Giáo trình Di cư trong nước
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Di cư trong nước", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_di_cu_trong_nuoc.pdf
Nội dung text: Giáo trình Di cư trong nước
- Di cu trong nuoc C ơ h ộ i v à t h á c h t h ứ c đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam Tháng 7 năm 2010
- Báo cáo này do Veronique Marx và Katherine Fleischer, thay mặt Nhóm điều phối Chương trình về chính sách kinh tế và xã hội của Các Tổ chức Liên hiệp quốc tại Việt Nam biên soạn. Chân thành cảm ơn những ý kiến đóng góp và xây dựng của các tổ chức Liên hiệp quốc như Tổ chức Di cư Quốc tế, Chương trình phối hợp của Liên hiệp quốc về HIV/AIDS, Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc, Quỹ dân số Liên hiệp quốc, Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc, Quỹ phát triển Phụ nữ Liên hiệp quốc, và Tổ chức Y tế Thế giới. Xin chân thành cảm ơn Phòng Truyền thông Liên hiệp quốc đã hiệu đính bản tiếng Anh và văn phòng Quỹ dân số Liên hiệp quốc đã hiệu đính bản tiếng Việt. Ảnh: Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc, Trung Kiên (Trong cuốn Kêu gọi Hành động) và Công ty TNHH in ấn thiết kế T.E.A.M.
- MỤC LỤC DANH MỤC VIẾT TẮT 4 TÓM TẮT 6 GIỚI THIỆU CHUNG 10 1.1. Phạm vi phân tích 12 1.2. Phương pháp luận và các điểm hạn chế 13 PHẦN 1 – BỐI CẢNH DI CƯ TRONG NƯỚC VÌ LÝ DO KINH TẾ Ở VIỆT NAM 15 1.1 Các quyền quy định trong Hiến pháp và các Cam kết Quốc tế 15 1.2 Cơ cấu hành chính, khung pháp lý và chính sách 16 1.3 Hệ thống đăng ký hộ khẩu 17 PHẨN 2 – TỔNG QUAN VỀ DI CƯ TRONG NƯỚC Ở VIỆT NAM 20 2.1 Lịch sử di cư trong nước ở Việt Nam 20 2.2 Số lượng và các đặc điểm nhân khẩu học của các dòng di cư hiện tại 23 2.3 Động cơ di cư 24 2.4 Di cư tự do và di cư có tổ chức 24 2.5 Thời gian di cư 25 2.6 Di cư nông thôn – thành thị 25 2.7 Di cư giữa các vùng và các tỉnh 26 PHẨN 3 – DI CƯ VÀ PHÁT TRIỂN 28 3.1 Người di cư 28 3.2 Nơi đến 38 3.3 Nơi đi 41 PHẨN 4 – KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 47 TÀI LIỆU THAM KHẢO 51
- DANH MỤC VIẾT TẮT AusAID Chương trình hỗ trợ Nước ngoài của chính phủ Úc ADB Ngân hàng phát triển Châu Á BCC Truyền thông chuyển đổi hành vi EPZ Khu chế xuất GBV Bạo lực trên cơ sở giới GDP Tổng sản phẩm quốc nội GSO Tổng cục Thống kê Việt Nam HCMC TP Hồ Chí Minh HEPR Chương trình xóa đói giảm nghèo HIV Virut miễn nhiễm thể ở người IEC Thông tin giáo dục truyền thông ILO Tổ chức Lao động Quốc tế ILSSA Viện Khoa học Lao động và các Vấn đề Xã hội IOM Tổ chức Di cư Quốc tế MARD Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn MCST Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam MDG Mục tiêu thiên niên kỷ MOH Bộ Y tế MOLISA Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Việt Nam MPS Bộ Công an Việt Nam NEZ Vùng kinh tế mới PCS Điều tra biến động dân số SEDP Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội SEDS Chiến lược phát triển kinh tế xã hội SRH Sức khỏe sinh sản và tình dục STI Bệnh lây truyền qua đường tình dục UN Liên Hợp Quốc 4 Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
- UNAIDS Chương trình phối hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS UNDP Chương trình phát triển Liên hợp quốc UNFPA Quỹ Dân số Liên hợp quốc UNICEF Quỹ Nhi Đồng Liên hợp quốc UNIFEM Quỹ phát triển Phụ nữ Liên hợp quốc VAPPD Hiệp hội Phát triển Dân số của Quốc hội Việt Nam VDG Mục tiêu phát triển của Việt Nam VHLSS Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam VLSS Điều tra mức sống dân cư Việt Nam VMS Điều tra di cư Việt Nam Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam 5
- TÓM TẮT Giống như nhiều quốc gia khác khi trải qua thể không thuận lợi cho cho người di cư trong quá trình phát triển kinh tế xã hội nhanh nước và chưa đảm bảo được các quyền của chóng, trong vòng 20 năm trở lại đây Việt họ chính là vấn đề hộ khẩu hay cụ thể là hệ Nam đã chứng kiến sự tăng theo cấp số nhân thống đăng ký hộ khẩu được phân loại theo của dòng người di cư trong nước và quốc tế. các dạng cư trú khác nhau của người dân tạo Càng ngày người ta càng nhận thấy rằng quá ra những yêu cầu khác nhau khi họ tiếp cận trình phát triển và di cư luôn đi đôi với nhau. Di tới các dịch vụ xã hội. cư vừa là động lực thúc đẩy lại vừa là kết quả của sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc Tổng quan về di cư trong nước vì lý gia. Ở Việt nam quá trình phát triển kinh tế xã do kinh tế ở Việt Nam hội từ thời kỳ Đổi Mới vào năm 1986 chính là Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm chất xúc tác cho dòng di cư trong nước gia 2009 cho thấy trong giai đoạn 2004-2009 tăng, người dân được tự do di chuyển khỏi có 6,6 triệu người di cư giữa trong và ngoài nơi ở của mình, và sự khác biệt về điều kiện tỉnh của Việt Nam. Con số này thể hiện sự sống giữa các vùng ngày càng gia tăng cũng gia tăng đáng kể so với 4,5 triệu người di cư là động lực khiến người dân di cư. Di cư trong trong nước ghi nhận từ cuộc tổng điều tra dân nước đã góp phần vào sự phát triển kinh tế số năm 1999. Các số liệu thống kê cũng cho xã hội thông qua việc di chuyển của người lao thấy đa số người di cư là thanh niên, trong đó động nhằm đáp ứng nhu cầu lao động trong nữ di cư gia tăng đáng kể. Đồng thời số liệu các khu công nghiệp và trong các khu vực điều tra cũng cho thấy phần lớn người di cư có vốn đầu tư nước ngoài đồng thời thông không di chuyển cùng gia đình, lý do có thể qua đó đã đóng góp vào phát triển kinh tế gia là họ chưa lập gia đình hoặc gia đình họ vẫn đình của số lượng lớn các gia đình có người đang cư trú tại địa bàn nơi họ ra đi. Hầu hết di cư. người di cư là vì lý do kinh tế bao gồm những Để có thể hiểu tường tận về vai trò của di cư người tìm việc làm, những người muốn tăng trong nước đối với sự phát triển kinh tế xã thêm thu nhập và nâng cao điều kiện sống và hội của Việt Nam, trước hết cần lưu tâm tới những người di cư theo gia đình có mục đích các khung pháp lý, thể chế chính sách và quy nêu trên. định hành chính trong vấn đề di cư trong nước Phần lớn những người di cư trong nước vì lý của Việt Nam. Trước hết, phải nói đến Hiến do kinh tế không nằm trong chương trình di cư pháp Việt Nam có quy định một số quyền cho của Chính phủ vì thế họ được gọi là “người người dân di cư (và cho tất cả mọi công dân di cư tự do”. Trong khi các chương trình di cư Việt Nam) và rất nhiều các văn bản quốc tế của Chính phủ - hầu hết là các chương trình về nhân quyền mà Việt Nam đã cam kết. Điều định cư đã giảm đáng kể từ những năm 1990, đáng tiếc là các chính sách của Chính phủ gần đây đã có một số chương trình tái định chưa chú trọng một cách đầy đủ tới việc đảm cư vì các lý do môi trường ví dụ như do thiên bảo các quyền của người di cư trong nước ở tai và thay đổi khí hậu. Việt Nam. Điều này phần nào được phản ánh trong các văn bản luật pháp và chính sách Di cư trong nước ở Việt Nam bao gồm di cư của Chính phủ và các Bộ ngành. Cho đến nay lâu dài, di cư ngắn hạn (di cư tạm thời) hay chưa có bộ ngành nào được giao trách nhiệm di cư mùa vụ. Đáng tiếc là hầu hết các số liệu cụ thể trong việc bảo vệ nhóm công dân này, cấp quốc gia và các dữ liệu có quy mô lớn chính vì thế những mối quan tâm của người di về di cư trong nước ở Việt Nam chưa thống cư thường chưa được thể hiện đầy đủ trong kê được đầy đủ về hai xu thế di cư ngắn hạn các chính sách quốc gia. Một chính sách cụ và di cư mùa vụ này. Nguyên nhân có thể là 6 Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
- do phương pháp chọn mẫu và khái niệm về 1) Người di cư phạm vi di cư sử dụng trong các cuộc điều tra không đề cập đến các trường hợp di cư Ở Việt Nam, rất nhiều người di cư trong nước ngắn hạn và di cư vụ mùa. Tuy nhiên một với mục đích tìm việc làm tại nơi di cư đến đã số nghiên cứu quy mô nhỏ đã cho thấy rằng tìm được công việc được trả công xứng đáng nhóm người di chuyển chưa được thống kê với môi trường làm việc an toàn và họ cho này là khá lớn và chiếm đa số trong số người biết rằng họ hài lòng với cuộc sống sau khi đi tìm việc làm phi nông nghiệp trong thời di cư. Các bằng chứng cho thấy người dân gian nông nhàn cũng như trong số những di cư thường bắt đầu tìm việc làm tại nơi đến người di cư tới các khu xây dựng và các khu ngay sau khi tới nơi hoặc họ đã xin việc trước vực thành thị để tìm việc làm. khi di cư đến. Họ thường làm việc chăm chỉ và giữ được công ăn việc làm ổn định hơn Các dòng di cư chủ yếu hướng tới các khu so với người không di cư. Tuy nhiên, những vực thành thị và các khu công nghiệp nơi có người di cư thường thấy mình yếu thế hơn nhiều cơ hội việc làm. Chính điều này dẫn so với người dân sở tại, đặc biệt là trong thị tới sự tăng dân số ở khu vực thành thị với trường lao động. Những người này thường tỷ lệ tăng dân số hàng năm lên tới 3,4% so tập trung ở một số ngành nghề nhất định và với mức tăng dân số ở khu vực nông thôn thường ít được đảm bảo công việc hơn hoặc là 0,4%. Với sự tương quan chặt chẽ giữa phải làm các công việc với mức lương thấp di cư và phát triển kinh tế, động thái di cư và thường không được hưởng trợ cấp xã hội, trong nước cũng đang thay đổi để thích ứng bảo hiểm y tế hoặc bảo hiểm thất nghiệp nếu với các vấn đề hiện tại như khủng hoảng tài họ không được ký hợp đồng lao động. chính toàn cầu, thay đổi khí hậu và cơ cấu nhân khẩu học và chắc chắn những thay đổi So với người không di cư, người di cư gặp này vẫn sẽ còn tiếp diễn trong tương lai. nhiều khó khăn khi tiếp cận với các dịch vụ xã hội bởi do thực trạng đăng ký hộ khẩu của Di cư và phát triển họ (họ là những người đăng ký tạm trú hoặc không đăng ký tạm trú). Người di cư phải chi Trước hết, cần lưu ý rằng do chưa có đầy đủ trả trực tiếp cho các dịch vụ này bằng tiền mặt nguồn số liệu đã làm hạn chế nghiêm trọng tới mà không được hoàn trả (ví dụ do người di các phân tích về di cư trong nước dưới đây. cư không có bảo hiểm y tế). Thực tế là người Đáng tiếc là đối tượng người di cư có đăng ký dân di cư phải sử dụng các dịch vụ xã hội tư tạm trú và người di cư không đăng ký hộ khẩu nhân đắt đỏ hơn nhiều ví dụ như chăm sóc y chưa được thống kê đầy đủ trong các cuộc tế, chính điều này làm trầm trọng thêm sự bất điều tra của Chính phủ về hộ gia đình ví dụ bình đẳng hiện tại và tăng tình trạng nghèo như trong Điều tra Mức sống Hộ gia đình ở đói đô thị. Tình trạng này đặc biệt sâu sắc Việt Nam, loại hình người di cư trong nước vì với một số nhóm dân di cư đặc biệt yếu thế, lý do kinh tế này thường là những đối tượng chẳng hạn như trẻ em di cư, người di cư là chưa được đề cập tới và thường là những nữ hoặc các gia đình di cư có trẻ em đi cùng người yếu thế và chưa được quan tâm tới vì họ ít hoặc không tiếp cận với các tổ chức trong quá trình lập kế hoạch của Chính phủ. hỗ trợ chính thức và họ thường không được tiếp xúc tới các mạng lưới xã hội cần thiết. Vì Với phương thức tiếp cận dựa trên vấn đề người dân di cư thường cố gắng giành dụm giới và quyền, nghiên cứu này sử dụng ba tiền để gửi về nhà nên họ thường giảm các lăng kính nhằm xem xét tác động của phát chi phí cho các nhu cầu thiết yếu của mình, triển lên vấn đề di cư, cụ thể là (1) lên bản chẳng hạn họ tự kê thuốc cho mình thay vì thân người di cư, (2) lên nơi đến và (3) nơi đi đến khám bác sỹ và họ thường sống trong của người di cư. những căn nhà chất lượng kém và mất vệ sinh. Sự kết hợp của các yếu tố này cộng thêm việc ít tiếp cận tới các thông tin Chính Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam 7
