Giáo trình Đền Cờn trong thư tịch cổ Việt Nam - Nguyễn Đức Nhuệ

pdf 9 trang huongle 5400
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Đền Cờn trong thư tịch cổ Việt Nam - Nguyễn Đức Nhuệ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_den_con_trong_thu_tich_co_viet_nam_nguyen_duc_nhu.pdf

Nội dung text: Giáo trình Đền Cờn trong thư tịch cổ Việt Nam - Nguyễn Đức Nhuệ

  1. Tạp chí Khoa học xã hội THÔNGViệt Nam, sốTIN 4(101 - TƯ) - 201 LI6 ỆU KHOA HỌC Đền Cờn trong thư tịch cổ Việt Nam Nguyễn Đức Nhuệ * Tóm tắt: Đền Cờn (xã Quỳnh Phương, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An) thờ Tứ vị thánh nương, được các triều đại quân chủ Việt Nam ban sắc phong là Đại Càn quốc gia Nam hải Tứ vị thánh nương và được dân gian xếp đứng đầu trong 4 ngôi đền thiêng của xứ Nghệ. Bài viết này điểm lại những thư tịch cổ (sử sách, tạp ký, thơ văn, văn bia) từng đề cập đến Đền Cờn và các nhân vật được thờ ở đây. Từ khóa: Đền Cờn; thư tịch; lịch sử; Nghệ An. 1. Đền Cờn với việc thờ Tứ vị thánh nương Chất soạn Tục Việt điện u linh tập mới bổ Đền Cờn (thuộc xã Quỳnh Phương, sung thêm 4 truyện, trong đó có Càn Hải huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An) được xếp môn từ - viết về Đền Cờn và các vị thần vào hàng linh thiêng bậc nhất trong 4 ngôi được thờ ở Đền.(*) đền thiêng của xứ Nghệ (xứ Nghệ nói ở đây Truyện Càn Hải môn từ của Nguyễn gồm cả Nghệ An và Hà Tĩnh): nhất Cờn, nhì Văn Chất cho hay: “Trong năm Thiệu Bảo Quả, tam Bạch Mã, tứ Chiêu Trưng. Chủ thứ nhất (1279) đời Trần Nhân Tông, bên thần Đền Cờn là Tứ vị thánh nương, được Trung Quốc, Trương Hoằng Phạm đem ban sắc phong là Đại Càn quốc gia Nam Hải quân đánh úp quân Tống ở Nhai Sơn. Quân Tứ vị thánh nương; chủ thần đền Quả Sơn là Tống bị tan vỡ, Tả thừa tướng là Lục Tú Lý Nhật Quang (Hoàng tử thứ tám của Lý Phu ôm Đế Bính cùng nhảy xuống biển, Thái tổ); chủ thần đền Bạch Mã là tướng tướng sĩ nhà Tống chết đuối hơn 10 vạn quân Phan Đà và chủ thần đền Chiêu Trưng người. Ba mẹ con phu nhân ôm lấy cột là Vũ Mục vương Lê Khôi (công thần triều buồm của một chiếc thuyền, trôi dạt đến Lê sơ). Dân gian có câu “Nghệ cậy Thần”, một ngôi chùa trên bờ biển. Sư chùa thương, câu này có lẽ chỉ sự linh thiêng của chủ thần bèn cho mẹ con vào ở chùa và nuôi cho ăn. bốn ngôi đền kể trên. Được mấy tháng ba mẹ con khi đã lại sức, Đền Cờn và chủ thần là Đại Càn quốc trở nên béo tốt, vẻ mặt phu nhân coi tuyệt gia Nam Hải Tứ vị thánh nương được thư đẹp. Sư động lòng muốn tư thông, bị phu tịch Việt Nam ghi chép từ rất sớm, trước nhân cự tuyệt. Sư xấu hổ gieo mình xuống hết phải kể đến Việt điện u linh của Lý Tế bể chết. Mẹ con phu nhân cùng khóc rằng: Xuyên. Theo Lời tựa Việt điện u linh tập thì “Chúng ta vì sư mà được sống, nay sư vì Lý Tế Xuyên biên soạn sách này vào năm chúng ta mà phải chết, sao nỡ yên tâm”. Khai Hựu thứ 1 (1329) đời Trần Anh Tông. Rồi ba mẹ con đâm đầu xuống bể mà chết Phần biên soạn của Lý Tế Xuyên chỉ gồm cả, xác trôi đến cửa Cờn Hải thuộc huyện 28 truyện, chia làm ba loại: Lịch đại quân nhân (vua các đời), Lịch đại phụ thần (bề (*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Sử học, Viện Hàn lâm tôi các đời) và Hạo khí anh linh (Sự tích Khoa học xã hội Việt Nam. ĐT: 0912070556. linh thiêng). Sang thế kỷ XV, Nguyễn Văn Email:ducnhuevsh@gmail.com. 120
