Giáo trình Chính sách hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam - Hoàng Triều Hoa

pdf 10 trang huongle 2260
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Chính sách hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam - Hoàng Triều Hoa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_chinh_sach_ho_tro_nguoi_ngheo_tiep_can_cac_dich_v.pdf

Nội dung text: Giáo trình Chính sách hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam - Hoàng Triều Hoa

  1. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam,CHÍNH số 8( 9TRỊ3) - 2015 - KINH TẾ HỌC Chính sách hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam Hoàng Triều Hoa * Tóm tắt: Bài viết phân tích chính sách hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội, tác động của chính sách đến giảm nghèo ở Việt Nam. Theo tác giả, ngày nay giảm nghèo được nhìn nhận không chỉ với ý nghĩa tăng thu nhập mà còn với nghĩa cải thiện cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cho người nghèo (giáo dục, điều kiện y tế, chăm sóc sức khỏe, hay tiếp cận các nguồn lực hỗ trợ cho giảm nghèo như các nguồn tín dụng, đất đai, khoa học công nghệ, trong đó tiếp cận các dịch vụ xã hội là điều kiện quan trọng nhất giúp người nghèo cải thiện căn bản về chất để có thể tự vươn lên thoát nghèo). Khi người nghèo có trình độ, có sức khỏe, điều kiện sống được đảm bảo, thì họ có thể thích ứng được trong môi trường lao động mang tính cạnh tranh để tìm cho mình những công việc phù hợp với năng lực bản thân, có thu nhập tốt. Chính vì vậy, công bằng trong phân phối các nguồn lực đầu vào sẽ dẫn đến công bằng trong phân phối đầu ra như tiền công, tiền lương và giảm bất bình đẳng về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Từ khóa: Chính sách; dịch vụ xã hội; người nghèo; Việt Nam. 1. Thực trạng chính sách hỗ trợ người nghèo, học sinh, sinh viên có cha mẹ nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội ở Việt thường trú tại các xã biên giới, vùng cao, Nam hải đảo và các xã có điều kiện kinh tế - xã 1.1. Chính sách giáo dục vì người nghèo hội đặc biệt khó khăn được miễn học phí Trong những năm qua, giáo dục đào tạo hoàn toàn.(*)Trường hợp học sinh, sinh viên được chú trọng cho đối tượng người nghèo có cha mẹ thuộc diện hộ có thu nhập tối đa ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, bằng 150% thu nhập của hộ nghèo được vùng xa. Ngày 25 tháng 5 năm 2010, Thủ miễn giảm 50% học phí. Chính sách này đã tướng Chính phủ đã ra nghị định số mở ra cơ hội học tập cho học sinh và sinh 49/2010/NĐ-CP quy định về miễn, giảm viên con cái các gia đình nghèo. Chính sách học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế hỗ trợ về giáo dục cho người nghèo đã góp thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục phần nâng cao dân trí của người nghèo. Tỷ thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm lệ học sinh con các gia đình nghèo được học 2010 - 2011 đến năm học 2014 - 2015. đến trường tăng lên. Năm 2006, tỷ lệ học Theo đó, học sinh và sinh viên là người dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo và hộ có thu (*) Tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc Gia Hà Nội. nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ ĐT: 0912177150. Email: hoaht@vnu.edu.vn. 16