- phủ cung cấp, không tiếp cận với các tổ chức 3) Các địa bàn có người di cư đi quần chúng và các hỗ trợ của Chính phủ đã làm tăng sự yếu thế của người dân di cư và Xét theo một vài khía cạnh nào đó các cộng điều này đòi hỏi cần có giải pháp và sự quan đồng có người di cư đi - cũng thường là nơi tâm nhiều hơn. họ sẽ trở về, là nơi được hưởng thêm lợi ích nhờ di cư. Trên thực tế người dân di cư chỉ 2) Địa phương có dân di cư đến chiếm 7,7% tổng dân số nhưng những người di cư trong nước vì mục đích kinh tế ở Việt Nơi đến phổ biến nhất của người di cư tự Nam thường di chuyển với mục đích giúp đỡ do thường là các khu vực thành thị hoặc khu gia đình - thường là gia đình có nhiều người công nghiệp và điều này ảnh hưởng tới quá và nhiều thế hệ cùng chung sống. Theo số trình đô thị hóa và hiện nay dân số sinh sống liệu của Điều tra mức sống hộ dân cư năm ở các khu vực thành thị chiếm tới gần 30% 2004, 88,7% các hộ gia đình có người di cư tổng số dân của cả nước. Điều này gây áp lực có nhận được tiền gửi dưới hình thức này lên hệ thống dịch vụ và cơ sở hạ tầng hiện hoặc hình thức khác. Điều này cho thấy tác tại của các khu vực đô thị như nhà ở, giáo động to lớn của di cư trên toàn quốc. Hầu dục, y tế, nước sạch và vệ sinh, giao thông hết số tiền gửi này được chi dùng cho giáo với những hậu quả về kinh tế, xã hội và y tế. dục và các chi phí chăm sóc sức khỏe cho Trong cuộc điều tra Di cư tại Việt Nam tiến các gia đình nghèo, nhờ đó giảm đi sự khác hành năm 2004, những người di cư cho biết biệt giữa các khu vực thành thị và nông thôn. vấn đề nhà ở là điều họ không hài lòng nhất. Tuy nhiên tác động của di cư tới cộng đồng Nhiều người trong số họ phải sống trong các nơi đi là rất đa dạng, phức tạp, bao gồm cả khu nhà tạm, các nhà trọ tồi tàn và phải trả tác động về tâm lý và xã hội mà gia đình phải tiền thuê hàng ngày hoặc họ phải sống ngay trải qua, khi thiếu đi một thành viên trong gia cạnh nơi làm việc, nhất là khi họ làm trong đình, cha mẹ hoặc vợ chồng. Di cư tác động lĩnh vực xây dựng. Đặc biệt phụ nữ khi di cư tới cơ cấu phân công trách nhiệm trong gia cho biết môi trường nhà ở là vấn đề khó khăn đình, kể cả phân công giới và phân công giữa họ gặp phải và họ thường yếu thế hơn trong các thế hệ. Tác động của di cư đối với trẻ em tiếp cận chăm sóc sức khỏe và đảm bảo sự trong hộ gia đình có người di cư ở nơi đi là an toàn cho bản thân. Thực trạng ở các khu lĩnh vực khác cần được quan tâm, hiện chưa công nghiệp cũng rất đáng báo động với điều có nhiều thông tin về vấn đề này trong bối kiện sống được miêu tả là chật hẹp, không an cảnh di cư trong nước ở Việt Nam. Một tác toàn và mất vệ sinh. động khác lên cộng đồng nơi đi khi người di cư trở về địa phương là kết quả tích cực hoặc Gần đây Chính phủ Việt Nam đã có những nỗ tiêu cực của việc chuyển giao kiến thức và lực đáng kể nhằm cải thiện tình hình nhà ở. hành vi của người di cư khi trở về. Liên quan Đáng tiếc là những nỗ lực này vẫn chưa tác tới vấn đề này, các kết quả nghiên cứu khẳng động được tới các nhóm túng thiếu và yếu thế định rằng nhóm người di cư trở về cùng với nhất vì những người nào không đăng ký hộ HIV đã lây truyền sang cho vợ/chồng ở quê khẩu thì sẽ không đủ điều kiện xin nhà xã hội. nhà là vấn đề rất đáng lo ngại. Với quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa diễn ra nhanh chóng ở Việt Nam trong vòng Kết luận và Khuyến nghị hai thập kỷ qua và với các dấu hiệu cho thấy các xu thế này sẽ còn tiếp diễn trong tương Di cư là một yếu tố đóng góp quan trọng và lai thì vấn đề cấp bách là phải cân nhắc tới không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế tất cả mọi đối tượng dân cư cho dù họ có hộ xã hội của Việt Nam. Di cư chính là cơ hội khẩu hay không khi xây dựng kế hoạch và thúc đẩy sự phát triển đồng đều và rộng khắp phân bổ ngân sách đô thị nhằm đảm bảo có và giảm sự khác biệt vốn có giữa các vùng, đủ nhà ở và cơ sở hạ tầng. thông qua việc đáp ứng được phần lớn nhu cầu lao động cho phát triển công nghiệp và 8 Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
- đầu tư nước ngoài sau khi có chính sách Đổi 2) Đảm bảo di cư an toàn và thành công Mới, và sự dịch chuyển một phần thu nhập về cho người di cư trong nước bằng cách các vùng nghèo hơn. xóa bỏ những rào cản hạn chế di cư và không yêu cầu hộ khẩu của người di cư Người ta cho rằng trong phát triển bao giờ khi họ tiếp cận với các dịch vụ xã hội. cũng có người thắng người thua. Rất nhiều Các lợi ích tiềm năng của di cư cần được cá nhân và hộ gia đình đưa ra quyết định di khuyến khích bằng việc lồng ghép vấn đề chuyển tới nơi khác với mục đích tìm kiếm này vào quá trình xây dựng kế hoạch phát một cuộc sống tốt đẹp hơn, nhưng họ chưa triển kinh tế xã hội cũng như những chiến phải là những người chiến thắng trong quá lược xóa đói giảm nghèo. trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam. Chính vì vậy, việc đảm bảo quyền của những 3) Tăng cường lợi ích của di cư trong nước tại những vùng có người di cư đối tượng này và đẩy mạnh những tác động đến. Kế hoạch phát triển đô thị cần chú của di cư để mang lại nhiều lợi ích nhất cho ý đến số dân thực tế bao gồm cả những cá nhân người di cư, gia đình họ và cộng người di cư không đăng ký hộ khẩu và đồng là một nhiệm vụ quan trọng cho phát những người di cư có đăng ký tạm trú, chú triển ở Việt Nam trong tương lai. trọng tới các kế hoạch cho người nghèo, Bài viết này chỉ ra rằng các tác động này sẽ thông qua việc cung cấp nơi ở an toàn và phụ thuộc vào các môi trường chính trị, kinh hợp vệ sinh cho những gia đình có thu tế xã hội đồng thời phụ thuộc vào hành vi và nhập thấp. Chính phủ và người sử dụng nguồn lực của cá nhân người di cư và gia lao động tư nhân cần chú ý hơn nữa tới đình của họ. Để có thể tận dụng tối đa lợi ích vấn đề nhà ở và an ninh cho lao động di của quá trình di cư, Chính phủ, chính quyền cư nam và nữ làm việc tại các khu công địa phương và khu vực tư nhân đều có những nghiệp. Cần nỗ lực hơn nữa để có thể vai trò trong việc tạo ra một môi trường đầy đảm bảo rằng người dân di cư có thể hòa đủ cho người di cư, cho các hộ gia đình và nhập được với cộng đồng nơi di cư đến thông qua việc xóa bỏ đi sự kỳ thị và hỗ cho xã hội. trợ người dân di cư tiếp cận với những Khuyến nghị chương trình xóa đói giảm nghèo và các dịch vụ xã hội khác. 1) Cần có số liệu chính xác và có sự hiểu 4) Nâng cao lợi ích của di cư trong nước biết hơn về các quá trình di cư trong tại địa bàn có dân di cư đi thông qua việc nước nhằm cung cấp thông tin cho quá hỗ trợ người di cư nắm bắt cơ hội và chia trình hoạch định chính sách. Điều này xẻ những kiến thức và kỹ năng mới học bao gồm yêu cầu nâng cao chất lượng được khi trở về và khuyến khích họ sử số liệu tổng điều tra dân số và các số liệu dụng tiền gửi về một cách tốt nhất theo cấp quốc gia để có được đầy đủ thông tin sự lựa chọn của họ. Cũng cần hỗ trợ các về tình hình di cư trong nước đồng thời thành viên trong gia đình của người di cư cần tiến hành những nghiên cứu còn thiếu hiện đang sinh sống tại địa phương, để có như nghiên cứu về các dòng di cư nông thể đương đầu với việc (tạm thời) thiếu đi thôn-nông thôn theo mùa, nghiên cứu về một thành viên trong gia đình. sức khỏe sinh sản cho nhóm di cư nữ, nghiên cứu về tình trạng nhà ở tại các khu công nghiệp và tác động của thay đổi về môi trường và thiên tai tới vấn đề di cư. Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam 9
- GIỚI THIỆU CHUNG Giống như nhiều Tác động về phát triển kinh tế xã hội của quốc gia khác khi chính sách Đổi Mới được đánh giá là rất trải qua sự phát thành công. Tỷ lệ đói nghèo đã giảm từ 70% triển kinh tế xã hội từ giữa thập niên 80 xuống còn 58% vào nhanh chóng, trong năm 1993 và chỉ còn 14% vào năm 20082. vòng 20 năm trở lại Tốc độ phát triển của Việt Nam thay đổi từ số đây Việt Nam đã âm sang số dương và tăng lên tới 7-8% hàng chứng kiến sự tăng năm, tuổi thọ trung bình đã tăng lên và tỷ lệ theo cấp số nhân tử vong trẻ sơ sinh đã giảm3. Tuy nhiên đóng của dòng người di góp của di cư trong nước vào những thành cư cả trong nước và công này lại chưa được ghi nhận đầy đủ. Sự quốc tế. Càng ngày ra đời của khu vực tư nhân cùng với sự xuất người ta càng thừa hiện của các doanh nghiệp tư nhân, phần nhận rằng quá trình lớn là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước phát triển và di cư ngoài không thể có những tác động to lớn luôn đi đôi với nhau. nếu không có sự đóng góp của một lực lượng Di cư vừa là động lao động đông đảo di chuyển tới các khu vực lực thúc đẩy lại vừa này4. Một mặt cần nhìn nhận cải cách kinh tế là kết quả của sự mang lại nhiều cơ hội và khả năng di chuyển phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia1. cho nhiều người, mặt khác cũng cần phải ghi Ở Việt Nam, chính sách Đổi Mới được thực nhận sự sẵn sàng của người di cư và gia đình thi kể từ giữa những năm 1980 chính là chất họ để rời bỏ nơi ở gốc của mình (đôi khi là xúc tác cho dòng di cư trong nước gia tăng rời xa gia đình họ). Với tư cách đại diện cho khi đất nước chuyển từ nền kinh tế tập trung một bộ phận đáng kể của lực lượng lao động, sang một nền kinh tế thị trường. Các cải cách người di cư là nền tảng cơ sở cho phát triển này không chỉ cho phép người dân được di kinh tế xã hội của Việt Nam. chuyển khỏi địa bàn cư trú gốc của mình mà còn tạo ra lực “đẩy” và “hút” cho quá trình di Một điểm quan trọng thứ hai khi xem xét cư này. đóng góp của di cư đối với phát triển là xem xét phát triển có tác động thế nào tới di cư. 1 IOM (2005), Di cư quốc tế và Phát triển: Nhìn nhận từ góc độ Toàn cầu, Nghiên cứu về di cư của IOM, số 19, trang 5; UNDP (2009), Báo cáo phát triển Nhân lực năm 2009- Vượt qua các rào cản: Di chuyển của con người và sự phát triển. 2 Ngân hàng Thế giới (2009), Cập nhật Tình hình Phát triển Kinh tế của Việt Nam gần đây, tài liệu của Ngân hàng Thế giới chuẩn bị cho cuộc Họp nhóm Tư vấn thường niên, tháng 12 năm 2009. Số liệu này lấy từ số liệu điều tra Mức sống hộ gia đình của Việt Nam. 3 Le Bach Duong và cộng sự (2005), Bảo trợ xã hội cho những người thiệt thòi nhất ở Việt Nam, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội. Trung tâm Kinh tế Quốc tế (2002), “Đánh giá đói nghèo ở Việt Nam”, bài viết chuẩn bị cho AusAID. Chu Thi Trung Hau và Dickie Paul M. (2006). Giai đoạn quá độ kinh tế ở Việt Nam: Từ đổi mới tới gia nhập WTO. Chương trình đào tạo chính sách công, Nghiên cứu số 1. 4 Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (2001), Báo cáo Phát triển Nhân lực quốc gia 2001: Đổi mới và Phát triển Con người ở Việt Nam. 10 Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
- Những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được phát triển. Tuy nhiên, cũng không nên coi đây còn chưa đồng đều5. Cũng giống những là liều thuốc chữa bệnh đói nghèo và bất bình thành tựu về kinh tế xã hội của bất kỳ quốc đẳng về thu nhập. Sự di chuyển của người gia nào khác, một vài khu vực nào đó hoặc dân là điều tự nhiên và không thể chối bỏ một vài đối tượng nào đó sẽ được hưởng lợi trong lịch sử loài người và trong các biến cố hơn những khu vực/đối tượng khác. Số liệu xảy ra gần đây trên thế giới. Để công nhận minh chứng về sự phân bổ đói nghèo và các thực tế này, chúng ta có thể nhận định rằng khu vực kém phát triển ở Việt Nam đã cho di cư mang lại cả cơ hội và thách thức cho thấy rằng một trong những sự khác biệt này phát triển. Di cư trong nước có thể đóng góp là sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị và nhiều hơn cho sự tăng trưởng kinh tế cả ở những người dân cư trú ở khu vực thành thị cấp độ quốc gia và hộ gia đình. Di cư có thể có lợi thế đáng kể hơn trong việc thụ hưởng đẩy mạnh mối quan hệ giữa nơi đi và nơi đến, lợi ích của sự phát triển6. Các số liệu cho thấy không chỉ đơn thuần thông qua số tiền người thu nhập trung bình của cư dân thành thị ở di cư gửi về, mà còn qua việc chuyển giao Việt Nam cao gấp khoảng 2 lần thu nhập của kiến thức và kỹ năng, và vì thế góp phần làm người dân nông thôn. Có thể thấy sự khác giảm sự khác biệt giữa các vùng. Hỗ trợ di cư biệt tương tự giữa các vùng của Việt Nam khi còn là hỗ trợ quyết định của mỗi cá nhân và thu nhập trung bình của cư dân vùng Đông gia đình về cuộc sống của họ, hay nói cách Nam Bộ cao hơn ba lần thu nhập của cư dân khác việc hỗ trợ này sẽ đóng góp vào việc vùng Tây Bắc, một con số tăng ổn định trong tạo sức mạnh về kinh tế vã xã hội cho người suốt thập niên trước7. Chính sự khác biệt này dân di cư. đã làm gia tăng đáng kể số lượng các hộ gia đình nông thôn và các hộ gia đình ở một số Tuy nhiên vẫn còn rất nhiều thách thức đối khu vực nhất định chấp nhận các chiến lược với vấn đề này. Các thách thức lớn nhất là di cư, có thể là di chuyển nội tỉnh, có thể là di đảm bảo các quyền cho người di cư nữ, nam, chuyển liên tỉnh, tới nơi có nhiều đất đai hơn, trẻ em trai và trẻ em gái. Các quyền đề cập hoặc đôi khi là tìm việc làm phi nông nghiệp ở đây bao gồm các quyền đã được đề cập tại các khu vực nông thôn khác. Trong nhiều trong các văn kiện quốc tế về nhân quyền và trường hợp, người dân di cư tìm kiếm các cơ các quyền được quy định trong Hiến pháp hội việc làm tại các khu vực thành thị và các của nhà nước Việt Nam. Điều này bao gồm khu trung tâm công nghiệp để “kiếm tiền” từ việc đảm bảo người di cư có cơ hội tiếp cận sự phát triển và giàu có của các khu vực này bình đẳng với các quyền mà tất cả mọi người và để có thể có thêm nguồn thu nhập cho gia dân đều được hưởng, trong đó có rất nhiều đình8. quyền liên quan tới điều kiện sống cơ bản và vấn đề việc làm. Dù có sự phức tạp trong mối quan hệ qua lại giữa di cư và phát triển, có một điều rõ ràng Các tác động cụ thể của di cư, cho dù là tác là không nên coi di cư là yếu tố cản trợ sự động tích cực hay tiêu cực đối với quá trình 5 Bhushan, Indu, Bloom Erik và Nguyễn Minh Thắng (2002), Lợi ích chưa đồng đều của phát triển ở Việt Nam, Ngân hàng phát triển Châu Á, Ban nghiên cứu và kinh tế, Nghiên cứu Chính sách số 3; Scott, Steffanie và Truong Thi Kim Chuyen (2004) ‘Đằng sau những con số: Di chuyển xã hội, sự khác biệt giữa các vùng và quỹ đạo phát triển mới ở nông thôn Việt Nam’ trong Philip Taylor (ed.), Mất cân bằng xã hội ở Việt Nam: Các thách thức cho đổi mới, Viện nghiên cứu Singapore về Đông Nam Á (ISEAS). 6 Chẳng hạn, năm 1998, thu nhập trung bình của thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh cao hơn từ 5-7 lần thu nhập của người nông dân. Scott và Chuyen (2004), chú ý 5. 7 Kết quả Điều tra mức sống hộ gia đình 2002 & Điều tra mức sống hộ gia đình 2006: TCTK (2004), Kết quả Điều tra mức sống hộ gia đình 2002, Nhà Xuất bản Thống kê Hà Nội; TCTK (2007), Kết quả Điều tra mức sống hộ gia đình 2006. Nhà Xuất bản Thống kê Hà Nội. 8 Nghị định 773 TTg (ban hành ngày 21 tháng 12, 1994). Trang 35. Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam 11