  2. Nguyễn Đức Nhuệ Quỳnh Lưu, phủ Diễn Châu, vẻ mặt vẫn tới 20 nơi thờ, cả tỉnh Thanh Hóa có hơn 70 tươi như lúc còn sống. Thổ dân lấy làm lạ, nơi thờ Tứ vị Thánh nương. Nhà nghiên vớt lên táng, thấy rất hiển linh, mới lập đền cứu văn hóa dân gian Ninh Viết Giao cho thờ. Phàm những thuyền đi bể, gặp khi sóng biết, ở các địa phương ven biển Nghệ An gió nguy hiểm, kêu cầu đều được thoát nạn. có đến 30 làng thờ [3]. Theo nhà nghiên Sau các nơi cửa bể đều lập đền thờ, đền nào cứu Ngô Đăng Lợi thì ở Hải Phòng có 26 cũng có tiếng thiêng”. địa phương thờ phụng. Ở Nam Định, Thái Như vậy, từ cuối thế kỷ XIII, trong Thần Bình, Ninh Bình cũng có nhiều làng thờ Tứ điện Việt Nam, Tứ vị Thánh nương trở nên vị thánh nương. linh thiêng và được thờ phổ biến ở các địa Tứ vị thánh nương được nhiều địa phương ven biển từ Bắc vào Nam, đặc biệt phương trong cả nước phụng thờ. Nhiều là các địa phương Thanh Hóa, Nghệ An. làng xã còn giữ được Thần tích. Dưới đây Theo thống kê chưa đầy đủ trong Thanh là danh mục Thần tích về Đại Càn quốc gia Hóa chư thần lục thì riêng các địa phương Nam Hải Tứ vị Thánh nương hiện lưu tại ven biển huyện Hoằng Hóa (Thanh Hóa) có Viện Nghiên cứu Hán Nôm. TT Địa phương Tên Thần tích - Thần phả Chủ thần được thờ 1 Ấp An Lễ (tổng Ninh Mỹ, Quốc mẫu Tống hậu thần Đại Càn quốc gia Nam Hải Hải Hậu, Nam Định) tích tam tòa tứ vị hồng thánh nương đại vương 2 Xã Bình Hòa (tổng Thổ Tứ vị Thánh mẫu tôn Thượng đẳng quốc mẫu tứ vị Mật, Yên Mô, Ninh Bình) thần thánh nương 3 Xã Cống Thủy, Yên Khánh, Đại Nam phụng quốc sự Thái hậu và ba con gái Ninh Bình. đại càn tứ vị thánh mẫu sự tích 4 Xã Cơ Xá (huyện Hoàn Đại Càn quốc gia Nam Hoàng hậu Càn nương; Công Long) Hải tứ vị thánh nương chúa Hồng Liên; Hồng Hạnh ngọc phả và Thị nữ 5 Xã Hà Thanh (tổng Thổ Quốc mẫu vua bà thánh Đại Càn quốc gia Nam Hải tứ Mật, Yên Mô, Ninh Bình) tích vị thánh nương 6 Xã Hải Linh (tổng Lễ Đại Càn quốc gia Nam Đại Càn quốc gia Nam Hải tứ Thần, Đông Quan, Thái Hải tứ vị hồng nương vị hồng nương đoan trang trinh Bình) ngọc phả lục thục cẩn tiết thượng đẳng thần 7 Xã Lã Điền (tổng Bách Quốc mẫu Tống hậu thần Đại Càn quốc gia Nam Hải Tính, Mỹ Lộc, Nam Định) tích tam tòa tứ vị hồng thánh nương đại vương 8 Áng Lương Phúc (tổng - Càn Hải Triệu phu Quốc mẫu vương bà Hoàng Bồng Hải, Yên Khánh, nhân phả Việt quốc gia Nam Hải tứ vị Ninh Bình) - Đại Càn quốc gia Nam thượng đẳng thần Hải tứ vị thánh nương sự tích 121
