể tách bóc từng chức năng trong hoạt động thực tiễn. Mỗi chức năng có vai trò của nó. Thông tin là chức năng tiền đề, vì các chức năng khác chỉ có thể được bảo đảm trên cơ sở làm tốt chức năng mang tính mục đích của hoạt động báo chí là xác lập hệ tư tưởng xã hội xã hội chủ nghĩa thống nhất trong toàn thể nhân dân. Chức năng chỉ đạo và giám sát bảo đảm cho báo chí hoạt động có hiệu quả trong từng thời gian, nhằm vào những mục tiêu cụ thể và kịp thời phát hiện, uốn nắn những lệch lạc, khiếm khuyết, tạo ra sự vận hành 57
  58. nhịp nhàng, cân đối và hiệu quả của các tiểu hệ thống và cả hệ thống xã hội nói chung. Nhận thức về chức năng xã hội của báo chí truyền hình cũng có nghĩa là đồng thời nhận thức về vai trò xã hội của nhà báo truyền hình để không ngừng phấn đấu học tập và rèn luyện nhằm góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả tác động của báo chí. Muốn có một nền báo chí quốc gia mạnh, hoạt động có hiệu lực và mang lại hiệu quả xã hội cao nhất thiết phải có đội ngũ nhà báo mạnh. Tuy nhiên, có đội ngũ nhà báo giỏi, chưa hẳn đã có được nền báo chí mạnh. Điều đó còn phụ thuộc vào năng lực quản lý, phụ thuộc vào kỷ cương phép nước và môi trường pháp lý. 58
  59. KỊCH BẢN VÀ KỊCH BẢN TRUYỀN HÌNH 1. Khái niệm về kịch bản Kịch bản bắt nguồn từ tiếng La tinh csenario, có nghĩa là văn bản kịch hoặc văn bản viết có tính kịch dùng để chỉ một bộ phận cấu thành rất quan trọng của tác phẩm văn học, điện ảnh hay truyền hình. Theo từ điển tiếng Việt do Giáo sư Hoàng Phê chủ biên, Nxb Khoa học xã hội định nghĩa: “Kịch bản- đó là vở kịch ở dạng văn bản”. Tuy nhiên, nếu đưa ra khái niệm này vào các dạng kịch bản văn học, kịch bản điện ảnh và kịch bản truyền hình, thì việc giải nghĩa trên đây là chưa thật đầy đủ, đặc biệt đối với kịch bản truyền hình. Thuật ngữ kịch bản tồn tại đã lâu. Từ dùng để chỉ một chương trình đã được phác thảo hoặc bản tóm tắt của một tác phẩm kịch. Nó được hiểu như một bản miêu tả sơ lược trật tự các lớp của của vở diễn. Bản thân từ “Senari” xuất hiện thuật ngữ sân khấu “Senarius”, chỉ người đứng sau sân khấu chỉ đạo cho các diễn viên bao giờ đến lượt họ ra biểu diễn, đồng thời theo dõi để những hành động diễn ra kịp thời, đúng lúc. Để tồn tại với một diện mạo phong phú và cách thức ứng dụng linh hoạt như hiện nay, kịch bản đã có một lịch sử về nguồn gốc của nó. Kịch bản xuất hiện cùng với sự ra đời của loại hình sân khấu kịch, cũng có thể coi nguồn gốc của nó là kịch bản văn học. Người viết kịch bản phải biết xuất phát từ những sự đối lập đang âm ỉ hay đã vùng trỗi dậy trong hiện thực đời sống để sáng tạo những tình huống xung đột vừa khái quát, vừa cụ thể. Trải qua nhiều bước kế thừa và phát triển, kịch bản dần dần đã có sự biến hoá linh hoạt để thích ứng với từng loại hình sáng tác. Lịch sử loài người là lịch sử của những kế thừa. Điện ảnh ra đời là sự kế thừa của nhiếp ảnh, sân khấu, văn học, điêu khắc, hội hoạ, 59
  60. âm nhạc; còn truyền hình là sự kế thừa từ điện ảnh và báo chí. Như vậy, sự ra đời của các dạng kịch bản đều là một sự phát triển có tính kế thừa, tính chọn lọc trên cơ sở đặc thù riêng của mỗi loại hình. Mỗi loại hình văn học nghệ thuật, điện ảnh hay truyền hình (có thể coi truyền hình cũng là một loại hình mang tính chất nghệ thuật, bởi truyền hình là sự kết hợp của điện ảnh và báo chí) đều có những đặc thù riêng, đặc trưng và tính chất riêng. Vì thế, khái niệm kịch bản đi vào từng loại hình được “biến