- phát triển phụ thuộc vào các môi trường chính những người tham gia vào loại hình di cư này, trị, kinh tế và xã hội, đồng thời phụ thuộc vào bài viết này sẽ chỉ tập trung vào loại hình di hành vi và nguồn lực của người di cư và gia cư trong nước11. đình của họ9. Di cư chứa đựng những tiềm năng đáng kể có lợi cho sự phát triển kinh tế Các tài liệu về di cư ở Việt Nam còn rất dàn xã hội nhưng để có thể khai thác tiềm năng trải. Các tài liệu này nhóm các di chuyển theo này, cần phải xây dựng các chính sách đồng nơi đến, động cơ di chuyển, và sự tham gia bộ dựa trên sự hiểu biết đầy đủ về các dòng của chính phủ. Một mặt sự phân nhóm này di cư, quy mô và các đặc điểm nhân khẩu hỗ trợ những thảo luận về các khía cạnh cụ học của di cư trong nước. Cần có hiểu biết về thể của di cư, nhưng nó cũng có hạn chế khi kinh nghiệm của người di cư, và tác động của nhìn nhận vấn đề di cư một cách toàn diện. những di chuyển này tới các địa phương nơi Bài viết này sẽ cố gắng xem xét vấn đề di cư đi và nơi đến. trong nước ở Việt Nam một cách toàn diện; tuy nhiên khó khăn gặp phải khi nghiên cứu 1.1. Phạm vi phân tích vấn đề này là do các số liệu và các nghiên cứu còn rất hạn chế. Chính vì thế bài viết này Bài viết này tập trung vào vấn đề di cư trong không thể nghiên cứu đồng đều tất cả các nước vì lý do kinh tế ở Việt Nam. Chính vì khía cạnh về di cư ở Việt Nam. Phần lớn các thế “người di cư” đề cập ở đây bao gồm phân tích ở đây tập trung vào di cư tới các những người dân di chuyển trong phạm vi khu vực thành thị mặc dù con số thống kê từ lãnh thổ Việt Nam bất luận thời gian cư trú ở các cuộc tổng điều tra dân số trong giai đoạn nơi đến là bao lâu. Khoảng cách địa lý giữa 1994 - 1999 ghi nhận một nửa số di cư trong nơi đi và nơi đến của di cư cũng không bị giai đoạn này là di cư tới các khu vực nông hạn chế, tuy nhiên tối thiểu là có sự thay đổi thôn. Bài viết này cũng tập trung vào những về địa giới hành chính, chẳng hạn ranh giới vấn đề của di cư tự do, những người di cư xã hoặc tỉnh. không nằm trong các chương trình di dân của Chính phủ. Sự khác biệt giữa di cư tự do và Cần thừa nhận tính liên tục của xu hướng di di dân theo các chương trình của Chính phủ cư trong nước và di cư quốc tế đồng thời nhìn là khá rõ ràng cả về quy mô và các vấn đề nhận khả năng đóng góp đáng kể của các xu bảo hộ. Tuy nhiên các số liệu tổng điều tra hướng này với sự phát triển kinh tế xã hội dân số và các số liệu được sử dụng trong bài của Việt Nam10. Hai mô hình di cư này đều viết này đã không phân biệt hai loại hình này, có động lực tương tự như nhau của cá nhân chính vì thế không thể phân tách ra được các và hộ gia đình và đều có tác động giống nhau xu hướng di cư nông thôn - thành thị trong lên cộng đồng và hộ gia đình nơi đi. Tuy nhiên các loại hình di cư này. những gì mà người di dân quốc tế trải nghiệm có thể khác xa với kinh nghiệm của người di Các phân tích trong tài liệu này bao gồm các dân trong nước, tùy theo địa điểm mà họ di xu hướng nổi trội của di cư trong nước vì lý cư tới. Chính vì lý do này và do số lượng lớn do kinh tế ở Việt Nam, tác động của nó tới sự 9 Đây là một điểm quan trọng mà Đối thoại cấp cao của UN về Di cư quốc tế và phát triển đã xác định, tuy nhiên nó cũng liên quan tới các vấn đề bàn thảo về di cư trong nước. 10 Có ba mối quan hệ lớn giữa di cư quốc tế và di cư trong nước đã được xác định: di cư từng bước là loại hình mà người di cư di chuyển trong nước trước rồi sau đó di cư quốc tế; di cư thay thế là xu hướng người di dân trong nước di cư để đảm nhận những vị trí công việc mà người di dân quốc tế để lại và di dân trở về là xu thế người di dân trở lại nơi cư trú gốc của mình: (2008) Di cư thế giới 2008: Quản lý sự dịch chuyển lao động trong nền kinh tế toàn cầu đang phát triển, Báo cáo di cư thế giới số 4 trang 182. IOM. 11 Theo tổng điều tra dân số năm 1999, có 4,5 triệu người di cư trong nước trong vòng 5 năm trước cuộc điều tra và khoảng 300.000 người di cư quốc tế: Ban chỉ đạo tổng điều tra trung ương (1999), Điều tra dân số và nhà ở năm 1999: Kết quả chọn mẫu (“Điều tra năm 1999”). 12 Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
- phát triển kinh tế, xã hội và những khó khăn 1.2. Phương pháp luận và các điểm thách thức mà người di cư gặp phải trong hạn chế quá trình di cư. Ba “lăng kính” sẽ được sử dụng để phân tích tác động của di cư đến sự Các phân tích về di cư trong nước ở Việt phát triển. “Lăng kính” thứ nhất sẽ xem xét về Nam trong bài viết này đã sử dụng các số liệu người di cư một mình hoặc người di cư có gia và các nghiên cứu hiện có. Phần lớn các số đình đi cùng, đồng thời đề cập tới những vấn liệu định lượng được lấy từ cuộc điều tra Dân đề về bảo trợ xã hội và pháp lý cho người dân số và Nhà ở năm 1999 và năm 2009 và điều di cư và khả năng tiếp cận với các dịch vụ cơ tra Mức sống hộ gia đình năm 1992, 1998 và 12 bản của họ. “Lăng kính” thứ hai đánh giá tác 2004 . Tuy nhiên một hạn chế quan trọng động của di cư đến cộng đồng nơi đến, chủ cần phải được lưu ý là hầu hết các số liệu đại yếu là các khu vực thành thị và các khu vực diện cho toàn bộ dân số đều chưa tính tới một kinh tế mới và đề cập tới các vấn đề xây dựng số nhóm người di cư và các dòng di cư của kế hoạch cần phải giải quyết. “Lăng kính” thứ họ. Đó là do quy mô mẫu và do cách thể hiện ba và cũng là lăng kính cuối cùng tập trung các câu hỏi có liên quan tới di cư trong cuộc vào cộng đồng tại nơi đi và giải quyết các câu điều tra. Vì lý do này, các số liệu quốc gia, đã hỏi về tác động của việc di cư đến gia đình ở được bổ sung các số liệu định tính và định lại bao gồm cả vấn đề gửi tiền về và chuyển lượng với quy mô nhỏ hơn. Những số liệu giao kiến thức khi người di cư trở về gia đình. này giúp hiểu biết sâu hơn về các mô hình di Các khía cạnh giới cũng được phân tích dưới cư và các vấn đề trong các lĩnh vực cụ thể. mỗi lăng kính và vì thế đòi hỏi có sự xem xét Dưới đây sẽ đề cập đến những hạn chế của cụ thể về các tác động khác nhau, về năng các số liệu quốc gia và các số liệu có quy mô lực và đặc điểm yếu thế của cả nam và nữ di lớn sử dụng trong bài viết nhằm đưa ra một cư. Bài viết cũng sử dụng cách tiếp cận dựa bức tranh chính xác hơn về những đối tượng vào quyền và coi người di cư là một nhóm mà thường bị bỏ sót trong điều tra. các quyền của họ thường chưa được công Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 1999 và nhận đầy đủ, mặc dù các quyền này đã được 2009 đã đưa ra bức tranh cập nhật nhất và thừa nhận trong các chuẩn mực quốc tế và mang tính đại diện nhân khẩu học nhất về các quy định trong khung pháp lý của Việt Nam. dòng di cư trong nước ở Việt Nam. Tuy nhiên Thiếu sót này có thể do đói nghèo, do không Tổng điều tra định nghĩa người di cư là người tiếp cận được với các dịch vụ cơ bản, kiến có nơi cư trú tại thời điểm điều tra khác với thức về một số quyền cụ thể còn hạn chế, nơi họ cư trú 5 năm trước đó. Định nghĩa này không quen với nơi đến và có thể do kỳ thị đã bỏ sót những người di cư lâu hơn 5 năm về về mặt xã hội hoặc bị phân biệt đối xử. Trong trước, bỏ qua những người di cư trong vòng nhiều trường hợp, mặc dù quyền của người 5 năm trở lại đây nhưng đã trở về nhà trước dân di cư được đảm bảo trên giấy tờ nhưng thời điểm điều tra, và bỏ qua những người di trên thực tế vẫn có nhiều yếu tố cản trở sự cư mùa vụ và di cư tạm thời, vì họ thường chỉ tiếp cận toàn diện đối với các quyền này. Tóm di cư trong thời gian ngắn. Chính những lý do lại, bài viết này đưa ra những khuyến nghị hỗ này mà tổng số người di cư trong nước trong trợ việc xây dựng các chính sách can thiệp điều tra dân số không tính những người đã di phù hợp nhằm phát huy tối đa đóng góp của cư được hơn 5 năm, những người di cư mùa di cư vào quá trình phát triển kinh tế xã hội và vụ, di cư tạm thời, di cư con lắc với thời gian phát triển nhân lực của Việt Nam và đảm bảo di cư ít hơn 5 năm nhưng đã trở về nơi ở cũ. rằng quyền của người di cư và gia đình của họ được thực hiện. 12 Tổng điều tra dân số năm 1999; GSO và UNFPA (2005), Điều tra Di cư Việt Nam năm 2004: Các kết quả chính, Nhà xuất bản Thống kê, TCTK (“2004 VMS”); TCTK (1992), Điều tra mức sống dân cư năm 1992 (“1992 VLSS”); TCTK (1998), Điều tra mức sống dân cư năm 1998 (“1998 VLSS”); TCTK (2004), Điều tra mức sống hộ gia đình năm 2004 (“2004 VHLSS”). Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam 13
- Cuộc điều tra Di cư Việt Nam năm 2004 với gia đình mới và cũng là lời giải đáp cho tỷ lệ mẫu nghiên cứu nhỏ hơn so với cuộc tổng không trả lời cao ở các khu vực thành thị. Đây điều tra dân số, nhưng với mục đích của là một điều hiển nhiên khi lưu ý rằng kết quả cuộc điều tra chuyên sâu về di cư, đã cung của cuộc điều tra mức sống hộ gia đình năm cấp những kiến thức sâu về kinh nghiệm của 2004 cho biết chỉ có 3,8% dân số thành phố người di cư và gia đình họ. Các thông tin thu Hồ Chí Minh là các hộ gia đình thuộc nhóm thập được bao gồm động cơ di cư, mức độ KT3 hoặc đăng ký KT415. Ngược lại điều tra hài lòng khi di cư, tiền gửi của người di cư, bối giữa kỳ của hai cuộc tổng điều tra của Thành cảnh di cư trong các sự kiện đời sống của hộ phố Hồ Chí Minh trong cùng năm đó cho thấy gia đình. Ngoài ra các địa bàn lựa chọn cho rằng các hộ này chiếm gần 20% dân số ở cuộc điều tra bao gồm các xã và các phường đây16. Số dân trong độ tuổi từ 20-29 (đây là mà cuộc tổng điều tra dân số năm 1999 ghi độ tuổi tập trung người di cư) trong cuộc điều nhận là có nhiều người dân tạm trú đang cư tra mức sống hộ gia đình năm 2004 cũng ít trú13. Chính vì thế cuộc điều tra di cư này bao hơn con số trong tổng điều tra năm 1999 từ gồm một số lượng đáng kể người di cư tạm 20-30% và điều này cũng gợi ra giả thuyết thời và một số lượng ít hơn là nhóm người di rằng có một số lượng lớn người di cư một cư không đăng ký tạm trú. mình và các hộ gia đình di cư chưa được tính trong cuộc điều tra. Điều tra biến động dân số Kết quả điều tra mức sống dân cư của Việt hàng năm là một nguồn thông tin hữu ích về Nam năm 1992 và năm 1998 và điều tra mức di cư trong nước vì cuộc điều tra này có sử sống hộ gia đình ở Việt Nam từ năm 2002 dụng một câu hỏi về sự di chuyển nơi cư trú cũng là các nguồn thông tin quan trọng khác, trong năm trước thời điểm điều tra. Tuy nhiên đặc biệt là các thông tin về tiền người di cư cuộc điều tra này cũng chưa nắm bắt được gửi về gia đình, tác động của di cư theo thời các động thái di chuyển ngắn hạn nổi trội (đặc gian (mỗi cuộc điều tra đều có một số hộ gia biệt là những di chuyển mùa vụ diễn ra trong đình đã được điều tra trong những điều tra phạm vi một năm) vì rất nhiều người di cư trước đó) và quan trọng hơn là có các thông ngắn hạn này chưa được thống kê. Những tin về di cư mùa vụ. Tuy nhiên những cuộc hạn chế này phản ánh những khó khăn trong điều tra này đều có điểm hạn chế chung liên việc theo dõi một bộ phận dân số di chuyển quan đến mẫu điều tra đã được đề cập ở trên, thậm chí ngay từ định nghĩa của nó. Lý do tại cụ thể là chỉ tính các hộ gia đình thực tế cư sao những hạn chế này được đề cập nhiều trú trên địa bàn xã và phường của khu vực lần ở đây là vì những đối tượng thường bị thành thị hoặc những người mới di chuyển bỏ qua này lại chính là đối tượng của bài viết đến sống tại địa bàn điều tra đã được ít nhất này. Một số các nghiên cứu cho rằng trong số 6 tháng. Chính vì thế những người mới di những người dân di cư trong nước vì lý do chuyển đến nơi mới ít hơn 6 tháng hầu như kinh tế ở Việt Nam, những người chưa được chưa được tính đến. Một vấn đề khác là cũng thống kê/bị bỏ qua trong các cuộc tổng điều phải mất từ 6 đến 12 tháng giữa các lần chọn tra dân số và các cuộc điều tra khác chính là hộ gia đình từ danh sách hộ gia đình của xã những người yếu thế nhất và những người 14 và phường và thời gian điều tra phỏng vấn . ít được lưu tâm nhất trong quá trình lập kế Điều này cho thấy điều tra vẫn bỏ xót các hộ hoạch của chính phủ17. 13 Điều tra di cư năm 2004. 14 Pincus, John và Sender John (2008), Lượng hóa đói nghèo ở Việt Nam: Ai được tính đến? 15 Xem phần 1.3 Hệ thống đăng kí hộ khẩu, giải thích hệ thống đăng kí hộ khẩu và phân loại KT. 16 Ngân hàng thế giới (2008), Báo cáo phát triển của Việt Nam năm 2008: Bảo trợ xã hội: Báo cáo của các nhà đồng tài trợ trong cuộc họp nhóm tư vấn Việt Nam, Hà Nội, ngày 6-7 tháng 12 năm 2008. 17 Pincus, John và Sender John (2008), ‘Lượng hóa đói nghèo ở Việt Nam: Ai được tính đến?’ Pfau, Wade Donald và Giang Thanh Long (2008), Các nhóm chưa được tính trong “đại diện” điều tra hộ gia đình. 14 Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