  3. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016 9 Xã Mạc Hạ (tổng Công Nam Việt Tống triều quốc Tứ vị hồng nương phu nhân Xá, Nam Xương, Hà Nam) mẫu tứ vị hồng nương Càn Hải linh từ cổ lục 10 Xã Ninh Cường (tổng Tống triều Dương hậu tứ Tống triều Dương hậu tứ vị Ninh Cường, Trực Ninh, vị thánh nương ngọc phả thánh nương Nam Định) lục 11 Xã Ninh Mật (tổng Tự Ninh Mật trại thần tích Đại Càn quốc gia Nam Hải tứ Tân, Kim Sơn, Ninh Bình) vị thượng đẳng thần 12 Xã Phú Kê (tổng Phú Kê, Đại Càn quốc gia Nam Đại Càn quốc gia Nam Hải Tiên Lãng, Hải Phòng) Hải tứ vị thánh nương thần chiêu linh ứng tứ vị phả lục thánh nương thượng đẳng phúc thần 13 Xã Phương Nại (tổng Thổ Thánh tích nhất bản Tứ vị Thánh nương Mật, Yên Mô, Ninh Bình) 14 Xã Thổ Mật (tổng Thổ Thần tích quốc mẫu vua Thượng đẳng thần quốc mẫu Mật, Yên Mô, Ninh Bình) bà hoàng Triệu quốc gia tứ vị Thánh nương Nam Hải Đại Càn áng nhất nương, nhị nương, tam nương, tứ nương tứ vị thánh nương đại vương 15 Xã Trì Đồng (tổng Thanh Quốc mẫu Vua bà Hoàng Tống triều hoàng hậu và ba Quyết, Gia Viễn, Ninh Việt quốc gia Nam Hải con Bình) tứ vị thánh nương 16 Xã Trùng Quang (tổng Nam Hải Tống Thiên Đại Càn quốc gia Nam Hải Quế Hải, Hải Hậu, Nam hậu ngọc phả lục tam tòa tứ vị hồng nương Định) thánh mẫu đại vương Trong hàng trăm ngôi đền thờ Đại Càn (1312). Ngoài ra, Đền Cờn còn được ghi quốc gia Nam Hải tứ vị thánh nương trên chép trong các sách Địa lý học lịch sử, các phạm vi cả nước thì Đền Cờn là nơi thờ Tạp ký như: Lịch triều Hiến chương loại chính. Những sự tích xung quanh Đền Cờn chí (Phan Huy Chú); Hoàng Việt nhất thống và các vị chủ thần cũng được thư tịch cổ dư địa chí (Lê Quang Định); Nghệ An ký nước ta ghi chép khá nhiều. (Bùi Dương Lịch); Đại Nam nhất thống chí, Các bộ chính sử nước ta như Đại Việt sử Đồng Khánh địa dư chí (Quốc sử quán triều ký toàn thư; Đại Việt sử ký tiền biên (Ngô Nguyễn), Thượng kinh ký sự (Lê Hữu Trác); Thì Sĩ); Quốc sử toản yếu (Nguyễn Huy Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh) hay trong Oánh); Khâm định Việt sử thông giám các bài thơ chữ Hán của Lê Thánh Tông, cương mục (Quốc sử quán triều Nguyễn) của đại thi hào Nguyễn Du đều ghi chép về Đền Cờn liên quan đến sự 2. Đền Cờn trong một số bộ sử kiện vua Trần Anh Tông đem quân đi đánh - Đại Việt sử ký toàn thư do Ngô Sĩ Liên Chiêm Thành vào năm Hưng Long thứ 20 và sử thần triều Lê biên soạn, dâng lên vua 122
  4. Nguyễn Đức Nhuệ Lê Thánh Tông vào năm 1479. Trong Kỷ Khi tỉnh dậy, triệu các cố lão đến hỏi sự nhà Trần, phần viết về Trần Anh Tông có thực, cho tế lễ rồi sau mới xuất phát vì thế nhắc đến sự nghiệp chinh Chiêm của vua biển không nổi sóng, quân tiến thẳng đến Trần Anh Tông năm 1311 - 1312 và việc thành Đồ bàn, bắt được vua Chiêm đem ứng mộng ở Đền Cờn như sau: “Lập đền về Đến khi ấy sai quan lập đền thờ, bốn thờ thần ở cửa bể Cần Hải. Trước đây, vua mùa cúng tế” [9, tr.414]. thân đi đánh Chiêm Thành, đến cửa biển Những thông tin về Đền Cờn qua các bộ Cần Hải (nguyên trước là Càn Hải vì tránh sử kể trên tương đối thống nhất và đều cho tên húy đổi là Cần Hải), đóng quân ở đây, biết Đền Cờn được lập vào năm 1312, sau đêm chiêm bao thấy có thần nữ khóc và khi Trần Anh Tông chiến thắng Chiêm nói: “Thiếp là cung phi nhà Triệu Tống, bị Thành trở về, còn theo Càn Hải môn từ giặc bức bách, gặp sóng gió chết đuối trôi trong Việt điện u linh tập thì Đền Cờn