  2. Chính sách hỗ trợ người nghèo sinh từ 15 tuổi trở lên chưa bao giờ được người đi học được miễn học phí giảm đi. đến trường trên địa bàn cả nước là 8,1%, Điều này xảy ra do có sự thay đổi trong các trong đó thuộc nhóm nghèo nhất là 18,0%, chính sách của Nhà nước đối với giáo dục song tỷ lệ này dần giảm đi và năm 2012, vì người nghèo trong thời gian gần đây. khi tỷ lệ học sinh từ 15 tuổi trở lên chưa Bên cạnh việc đầu tư nguồn vốn ngân sách bao giờ đi học của cả nước là 6,0% thì số vào giáo dục đào tạo ở các vùng nông thôn, thuộc nhóm nghèo nhất giảm xuống còn vùng khó khăn của cả nước, trong những 15,7%. Đây là một kết quả khẳng định hiệu năm qua, Nhà nước còn chú trọng vào công quả của chính sách hỗ trợ về giáo dục của tác đào tạo nghề cho người lao động, giúp Nhà nước. Hơn thế nữa, chính sách miễn người nghèo có kỹ năng nghề nghiệp để tự giảm học phí của Nhà nước đối với con em vươn lên thoát nghèo. các gia đình thuộc diện hộ nghèo cũng tạo Nhìn chung các chính sách giáo dục đào điều kiện để cho con cái của họ có điều kiện tạo đối với học sinh nghèo tương đối hệ đi học, nâng cao dân trí. thống, toàn diện, tuy nhiên khả năng hỗ trợ Kết quả khảo sát mức sống dân cư năm cho nhóm người nghèo còn hạn chế nên 2012 của Tổng cục Thống kê cho thấy, nếu hiệu quả chưa cao. Trợ cấp về giáo dục cho xét theo khu vực thành thị, nông thôn hay 5 người nghèo không đủ trang trải chi phí học nhóm thu nhập, tỷ lệ người được miễn giảm hành. Theo số liệu điều tra khảo sát mức học phí tăng lên ở tất cả các khu vực và các sống dân cư của Tổng cục Thống kê, chi nhóm. Song nếu xét cụ thể trong từng nhóm phí giáo dục đào tạo bình quân cho một thu nhập, thì nhóm 1, nhóm 2 và nhóm 3 có người đi học trong một năm càng ngày càng sự tăng lên về tỷ lệ người đi học được miễn tăng, trong khi thu nhập của các hộ gia đình giảm học phí, đặc biệt là đối với các hộ ở nông thôn tăng không đáng kể. nghèo, trong khi nhóm 4 và nhóm 5 có tỷ lệ Bảng 1: Tỷ trọng chi tiêu cho giáo dục đào tạo bình quân một người đi học/năm (% tổng thu nhập bình quân đầu người/năm) 2002 2004 2006 2008 2010 2012 Thành thị 16,81 15,71 16,51 16,03 20,56 17,71 Nông thôn 13,12 13,27 14,73 14,80 16,07 16,31 Nhóm 1 18,26 17,98 19,22 21,9 24,32 23,28 Nhóm 2 16,12 17,41 18,97 20,85 21,54 22,06 Nhóm 3 15,50 15,66 19,09 18,88 19,88 21,09 Nhóm 4 16,67 16,61 19,46 16,99 19,18 17,87 Nhóm 5 13,55 12,36 13,21 12,84 16,70 14,75 Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu điều tra khảo sát mức sống hộ gia đình các năm từ 2002 đến 2012 17
  3. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015 Bảng 1 cho thấy, nhóm nghèo nhất có tỷ được hưởng chính sách dạy nghề cho người trọng chi tiêu cho giáo dục/thu nhập của nghèo chỉ là 0,1% và như vậy, số hộ gia một người cao nhất trong tất cả các nhóm đình nghèo không nhận được sự hỗ trợ từ (chiếm 23,28% thu nhập bình quân nhân phía chính sách dạy nghề vẫn là 14,1%. khẩu cả năm vào năm 2012). Như vậy, chi Những hộ gia đình nghèo không được tiêu của nhóm này cho giáo dục đào tạo hưởng lợi từ chính sách dạy nghề cho người chiếm đến gần 1/4 thu nhập khi thu nhập nghèo của Chính phủ không phải là do họ của họ đã rất thấp, không đủ trang trải cho đã được đào tạo nghề từ những năm trước, cuộc sống hàng ngày. Hàng năm, hỗ trợ của mà chính là do mức độ bao phủ của chương chính phủ cho sinh viên thuộc hộ nghèo, dân trình dạy nghề này còn thấp, chưa đến được tộc thiểu số vùng sâu vùng xa là 840.000 với các gia đình nghèo. đồng/học kỳ (tương đương 168.000 đồng/tháng) Chính sách giáo dục vì người nghèo cần chỉ đủ trang trải một phần nhỏ những chi phải phân biệt mức học phí mà người đi học phí về sách vở và đồ dùng học tập. thuộc hộ nghèo phải đóng với mức học phí Xem xét về mức độ bao phủ của chương chung. Hiện nay, việc duy trì mức học phí trình ưu đãi về giáo dục cho người nghèo có thấp dưới mức chi phí đào tạo dẫn đến việc thể thấy được rằng, không chỉ có người hỗ trợ của Nhà nước mang tính chất bình nghèo mới nhận được những ưu đãi về giáo