- PHẦN 1 – BỐI CẢNH DI CƯ TRONG NƯỚC VÌ LÝ DO KINH TẾ Ở VIỆT NAM 1.1 Các quyền quy định trong Hiến để có thêm chi tiết). Việt Nam cũng đã cam kết pháp và các cam kết quốc tế nỗ lực đạt được các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc vào năm 2015 mà Việt Nam đã cam kết tất cả các mục tiêu này đều có liên quan hoặc với cộng đồng quốc trực tiếp hoặc gián tiếp tới các quá trình di cư tế trong việc bảo vệ hoặc những trải nghiệm của người di cư và gia công dân của nước đình của họ21. Việt Nam cũng đã xây dựng các mình thông qua việc mục tiêu cụ thể phù hợp với bối cảnh của mình ký và phê chuẩn với tên gọi. Các mục tiêu phát triển của Việt một số công ước Nam trong đó có thêm những mục tiêu giảm và tuyên ngôn quốc sự yếu thế (mục tiêu 8), giảm sự mất công tế có liên quan tới bằng giữa các dân tộc (mục tiêu 10) và đảm người di cư trong bảo sự phát triển cơ sở hạ tầng cho nhóm rất nước vì lý do kinh tế nghèo (mục tiêu 11). trong phạm vi quốc gia. Các quyền quy Hiến pháp Việt Nam đảm bảo quyền công định trong các công bằng cho công dân Việt Nam trong 6 thập kỷ ước này bao gồm qua. Hiến pháp năm 1946 lần đầu tiên quy quyền theo đuổi sự định rõ rằng “tất cả các công dân đều bình phát triển kinh tế, đẳng trước pháp luật và có quyền công bằng xã hội và văn hóa18, trong tất cả các lĩnh vực - chính trị, kinh tế, quyền được hưởng văn hóa và xã hội”22. Mỗi Hiến pháp kế tiếp các điều kiện làm việc xứng đáng và thuận mà Quốc hội thông qua đều quy định cụ thể tiện, quyền có các điều kiện sống đầy đủ cho hơn các quyền giành cho tất cả công dân Việt mỗi người và gia đình của mình, quyền được Nam. Các quyền này bao gồm quyền tự do di chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần tốt chuyển và cư trú, quyền tiếp cận với các dịch nhất theo chuẩn có thể đạt được, quyền tiếp vụ chăm sóc sức khỏe, quyền được đi học và cận giáo dục và tham gia vào đời sống văn có kiến thức, quyền được đi làm, quyền được hóa19, quyền giành cho trẻ em và được công sở hữu nhà cửa và tài sản hợp pháp và quyền nhận đầy đủ về nhân quyền đối với phụ nữ và được tiếp cận với các dịch vụ kinh tế xã hội đảm bảo công bằng giới20 (tham khảo Phụ lục 1 một cách công bằng23. Điều quan trọng hơn 18 Hiệp ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR), được thông qua bởi nghị quyết của Đại hội đồng 2200A (XXI) ngày 16 tháng 12 năm 1966, bắt đầu có hiệu lực ngày 3 tháng 1 năm 1976. Việt Nam đồng thuận ngày 24 tháng 9 năm 1982. 19 Cùng tài liệu trên, Điều 7, 11, 12, 13, 15. 20 Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, ngày 18 tháng 12, 1979, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 3 tháng 9, 1981. Việt Nam tham gia ngày 17 tháng 2, 1982. 21 Ronald Skeldon (2005), “Di cư và các mục tiêu thiên niên kỷ” trong IOM (ed) Đối thoại quốc tế về di cư: Phân luồng di cư trong chính sách phát triển. 22 Bản dịch của Nguyen Thi Hoai Thu và những người khác (2005), Đánh giá về chính sách di dân thành thị, Ủy ban Quốc hội về Các vấn đề xã hội, trang 19-20. 23 Quốc hội, Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, được sửa đổi theo nghị quyết 51/2001/QH10 của Quốc hội (25 tháng 12, 2001) (“Hiến pháp 1992”), Điều 68, 39, 59, 55 và 23. Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam 15
- nữa là Hiến pháp đảm bảo quyền bình đẳng khung pháp lý bảo vệ cho người di cư hoặc giữa nam giới và nữ giới trong tất cả các lĩnh nâng cao lợi ích của di dân đối với phát triển vực trên đây và nghiêm cấm bất kỳ một sự xã hội của Việt Nam. phân biệt đối xử nào đối với phụ nữ hay sự vi phạm tới phẩm giá của người phụ nữ24. Điều Liên quan tới trách nhiệm của các bộ ngành, 66 tiếp tục đảm bảo sự khuyến khích thanh cần lưu ý rằng vấn đề di cư trong nước chưa niên cụ thể là “Nhà nước và xã hội sẽ tạo điều được phân công cụ thể cho một bộ nào của kiện thuận lợi cho thanh niên học, làm việc và Chính phủ. Các chính sách xã hội có liên giải trí, tạo điều kiện để họ phát triển năng lực quan tới di cư được các bộ ngành khác nhau 27 trí tuệ và sức khỏe thể chất”25. Như sẽ trình ban hành . Chẳng hạn Bộ Nông nghiệp và bày ở các phần tiếp theo trong bài viết này, Phát triển Nông thôn chỉ chịu trách nhiệm cho mỗi quyền này đều đóng vai trò quan trọng phần di cư có tổ chức của chính phủ còn Bộ với người di cư trong nước và cần đảm bảo Công an chịu trách nhiệm đăng ký hộ khẩu việc thực hiện các quyền này. và trật tự xã hội. Không có vụ nào hoặc đơn vị nào trực thuộc Bộ Y tế chịu trách nhiệm về 1.2 Cơ cấu hành chính, khung pháp lý sức khỏe của người di cư hay về sự tiếp cận và chính sách của người di cư tới các dịch vụ y tế. Có lẽ Bộ Lao động Thương binh và Xã hội là đơn Mặc dù khung pháp lý quy định rất chặt chẽ vị phù hợp nhất giải quyết vấn đề di cư tự việc bảo vệ các quyền mà theo đó người do trong nước vì lý do kinh tế vì Bộ này chịu di cư và gia đình của họ phải được bảo vệ trách nhiệm quản lý nhà nước về lao động và nhưng cơ cấu hành chính, khung pháp lý và việc làm và vì thế chịu trách nhiệm trực tiếp chính sách về di cư trong nước vì mục đích trong lĩnh vực lao động di cư chẳng hạn như kinh tế vẫn chưa được được thể hiện rõ ràng Bộ này phải chịu trách nhiệm về vấn đề việc trong các văn bản luật pháp và chính sách làm cho lao động Việt Nam ở nước ngoài và của các bộ, ngành. Điều này phần nào phản sự di chuyển tới các vùng kinh tế mới vì mục ánh sự phức tạp của hiện tượng di cư nhưng đích việc làm. Tuy nhiên Bộ Lao động Thương nó cũng cho thấy rằng vấn đề này còn chưa binh và Xã hội cũng chưa có kế hoạch hay được Chính phủ quan tâm đúng mức. chưa ban hành chính sách cụ thể nào để đáp ứng nhu cầu và ứng phó với rủi ro của người Di cư trong nước đã được đề cập rõ ràng di cư tự do vì lý do kinh tế. trong Chiến lược Phát triển Kinh tế xã hội giai đoạn 2001-2010 đồng thời cũng được đưa Di cư trong nước vì lý do kinh tế chưa được vào các Chương trình phát triển kinh tế xã hội quan tâm đúng mức trong các chính sách và tương ứng trong giai đoạn 2001-201026. Tuy chiến lược do các bộ ngành ban hành. Chẳng nhiên cả hai văn bản trên đều đưa ra mục hạn chiến lược Sức khỏe Sinh sản giai đoạn đích giảm di cư tự do thông qua một số mục 2001-201028 cũng chưa đề cập tới “nhóm dân tiêu và giải pháp cụ thể thay vì đưa ra một di cư”. Tương tự như vậy Kế hoạch tổng thể 24 Cùng tài liệu trên, điều 63. 25 Cùng tài liệu trên, điều 66. 26 Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Chiến lược Phát triển Kinh tế - Xã hội giai đoạn 2001–2010, Ban chấp hành Trung ương, nhiệm kỳ thứ 8, hướng tới Kỳ họp Quốc hội thứ 9, tháng 4 năm 2001 (“SEDS”); Nghị quyết số 56/2006/QH11, Nhiệm kỳ XI, kỳ họp 9 về Kế hoạch 5 năm về phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2006 – 2010 (16 tháng 5 - 29 tháng 6, 2006) (“SEDP”). 27 Le Bach Duong, và cộng sự (2005), ghi chú 3. 28 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 136/2000/QD-TTg, phê duyệt Chiến lược quốc gia về chăm sóc Sức khỏe sinh sản giai đoạn 2001-2010 (28 tháng 11, 2000). 16 Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
- Quốc gia về Bảo vệ, Chăm sóc sức khoẻ của hiện. Một vài dự thảo của các chiến lược này thanh niên29 hoặc Luật Thanh niên30 cũng đã công nhận di cư trong nước là một vấn chưa chú ý tới nhóm người di cư mặc dù hầu đề của phát triển. Tuy nhiên rất nhiều chính hết người di cư tự do trong nước vì lý do kinh sách chiến lược lại không công nhận điều này tế là thanh niên vì thế các chương trình và kế dẫn tới việc thiếu sự thừa nhận về bề rộng và hoạch này đã bỏ sót một lượng lớn dân số dễ chiều sâu các tác động của di cư trong nước bị tổn thương với các rủi ro xã hội. Chiến lược tại Việt nam. Để giải quyết vấn đề này, cần quốc gia về Gia đình giai đoạn 2005-201031 phải xác định vai trò của di cư trong nước như cũng chưa chú trọng tới các loại hình gia đình là một động lực của sự phát triển đồng thời khác nhau bao gồm cả gia đình di cư hoặc giải quyết toàn diện các nhu cầu cần được gia đình phải chịu sự vắng mặt tạm thời của bảo trợ về xã hội của người di cư, giải quyết cha mẹ di cư. các vấn đề ảnh hưởng tới nơi đến là các khu vực thành thị và các tác động liên quan tới di Trong trường hợp người di cư được đưa vào cư tại nơi đi. Từng khía cạnh này sẽ được đề các chiến lược chính sách thì phương pháp cập cụ thể trong phần 3 của bài viết này. tiếp cận lại không phải nhằm mục đích bảo vệ người di cư. Có thể thấy điều này qua 1.3 Hệ thống đăng ký hộ khẩu Chiến lược dân số năm 2001-201032, trong chiến lược này người di cư bị coi là đem tới Hệ thống đăng ký hộ gia đình hay còn gọi là nhiều tác động tiêu cực hơn là mang lại lợi hộ khẩu có liên quan mật thiết tới vấn đề di cư ích cho phát triển. Chỉ tiêu duy nhất liên quan trong nước vì lý do kinh tế ở Việt Nam vì nó tới người di cư trong chiến lược là mục tiêu kiểm soát và giám sát các thay đổi trong vấn đạt tỷ lệ 75% người di cư tự do đăng ký hộ đề cư trú của người dân bằng cách phân chia khẩu vào năm 2010. Tuy nhiên chưa có một họ thành các dạng cư trú khác nhau mà mỗi mục tiêu nào đề cập tới việc đảm bảo sự tiếp dạng lại có các quyền và nghĩa vụ khác nhau. cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người di Ban đầu hệ thống hộ khẩu được sử dụng như cư hoặc giải quyết các vấn đề khác mà bài các biện pháp kiểm soát dân số nhằm hạn viết này sẽ đề cập tới. Có một ngoại lệ đáng chế đô thị hóa và sự di chuyển trong chiến chú ý là Chiến lược quốc gia về HIV/AIDS xác tranh đồng thời sử dụng trong hệ thống tem định người dân di cư là đối tượng đặc biệt phiếu trong giai đoạn thực hiện chính sách yếu thế trong vấn đề lây nhiễm HIV33. Luật bao cấp sau chiến tranh. Trong giai đoạn phi Phòng chống HIV ban hành năm 2006 đã có tập trung hóa, người sở hữu hộ khẩu nông một điều khoản cụ thể về phòng chống HIV thôn sẽ được cấp đất nông nghiệp và đất làm cho nhóm dân số lưu động34. nhà. Những người có đăng ký hộ khẩu tại khu vực thành thị được cấp quyền sử dụng đất Quá trình dự thảo chiến lược cho giai đoạn cho diện tích nhà và vườn của họ35. Trước 2010-2020 đang được nhiều bộ ngành thực giai đoạn Đổi Mới, biện pháp kiểm soát di cư 29 Bộ Y tế, Chương trình Tổng thể quốc gia về Bảo vệ, Chăm sóc và hỗ trợ Sức khỏe cho Thanh niên và Vị thành niên giai đoạn 2006 – 2010 và Định hướng chiến lược đến năm 2020; Quyết định số 2010/QD-BYT, (7 tháng 6, 2006). 30 Quốc hội, Luật Thanh niên, số 53/2005/GH11, do Quốc hội thông qua ngày (29 tháng 11, 2005). 31 Quyết định số 106/2005/QD-TTg của Thủ tướng chính phủ phê duyệt Chiến lược Xây dựng Gia đình Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010 (16 tháng 5, 2005). 32 Quyết định số 147/2000/QD-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược Quốc gia về Dân số giai đoạn 2001-2010 (22 tháng 12, 2000). 33 Quyết định số 36/2004/QD-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược Quốc gia về Phòng chống HIV ở Việt Nam đến năm 2010 với tầm nhìn tới năm 2020 (17 tháng 3, 2004). 34 Luật Quốc hội về phòng chống HIV/AIDS, Quyết định số 64/2006/QH11 (29 tháng 6, 2006). 35 Hardy, Andrew (2001), Các quy tắc và nguồn lực: Đàm phán về hệ thống đăng ký hộ khẩu ở Việt Nam trong quá trình đổi mới Sojourn, Số 16(2). Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam 17
- này rất hữu hiệu vì nó liên quan tới sự bao nhập học. Những người đăng ký hộ khẩu KT4 cấp của Chính phủ, liên quan tới tem phiếu và là những người độc thân không có gia đình, tới sự tiếp cận với một số dịch vụ và hàng hóa hoàn toàn trái ngược với ba loại trên và những thiết yếu. Thậm chí bây giờ người ta vẫn yêu người thuộc KT4 thường chỉ được cấp giấy cầu trình hộ khẩu cho các thủ tục hành chính tạm trú với thời gian 3 tháng và có thể gia hạn như mua quyền sử dụng đất, xây nhà, đăng được. Những người thuộc nhóm này không thể ký xe, vay ngân hàng, tiếp cận với chăm sóc mua quyền sử dụng đất và giống như những y tế được bao cấp, nước và điện hoặc tham người thuộc KT3, họ cũng khó tiếp cận với một gia vào các chương trình mục tiêu xóa đói số dịch vụ xã hội. Một số người khác di cư mà giảm nghèo. Chỉ những người có đăng ký là không hề đăng ký hộ khẩu. Những người di cư dân thường trú tại nơi họ đang sinh sống cư không đăng ký này vẫn có tên trong danh mới được thụ hưởng toàn bộ các dịch vụ của sách đăng ký của hộ gia đình tại phường xã Chính phủ, những đối tượng còn lại phải trả của họ mặc dù thực tế họ đang sống ở huyện tiền để có những dịch vụ đó hoặc không được hoặc tỉnh khác. thụ hưởng các dịch vụ này36. Luật pháp đã quy định bất kỳ ai sống ở một địa Trước năm 2007, có 4 loại đăng ký hộ khẩu. điểm khác với nơi họ thường trú trong vòng ít Những người đăng ký hộ khẩu thuộc nhóm nhất là 30 ngày trở lên đều phải đăng ký tạm KT1 sẽ được hưởng trọn các quyền cư trú với công an38. Tuy nhiên thay đổi tình trạng trú chẳng hạn được phép chuyển nhượng cư trú không phải là điều dễ dàng chút nào. quyền sử dụng đất, con cái được phép nhập Để có thể đăng ký được KT4, người di cư học, và được hưởng các dịch vụ chăm sóc y phải xin một lá thư đồng ý cho đi do các cấp tế trong phạm vi địa bàn cư trú của mình37. có thẩm quyền của huyện ký (trong trường Những người di cư sang địa bàn khác nhưng hợp di cư liên tỉnh) hoặc do chính quyền xã vẫn thuộc phạm vi nội tỉnh được đăng ký hộ ký (trong trường hợp di cư sang huyện khác khẩu KT2. Hộ khẩu này cho phép họ chuyển trong cùng một tỉnh) nơi họ đăng ký hộ khẩu. nhượng quyền sử dụng đất nhưng hạn chế Để được cấp phép di chuyển họ phải chứng việc nhập học vào các trường học và các dịch minh được rằng mình có công việc tại nơi đến. vụ xã hội khác trong khu vực mà họ đăng ký. Chính vì thế rất nhiều người di cư hoặc không Những người đăng ký tại một tỉnh nhưng sinh xin được giấy phép di chuyển hoặc không sống ở tỉnh khác được đưa vào hạng mục KT3 được cấp KT4 tại nơi đến39 và rất nhiều người và thường được cấp giấy tạm trú với thời gian di cư thậm chí không thử đăng ký tạm trú vì từ 6 đến 12 tháng, với giấy tạm trú này họ có họ không chắc thời gian cư trú ở nơi đến là thể xin cấp lại một cách dễ dàng. Người có hộ bao lâu và họ cũng không biết phải thực hiện khẩu này vẫn được phép mua quyền sử dụng những bước nào trong quá trình quản lý. đất nhưng con cái của họ không xin được học trái tuyến trừ khi lớp còn chỗ trống sau khi con Kết quả của cuộc điều tra di cư của Việt của những người có hộ khẩu KT1 và KT2 đã Nam năm 2004 đề cập tới những khó khăn mà rất nhiều người di cư gặp phải do hệ 36 Deshingkar, Priya (2006), Di cư trong nước, Nghèo đói và phát triển ở Châu Á: Bao gồm những người bị bỏ qua trong quá trình liên kết và cải thiện quản lý. Bài viết trình bày tại Hội nghị Châu Á năm 2015: Thúc đẩy phát triển, chấm dứt đói nghèo, tháng 3, 2006. 