được dạt đến đây, thượng đế phong cho làm thần lập trước đó mấy chục năm. Liên quan đến biển ở đây đã lâu, nay thấy bệ hạ đem quân thời điểm dựng Đền Cờn là nội dung tấm đi, thiếp xin giúp đỡ lập công”. Khi thức bia Đại Càn điện tạo lệ cổ tích bi được tạo dậy, vua cho gọi các cố lão ở đấy hỏi sự năm Cảnh Trị thứ 2 (1664). Đây là bia đình thực, ban tế một tuần rồi đi, thì biển không ở thôn Càn Miếu, xã Hương Cần, huyện nổi sóng, tiến thẳng đến thành Chà Bàn, bắt Quỳnh Lưu. Bia do các quan viên trong xã được vua Chiêm đem về. Đến nay sai hữu đứng tên khắc lại lệnh chỉ của các đời Trần ty lập đền, tuế thì cúng tế” [5, tr.101-102]. Anh Tông (1312); Lê Thánh Tông năm - Quốc sử toản yếu do Nguyễn Huy Oánh Hồng Đức thứ 2 (1471), niên hiệu Khánh biên soạn nửa sau thế kỷ XVIII chép về sự Đức 1 (1649), Thịnh Đức 3 (1655), Cảnh kiện trên như sau: “Cho lập đền thờ thần ở Trị 1 (1663) và Cảnh Trị 2 (1664). Các lệnh cửa biển Cần Hải. Trước kia vua trú quân ở chỉ này công nhận thôn Càn Miếu được làm Cần Hải, đêm mơ thấy nữ thần xưng là cung tạo lệ (phu quét dọn) đền thờ Đại Càn quốc phi nhà Triệu Tống, nguyện theo quân giúp gia Nam Hải tứ vị thánh nương, được miễn đỡ lập công. Khi vua tỉnh dậy, cho tế lễ rồi nộp các loại thuế, miễn cung ứng sai dịch, xuất quân, suốt dọc đường biển không gặp kể cả đóng góp công sức đắp đường, đắp sóng gió nữa. Rồi tiến quân đến thẳng Đồ đê, bắc cầu, đào sông. Mặt sau của bia có Bàn, đánh thắng trở về” [6, tr.159]. kê khai lại việc các đời trước, khắc thêm - Đại Việt sử ký tiền biên do Ngô Thì Sĩ lệnh chỉ năm Hưng Long (đời Trần Anh biên soạn, in năm Canh Thân, niên hiệu Tông) và năm Hồng Đức thứ 2 (1471) có Cảnh Thịnh thứ 8 (1800), đoạn viết về Đền cấp thêm cho đền 2 suất “thị nữ” (để hầu Cờn: “Lập đền thờ thần ở cửa biển Cần Hải. Thần) [11, tr.186 - 187]. Trước đây vua đi đánh giặc, đêm đóng 3. Đền Cờn trong các bộ địa lý học lịch sử doanh ở cửa Cần Hải (trước còn là Càn Hải, - Hoàng Việt nhất thống dư địa chí của sau vì kiêng húy đổi là Cần). Đêm mộng Lê Quang Định là tập sách do Lê Quang thấy thần nữ khóc và nói: “Thiếp là cung Định biên soạn xong năm Gia Long thứ 5 phi nhà Triệu Tống, bị giặc bức bách gặp (1806). Tập sách chủ yếu ghi chép về lộ nạn sóng gió trôi dạt đến đây. Thượng đế trình đường trạm từ Kinh sư (Huế) đi vào phong thiếp làm thần biển đã lâu, nay bệ hạ Nam và ra Bắc. Trên đường trạm qua trấn đem quân đi, thiếp xin giúp để lập công”. Nghệ An, Lê Quang Định có nhắc đến Đền 123
  5. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016 Cờn: “phía nam là dân cư thôn Càn Miếu, ngày đi/Một dòng lai láng trời cao thế/Dãy phía bắc là đất hoang, phía đông có ngôi núi nguy nga đá đỡ nguy/Sóng gió vua Trần miếu do dân thôn này thờ Đại Càn quốc gia lâu tỉnh mộng/Lửa hương Thánh nữ mãi Nam Hải tứ vị thánh nương vương linh thần. còn ghi/Nước non yên ấm mừng hội lớn/Há Nguyên là triều Tống có bà Độ Tông hoàng lẽ cùng ta phụ lòng chi). hậu sinh ra hai cô con gái, khi nhà Tống mất - Lịch triều hiến chương loại chí do Phan bị vị nguyên soái trục