quân, cào bằng đối với tất cả các đối tượng dục mà trong nhóm người giàu nhất cũng học sinh, sinh viên, không có sự phân biệt có đến 29,5% số người được hưởng những giữa học sinh gia đình nghèo và gia đình ưu đãi này. Điều này có thể là một sự sơ hở trung lưu. Sinh viên các gia đình có thu trong quản lý thực thi chính sách và tình nhập cao chiếm tỉ lệ không nhỏ, điều này trạng này xảy ra rất nhiều ở khu vực nông dẫn đến một thực tế là chính sách học phí thôn, vùng miền núi khi các chính sách ưu thấp của nhà nước lại đang trợ cấp ngược đãi và trợ cấp giáo dục của Nhà nước không cho người giàu. đến được đúng đối tượng cần trợ cấp. 1.2. Chính sách hỗ trợ y tế cho người nghèo Tỷ lệ hộ gia đình được hưởng lợi từ Đầu tư cho y tế cũng là một trong chính sách dạy nghề cho người nghèo, những mục tiêu của Chính phủ nhằm xoá người thu nhập thấp trong những năm qua đói giảm nghèo cho bà con vùng nông có sự sụt giảm. Theo số liệu khảo sát mức thôn, vùng sâu, vùng xa và những đối sống hộ gia đình của Tổng cục Thống kê, tượng người nghèo nói riêng. Với ý nghĩa năm 2005 khi tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam đầu tư cho y tế là đầu tư cho phát triển, là 18,1% thì có 4,1% hộ gia đình được trong những năm qua, Đảng và Nhà nước hưởng lợi từ chính sách dạy nghề cho người luôn coi trọng, quan tâm đầu tư cho lĩnh nghèo, người có thu nhập thấp, điều đó có vực y tế theo hướng ngày một tăng. Để đạt nghĩa là vẫn còn 14% hộ gia đình nghèo tới mục tiêu tạo cơ hội thuận lợi cho mọi không được hưởng chính sách này. Năm người dân, nhất là người nghèo, người 2010, tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam giảm thuộc diện chính sách được bảo vệ chăm xuống còn 14,2% nhưng tỷ lệ hộ gia đình sóc và nâng cao sức khoẻ, ngân sách nhà 18
  4. Chính sách hỗ trợ người nghèo nước hàng năm chi cho y tế luôn chú trọng nhất để đạt mục tiêu bao phủ y tế toàn dân. đầu tư nâng cấp các cơ sở khám chữa Bảo hiểm y tế có hai vai trò đặc biệt quan bệnh, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm y tế. trọng, một là tăng doanh thu cho các cơ sở Trong nhiều năm qua, Chính phủ đã có cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe và hai nhiều chính sách hỗ trợ về y tế cho người là tập trung nguồn tài chính và đảm bảo nghèo ở các vùng miền: chia sẻ các rủi ro sức khỏe giữa các thành Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg ngày viên tham gia chương trình bảo hiểm. Tại 15 tháng 10 năm 2002 của Thủ tướng Việt Nam, việc có bảo hiểm y tế được xem Chính phủ về khám, chữa bệnh cho người là quyền được chăm sóc sức khỏe của tất cả nghèo đã ghi rõ đối tượng được hưởng chế mọi người. Đây cũng được xem là công cụ độ khám chữa bệnh là người nghèo theo tạo nên sự bình đẳng trong chăm sóc sức chuẩn nghèo, người dân ở các vùng miền khỏe toàn dân. Mức bao phủ bảo hiểm y tế núi, vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số là một chỉ số quan trọng trong việc đánh giá vùng Tây Nguyên và miền núi phía Bắc. mức độ bao phủ về dân số cũng như mức Quyết định số 14/2012/QĐ-TTg ngày 1 độ bao phủ tài chính của các dịch vụ chăm tháng 3 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ sóc sức khỏe. Báo cáo của Ủy ban Thường về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của vụ Quốc hội về kết quả giám sát việc thực Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg ngày 15 hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm y tế tháng 10 năm 2002 của Thủ tướng Chính giai đoạn 2009 - 2012 cho thấy, giai đoạn phủ về khám, chữa bệnh cho người nghèo đã 2009 - 2012 tỉ lệ dân số tham gia bảo hiểm nêu rõ ngân sách nhà nước hỗ trợ khám chữa y tế tăng