37 Waibel, Michael (2007), Di cư tới các vùng phụ cận của Thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình Đổi mới: Qui mô, Hậu quả và Các thay đổi chính sách liên quan tới nhà ở. 38 Quốc hội, Luật cư trú, số 81/2006/QH11, có hiệu lực từ ngày 1/7/2007 (29 tháng 11, 2006) (“Luật cư trú năm 2006”), điều 30, khoản 2. 39 Dang Nguyen Anh (2006), Di cư trong nước ở Việt Nam: Các cơ hội và thách thức cho phát triển, bài viết trình bày tại Hội nghị Khu vực về di cư và Phát triển ở Châu á (Lanzhou, Trung Quốc năm 2006). Do phân bố kinh phí cho tỉnh dựa trên số dân của tỉnh nên các cán bộ tỉnh thường ngại không thống kê số người di cư vì điều này có thể làm giảm số dân tại nơi (tỉnh) đi. 18 Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
- thống đăng ký hộ khẩu gây ra. 42% những năm làm việc và cư trú liên tục43. Ngoài ra người được điều tra cho biết họ gặp khó luật năm 2007 cũng bỏ đi những điều kiện khăn do không có hộ khẩu dạng KT1. Trong có việc làm khi xin đăng ký hộ khẩu. Người số những người di cư không đăng ký tạm ta cho rằng Luật Cư trú khi được các cấp trú tại nơi đến, 48% cho biết họ không được chính quyền địa phương áp dụng còn thiếu phép đăng ký, 22% cho biết họ nghĩ không tính thống nhất do chưa có hướng dẫn cụ thể cần phải đăng ký và 9% cho biết họ không và do có sự hiểu về luật tại mỗi địa phương biết phải đăng ký thế nào. khác nhau. Chẳng hạn ở thành phố Hồ Chí Minh, các cấp chính quyền vẫn sử dụng 4 loại Trong những năm gần đây hệ thống đăng từ KT1-KT4 trong khi ở Hà Nội chỉ áp dụng ký hộ khẩu đã được cải cách với việc nới hai loại là cư trú thường xuyên và đăng ký lỏng một số hạn chế về thay đổi nơi cư trú. tạm trú. Sự chưa thống nhất này khiến người Ví dụ như năm 2005, Nghị định 108 của dân nhầm lẫn vì họ không biết phải tuân theo Thủ tướng Chính phủ và Thông tư 11 do Bộ những thủ tục nào khi xin thay đổi đăng ký hộ Công an ban hành đã nới lỏng một số điều khẩu ở Việt Nam và điều này cũng có thể có kiện cho phép người có hộ khẩu KT3 được nghĩa là những người đủ điều kiện được cấp chuyển sang KT1 thông qua việc bỏ yêu cầu hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú theo luật của phải sở hữu nhà. Với sự thay đổi này, những năm 2007 sẽ không được cấp và hơn thế nữa người thuê nhà hay ở nhà người khác cũng nhiều người nản lòng không muốn xin đăng có thể trở thành thường trú bằng việc đưa ra ký hộ khẩu vì không chắc chắn luật này đang 40 bằng chứng về sự chấp thuận của chủ nhà . có hiệu lực. Tuy nhiên các yêu cầu vẫn kèm theo các điều kiện chẳng hạn như cư trú trong nhà Gần đây lại xuất hiện xu hướng thắt chặt việc hợp pháp, có việc làm ổn định và cư trú liên đăng ký hộ khẩu đối với người di cư tại một số tục trước khi trở thành người cư trú thường thành phố lớn. Những cải cách đưa ra trong xuyên. Một cải cách khác áp dụng năm 2005 dự thảo Luật thủ đô năm 2010 đề xuất một số cho phép khai sinh tại Ủy ban Nhân dân tại điều kiện đối với việc đăng ký hộ khẩu tại Hà địa phương nơi đứa trẻ ra đời, bỏ yêu cầu là Nội thực tế là rất phiền hà. Những cải cách này cha mẹ phải quay về nơi ở gốc đề đăng ký dự kiến sẽ được Quốc hội xem xét trong phiên khai sinh cho con41. họp tháng 5 năm 2010 nhưng sau đó đã được bỏ ra khỏi dự thảo luật44. Việc cố gắng hạn chế Năm 2007, Luật cư trú mới bắt đầu có hiệu lực người dân di cư đến Hà Nội xin đăng ký hộ theo đó chỉ còn hai hạng mục cư trú cụ thể là khẩu thường trú và tiếp cận với các dịch vụ cư trú thường xuyên và tạm trú đồng thời nới của Chính phủ và việc bỏ những đề xuất này 42 lỏng các điều kiện xin cư trú thường xuyên . ra khỏi dự thảo luật cho thấy sự chưa thống Đối với những trường hợp xin chuyển từ đăng nhất trong vấn đề này đồng thời cho thấy rằng ký tạm trú sang thường trú tại các thành phố các sáng kiến tương tự sẽ có khả năng tái xuất trực thuộc trung ương, yêu cầu đã thay đổi hiện trong các dự thảo chính trị. từ chứng minh 3 năm cư trú liên tục sang 1 40 Nghị định của Thủ tướng Chính phủ số 108/2005/ND-CP (ngày 19 tháng 8, 2005); Thông tư của Bộ Công an số. 11/2005/TT (7 tháng 10, 2005). 41 Nghị định số 158/2005/ND-CP của Chính phủ (27 tháng 12, 2005). 42 Luật cư trú năm 2006, chú thích 37. 43 Thông tư 11/2005/TT của Bộ Công an quy định 3 năm cư trú liên tục, điều 20 khoản 1 của Luật Cư trú đổi thời gian này thành 1 năm. Yêu cầu xin thường trú tại tỉnh khác với quy định xin thường trú tại các thành phố do trung ương quản lý, điều 19 Luật cư trú. 44 Các điều khoản dự thảo yêu cầu rằng để có thể nhập hộ khẩu Hà nội một người phải cư trú liên tục trong 5 năm trước đó (thay vì 1 năm), phải có mức lương gấp đôi mức lương tối thiểu và phải chứng minh có việc làm hợp lệ: Báo Viet Nam Net (2010), Hà Nội “Bỏ Dự Thảo “Siết” Lao động Ngoại Tỉnh’, 21 tháng 2, 2010, địa chỉ truy cập ngoai-tinh-895275/ (23 February 2010). Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam 19
- PHẦN 2 – TỔNG QUAN VỀ DI CƯ TRONG NƯỚC Ở VIỆT NAM Trước khi thảo luận về nơi cư trú cũ của mình sau chiến tranh. Kể về mối quan hệ từ những năm 1970 trở đi, các chương trình phức tạp giữa di cư di chuyển có sự hỗ trợ của Nhà nước đưa và phát triển, bài người vào các khu kinh tế mới vẫn tiếp tục viết này sẽ đề cập và tạo thành một loại hình di cư chính trong vài nét tới bối cảnh nước ở Việt Nam45. Những năm 1990 chứng di cư trong nước ở kiến sự thay đổi trong các chính sách di cư có Việt Nam bao gồm tổ chức của Chính phủ. Các chương trình di một đánh giá tổng cư không còn tập trung vào các vùng kinh tế quan về số lượng và mới nữa mà chuyển sang các chương trình đặc điểm nhân khẩu tái định cư lồng ghép với chương trình phủ học của người di cư xanh đất trống đồi trọc và các chương trình trong nước, sau đó phục hồi ven biển46. trình bày sơ lược về các xu hướng lịch Tuy nhiên bên cạnh các chương trình di cư sử của di dân ở Việt theo kế hoạch của Chính phủ, trong giai đoạn Nam giai đoạn sau này hiện tượng di dân tự do trong nước cũng chiến tranh và sự bắt đầu phát triển. Những sự di chuyển này tiến triển của di cư nằm ngoài kế hoạch của Nhà nước và liên trong tương lai. Cuối cùng bài viết sẽ nhấn quan tới tác động của chính sách Đổi Mới mạnh một số khái niệm cơ bản hoặc một số trong những năm 1980 và là điểm khởi đầu loại hình di cư trong nước ở Việt Nam. Các cho quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập phân tích về di cư và phát triển trình bày dưới trung sang nền kinh tế theo định hướng thị đây được trình bày dựa trên bối cảnh này. trường. Những cải cách này làm giảm nhẹ một số điều kiện mà trước đây vẫn hạn chế 2.1 Lịch sử di cư trong nước ở Việt Nam sự di chuyển, cụ thể là xóa bỏ hệ thống bao cấp liên quan chặt chẽ với việc đăng ký hộ Di cư trong nước không phải là một hiện khẩu của hộ gia đình và bắt đầu áp dụng cơ tượng mới trong xã hội Việt Nam mà đây là chế khoán cho hộ gia đình. Chính điều này một phần của lịch sử. Sau khi thống nhất đất khiến người nông dân không còn bị bó buộc nước năm 1975 đã có một sự di chuyển dân với ruộng đồng nữa và đồng thời bắt đầu số lớn từ thành phố về các khu vực nông tạo nên thị trường đất đai, từ đó cho phép thôn. Xu thế di cư này một phần là do chương người dân linh hoạt hơn khi di chuyển sau trình tái định cư theo kế hoạch của Nhà nước khi chuyển nhượng hoặc cho thuê lại đất đai đưa cư dân thành phố về các khu vực kinh tế của mình47. mới và một phần lý do khác là người dân trở 45 Guest, Philip (1998), Động thái của Di cư trong nước ở Việt Nam, Bài viết thảo luận của Tổ chức Phát triển LHQ, bài 1. 46 Năm 1993, chương trình tái định cư được lồng ghép với một số dự án của chương trình 327 về trồng rừng: Quyết định 327/1992/CT của Thủ tướng chính phủ (ngày 15 tháng 9, 1992). Chương trình 773 năm 1995 về phục hồi khu vực duyên hải cũng có chương trình tái định cư tại một số địa bàn: Nghị định số 773 TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 21 tháng 12, 1994). 47 NCSSH (2001), ghi chú 4; Scott và Chuyen (2004), chi chú 5. 20 Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
- Chính sách Đổi Mới cũng thúc đẩy sự phát những sự khác biệt rõ ràng nhất là di cư giữa triển kinh tế nhanh chóng và góp phần giúp nam và nữ49. Ví dụ sự phát triển của khu vực Việt Nam xóa đói giảm nghèo. Đây là thành dệt may xuất khẩu đã thu hút chủ yếu là lao tựu mà Việt Nam đã được cộng đồng quốc động nữ và sự xuất hiện của “hộ gia đình có tế công nhận. Khu vực ngoài quốc doanh cả cha và mẹ cùng làm việc” đã tạo ra nhu bắt đầu tăng nhanh với sự xuất hiện của đầu cầu cần sử dụng người giúp việc, một loại tư trực tiếp nước ngoài, thu hút lao động và hình công việc mà chủ yếu do người di cư nữ khuyến khích người dân di cư tới những khu làm. Sự thay đổi vai trò của phụ nữ trong nông vực có nhiều công ăn việc làm. Song song nghiệp cũng liên quan tới xu hướng di cư mặc với xu hướng di chuyển này là xu hướng dù người ta vẫn đang tranh luận về mối quan ngày càng ít người dân sống dựa vào các hệ đặc thù này. Một số người cho rằng với sự sản phẩm truyền thống hoặc sản xuất nông suy giảm của khu vực nông nghiệp, di cư tới nghiệp vì thế người ta thường chọn giải pháp thành thị là một trong những cách duy nhất di cư đi khỏi khu vực của mình. Khi quá trình mà phụ nữ có thể tìm được việc làm phi nông công nghiệp hóa và phát triển kinh tế tiếp nghiệp vì “việc đồng áng vốn đã ít, lại thường diễn với sự gia tăng các hoạt động kinh tế chỉ giành cho nam giới”50. Tuy nhiên một số trong lĩnh vực sản xuất và trong các khu công khác lại đề cập đến hiện tượng “nữ hóa nông nghiệp đóng tại hoặc gần các thành phố lớn, nghiệp”, khi nam giới di cư đi tìm các cơ hội sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị ngày việc làm phi nông nghiệp, phụ nữ ở lại phải càng lớn. Chẳng hạn tiền công cho các công cáng đáng các công việc đồng áng51. việc ở các khu công nghiệp và trong lĩnh vực sản xuất tại các khu đô thị thường cao gấp Ở Việt Nam, lao động và di cư trong nước có 5-7 lần các công việc nông nghiệp vì thế đẩy mối quan hệ chặt chẽ với nhau, đây là một người dân di cư đi tìm các công việc có mức điểm rất rõ ràng trong giai đoạn suy thoái kinh tiền công cao hơn48. tế toàn cầu 2008-2009. Đánh giá nhanh cho thấy lao động, đặc biệt là lao động nữ52 và Tác động của cải cách thị trường và sự phát những lao động trong khu vực phi chính thức triển kinh tế mạnh mẽ đã tạo nên động lực phải gánh chịu sự giảm thu nhập, bị mất hoặc cho quá trình di cư trong nước. Tuy nhiên các thiếu việc làm53. Các đánh giá này cũng cho động lực này không đồng nhất và một trong thấy lao động di cư là nhóm bị tác động rõ rệt 48 Scott and Chuyen (2004), ghi chú 5; Balisacan, Arsenio M., Pernia Ernesto M. and Estrada Gemma (2003) tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam, bài viết số 42 trang 14 của Vụ Nghiên cứu và Kinh tế ngân hàng phát triển Châu á; Trung tâm hỗ trợ chất lượng cuộc sống và Christina Cacioppo (2006), Tình trạng di cư và buôn bán phụ nữ trẻ em: Đánh giá nhanh tại TP Cần Thơ, tỉnh Hậu Giang, và tỉnh Tây Ninh của Miền Nam Việt Nam, bài viết cho Dự án tiểu vùng sông Mê kông của Tổ chức Lao động quốc tế về chống nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em. 49 Kabeer, Naila và Tran Thi Van Anh (2006), Toàn cầu hóa, Giới và việc làm trong thời kỳ kinh tế chuyển đổi: Tình huống của Việt Nam; bài viết của nhóm làm việc quốc tế về Giới, kinh tế vĩ mô và kinh tế quốc tế, Số 06-3. 50 Trung tâm hỗ trợ Chất lượng cuộc sống và Cacioppo (2006), ghi chú 47. 51 Liên Hợp Quốc tại Việt Nam (2008), Giới và biến đổi khí hậu ở Việt Nam: nghiên cứu các tài liệu hiện có. Trong năm 2006, tỷ lệ phụ nữ và nam giới tham gia vào các hoạt động nông nghiệp là 80% so với 60% theo tài liệu của Ngân hàng thế giới (2006), Thúc đẩy sự phát triển của Việt Nam: Tăng trưởng, công bằng và đa dạng, trang 28. 52 Cling, Jean-Pierre, Razafindrakoto Mireille và Roubaud François (2009) Đánh giá tác động của khủng hoảng toàn cầu lên thị trường lao động và khu vực phi kết cấu ở Việt Nam. Bài viết trình bày tại Cuộc họp các nhà kinh tế Việt Nam thường niên tại Hà Nội ngày 25 và 26 tháng 11, 2009. 53 Oxfam GB và Ngân hàng thế giới (tháng 3, 2009), Đánh giá nhanh về tác động xã hội của khủng hoảng kinh tế toàn cầu ở Việt Nam, tóm tắt các nghiên cứu vòng 1; Viện Khoa học Việt Nam (2009) Đánh giá tác động của khủng hoảng tài chính ở Việt Nam: Giám sát tác động nhanh (RIM). Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam 21