hoá” sao cho phù hợp với những tính chất đặc trưng riêng của nó. Do đó, nó có nhiều hình thức biểu hiện đa dạng chứ không phải chỉ là vở kịch ở dạng vản bản, vấn đề này chúng tôi xin đề cập phân tích ở những phần sau. Các loại kịch bản khác nhau như vậy liệu có thể gọi chung từ gốc “kịch bản” trong kịch bản văn học, sân khấu, điện ảnh truyền hình được hay không. Tại sao gọi chung là kịch bản nếu giữa chúng không có nét gì chung. Điểm chung, nét chung nhất của các loại kịch bản này là gì? Đó là tác dụng, vai trò, chức năng của kịch bản. So với các loại hình nghệ thuật như hội hoạ, điêu khắc, thơ văn, âm nhạc, một đặc trưng là từ khâu ý đồ sáng tác đến hoàn thành tác phẩm có thể hoàn toàn do công lao của người nghệ sỹ, cá nhân người nghệ sỹ. Đó là những sáng tạo “âm thầm” của mỗi cá nhân nghệ sỹ với biến động cuộc đời. Trong khi đó, sân khấu (kịch nói, kịch truyền thống), điện ảnh, lại là một nghệ thuật tập thể có sự đóng góp của diễn viên, tác giả kịch bản, hoạ sỹ trang trí, nhạc sỹ, người làm công tác hậu trường dưới sự điều khiển của đạo diễn. Tác phẩm truyền hình cũng là kết quả góp sức của tập thể đạo diễn, biên tập, cộng tác viên, kỹ thuật viên, quay phim Người tham gia làm ra sản phẩm đều phải tập trung góp phần tạo ra sản phẩm hay nhất, tốt nhất. Đối với tính chất làm việc tập thể này, sự có mặt của một kịch bản hết sức có ý nghĩa. Kịch bản trước hết vạch ra “đề cương” tác phẩm, thứ hai, kịch bản đóng vai trò như một yếu tố liên hệ giữa những cá nhân có liên quan đến công việc, liên hệ giữa yếu tố kỹ- nghệ thuật, thống nhất 60
  61. nhất hành động, các phương tiện biểu hiện ăn khớp bổ trợ cho nhau tạo nên một chỉnh thể, một tác phẩm hoàn hảo. Kịch bản là một vở kịch, một bộ phim, một chương trình được phác thảo, mô hình hoá, trên văn bản với tư cách là một đề cương, hay chi tiết đến từng chi tiết nhỏ (tuỳ theo yêu cầu của mỗi loại hình), là cơ sở chính cho “tập thể tác giả” làm nên, hoàn thiện tác phẩm của mình. 2, Nguồn gốc kịch bản Theo định nghĩa trên đây kịch bản là “một vở kịch dạng văn bản”, kịch bản ra đời cùng với sự xuất hiện của loại hình kịch (hay phương thức kịch). “Kịch thường được hiểu vừa theo nghĩa là một loại hình nghệ thuật sân khấu, vừa có nghĩa là một kịch bản văn học”. Như vậy nguồn gốc của kịch bản là kịch bản văn học. Nghiên cứu kịch bản văn học qua phương thức kịch. Là một thể loại văn học nằm trong thể loại kịch, tác phẩm kịch nói chỉ thực sự khai thác trọn vẹn khi được trình diễn trên sân khấu. Kịch cũng là một loại hình sân khấu. Sau lao động của nhà văn (người sang tác kịch bản văn học) là chặng đường sáng tạo thứ hai của đội ngũ nghệ sỹ sân khấu gồm đạo diễn, diễn viên, nhạc sỹ, hoạ sỹ. Bằng những ưu thế riêng của dàn dựng, diễn xuất, âm nhạc, trang trí họ đã tái hiện sinh động, trực tiếp nội dung của kịch bản văn học trên sân diễn. Không phải bất cứ một kịch bản văn học nào cũng có điều kiện được dàn dựng trên sân khấu. Kịch bản văn học có đầy đủ những đặc trưng riêng trong cấu trúc hình tượng, trong phương thức biểu hiện, trong ngôn ngữ nghệ thuật nên người ta vẫn có thể thưởng thức tác phẩm kịch bằng cách đọc kịch bản văn học. Khác với kịch múa, kịch hát, kịch sân khấu truyền thống (như chèo, tuồng, cải lương) là những loại hình chỉ có thể thưởng thức được nếu chúng được trình diễn trên sân khấu, bởi lẽ, phương tiện biểu hiện chủ yếu của những loại hình này mang tính đặc thù cao: những động tác múa nếu đó là kịch 61