xuất, hậu cùng hai cô Huy Chú biên soạn (xong năm 1821). con gái đi thuyền ra biển, không may bị bão Trong sách này, phần Dư địa chí, mục Cổ trôi dạt vào Nhãn Sơn ở biển Nam, trên núi tích phủ Diễn Châu viết về Đền Càn Hải: này có nhà sư mời bà lên nhưng bà từ chối “Ở cửa Cần Hải, huyện Quỳnh Lưu. Tương không ở lại rồi bà cầm tay hai con cùng nhảy truyền ngày xưa có ba mẹ con công chúa xuống biển, nhà sư tự thấy hổ thẹn cũng nhà Nam Tống chết đuối ở biển trôi dạt đến nhảy theo. Hồn phách của bà biến thành thần đây, hình dáng còn nguyên như lúc sống, biển, hóa làm cây gỗ trầm hương trôi vào nhân dân ở đấy lấy làm lạ, đưa đi chôn cất Cửa Cờn và hiển hiện linh ứng, dân địa cẩn thận. Về sau, khi Trần Thánh Tông phương nghinh cây trầm hương vào lập miếu (một số nhà nghiên cứu cho rằng, Phan Huy thờ phụng. Khi vua Trần Anh Tông đem Chú ghi sai, đúng ra là Trần Anh Tông, chứ quân đi đánh Chiêm Thành, mộng thấy âm không phải là Trần Thánh Tông) đi đánh binh phò trợ, lúc chiến thắng trở về ngang giặc ở phía nam, đóng quân ở cửa biển, qua miếu bỗng dưng sóng gió nổi lên, đêm nằm thấy có người con gái báo mộng thuyền quân không thể nào đi được, vua nhớ rằng: “Thiếp là con gái họ Triệu, vì sóng lại chiêm bao trước bèn sai quan đến miếu gió nên bị chết đuối. Thượng đế cho làm làm lễ cáo, lúc ấy sóng gió mới lặng yên, thần ở biển này đã lâu. Nay thấy nhà vua đi vua gia phong và cho sửa sang miếu vũ bằng đánh phía nam, thiếp xin giúp”. Hôm sau ngói. Trong khi Lê Thái Tổ bình Ngô mở nhà vua cho hỏi những người già lão ở đấy, nước, thần miếu này cũng giúp rập có công được biết rõ chuyện. Đến khi vua đi, biển nên cũng được ban hoàng kim ngọc tổ. im không có sóng. Vua mới sai lập đền để Trong lần Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm thờ. Từ đấy về sau, vẫn linh thiêng lắm, Thành, nhà vua có mật nguyện ở miếu này miếu hiệu là Thánh Nương, thờ làm thượng và chiến thắng, trên đường khải hoàn, nhà đẳng thần. Việc chép rõ ở sách [Việt điện] u vua tặng bài thơ như sau: linh. Chỉ Am Phan [Huy Ôn] có vịnh thơ: Mạc nô lặc thạch phiến châu quy Hương hỏa thiên thu âm tục Tống Cần Hải sơn đầu tưởng đáo thì Phong ba nhất mộng mặc phù Trần” Nhất thủy bạch toàn thiên tiệm hiểm [1, tr.81]. Quần phong thúy chủy thạch bình nguy (Nghĩa của hai câu thơ là: Có đền thờ Phong đào cữu tỉnh Trần Tông mộng hương khói nghìn thu là ngầm giúp cho Hương hỏa do lưu Thánh nữ tì (từ) dòng dõi vua Tống được dài lâu/Hiện vào Bình hải loan man kim thịnh hội giấc mộng ngầm giúp cho vua nhà Trần đi Tương dư khởi thị hạc thần quy” [2, biển được yên sóng gió). tr.399 - 400]. - Nghệ An ký [4, tr.205] do Bùi Dương (Dịch nghĩa bài thơ: Bên trướng khắc Lịch biên soạn khoảng đầu thế kỷ XIX thơ thuở quân về/Đầu non Cần Hải nhớ không viết cụ thể về Đền Cờn. Tuy nhiên 124