- nhất vì họ thường tập trung làm việc tại các rằng tác động lớn nhất của sự thay đổi khí hậu doanh nghiệp xuất khẩu và trong khu vực phi đối với con người chính là việc khiến họ phải chính thức. Cuộc khủng hoảng kinh tế cũng di chuyển. Trên phạm vi toàn cầu, những sự cho thấy có sự phân nhánh xã hội sâu sắc chứ kiện khí hậu ven biển, hiện tượng xói mòn ven không chỉ là tác động tới các dòng di cư. Khi bờ, hiện tượng lụt lội ven biển, mực nước biển lao động di cư không có việc và không gửi tiền gia tăng và mùa màng thất bát là nguyên nhân về gia đình, thu nhập của cộng đồng nơi đi khiến hàng triệu người đã phải rời khỏi nơi cư cũng giảm đi đáng kể54. Trong một số trường trú của mình. Các số liệu khoa học về sự thay hợp, khó khăn khiến người di cư phải quay đổi khí hậu toàn cầu cho thấy Việt Nam sẽ là trở về nhà, tạo áp lực cho lực lượng lao động một trong những nước chịu thiệt hại nặng nề nông nghiệp nông thôn hoặc khiến họ phải nhất của sự thay đổi khí hậu55 và người ta phỏng di chuyển vào khu vực phi chính thức mà ở đoán rằng một số vùng và một số nhóm cư dân đó họ không được tiếp cận với gói hỗ trợ của nhất định chẳng hạn như người nghèo, người chính phủ. Mặc dù những đánh giá ở đây chỉ dân tộc thiểu số, phụ nữ nông thôn, người già mới là đánh giá sơ bộ ban đầu, có thể thấy rõ và trẻ em sẽ chịu tác động nặng nề hơn những ràng rằng khủng hoảng tài chính toàn cầu có đối tượng khác. Di cư sẽ trở thành một trong những tác động đáng kể tới các xu thế di cư và những phương thức giúp người dân đương tới các quyền bảo trợ xã hội cho những người đầu và thích nghi với những thay đổi này bằng bị ảnh hưởng. Có thể thấy rằng quỹ đạo kinh cách di chuyển tạm thời hoặc di chuyển lâu dài tế trong tương lai sẽ có những tác động tương tới địa điểm khác nhằm đảm bảo sự an toàn và tự đến mô hình di cư trong nước. ổn định cuộc sống. Đã có những bằng chứng cho thấy người dân buộc phải di cư trong nước Cũng cần phải lưu ý tới vai trò của các xu do những điều kiện thay đổi về môi trường, có hướng nhân khẩu học hình thành nên các thể là do thiên tai hoặc do tác động thay đổi khí dòng di cư trong tương lai. Khi Việt Nam hậu diễn ra từ từ56. Chẳng hạn nghiên cứu ở bước vào “thời kỳ dân số vàng” trong đó dân khu ven biển miền trung phía bắc của Việt Nam số trong độ tuổi lao động sẽ vượt xa dân số cho thấy do cuộc sống và thu nhập của người phụ thuộc. Trong khoảng 30 năm tới, ước tính dân bị ảnh hưởng bởi những thay đổi về đất hàng năm có khoảng 1 triệu thanh niên sẽ đai, điều kiện khí hậu và nước, nhiều người dân tham gia vào thị trường lao động. Lực lượng đã buộc phải di cư trong nước và coi đây là một lao động dồi dào sẽ tạo ra nhiều cơ hội to phương thức thay thế cho việc mất thu nhập57. lớn cho phát triển kinh tế ở Việt Nam, mặt Ngoài ra phân tích trong điều tra mức sống hộ khác sẽ có thể làm tăng tỷ suất di cư vì thanh gia đình năm 2004 và 2006 cho thấy có một niên sẽ di chuyển tới các khu vực có tập trung mối quan hệ giữa thiên tai và những thay đổi nhiều công ăn việc làm. đột biến trong sản xuất (các cú sốc trong sản Bên cạnh những yếu tố kinh tế và nhân khẩu xuất) với các xu thế di cư mùa vụ và di dân tự 58 học của di cư, môi trường tự nhiên cũng dần do trong nước . được coi là tác nhân đã và đang tác động tới Bên cạnh loại hình di cư tự do có nguyên xu thế di cư trong nước. Người ta đánh giá nhân do những thay đổi môi trường, hình thức 54 Oxfam GB và Ngân hàng thế giới (tháng 3, 2009), Đánh giá nhanh về tác động xã hội của khủng hoảng kinh tế toàn cầu ở Việt Nam. 55 Liên hợp quốc tại Việt Nam (2009), Việt Nam và sự biến đổi khí hậu: bài thảo luận về chính sách cho phát triển nhân lực bền vững 56 Dun Olivia (2009), “Quan hệ giữa lũ lụt, di cư và tái định cư” báo cáo nghiên cứu tình huống ở Việt Nam về thay đổi khí hậu và các kịch bản di cư bắt buộc (EACH-FOR), trang 18. 57 Vu Quang Hoang, và cộng sự. (2008) Nghiên cứu tác động của thay đổi khí hậu lên Nông nghiệp và an ninh lương thực: nghiên cứu tình huống của Việt Nam, Actionaid. 58 Nguyen Minh và Paul Winters (2009), Tác động của di cư lên Dinh dưỡng: trường hợp của Việt Nam. 22 Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
- tái định cư theo các chương trình của Chính rằng con số di cư không chính thức lớn hơn phủ cho những người chịu tác động của thiên nhiều so với 6,6 triệu người được ghi nhận tai (bắt đầu từ giữa những năm 1990) đang trong cuộc điều tra. Ở Trung Quốc với hệ được đẩy mạnh. Các quyết định gần đây của thống đăng ký hộ khẩu tương tự như ở Việt Chính phủ cho thấy với vai trò như một phần Nam, người ta ước tính rằng có khoảng từ trong chính sách “sống chung với lũ”, một số 50-120 triệu người di cư chưa được thống lượng lớn các hộ gia đình sẽ được tái định cư kê, điều này có nghĩa là những người di cư vào năm 2015. Với cách nhìn nhận này của không đăng ký hộ khẩu có thể lớn hơn nhiều Chính phủ cùng với hiện tượng di dân tự do số di cư có đăng ký với tỷ lệ 4:160. Theo một là hệ quả của sự thay đổi khí hậu đã trình bày số nhà bình luận, nếu áp dụng tỷ lệ này vào ở trên cho thấy sự thay đổi môi trường và khí Việt Nam thì con số người di cư chưa được hậu sẽ tiếp tục là một yếu tố tác động đáng kể thống kê trong các số liệu quốc gia có thể tới vấn đề di cư trong nước ở Việt Nam trong dao động từ 12-16 triệu người61. những thập kỷ tới. Về các đặc điểm nhân khẩu học của người 2.2 Số lượng và đặc điểm nhân khẩu dân di cư, cuộc Tổng điều tra năm 1999 cho học của các dòng di cư hiện tại thấy hầu hết người di cư đều là những người trẻ tuổi và chưa có gia đình: khoảng 60% số Theo Tổng điều tra dân số năm 2009, hiện người di cư nam và 66% số người di cư nữ có khoảng 6,6 triệu người (tương đương với trong độ tuổi từ 15-29 và phần lớn trong số khoảng 7,7% dân số) từ 5 tuổi trở lên thay đổi họ đều chưa lập gia đình62. Kết quả này cũng nơi cư trú tới địa điểm khác trong thời gian từ tương tự với kết quả điều tra giữa kỳ năm năm 2004-2009. Con số này tăng hơn so với 2004 ở Thành phố Hồ Chí Minh, cụ thể là độ con số 2,1 triệu người di cư ghi nhận trong tuổi di cư của nữ thường sớm hơn của nam cuộc tổng điều tra dân số năm 1999. Trong và số lượng người di cư là nữ đang ngày số những người dân di cư ghi nhận trong càng tăng63. Đặc biệt số phụ nữ di chuyển tới cuộc tổng điều tra năm 1999, hơn một nửa các khu đô thị và khu công nghiệp đã bắt đầu người di cư là phụ nữ chiếm 53,6 % và 46,4 vượt con số người di cư là nam giới. Điều này % người di cư là nam giới59. Tuy nhiên như phản ánh nhu cầu ngày càng cao về lao động đã trình bày trong phần 1.2, các số liệu của nữ cao tại các khu vực công nghiệp phát triển Tổng điều tra dân số có thể đã bỏ qua nhiều nhanh. Một số lượng lớn người di cư cũng di người di cư mùa vụ, những người tạm trú, chuyển cùng gia đình. Điều tra Di cư ở Việt những sự di chuyển diễn ra lâu hơn 5 năm Nam năm 2004 cho thấy 38% những người trước khi tiến hành cuộc điều tra và những được phỏng vấn trả lời họ di chuyển cùng với di chuyển con lắc. Chính vì thế người ta cho gia đình. 59 Tổng điều tra 2009 không tính được các dòng di cư hình thành với các đặc trưng nam và nữ. 60 Le Bach Duong và cộng sự (2005), Bảo trợ xã hội cho những người có nhu cầu nhất ở Việt Nam. Le Bach Duong và cộng sự đã dựa trên số dân số ước tính của Trung quốc của Ping, Huang và Pieke Frank (2003) Nghiên cứu về di cư của Trung quốc, bài viết trình bày tại Hội nghị khu vực về Di cư, phát triển và sự lựa chọn chính sách cho những nhóm rất nghèo ở Châu Á tại Dhaka từ 22–24 tháng 6; và dựa trên tính toán của Guest, Philip (2003), Xóa những lỗ hổng: Di cư trong nước ở Châu Á, Hội đồng Dân số Thái Lan. Bài viết chuẩn bị cho Hội nghị về Di cư Châu Phi trong phối cảnh so sánh, Johannesburg từ 4 – 7 tháng 6. 61 Le Bach Duong, và cộng sự (2005), Bảo trợ xã hội cho những người có nhu cầu nhất ở Việt Nam. 62 Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và Nhà ở Trung ương (1999), Điều tra dân số và nhà ở năm 1999: kết quả chọn mẫu. 63 Dang Nguyen Anh (2006) Di cư trong nước ở Việt Nam: Cơ hội và thách thức cho sự phát triển, bài viết trình bày tại Hội nghị khu vực về di cư và phát triển ở Châu Á (Lanzhou, Trung Quốc 2006). Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam 23
- 2.3 Động cơ di cư trình này của Chính phủ, con số này chưa được một nửa của 4,5 triệu người di cư được Phần lớn (khoảng 70%) những người di cư ghi nhận trong cuộc tổng điều tra dân số trong trong nước là vì lý do kinh tế, bao gồm cả di cùng giai đoạn này67. Kể từ những năm 1990, 64 cư tìm việc làm và cải thiện điều kiện sống . số lượng người di cư ngoài các chương trình Tuy nhiên cũng cần chú ý rằng động cơ di cư của Chính phủ ngày càng gia tăng và vì thế của cá nhân và hộ gia đình không mang tính họ được gọi là những người “di cư tự do”. một chiều mà thường lồng ghép với nhiều các yếu tố khác. Có thể thấy những động cơ Một trong những chương trình di cư theo kế “kết hợp” này ở hầu hết các trường hợp di hoạch của Chính phủ là dựa trên chính sách cư trong nước ở Việt Nam. Ví dụ di cư do định canh định cư, một chính sách khuyến sự thay đổi khí hậu có thể liên quan tới các khích các hộ gia đình dân tộc thiểu số thực yếu tố về kinh tế, trong trường hợp này các hiện đốt nương làm rẫy để định cư và thực cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng di chuyển hiện định canh dưới hình thức đưa họ tới các do sinh kế của họ không còn phù hợp nữa, vùng kinh tế mới68. Ước tính đến năm 2000 có chẳng hạn đất ngập mặn nên công việc trồng 1,2 triệu người (khoảng 200.000 hộ gia đình) trọt không còn phù hợp nữa65. Thậm chí với tham gia vào chương trình định canh định cư tiêu chí “động cơ kinh tế” có thể xác định các này69. Kể từ những năm 1990 chương trình yếu tố cụ thể, chẳng hạn như tăng thu nhập định canh định cư không được thực hiện với với vai trò là một chiến lược đối phó (trong quy mô lớn nữa mà thay vào đó được kết hợp trường hợp có rất ít hoặc không có chiến lược với chương trình trồng rừng và các dự án xóa thay thế) nhằm tăng khả năng an ninh kinh tế đói giảm nghèo ở một số địa phương cụ thể. hoặc tích lũy những gì thực sự cần thiết66. Những đối tượng dễ bị ảnh hưởng bởi môi 2.4 Di cư tự do và di cư có tổ chức trường khắc nghiệt hoặc những người phải gánh chịu hiểm họa thiên nhiên là một nhóm Từ những năm 1960, Chính phủ Việt Nam đã dân số khác thuộc đối tượng của các chương áp dụng các chương trình tái định cư một số trình di cư theo kế hoạch của chính phủ. Kể nhóm dân cư nhất định với tên gọi di cư theo từ năm 1996, chiến lược quản lý thiên tai của chương trình của nhà nước hoặc di cư có tổ Chính phủ đối với khu vực đồng bằng sông chức. Trong giai đoạn từ 1994-1999, đã có Mê-kông với tên gọi “sống chung với lũ”70 đã 2.105.000 lượt người di cư theo các chương tái định cư các hộ gia đình do môi trường ví 64 GSO, Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (2005), Điều tra Di cư năm 2004; Các kết quả chủ yếu, Nhà xuất bản Thống kê, Tổng cục Thống kê. 65 Vu Quang Hoang, Phạm và cộng sự (2008), Nghiên cứu về tác động của thay đổi khí hậu lên Nông nghiệp và an ninh lương thực. 66 Winkels, Alexvàra (2009), Sự yếu thế của người dân di cư: Vai trò chưa rõ ràng của các mạng lưới xã hội. Bài viết trình bày tại hội thảo Quốc gia có di cư, Canberra từ 19 - 20 tháng 11, 2009. 67 Dang Nguyen Anh (2005), Di cư trong nước: cơ hội và thách thức cho Đổi mới và phát triển ở Việt Nam. 68 Quyết định 33/2007/QD-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 5 tháng 3, 2007, về các chính sách hỗ trợ việc tái định cư cho người dân tộc thiểu số cho định canh và định cư trong giai đoạn 2000-2010. 69 Vo Thanh Son, Đói nghèo và Sử dụng các nguồn lực tự nhiên: nghiên cứu tình huống tại miền núi phía bắc của Việt Nam do Rudolphe De Koninck, Jules Lamarre và Bruno Gendron thực hiện (eds.) (2003), Hiểu biết về đói nghèo ở Việt Nam và Phi-líp-pin: Các khái niệm và bối cảnh (Dự án xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam) trang 110. 70 Cách tiếp cận “Sống chung với lũ” bao gồm việc đảm bảo an toàn cho phát triển bền vững, các biện pháp ngăn chặn thiên tai chẳng hạn như lũ lụt, và cách tận dụng lũ lụt. Đối với miền Bắc Việt Nam chiến lược của Chính phủ tập trung phòng lũ lụt và đối phó với lũ lụt, với các biện pháp mang tính cơ cấu lớn hơn như xây dựng hệ thống đê điều, làm chệch dòng lũ và xây dựng các hồ chứa nhân tạo. Quyết định 172/2007/ QĐ272;-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về phòng chống, đối phó và giảm nhẹ hậu quả thiên tai tới năm 2020 (16 tháng 11, 2007). 24 Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