từ 58,2% (2009) lên 66,8% (2012). bệnh cho người nghèo như mua thẻ bảo Sau 4 năm thực thi luật, đã có thêm 8,6% hiểm y tế cho người nghèo, hỗ trợ một phần dân số tham gia bảo hiểm y tế, tương đương viện phí cho các trường hợp gặp khó khăn 9,24 triệu người, bình quân tăng 2,8%/năm. đột xuất do mắc các bệnh nặng, chi phí cao Mức độ bao phủ bảo hiểm y tế ở Việt khi điều trị ở bệnh viện Nhà nước, người Nam đã tăng đáng kể nhờ những chính sách nghèo, lang thang, cơ nhỡ. Theo quyết định đổi mới theo hướng công bằng. Năm 2012, này, nhà nước hỗ trợ tiền ăn cho các đối có 66,8% dân số Việt Nam đã tham gia bảo tượng thuộc khoản 1 và 2 Điều 2 Quyết định hiểm y tế. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế khá số 139/2002/QĐ-TTg khi điều trị nội trú tại cao đối với những nhóm dân số có điều các cơ sở y tế của Nhà nước từ tuyến huyện kiện khó khăn nhất như nhóm dân số trở lên với mức tối thiểu 3% mức lương tối nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, đồng bào dân tộc thiểu chung/người bệnh/ngày và hỗ trợ một thiểu số. Thời gian qua, Chính phủ đã có phần kinh phí khám chữa bệnh cho người nhiều chính sách ưu đãi để người cận nghèo bệnh không có bảo hiểm y tế phải chi trả từ được tham gia bảo hiểm y tế. Từ năm 2009, 1 triệu đồng trở lên tại các cơ sở khám chữa Nhà nước hỗ trợ 50% mức phí khi tham gia bệnh của nhà nước. bảo hiểm y tế (theo Nghị định số 62/2009); Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), bảo nâng mức hỗ trợ lên 70% kể từ ngày 1 hiểm y tế được coi là công cụ quan trọng tháng 1 năm 2012 (theo Quyết định số 19
  5. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015 797/QĐ-TTg) và kể từ ngày 1/1/2013 hỗ trợ Quyết định số 797/QĐ-TTg ngày 26 tháng 6 100% mức đóng bảo hiểm y tế cho một số năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ. đối tượng thuộc hộ cận nghèo (theo Quyết Trong những năm qua, người nghèo đã định số 705/QĐ-TTg). Chính sách ưu đãi có điều kiện quan tâm đến sức khỏe nhiều này là một trong những giải pháp thực hiện hơn do những ưu đãi mà chính sách về y tế chiến lược giảm nghèo bền vững. đối với người nghèo mang lại. Do được hỗ Khoảng cách thu nhập giữa người nghèo trợ về bảo hiểm y tế mà tỷ lệ người nghèo và cận nghèo không chênh lệch nhiều tham gia khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế nhưng nếu là đối tượng thuộc hộ nghèo thì tăng lên. Từ năm 2004 đến năm 2012, tỷ lệ được Nhà nước hỗ trợ 100% chi phí mua người thuộc nhóm nghèo nhất trên phạm vi bảo hiểm y tế, còn người cận nghèo phải cả nước có bảo hiểm y tế tham gia khám đóng phí mặc dù mức phí không cao. Chính chữa bệnh tăng từ 44,1% lên 81,5%, nhóm vì vậy, để hỗ trợ người cận nghèo có điều cận nghèo cũng tăng từ 32,2% lên 67,7%. kiện tiếp cận với các dịch vụ y tế khi ốm Chính sách miễn giảm chi phí khám chữa đau, ngày 8 tháng 5 năm 2013, Thủ tướng bệnh cho người nghèo cũng đã mang đến cơ Chính phủ đã có Quyết định số 705/QĐ- hội cho 12,6% hộ gia đình được hưởng lợi TTg về nâng mức hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế ích từ chính sách này vào năm 2012. Như cho một số đối tượng thuộc hộ cận nghèo. vậy, có thể thấy được rằng, chính sách hỗ Cụ thể người thuộc hộ gia đình cận nghèo trợ về y tế cho người nghèo của Nhà nước mới thoát nghèo sẽ được hỗ trợ 5 năm sau đã giúp người nghèo giảm được các chi phí khi thoát nghèo. Trường hợp người thuộc về khám chữa bệnh, giải quyết được phần hộ cận nghèo đã thoát nghèo trước ngày 1 nào tỷ lệ hộ gia đình nghèo hóa do chi phí tháng 1 năm 2013 nhưng thời gian thoát chăm sóc sức khỏe. nghèo tính đến ngày 1 tháng 1 năm 2013 Tuy nhiên, chính sách hỗ trợ về y tế của