  6. Nguyễn Đức Nhuệ khi viết về cửa Cần Hải có chép đến bài thơ này vẫn luôn linh ứng, hàng năm cứ đến vua Lê Thánh Tông vịnh Cửa Cờn như tháng Chạp có hội đua thuyền, thiên hạ đến trong công trình của Lê Quang Định. xem rất đông. Triều ta [tức triều Nguyễn] - Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử đã gia phong. Nay khắp trong nước nhiều quán triều Nguyễn trong mục Đền miếu nơi có đền thờ” [8, tr.929]. tỉnh Thanh Hóa và tỉnh Nghệ An có đề cập 4. Đền Cờn trong thơ văn, tạp ký đến Đền Cờn: - Lê Thánh Tông trong Chinh Tây kỷ “Tỉnh Thanh Hóa: Đền bốn vị Thánh hành và Minh lương cẩm tú có 2 bài viết về Nương ở xã Y Bích, huyện Hậu Lộc thờ bà Đền Cờn. Dương Thái hậu nhà Tống và ba vị công Bài 1: Dạ nhập Xước cảng thi (Thập chúa. Các vị này có hơn 70 ngôi đền khắp nhất nhật nguyệt thị bát nhật) miền duyên hải thuộc tỉnh Xước cảng đồng long báo nhị canh Tỉnh Nghệ An: Đền Cần Hải ở xã Hương Lệnh truyền lục tốt phát trùng doanh Cần, huyện Quỳnh Lưu. Năm Tường Hưng Đồi Ôi sơn thượng tình lam át đời Tống, quân Tống tan vỡ ở Nhai Sơn, bà Thánh nữ từ tiền tịch thủy sinh Dương Thái hậu cùng ba công chúa đều Giáp sĩ minh đăng lâm lộc khứ nhảy xuống bể. Trời chợt nổi gió bão, xác Lâu thuyền quá cổ dạ trung hành trôi dạt vào Cửa Cờn, nhan sắc vẫn như lúc Quân vương giá ngự tư quần sách còn sống. Người ở đấy liền lập đền thờ. Sử Tế tế tài năng dĩ vựng chinh. chép: Năm Hưng Long thứ 20 (1312), vua (Dịch nghĩa: Ngày 28 tháng 11 Trần Anh Tông thân chinh Chiêm Thành. Đến Xước cảng lúc đồng hồ vừa báo Khi thuyền đến Cửa Cờn, đêm ấy Thần báo canh hai Lệnh truyền sáu quân nhỏ trại lên đường mộng rằng: “Thiếp là phi tử nhà Triệu Trên núi Đồi Ôi khí núi che phủ Tống, bị giặc đuổi gấp, phải khốn đốn, vì Trước đền Thánh Nữ nước triều đang sóng gió, trôi dạt tới đây, được Thượng đế dâng sắc phong làm Thần ở cửa bể này đã lâu. Quân sĩ đốt đuốc tiến tới ven rừng Nay xin giúp vua để diệt giặc”. Sau khi tỉnh Nhà vua thân đi đánh dẹp, có biết bao dậy, vua sai sửa lễ kính tế. Khi cất quân ra người giúp đỡ kế sách đi, sóng gió yên lặng, quân vào thẳng thành Nhân tài nườm nượp xúm xít giúp cho Đồ Bàn, thắng lớn. Đến khi khải hoàn, vua việc quân) [14, tr.155 - 156]. gia phong Thần là Quốc gia Nam Hải Đại Bài 2: Càn Hải môn lữ thứ Cờn Thánh nương, mở rộng đền miếu. Năm Triều triều phiếm phiếm thái chu di Hồng Đức thứ nhất đời Lê (1470), vua Cần Hải xuyên đầu tưởng đáo thì Thánh Tông thân chinh Chiêm Thành. Khi Nhất thủy bạch toản thiên tạm hiểm thuyền qua cửa Cờn, có đến đền mật đảo thì Quần sơn thúy tụ thạch bình nguy sóng êm gió lặng. Quân ta tiến thẳng vào Phong đào cửu tỉnh Anh Tông mộng đất Chiêm, thắng được quân Chiêm. Khi Hương hỏa do khâm Thánh Nữ từ kéo quân về, thuyền vua đã qua cửa Biện, Tại Tại cù đồng ca đế đức tự nhiên gió dông nổi lên, quay buồm cho Hà hoang vô xứ bất ung hi. thuyền trở lại dưới đền. Vua bèn gia phong, (Dịch nghĩa: Nghỉ lại ở cửa biển Càn cho dựng thêm đền miếu và đặt tên chỗ Chiếc thuyền hoa lênh đênh lướt trên quay thuyền là thôn Đông Hòi. Về sau đền đầu ngọn thủy triều 125