- dụ như nguy cơ thiên tai, vệ sinh môi trường, là người di cư mùa vụ. Các số liệu này cũng nguy cơ sụt lở bờ và bảo vệ rừng71. Một số cho biết có 11,9% các hộ gia đình có người di yếu tố không thuộc môi trường cũng được cư mùa vụ75. Con số này cho thấy sự gia tăng cân nhắc chẳng hạn như bảo vệ thiên nhiên đáng kể về số di cư mùa vụ được thống kê so và ổn định các gia đình di cư đã minh họa cho với một thập kỷ trước với chỉ 1,3% các hộ gia mối quan hệ giữa sự di chuyển do thiên tai và đình có người di cư theo số liệu của điều tra sự di chuyển theo chính sách định canh định mức sống dân cư năm 1993 và 6,15% theo cư đề cập ở trên. Tại miền trung Việt Nam số liệu của cuộc điều tra mức sống dân cư cũng có một chính sách tương tự với việc tái năm 199876. định cư các hộ gia đình tới “khu dân cư” theo kế hoạch và cơ cấu phòng chống thiên tai. Di cư con lắc hoặc di cư tạm thời là một đặc điểm đang tăng trong xu hướng di cư tại Châu Yêu cầu giải tỏa đất cho việc xây dựng các Á và thời gian có thể dao động từ di chuyển công trình lớn ví dụ như nhà máy điện, khu hàng tuần tới vài năm và có ý định quay trở kinh tế hoặc xây dựng cầu cũng là một lý do lại. Có thể một số người di cư được ghi nhận khác đưa tới việc di cư theo các chương trình trong cuộc tổng điều tra là những người di cư của chính phủ72. Chẳng hạn như việc xây tạm thời với thời gian ít nhất là 5 năm. Tuy dựng nhà máy Thủy điện Sơn La ở phía Bắc nhiên các con số của tổng điều tra dân số bao Việt Nam dẫn tới việc phải di cư 78.908 người gồm cả những người di cư lâu dài đã khiến trong số đó ước tính khoảng 60-90% là người chúng ta khó có thể phân biệt con số chính dân tộc Thái73. xác của mỗi loại trên. Về di cư lâu dài chúng ta biết rằng tất cả các chương trình di cư theo 2.5 Thời gian di cư kế hoạch của Chính phủ đều nhằm mục đích tái định cư lâu dài các hộ gia đình và vì thế Có thể phân nhóm di cư trong nước thành di phần lớn những người di cư mùa vụ và di cư cư mùa vụ, di cư tạm thời và di cư lâu dài74. tạm thời được coi là di cư tự do nằm ngoài Di cư mùa vụ thường là các gia đình ở nông các chương trình của Chính phủ. thôn có người di cư trong thời gian nông nhàn để kiếm thêm thu nhập. Số liệu điều tra mức 2.6 Di cư nông thôn – thành thị sống hộ gia đình năm 2004 và năm 2006 cho thấy khoảng 3,3% các cá nhân được phỏng Số liệu của Tổng điều tra dân số năm 1999 vấn có di chuyển trong 6 tháng hoặc ít hơn 6 cho rằng di cư tới các khu vực đô thị chiếm tháng trong năm. Các đối tượng này được coi hơn một nửa tổng số di cư trong nước của 71 Dun, Olivia (2009), ‘Mối quan hệ giữa lũ lụt, di cư và tái định cư’. 72 Waibel, Michael và cộng sự (2007), Nhà ở cho những nhóm thu nhập thấp ở thành phố Hồ Chí Minh: Các cách thức tiếp cận đầy đủ các loại hình ở thành thị và các chiến lược về không gian ASIEN số 103. 73 65% các hộ gia đình dân tộc thiểu số theo thống kê của Ngân hàng Phát triển Châu Á (2005) thực thi kế hoạch quản lý môi trường cho Dự án nhà máy thủy điện Sơn La, Báo cáo hỗ trợ kỹ thuật, dự án 39537, trang 3. 80% theo Bladh Ulrika và Eva-Lena Nilsson (2005) Làm thế nào để lập kế hoạch tái định cư không tự nguyện. Trường hợp dự án Thủy điện Sơn la của Việt Nam. Luận văn Thạc sỹ - Viện công nghệ Hoàng gia 2005. Có thể truy cập tại 89% theo Hệ thống Dòng chảy Quốc tế (2001), Đập nước theo kế hoạch của Việt Nam, có thể truy cập tại http:// www.internationalrivers.org/en/southeast-asia/vietnam/planned-dams-vietnam. 74 IOM (2008), Di cư Thế giới 2008: Quản lý lao động lưu động trong nền kinh tế phát triển toàn cầu, IOM Báo cáo Di dân thế giới, Số 4, trang 174. di cư tạm thời và di cư lâu dài đôi khi được gọi là di cư ngắn hạn và dài hạn. 75 Nguyen Minh và Paul Winters (2009) Tác động của di cư lên vấn đề Dinh dưỡng. 76 Tự tính toán dựa trên số liệu của De Brauw Alan & Harigaya Tomoko (2007), Di cư mùa vụ và nâng cao mức sống ở Việt Nam, Tạp chí Kinh tế nông nghiệp Hoa kỳ 89(2). Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam 25
- Việt Nam với 53%, trong đó 27% di cư từ các trong các khu công nghiệp, lao động di cư tới khu vực nông thôn ra thành thị và 26% di cư các địa bàn dự án xây dựng cơ sở hạ tầng giữa các khu vực thành thị. Đối với những nơi sẽ xây dựng đường, cầu, nhà máy điện, người di cư từ nông thôn ra thành thị, các nơi đường ray xe lửa và các phương tiện giao đến phổ biến nhất là các thành phố lớn như thông khác80. Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng. Dòng di cư tới các khu đô thị này 2.7 Di cư giữa các vùng và các tỉnh chiếm 1/3 mức tăng dân số của các khu đô Tổng điều tra dân số năm 2009 cho thấy 50% thị trong giai đoạn 1994-1999. Trong trường con số những người di cư là di cư nội tỉnh và hợp thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, số nửa còn lại (50%) di chuyển liên tỉnh, điều này dân di cư làm tăng gấp đôi dân số ở hai thành thể hiện sự tăng lên của dòng di cư nội tỉnh phố này77. Gần đây di cư đã góp phần phát so với số liệu của cuộc điều tra năm 199981. triển các thành phố địa phương như Cần Vùng Đông Nam bộ là khu vực thu hút người Thơ, Long Xuyên, Cà Mau tại khu vực Đồng dân di cư vì có nhiều khu công nghiệp và có bằng sông Mê kông và góp phần phát triển một số lượng lớn đầu tư nước ngoài, đã vượt các trung tâm kinh tế như Quảng Ninh, Bình qua khu vực Tây Nguyên về số lượng người Dương và Đồng Nai. di cư đến và tỷ suất di cư thuần. Trong những Di cư trong khu vực nông thôn cũng đóng góp năm 1990, các vùng Tây Nguyên thu hút một một phần không nhỏ vào di cư trong nước, số lượng lớn người di cư theo kế hoạch của chiếm 47% dòng di dân được thống kê trong Chính phủ và cả những người di cư tự do đi cuộc tổng điều tra năm 1999. Thực tế Điều tra tìm đất trồng và đất đai màu mỡ, để đầu tư biến động dân số năm 2008 cho thấy dòng di trồng cà phê do có sự bùng nổ xuất khẩu cà cư trong nước tới các khu vực nông thôn cao phê trong thập kỷ đó82. Hai vùng Duyên hải hơn di cư tới các khu vực thành thị trong năm miền trung và Đồng bằng sông Mê Kông là trước của cuộc điều tra78. Hầu hết dòng di cư các khu vực gần với các vùng có mức sống lâu dài nông thôn - nông thôn ở Việt nam là sự cao hơn và nhiều cơ hội việc làm. Điều này di chuyển của người dân từ những vùng có lý giải lý do tại sao số người di cư đi của các năng suất nông nghiệp thấp tới những vùng khu vực này cao hơn các khu vực vùng cao có năng suất cao hơn nhờ những cơ hội mới nghèo khác ở miền Bắc. trong nông nghiệp. Chẳng hạn có những sự Nếu xem xét theo tỉnh, các khu vực có các di chuyển đáng kể từ những vùng đông dân khu công nghiệp và các thành phố lớn là tại Đồng bằng sông Hồng ở miền Bắc Việt những nơi thu hút nhiều người di cư nhất Nam tới khu vực Tây Nguyên79. Dòng di cư chẳng hạn như thành phố Hồ Chí Minh với tỷ tạm thời và di cư mùa vụ từ nông thôn - nông suất di cư thuần là 116%, Đà Nẵng là 77,9%, thôn thường là những người di cư làm việc 77 TCTK & UNFPA (2005), Điều tra di cư Việt Nam năm 2004; Các kết quả chủ yếu, Nhà xuất bản Thống kê, Tổng cục Thống kê 78 Lưu ý rằng các dữ liệu không mang tính so sánh vì tổng điều tra định nghĩa di cư là người đi khỏi nhà trong thời gian 5 năm trong khi đó Bộ công an lại sử dụng khung thời gian là 1 năm. 79 Deshingkar, Priya và Grimm Sven (2009), Di cư trong nước và phát triển: Khía cạnh toàn cầu, Loạt bài viết nghiên cứu về di cư, Số 19. IOM. 80 ADB và IOM (2009), Cơ sở hạ tầng và HIV tại tiểu vùng sông Mê kông: Đánh giá các tài liệu hiện hành. 81 Cuộc tổng điều tra dân số năm 1999 ghi nhận 55% di cư trong nước di chuyển nội tỉnh. Ban chỉ đạo tổng điều tra trung ương (1999), Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 1999: Kết quả chọn mẫu. 82 Cu, Chi Loi (2000), Di cư nông thôn – thành thị ở Việt Nam, Ấn phẩm của Viện Kinh tế phát triển. 26 Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
- Đồng Nai là 64,4% và Hà Nội là 50%83. Có lẽ một số lượng lớn các khu công nghiệp đóng trường hợp đặc thù nhất là tỉnh Bình Dương ở đây84. với tỷ suất di cư thuần lên tới 341,7% do có Bảng 1: Tỷ suất nhập cư, tỷ suất di cư và tỷ suất di cư thuần theo khu vực theo số liệu mẫu điều tra của Tổng điều tra dân số năm 1999 và 200985. Tỷ suất nhập cư Tỷ suất di cư Tỷ suất di cư thuần * Vùng 1999 2009 1999 2009 1999 2009 Đông Bắc 16,15 27,53 - 11,38 15,9 33,5 - 17,5 Tây Bắc 13,24 14,57 -1,32 Đồng bằng Sông Hồng 23.28 35,0 32,61 36,7 -9,33 - 1,7 Duyên hải miền Trung 8,61 31,97 -23,36 phía Bắc 16,0 50,6 - 34,6 Duyên hải miền Trung 17,02 29,74 -12,71 phía Nam Tây Nguyên 86,24 43,3 16,22 32,1 70,02 11,2 Đông Nam 68,33 135,4 26,80 27,7 41,53 107,7 Đồng bằng sông 14,71 16,3 24,59 56,7 -9,88 - 40,4 Mê kong *Tỷ suất nhập cư là tỷ số giữa số người nhập cư trên tổng số dân địa phương (nghìn) Tỷ suất di cư là tỷ số giữa số người di cư trên tổng số dân địa phương (nghìn) Tỷ suất di cư thuần là tỷ số của tổng số người nhập cư trừ đi tổng số người di cư trên tổng số dân địa phương (nghìn) 83 Tỷ suất di cư thuần là chệnh lêch giữa tỷ suất nhập cư và tỷ suất di cư. Tỷ suất nhập cư và di cư đi được tính bằng tỷ số của những người đến/đi tại một đơn vị hành chính so với tổng số người cư trú tại đơn vị hành chính đó. Ban chỉ đạo trung ương Tổng điều tra dân số và nhà ở (2009). Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam lúc 00.00 giờ ngày 1 tháng 4 năm 2009: Tổ chức thực hiện và các kết quả sơ bộ. 84 Cùng tài liệu trên. 85 Dựa trên bảng 1 theo tài liệu của Cu, Chi Loi (2000), Di cư Nông thôn - thành thị ở Việt Nam. Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam 27
- PHẦN 3 – DI CƯ VÀ PHÁT TRIỂN Trong hai thập kỷ 3.1 Người di cư vừa qua, làn sóng di cư của lực lượng Trong khi người di cư đã có những đóng góp lao động từ nông đáng kể cho sự phát triển kinh tế của Việt thôn ra thành thị và Nam, nhiều người di cư đã sống và làm việc tới các khu công trong những điều kiện khiến họ trở thành một nghiệp đã đóng một nhóm người đặc biệt dễ bị tổn thương. Trong vai trò quan trọng nhiều trường hợp, sự dễ bị tổn thương này đáp ứng nhu cầu xuất phát từ việc không có khả năng tiếp cận lao động do công các dịch vụ cơ bản và điều kiện sống không cuộc Đổi Mới tạo đầy đủ; bị đối xử khác biệt trên thị trường lao ra. Điều này cũng động; và từ những định kiến xã hội đối với họ. đã đóng góp vào Theo nhiều cách, so với người không di cư, sự nghiệp phát triển mặc dù những người di cư có thu nhập cao kinh tế xã hội ngày hơn sau khi di cư, họ vẫn dễ bị tổn thương càng lớn của Việt về mặt kinh tế và xã hội hơn và ít được bảo Nam, dẫn tới tình vệ hơn vì các lý do sẽ được trình bày dưới trạng di cư gia tăng đây. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhấn do sự chênh lệch mạnh là năng lực của người di cư, được coi giữa các vùng miền và giữa khu vực nông như những tác nhân làm thay đổi chiến lược thôn và thành thị ngày càng lớn. sinh kế của họ hoặc của hộ gia đình. Điều này được phản ánh qua sự rất hài lòng của Nhằm xây dựng mối liên hệ giữa di cư và phát những người di cư trong Cuộc Điều tra Di cư triển, nghiên cứu này phân tích sâu hơn về tác Việt Nam năm 2004 về cuộc sống của họ sau động của di cư tới phát triển. Đó là các quá khi di cư so với cuộc sống trước đó86. Ngoài trình di cư được vận dụng để củng cố sự phát ra, phần lớn người di cư cho biết mặc dù phải triển kinh tế xã hội một cách toàn diện và bình đối mặt với nhiều khó khăn khi di cư, họ vẫn đẳng, các phương thức để đạt được thành tựu sẽ di cư nếu phải quyết định như vậy87. phát triển có thể được sử dụng nhằm cải thiện tình trạng di cư trong nước, và từ đó góp phần Việc làm vào phát triển con người bình đẳng hơn. Ba “lăng kính” sẽ được sử dụng để nhìn lại những Ở Việt Nam, tìm việc làm tại nơi ở mới là lý lợi ích và thách thức của việc di cư trong nước: do chính khiến người lao động di cư. Nhiều một là, thông qua lăng kính của chính những người đã đạt được mục tiêu này và tìm được người di cư; hai là, thông qua các cộng đồng công việc được trả lương xứng đáng trong nơi họ đến; và ba là thông qua các cộng đồng môi trường làm việc an toàn. Họ cũng cho nơi cư trú gốc. rằng họ hài lòng với cuộc sống sau khi chuyển đến nơi ở mới, so với cuộc sống trước đó của họ88. Bằng chứng từ Cuộc Điều tra Di cư 86 Tổng Cục thống kê và UNFPA (2005), Cuộc điều tra Di cư Việt Nam 2004. 87 Dang Nguyen Anh và Le Bach Duong (2007), An sinh xã hội và Lao động di cư từ nông thông ra thành thị: các vấn đề thực hành và chính sách, Tạp chí phát triển kinh tế Xã hội của Việt Nam, Số 50. 88 Tổng cục Thống kê và UNFPA (2005), Cuộc điều tra Di cư Việt Nam 2004. 28 Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