chưa đủ 5 năm thì thời gian còn lại được Nhà nước cho người nghèo còn nhiều vấn đề ngân sách Nhà nước hỗ trợ 100% mức đóng cần phải khắc phục. Kinh phí hỗ trợ chăm bảo hiểm y tế, thời gian hỗ trợ thấp nhất là sóc sức khỏe cho người nghèo còn hạn chế. 1 năm. Người thuộc hộ gia đình cận nghèo Theo quyết định số 139/2002/QĐ-TTg ngày đang sinh sống tại các huyện nghèo theo 15 tháng 10 năm 2002 của Thủ tướng Chính Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 phủ, người nghèo sẽ được hỗ trợ 70.000 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ về đồng/ người /năm và được mua thẻ bảo hiểm Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và y tế với mức 50.000 đồng/người/năm. Số bền vững đối với 61 huyện nghèo và các tiền hỗ trợ này quá nhỏ so với chi phí khám huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao được áp dụng chữa bệnh của người nghèo. cơ chế, chính sách theo Nghị quyết số Trong khi chi tiêu cho y tế một người/ 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ. Đối với năm của những người giàu nhất năm 2002 các đối tượng người thuộc hộ gia đình cận chỉ bằng 11,27% thu nhập trong năm của họ nghèo còn lại được ngân sách Nhà nước hỗ thì đối với người nghèo nhất, mức chi tiêu trợ mức đóng bảo hiểm y tế theo quy định tại này đã làm mất đi 30,56% thu nhập trong 1 20
  6. Chính sách hỗ trợ người nghèo năm của họ (tương đương 395.000 đồng), mua bảo hiểm y tế có cả những hộ không con số này là quá lớn đối với người nghèo. thuộc đối tượng được hỗ trợ. Năm 2012, tỷ Do vậy, tâm lý không đi khám chữa bệnh lệ hộ gia đình được hỗ trợ mua bảo hiểm y khi mắc bệnh vì tốn quá nhiều tiền đã làm tế là 17,5%, tỷ lệ này vượt quá tỷ lệ hộ cho sức khỏe của người nghèo ngày một nghèo thuộc đối tượng được hỗ trợ mua bảo giảm sút. Tỷ trọng này đã giảm đi trong các hiểm y tế. Tuy nhiên, điều đó không có năm tiếp theo do thu nhập của các gia đình nghĩa là tất cả hộ nghèo đều nhận được sự nghèo có phần tăng lên với tốc độ lớn hơn hỗ trợ này mà có cả các hộ không thuộc đối tốc độ tăng chi tiêu cho y tế của họ. tượng được hỗ trợ lại được hưởng lợi từ Mức độ tiếp cận các nguồn lực y tế của chính sách này. người dân nghèo còn hạn chế. Mặc dù Quản lý thực thi chính sách hỗ trợ về y chính sách hỗ trợ về y tế cho người nghèo tế cho người nghèo còn lỏng lẻo, dẫn đến được thực hiện đã mang lại một số hiệu quả tình trạng bất công bằng giữa các đối tượng nhất định, song mức độ tiếp cận được với được trợ cấp. Như trên đã nói, việc người các nguồn lực phân bổ y tế cho người giàu nhận được nhiều ưu đãi về y tế hơn nghèo còn rất hạn chế, độ bao phủ của các người nghèo là một sự bất công lớn. Điều nguồn trợ cấp y tế cũng như các chính sách đó thể hiện sự yếu kém trong khâu quản lý y tế với người nghèo còn thấp và lại tập và thực thi chính sách ở các địa phương. trung nhiều vào nhóm giàu. Kết quả khảo Việc quản lý lỏng lẻo các chương trình hỗ sát mức sống hộ gia đình năm 2012 cho trợ về y tế còn thể hiện rõ ở tình trạng thấy, tỷ lệ hộ gia đình được miễn giảm chi không kiểm soát được việc chi quỹ bảo phí khám chữa bệnh cho người nghèo từ hiểm y tế trong những năm qua. năm 2009 đến 2011 có xu hướng tăng lên Theo Báo cáo của Ủy ban về các vấn đề (từ 11,9% lên 13,2%) song đến 2012 lại xã hội của Quốc hội, tính đến tháng 11 năm giảm xuống còn 12,6%. 