  7. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016 Nghĩ đến cảnh tượng đầu sông Càn Hải ven biển, rồi từ ngoài lễ vọng vào. Quan Dòng nước dồn về trắng xóa, tựa hào Văn thư hỏi: Nghe nói đền này thờ một vị trời thật hiểm yếu thần thiêng nhất ở trấn Nghệ An. Tôi vì ở Dãy núi tụ màu xanh biếc, như bình xa tới nên chưa rõ sự tích cho lắm” (Tôi ở phong đá rêu ngất cao đây là Lê Hữu Trác). Sóng gió làm ta tỉnh giấc mộng về vua “Năm xưa tôi từng đi qua nơi đây, có hỏi Anh Tông chuyện các cụ già. Các cụ có kể lại cho biết, Khói hương chứng tỏ mọi người còn dẫu câu chuyện truyền miệng có sai lạc đi, kính thờ ngôi đền Thánh Nữ nhưng so với sử sách vẫn đúng. Sử Tống có Đó đây vẫn vẳng tiếng trẻ hát ca ngợi chép rằng sau khi đánh nhau với quân Kim công đức của vua bị thua, Trương Thế Kiệt cõng vua Đế Bính Nơi xa xôi hoang vu chỗ nào cũng thái chạy trốn ra biển, rồi bị sóng to gió lớn bình yên ổn) [14, tr.229 - 230]. thuyền đắm nên chết đuối cả. Hoàng hậu và - Đại thi hào Nguyễn Du có bài thơ sau hai cô Công chúa bám lấy ván thuyền và về Đền Cờn: trôi dạt vào bờ. Có người trong làng trông Dao vọng Càn Hải từ thấy bèn liều mình cứu được. Sau người Mang mang hải thủy tiếp thiên xu cứu vớt này sinh lòng mờ ám, Hoàng hậu Ẩn ức cô từ xuất tiểu chu nghiêm sắc mặt cự tuyệt. Người kia xấu hổ Cổ mọc hàn liên phù chử mộ quá nhảy xuống biển chết, Hoàng hậu than Tình yên thanh dẫn hải môn thu rằng: “Ta nhờ người ấy mà được sống, bây Hào thiên tướng tướng đan tâm tận giờ người ấy lại vì ta mà chết. Vậy có lẽ Phủ địa Quỳnh Nhai khối nhục vô nào ta sống một mình ư?”. Bèn cũng nhảy Tiểu nhĩ Minh Phi trường xuất tái xuống biển mà chết. Hai cô gái thương Tì bà bôi tửu khuyết Thiền Vu. (Phạm Khắc Khoan và Lê Thước dịch khóc thảm thiết, rồi cũng nhảy theo cả bài thơ này như sau: xuống biển. Về sau rất hiển linh. Người dân Xa trông Đền Cờn ở ven biển dựng đền thờ làm thần, đến nay Mặt nước mênh mông bể lẫn trời hương khói không dứt. Ngôi đền thấp thoáng bãi ngoài khơi Quan văn thư nghe chuyện than thở mãi Bến phù chiều tới cây man mác không thôi. Tôi bèn đọc một đôi câu đối: Cửa bể thu dồn khói tả tơi Đại Tống cơ đồ thiên cổ hận Khanh tướng uổng bao lòng tiết nghĩa Nam thiên vũ trụ tứ thời xuân”. Quỳnh Nhai vùi khối thịt mồ côi (Dịch nghĩa: Nực cười cho ả Minh Phi nhé Đất Tống cơ đồ nghìn thuở hận Rượu chuốc đàn ngân nịnh chúa Hời) Trời Nam vũ trụ bốn mùa xuân) [13, [dẫn theo: 10, tr.323 - 324 - 230]. tr.667 - 668]. - Thượng kinh ký sự của Hải thượng Lãn - Lan Trì kiến văn lục do Vũ Trinh biên Ông Lê Hữu Trác, biên soạn xong năm soạn khoảng cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ Cảnh Hưng 44 (1783). Trên đường ra Thăng XIX. Trong sách có bài Thần Cửa Cờn, nội Long, Lê Hữu Trác có ghé qua Đền Cờn. dung như sau: Ông viết: “Đền Cửa Cờn ở Nghệ An thờ bốn vị “Ngày hai mươi ba, đi từ sáng sớm tới Thánh nương. Tương truyền, trong trận cầu Kim Lan. Mọi người xuống ngôi đền Nhai Sơn vào năm Tường Hưng, quân Tống 126