- Việt Nam năm 2004 cho thấy người di cư là cả khi việc này không được nói đến trong các nhóm người lao động tích cực, vì họ tìm được văn bản. Số liệu cho thấy người di cư ở khu công việc nhanh chóng ngay sau khi đến nơi vực thành thị có xu hướng làm việc ở khu vực ở mới (nếu trước đó họ chưa thu xếp được) dịch vụ (gồm cả dịch vụ chuyên chở như lái và họ có được vị thế cao hơn người không di xe taxi hay lái xe ôm, công việc làm tại nhà cư trong thang bậc nghề nghiệp89. Tuy nhiên, hoặc khách sạn) và khu vực sản xuất và xây nhiều người di cư bị phân biệt đối xử và một dựng. Ngược lại, những người không di cư vài người trong số họ nhận thấy họ có nguy có xu hướng làm việc ở các vị trí việc làm cơ bị bóc lột. văn phòng, hành chính và chuyên môn. Một tỷ trọng lớn người di cư ra thành thị là những Người di cư gặp bất lợi hơn so với người người tự kinh doanh hoặc làm những công không di cư về việc kiếm sống. Cuộc Điều việc ngắn hạn hoặc tạm thời. Việc này cho tra năm 2004 cho thấy mặc dù có thêm thu thấy đảm bảo việc làm cho nhóm dân số di cư nhập sau khi di cư, mức thu nhập trung bình này vẫn còn hạn chế92. của người di cư vẫn thấp hơn nhiều so người không di cư tại nơi họ đến. Trong số những Nhiều người di cư làm những công việc tạm người di cư, nữ di cư và người di cư đến từ thời ít có khả năng bảo vệ chính họ để tránh các dân tộc thiểu số có vẻ như gặp nhiều thiệt khỏi những cách sử dụng lao động không thòi hơn về thu nhập, trung bình họ kiếm được công bằng. Sự dễ tổn thương này là kết quả ít tiền hơn so với nữ không di cư và ít hơn của việc thiếu hợp đồng lao động chính thức thu nhập của nam giới ở cả hai nhóm (di cư dành cho người di cư, có nghĩa là họ làm và không di cư)90. Vẫn còn tồn tại những sự những công việc mà luật lao động không quy khác biệt này thậm chí khi xem xét theo các định và không có sự bảo trợ của xã hội93. Điều yếu tố về tuổi tác, giáo dục và nghề nghiệp91. quan trọng cần lưu ý là tính dễ tổn thương này không ảnh hưởng tới những người di cư Một phần của sự khác biệt này có vẻ như là trong nước, ví dụ như các hợp đồng lao động kết quả của việc người di cư tập trung vào các thường không phù hợp với những người tự công việc ít được bảo vệ và lương thấp hơn, kinh doanh, và người di cư làm việc trong các còn người không di cư lại tập trung trong các khu công nghiệp thường không gặp phải vấn lĩnh vực khác. Một số người gợi ý rằng đây đề này vì họ làm việc theo các hợp đồng lao là một trong số nhiều hậu quả gián tiếp của động chính thức. Tầm quan trọng của hợp hệ thống đăng ký hộ khẩu vì trong thực tiễn, đồng lao động, đặc biệt là dành cho người di người sử dụng lao động có tính đến tình trạng cư và những người di cư tạm thời là dựa trên đăng ký hộ khẩu của người lao động, ngay cơ sở của các hợp đồng này mà người lao 89 90% người di cư ra đi vì lý do kinh tế đã tìm được công việc trong vòng sau khi di cư; UNFPA (2007), Hiện trạng Di cư trong nước ở Việt Nam. Tỷ lệ người di cư thành thị có công ăn việc làm cao hơn so với người thành thị không di cư và tỷ lệ này vẫn duy trì như vậy mặc dù sau khi điều chỉnh số liệu. Điều đó chứng tỏ một thực tế là những người di cư là những người ở độ tuổi tham gia vào lực lượng lao động cao nhất. Có một số bằng chứng thậm chí còn cho thấy tỷ lệ có công ăn việc làm của những người di cư không có giấy tờ hợp lệ còn cao hơn những người di cư hợp pháp: Guest, Phillip (1998), Sự năng động của Di cư trong nước ở Việt Nam, Báo cáo thảo luận số 1 của Chương trình phát triển Liên hiệp quốc, trang 16. 90 Deshingkar, Priya (2006), Di cư trong nước, tình trạng nghèo và phát triển ở Châu Á: bao gồm cả nhóm người chịu nhiều thiệt thòi, thông qua cơ chế quản lý hợp tác và không ngừng nâng cao. Báo cáo trình bày tại Hội nghị Châu Á 2015 về: Thúc đẩy sự phát triển, chấm dứt tình trạng nghèo, tháng 3 năm 2006. 91 Quỹ dân số Liên hiệp quốc (2007), Hiện trạng Di cư trong nước ở Việt Nam; Le Bach Duong và Khuat Thu Hong (2008), Sự biến đổi thị trường, di cư và bảo vệ xã hội. 92 Guest, Philip (1998), Sự năng động của di cư trong nước ở Việt Nam, Báo cáo thảo luận số 1 của Chương trình phát triển Liên hiệp quốc. 93 Le Bach Duong và Khuat Thu Hong (2008), Sự biến đổi thị trường di cư và bảo vệ xã hội, trang 397. Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam 29
- động có thể tiếp cận tới bảo hiểm xã hội, bảo cuộc điều tra cho biết không có bảo hiểm xã hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp. Theo Ủy hội hay bảo hiểm tai nạn lao động96. ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội, ở những nơi không có hợp đồng lao động, người sử Những con số này không chỉ cho thấy tính dễ dụng lao động thường không cảm thấy có tổn thương của những người di cư tạm thời nghĩa vụ phải cung cấp bảo hiểm xã hội và hoặc không có đăng ký hộ khẩu trên thị trường bảo hiểm y tế cho những người được tuyển lao động, mà còn cho thấy những hợp đồng dụng dựa trên hợp đồng bằng miệng hoặc lao động này không bảo đảm cho người di cư hợp đồng không chính thức94. được tiếp cận đầy đủ tới bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế mà lẽ ra họ phải được hưởng. Tỷ lệ người di cư làm việc theo hợp đồng lao Một số người gợi ý rằng việc người lao động động chính thức cũng khác nhau rất nhiều thiếu kiến thức về luật bảo hiểm xã hội, kết trên cả nước và trong các nghiên cứu khác hợp với việc xử phạt không nghiêm người sử nhau. Theo cuộc điều tra di cư của Việt Nam dụng lao động vi phạm pháp luật, đã khiến năm 2004, 58% nam di cư ở thành phố Hồ nhiều người lao động, kể cả người lao động Chí Minh có hợp đồng lao động95. Tuy nhiên, di cư, không tiếp cận được tới các chính sách tỷ lệ nữ di cư trong cùng lĩnh vực có hợp đồng bảo trợ xã hội cần thiết97. Theo đó, mặc dù bản lao động cao hơn nhiều (80%), và nam nữ di thân hợp đồng lao động không đảm bảo rằng cư ở Hà Nội cũng có tỷ lệ làm việc có hợp người di cư sẽ được bảo vệ đầy đủ, nhưng đồng cao hơn (83%). Có vẻ như tỷ lệ nữ di việc có hợp đồng như vậy sẽ là một bước cư làm việc có hợp đồng lao động ở thành quan trọng trong hướng đi này. Bước tiếp theo phố Hồ Chí Minh cao hơn là kết quả của tỷ cần có là đảm bảo người lao động di cư cũng lệ nữ di cư cao hơn nam di cư tại các khu như người sử dụng lao động nhận thức được vực công nghiệp (so với khu vực không chính và thi hành đầy đủ quyền và trách nhiệm của thức). Tuy nhiên, một nghiên cứu với quy mô họ đối với luật bảo hiểm xã hội. nhỏ hơn vào năm 2003 được thực hiện tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, và Đà Nẵng tập Mặc dù nhiều người di cư làm việc không trung vào người di cư có hoặc không có đăng chính thức bị tổn thương vì bị bóc lột lao động, ký tạm trú cho thấy chỉ có 36% người di cư một nhóm đặc biệt thường bị bỏ ra ngoài là có hợp đồng lao động. Ngoài ra, 38% người nhóm người di cư làm nghề mại dâm. Nhiều di cư có việc làm không nhận được sự trợ nghiên cứu cho thấy với tính lưu động và di cư giúp nào từ người sử dụng lao động, và chỉ để tham gia làm mại dâm của phụ nữ và bé gái có 12% người di cư được phép nghỉ khi cần di cư, cho thấy một tỷ lệ lớn những người hoạt và 99% người di cư được phỏng vấn trong động mại dâm ở Việt Nam là những người di cư98. Các nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng cũng 94 Ủy ban các vấn đề xã hội (2003), Một số vấn đề nổi bật về việc làm và đào tạo nghề, báo cáo số 482TT/ UBXH trình Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội, 20 tháng 10, trích trong bài Dang, Nguyen Anh (2005), di cư trong nước; cơ hội và thách thức đối với việc đổi mới và phát triển ở Việt Nam. Tuy nhiên, xin chú ý rằng nghiên cứu này cũng bao gồm người di cư tạm thời, những người không được phản ánh trong phân tích của Cuộc khảo sát di cư của Việt Nam năm 2004. 95 Cuộc khảo sát di cư của Việt Nam 2004. 96 Dang Nguyen Anh và Le Bach Duong (2007), Sự bảo vệ xã hội và di cư lao động từ nông thôn ra thành thị. 97 Phỏng vấn bà Trần Thị Thúy Nga, Vụ trưởng Vụ bảo hiểm xã hội, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội ở Việt Nam (2009), Sự thất hứa của các công ty về chi trả bảo hiểm xã hội, nghĩa vụ đối với người lao động, 11 tháng 5 năm 2009. 98 Một số lớn trẻ em gái dưới 18 tuổi tham gia vào ngành công nghiệp tình dục, theo như đánh giá nhanh của bốn thành phố, cho thấy một số lớn các bé trai cũng làm việc trong ngành này. Có vẻ như rằng nam di cư làm việc trong ngành công nghiệp tình dục có nhiều đặc điểm tính cách và vấn đề như nhau, tuy nhiên, không có bằng chứng chứng minh việc này. Lê Bạch Dương (2002). Trẻ em Việt Nam làm mại dâm ở Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ: Đánh giá nhanh, ILO - Chương trình Quốc tế về xóa bỏ lao động trẻ em, Geneva. 30 Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
- như đa số những người di cư trong nước ở buộc để làm việc như nô lệ ở một số ngành Việt Nam, nhiều phụ nữ tham gia làm mại dâm khác, điều này, trong một chừng mực nào đó, tại nơi họ đến để nâng cao mức sống và tăng sẽ làm tăng việc buôn bán người trong nước. thu nhập của gia đình99. Mặc dù một số phụ nữ Theo Điều 3 của Nghị định thư về bảo vệ, ngăn di cư để làm việc trong ngành công nghiệp tình chặn và trừng phạt việc buôn bán người, nhất dục, nhiều người chỉ quyết định làm mại dâm là phụ nữ và trẻ em và Bộ luật hình sự Việt sau khi họ đến nơi di cư100. Tuy nhiên, nhiều Nam mặc dù việc buôn bán người qua biên bằng chứng qua các tài liệu cho thấy rằng đối giới được coi là tội phạm song việc buôn bán với một số người, việc bước chân vào mại người trong nước không được nói đến cho dù dâm không phải là một quyết định mà là kết có bằng chứng chứng minh103. Trên thế giới, quả của sự ép buộc hoặc cưỡng bức101. Ví dụ, cũng như ở Việt Nam, việc buôn bán người nhiều phụ nữ trẻ làm việc trong ngành công và di cư có mối liên hệ chặt chẽ104. Di cư an nghiệp tình dục được “tuyển dụng” từ các làng toàn trong bối cảnh khung pháp luật phù hợp quê, và họ nghĩ rằng mình đã được mời làm và được thực thi đầy đủ sẽ đóng vai trò quan việc ở một quán cà phê hoặc quán bar, nhưng trọng trong việc làm giảm, và lý tưởng hơn, thực ra thì họ đã bị lừa và bị đưa vào làm trong là ngăn chặn việc buôn bán người. Việc này ngành công nghiệp tình dục. Các yếu tố ép nên bao gồm cả việc đảm bảo người di cư có buộc và cưỡng bức có thể vẫn tồn tại, ngay đầy đủ thông tin về các lựa chọn của họ và cả khi người di cư ý thức được rằng họ sẽ làm được kết nối tới các công việc thực sự thông việc trong ngành công nghiệp tình dục nếu, ví qua các trung tâm giới thiệu việc làm hợp dụ như, họ bị lừa về điều kiện môi trường họ pháp với chi phí phải chăng, cung cấp cho họ sẽ làm việc102. thông tin về nơi họ sẽ đến và người sử dụng lao động của họ105. Trong các hoàn cảnh mà con người bị lừa vào làm hoặc bị biến thành nô lệ tình dục hoặc ép 99 Rushing, Rosanne (2006), Di cư và bóc lột tình dục ở Việt Nam, Tạp chí Di cư Châu Á Thái Bình Dương, số 149(4), trang 471-494. 100 Trong bối cảnh Việt Nam, mại dâm được phân biệt theo cách “trực tiếp” hoặc “gián tiếp”. Mại dâm gián tiếp xảy ra tại những nơi giải trí ví dụ như quán bar, khách sạn, nhà hàng và quán karaoke. Nó được coi là gián tiếp vì công việc bề ngoài của những người này là dịch vụ ăn uống. Tuy nhiên phần lớn thu nhập của họ có được từ hoạt động mại dâm với khách hàng họ gặp tại những địa điểm này. Những người làm công việc mại dâm trực tiếp nhìn chung thường đứng trên phố và chỉ chiếm khoảng 30% số người làm mại dâm ở Việt Nam. 101 Rushing, Rosanne (2004), Từ nhận thức tới thực tế: Nghiên cứu định tính về di cư của phụ nữ trẻ và bóc lột tình dục ở Việt Nam, luận văn Tiến sỹ, Trường Vệ sinh và y tế nhiệt đới London. Le Bach Duong (2002), Trẻ em Việt Nam trong lĩnh vực mại dâm ở Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ: Đánh giá nhanh. 102 Rushing, Rosanne (2004), chú ý số 100. 103 Điều 3 của Nghị định thư về bảo vệ, ngăn chặn và trừng phạt việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, Bổ sung Công ước Liên hiệp quốc chống lại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia được thông qua năm 2000, có hiệu lực vào ngày 25 tháng 12 năm 2003. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ Tư pháp (2004), Đánh giá hệ thống pháp luật ở Việt Nam trong so sánh với Nghị định thư Liên Hợp Quốc về buôn bán người và buôn lậu người di cư, bổ sung Công ước Liên Hợp Quốc chống lại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, Bộ Tư pháp, Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc và Văn phòng Liên Hợp Quốc về ma túy và tội phạm (MOJ, UNICEF & UNODC). 104 Tổ chức di cư quốc tế (2008), Di cư trên thế giới năm 2008: Quản lý sự di chuyển lao động trong quá trình phát triển kinh tế toàn cầu, Tạp chí Báo cáo di cư thế giới, số.4. IOM. 105 Hiện nay, chỉ có một phần nhỏ người di cư sử dụng các trung tâm việc làm để lấy thông tin về nơi họ sẽ đến. Tỷ lệ này ít hơn 2% ở một số nơi, có thể là do họ không ý thức được về sự tồn tại của các trung tâm này, theo Viện khoa học lao động và các vấn đề xã hội, Quỹ Phát triển Liên Hợp Quốc dành cho phụ nữ và Viện trợ Úc (ILSSA, UNIFEM và AusAid) (2009), Tác động về mặt kinh tế xã hội của việc gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế đối với phụ nữ nông thôn. Di cư trong nước: Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam 31