2013 số kết dư quỹ bảo hiểm y tế gần Hơn nữa, Quyết định số 139/2002/QĐ- 13.000 tỷ đồng chưa được phân bổ cho các TTg của Thủ tướng Chính phủ đã quy định địa phương. Hơn thế nữa, tình trạng trùng người nghèo được hỗ trợ mua bảo hiểm y tế thẻ bảo hiểm y tế ở những người do ngân nhưng trên thực tế không phải hộ gia đình sách Nhà nước hỗ trợ xảy ra tại nhiều tỉnh nghèo nào cũng nhận được sự hỗ trợ này. (cá biệt có người nhận được 4 - 5 thẻ). Giai Theo số liệu khảo sát mức sống hộ gia đình đoạn 2009 - 2012, qua rà soát tại 42 tỉnh, năm 2012 của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ hộ thành phố đã phát hiện gần 800.000 thẻ cấp gia đình được hỗ trợ mua bảo hiểm y tế trùng, với số tiền ngân sách phân bổ khoảng năm 2010 là 10,2% trong khi tỷ lệ hộ nghèo 342 tỷ đồng. Điều này là một sự sơ hở trong của năm là 14,2%. Nếu như con số này đều quản lý cấp phát thẻ bảo hiểm y tế, làm là các hộ nghèo được hỗ trợ mua bảo hiểm thâm hụt ngân sách và tiền hỗ trợ không y tế thì vẫn còn 4% hộ gia đình nghèo đến được với người thật sự cần. Nhiều địa không tiếp cận được với chính sách hỗ trợ phương còn có tình trạng bội chi quỹ bảo này, chưa kể trong số các hộ được hỗ trợ hiểm y tế. Năm 2010 có 14 tỉnh, năm 2011 21
  7. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015 có 24 tỉnh và năm 2012 còn 10 tỉnh bội chi. người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị. Có tỉnh bội chi liên tục quỹ bảo hiểm từ khi Theo Điều 6 của quyết định này, các đối thực hiện đến nay và thường xuyên nhận hỗ tượng được mua, thuê, thuê mua nhà ở thu trợ từ quỹ dự phòng trung ương. Điều này nhập thấp, gồm cán bộ, công chức, viên cho thấy sự không hợp lý khi tỉnh có điều chức, lực lượng vũ trang hưởng lương từ kiện kinh tế - xã hội phát triển hơn lại nhận ngân sách Nhà nước và người có thu nhập trợ cấp cho việc thâm hụt quỹ bảo hiểm y tế thấp tại khu vực đô thị. Người được mua, của mình từ việc điều tiết kết dư của các thuê, thuê mua nhà ở thu nhập thấp phải tỉnh miền núi khó khăn. Đây chính là tình đáp ứng đủ các điều kiện như chưa có nhà ở trạng người nghèo phải bù bảo hiểm y tế hoặc có nhà ở nhưng diện tích bình quân cho người giàu. dưới 5m2/người, chưa được Nhà nước hỗ 1.3. Chính sách nhà ở, đất ở cho người nghèo trợ về nhà ở, đất ở dưới mọi hình thức. Đối Hỗ trợ về nhà ở và đất ở cho người với các trường hợp mua và thuê mua nhà ở nghèo là một trong những chính sách lớn thu nhập thấp thì phải có hộ khẩu thường của Nhà nước nhằm hỗ trợ cho người nghèo trú hoặc tạm trú dài hạn tại tỉnh, thành phố tiếp cận được với các dịch vụ xã hội cơ bản. trực thuộc Trung ương nơi có dự án; và Năm 2005 có 10,8% hộ gia đình nghèo người thuộc đối tượng mua nhà của quyết được hỗ trợ về nhà ở và đất ở. Tỷ lệ này định này phải có mức thu nhập thấp, không tăng lên ở các năm sau: năm 2007 là 12,9%, có khả năng tự cải thiện chỗ ở. Chính sách năm 2009 là 15,9% và năm 2010 tỷ lệ hộ này đã mở ra cơ hội có nhà ở cho người thu gia đình nghèo được hỗ trợ về nhà ở, đất ở nhập thấp, nhiều người đã mua được nhà là 17,0%. trong số các dự án về nhà ở cho người có Đến nay, hàng trăm nghìn hộ đồng bào thu nhập thấp tuy số lượng còn hạn chế. dân tộc thiểu số nghèo, không có đất ở, nhà Do có sự đầu tư từ các chính sách phân ở, không có hoặc thiếu đất sản xuất, nhiều phối vì người nghèo mà cuộc sống của các hộ nghèo đói, du canh, du cư, di cư tự do, hộ gia đình nghèo được cải thiện rõ rệt. Số sinh sống trong vùng thiên tai, nguy hiểm, liệu khảo sát mức sống hộ gia đình năm đã có đất ở, nhà ở, cuộc sống ổn định hơn. 2012 cho thấy tỷ lệ hộ gia đình thuộc nhóm Các khu định canh định cư, tái định cư nghèo nhất có nhà ở kiên cố đã tăng 36,6% được quy hoạch, đầu tư đồng bộ về kết cấu trong vòng 10 năm, từ 4,7% năm 2002 lên hạ tầng, xây dựng khu dân cư, bố trí đất sản 42,2% năm 2012. Nhiều hộ gia đình đã có xuất, đã đáp ứng cơ bản nhu cầu sinh nhà kiên cố để ở, tỷ lệ nhà tạm cũng đã hoạt, sản xuất của đồng bào. giảm xuống từ 39,9% năm 2002 xuống còn Đối với người nghèo ở thành phố, vấn đề 12,3% năm 2012. Bên cạnh đó, đời sống đất đai mà họ gặp phải chủ yếu là về đất ở của các hộ gia đình tăng lên còn thể hiện ở và nhà ở. Ngày 24 tháng 4 năm 2009, Thủ tỷ lệ gia đình sử dụng điện lưới thay cho tướng Chính phủ đã ký Quyết định số các loại phương tiện thắp sáng lạc hậu khác 67/2009/QĐ-TTg về việc ban hành một số như đèn dầu. Năm 2002, có 72,7% tỷ lệ gia cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho đình thuộc hộ nghèo sử dụng điện lưới và tỷ 22