  8. Nguyễn Đức Nhuệ thua to, Dương Thái hậu và ba công chúa (Dịch nghĩa: nhảy xuống biển tự tử, gió đưa dạt vào Cửa Da tóc của non song, không đội trời Cờn. Lênh đênh trên biển mấy ngàn dặm, chung với Mông Cổ sắc mặt vẫn như còn sống. Sóng to gió lớn Cương thường như nhật nguyệt soi cùng là vậy, mà thân hình vẫn nguyên vẹn. Sư kim cổ mãi trời Nam) [7, tr.387]. chùa nhìn thấy quần áo nhọ mặc, lấy làm lạ, vớt lên đem chôn cất tử tế. Sau này dấu Tài liệu tham khảo thiêng hiển ứng, người địa phương làm đền [1] Phan Huy Chú (2007), Lịch triều hiến thờ, được liệt vào Tự điển, là đệ nhất linh chương loại chí, t.1, Nxb Giáo Dục, Hà Nội. thần của nước ta. [2] Lê Quang Định (2005), Hoàng Việt nhất Mấy chục năm trước, người trong thôn thống dư địa chí, Nxb Thuận Hóa - Trung làm hai pho ngựa đá đặt thờ trong đền. Đêm tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội. nọ Lý trưởng nằm mơ thấy Thánh nương [3] Ninh Viết Giao (2000), Tục thờ Thần và đến trước mặt dụ rằng: Thần tích Nghệ An, Vinh. - Dân ấp này làm ngựa đá, thợ chạm rất [4] Bùi Dương Lịch (1998), Nghệ An ký, Nxb vụng về. Nay thần biển xây dựng cung điện, Khoa học xã hội, Hà Nội. thợ đá ở đó rất khéo, ta sẽ tới đó nhờ chúng [5] Ngô Sĩ Liên và sử thần triều Lê (1967), chạm khắc ngựa đá khác. Đại Việt sử ký toàn thư, t.2, Nxb Khoa học Sớm hôm sau, Lý trưởng kể lại giấc mơ, xã hội, Hà Nội. thì một người trong thôn cũng mơ thấy vậy. [6] Nguyễn Huy Oánh (2003), Quốc sử toản yếu, Nxb Thuận Hóa - Trung tâm văn hóa Mấy hôm sau, nước sông đột ngột dâng ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội. lên đến tận đền, hai con ngựa đá bỗng mất [7] Quốc sử quán triều Nguyễn (2005), Đại tăm. Đến khoảng mươi hôm sau, lại thấy Nam liệt truyện t.2, Nxb Thuận Hóa, Huế. ngựa đá ở nguyên chỗ cũ, không sai một ly. [8] Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Đại Nhìn kỹ thì lông, bờm, đuôi, móng đều Nam nhất thống chí, t.1, Nxb Lao động - chạm khắc cực kỳ tinh xảo. Người xem đều Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây cho là thợ quỷ làm” [13, tr.833]. Hà Nội. - Học sĩ Nguyễn Viên qua thăm Đền [9] Ngô Thì Sĩ (1997), Đại Việt sử ký tiền Cờn (cuối thế kỷ XVIII). Nguyễn Viên là biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. người làng Bột Thượng (nay là xã Hoằng [10] Văn hóa dân gian làng ven biển (2000), Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa), là Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. cháu nội Hương cống Nguyễn Quỳnh (khởi [11] Viện nghiên cứu Hán Nôm (1993), Văn hình của nhân vật dân gian Trạng Quỳnh), khắc Hán Nôm Việt Nam, Nxb Khoa học đỗ Hương cống năm 1779, sau làm quan xã hội, Hà Nội. dưới triều Gia Long nhà Nguyễn với chức [12] Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1996), Bảng Cần chính điện Học sĩ kiêm Thái thường tra Thần tích theo địa danh làng xã, Nxb Tự khanh, mất năm 1804. Ông có lưu lại Khoa học xã hội, Hà Nội. Đền đôi câu đối: [13] Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1997), Tổng Xã tắc phát phum, bất ư Mông Cổ đồng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, t.1, Nxb thiên địa Thế giới, Hà Nội. Cương thường nhật nguyệt trường đối ly [14] Viện Nghiên cứu Hán Nôm (2003), Thơ chữ thiên chiếu cổ kim. Hán Lê Thánh Tông. Nxb Văn học, Hà Nội. 127
  9. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016 128