  8. Chính sách hỗ trợ người nghèo lệ này đã tăng lên 91,7% vào năm 2012. năng mua nhà vì thu nhập của họ không đủ Phần lớn các hộ gia đình nghèo đều có các đến mức có thể mua được giá nhà thu nhập đồ dùng lâu bền như điện thoại, xe máy, thấp của Nhà nước và họ cũng gặp phải đầu video và tivi. Điều đó đã phản ánh mức nhiều rào cản khi tiếp cận với chính sách. sống của người dân nghèo ngày càng tăng Chính vì vậy, để chính sách nhà ở cho lên. Họ đã có thể mua sắm những đồ dùng người có thu nhập thấp tại khu vực thành thiết yếu phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt và thị phát huy đúng mục đích của chính sách văn hóa. đòi hỏi phải có một hệ thông quản lý đồng Chính sách nhà ở xã hội của Nhà nước bộ và phải cải cách thủ tục hành chính, điều đã mở ra cơ hội cho người nghèo có thể kiện cho vay mua nhà thu nhập thấp để thuê nhà hoặc mua nhà với mức giá thấp. người có thu nhập thấp có thể tiếp cận được Nhiều người dân có thu nhập thấp đã có chỗ với hình thức nhà ở này. ở, ổn định cuộc sống. Tuy nhiên, chính sách 2. Một số kiến nghị chính sách hỗ trợ nhà ở, đất ở cho người nghèo còn Các chính sách hỗ trợ người nghèo tiếp nhiều bất cập trong việc thực thi, gây ảnh cận các dịch vụ xã hộ cơ bản thời gian qua hưởng không nhỏ đến đời sống của người đã thực sự có hiệu quả trong việc góp phần nghèo. Ở khu vực nông thôn, các dự án thu giảm tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam, từ 29,8% hồi đất ở của người dân để lấy đất làm năm 2002 xuống còn 11,1% năm 2012, 6% đường sá, xây dựng các khu công nghiệp năm 2014. Thu nhập của người dân dưới tập trung đã làm ảnh hưởng đến cuộc sống ngưỡng nghèo (nhóm 1) tăng trung bình của người dân và người dân không hài lòng 36,7% trong vòng 10 năm từ 2002 đến với chính sách đền bù của Nhà nước. Tiền 2012. Tuy nhiên, các chính sách hỗ trợ bồi thường của các dự án cho người dân người nghèo cũng bộc lộ nhiều bất cập, hạn trong nhiều trường hợp không đủ để nhận chế. Chính vì vậy, để thực sự phát huy tác chuyển nhượng lại đất ở tương đương hoặc dụng và thể hiện được vai trò to lớn trong nhà ở mới tại khu tái định cư. Hơn nữa, việc góp phần giảm nghèo bền vững ở Việt nhiều dự án chưa có khu tái định cư đã thực Nam, các chính sách hỗ trợ người nghèo hiện thu hồi đất ở và ở các địa phương còn cần phải hoàn thiện theo hướng sau: chưa coi trọng việc lập khu tái định cư Thứ nhất, tăng cường nguồn lực bao chung cho các dự án tại địa bàn, một số khu gồm nguồn lực về tài chính và nhân lực cho tái định cư đã được lập nhưng không bảo các lĩnh vực giáo dục đào tạo và y tế cho đảm điều kiện tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ. những đối tượng nghèo và cận nghèo. Bên Đối với người nghèo ở thành thị, tiếp cạnh nguồn lực đầu tư từ ngân sách Nhà cận về nhà ở còn gặp nhiều trở ngại do nước, cần phải huy động thêm các nguồn những ràng buộc về các điều kiện của chính lực từ các doanh nghiệp trong nước, tổ chức sách cũng như thủ tục hành chính. Chính quốc tế, sách nhà ở cho người có thu nhập thấp này Thứ hai, tăng cường phạm vi bao phủ đã được thực hiện nhiều năm nay nhưng của chính sách đến các đối tượng cần được hiệu quả mang lại rất thấp do người thực sự hỗ trợ. Chính phủ cần cắt giảm ngân sách ở nghèo ở khu vực thành thị không có khả những lĩnh vực đầu tư không hiệu quả để 23
  9. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015 tăng cường hỗ trợ các dịch vụ xã hội cơ bản cấp nhà ở giá rẻ cho người thu nhập thấp. cho người nghèo. Có như vậy, phạm vi bao Chính sách nhà ở cho người có thu nhập phủ của chính sách mới được mở rộng và sẽ thấp trong thời gian qua bộc lộ nhiều điểm có thêm nhiều người nghèo tiếp cận được bất hợp lý về thủ tục, về điều kiện, quy định với các chính sách hỗ trợ. vay vốn mua nhà nên số lượng người thu Thứ ba, quản lý chặt chẽ việc thực hiện nhập thấp tiếp cận được với chính sách còn chính sách hỗ trợ người nghèo để chính rất hạn chế. Vì vậy, trong thời gian tới, để sách đến được đúng với đối tượng cần hỗ chính sách nhà ở cho người có thu nhập trợ. Việc người giàu hưởng lợi từ các chính thấp thực sự phát huy được vai trò là một sách an sinh xã hội nhiều hơn người nghèo trong những chính sách an sinh xã hội, Nhà đã được các tổ chức quốc tế cảnh báo nhiều nước cần phải điều chỉnh lại chính sách sao lần trong các nghiên cứu về an sinh xã hội cho đơn giản hóa về mặt thủ tục, điều kiện của Việt Nam và chính điều này làm cho họ vay vốn mua nhà và hơn thế nữa là phải xã rất cẩn trọng trong việc tài trợ cho Việt hội hóa nguồn cung về nhà ở, giảm giá nhà, Nam để thực hiện các chương trình an sinh mở rộng thêm cơ hội cho nhiều người có xã hội. Vì vậy, để giải quyết triệt để vấn đề thu nhập thấp có mua được nhà ở. Mặt này, cần phải xây dựng một hệ thống từ khác, cần phải siết chặt đối tượng mua nhà Trung ương đến các địa phương nhằm giám để tránh tình trạng đầu cơ nhà ở thu nhập sát chặt chẽ việc thực thi các chương trình thấp và tránh hiện tượng người giàu lại mua hỗ trợ cho người nghèo, và người đứng đầu được nhà cho người thu nhập thấp. phụ trách các chương trình này ở các địa phương phải chịu trách nhiệm nếu như để Tài liệu tham khảo xảy ra sai sót trong việc sai lệch đối tượng 1. Chính phủ (2010), Nghị định số 49/2010/NĐ- được hưởng lợi. CP của Thủ tướng Chính phủ quy định về miễn, Thứ tư, về chính sách hỗ trợ nhà ở, đất ở giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, cho người nghèo, Nhà nước cần phải có sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ chính sách đền bù thỏa đáng cho người dân thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010 - 2011 bị mất đất ở nông thôn để họ có thể tái định đến năm học 2014 - 2015. cư ở một nơi ở khác. Hơn nữa, Nhà nước 2. Ngân hàng Thế giới (2012), Đánh giá nghèo phải có kế hoạch xây dựng các khu tái định Việt Nam 2012. cư trước khi có kế hoạch thu hồi đất, không 3. Tổng cục Thống kê (2012), Kết quả khảo sát để tình trạng người dân mất nhà nhưng vẫn mức sống dân cư năm 2010, Nxb Thống kê, Hà Nội. không có chỗ ở mới. Đồng thời, phải xây 4. Tổng cục thống kê (2014), Khảo sát mức sống dựng hệ thống hạ tầng đồng bộ ở các khu dân cư Việt Nam năm 2012, Nxb Thống kê, Hà Nội. tái định cư nhằm bảo đảm cuộc sống cho 5. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2013), Báo cáo người dân khi đến nơi ở mới. Đối với người số 525/BC-UBTVQH13 ngày 14 tháng 10 năm 2013 nghèo ở các khu vực thành thị, cần phải về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp điều chỉnh chính sách hỗ trợ về nhà ở đối luật về bảo hiểm y tế giai đoạn 2009 - 2012. với người có thu nhập thấp, đồng thời huy 6. E. Wayne Nafziger (1998), Kinh tế học của động thêm các nguồn lực xã hội để cung các nước đang phát triển, Nxb Thống kê, Hà Nội. 24
  10. Chính sách hỗ trợ người nghèo 25