Giáo trình Gia đình Việt Nam sau 30 năm Đổi mới - Nguyễn Hữu Minh
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Gia đình Việt Nam sau 30 năm Đổi mới - Nguyễn Hữu Minh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_gia_dinh_viet_nam_sau_30_nam_doi_moi_nguyen_huu_m.pdf
Nội dung text: Giáo trình Gia đình Việt Nam sau 30 năm Đổi mới - Nguyễn Hữu Minh
- TRIẾT - LUẬT - TÂM LÝ - XÃGia HỘIđình Việt HỌC Nam sau 30 năm Đổi mới Gia đình Việt Nam sau 30 năm Đổi mới Nguyễn Hữu Minh * Tóm tắt: Sau gần 30 năm Đổi mới, cùng với những biến chuyển tích cực về kinh tế - xã hội, đời sống gia đình Việt Nam cũng có nhiều thay đổi, đặt ra những vấn đề mới cần quan tâm. Bài viết tập trung phân tích những thành tựu về công tác gia đình, những hạn chế chủ yếu về nhận thức cũng như những bất cập trong đời sống gia đình hiện nay, các nguyên nhân của tình hình đó. Trên cơ sở các phân tích cụ thể bài viết đã trình bày một số vấn đề chủ yếu cần quan tâm về mặt chính sách nhằm xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ và hạnh phúc. Từ khóa: Gia đình; đời sống gia đình; chính sách; Việt Nam. 1. Mở đầu sự thành công của sự nghiệp công nghiệp Việt Nam hiện đã chính thức trở thành hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước và nước có thu nhập trung bình với thu nhập xây dựng chủ nghĩa xã hội. Gia đình có vai bình quân đầu người là 1.020 đô la Mỹ vào trò quan trọng không chỉ đối với sự phát năm 2009 và khoảng 2.200 đô la Mỹ năm triển của mỗi cá nhân mà cả trong việc thực 2015. Tuy nhiên, trong những năm vừa qua, hiện các chức năng xã hội, giữ gìn và chuyển Việt Nam cũng đã trải qua những khó khăn giao các giá trị văn hóa dân tộc từ thế hệ này về kinh tế. Tăng trưởng Tổng sản phẩm sang thế hệ khác. Đầu tư cho gia đình cũng quốc nội (GDP) của Việt Nam đã chậm lại là đầu tư cho phát triển bền vững. Chính vì ba năm liên tiếp, năm 2011 là 6,24%, năm vậy, Nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng 2012 chỉ đạt 5,25%, năm 2013 đạt 5,42%. đều nhấn mạnh sự quan tâm đến gia đình Năm 2011 và 2012 có gần 110.000 doanh với tư cách là “tế bào của xã hội, là cái nôi nghiệp giải thể, ngừng hoạt động, bằng một thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi nửa tổng số doanh nghiệp đã ngừng hoạt trường quan trọng giáo dục nếp sống và động kể từ khi đổi mới. Những điều đó ảnh hình thành nhân cách” (Đại hội Đảng VII). hưởng nghiêm trọng đến tình hình giải Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quyết việc làm. Năm 2012, Việt Nam có quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát tổng cộng 925,6 nghìn người thất nghiệp và triển năm 2011) đã nhấn mạnh: “Xây dựng gần 1,34 triệu người thiếu việc làm. Trong gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự 9 tháng đầu năm 2013 tỷ lệ thất nghiệp có là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi xu hướng tăng lên. Những thành tựu và khó trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp khăn nêu trên về kinh tế - xã hội có tác sống và hình thành nhân cách”.(*) động mạnh mẽ đến đời sống gia đình Việt Cùng với các Nghị quyết và Cương lĩnh Nam trong giai đoạn hiện nay. của Đảng, Trung ương Đảng và Chính phủ 2. Thành tựu trong công tác gia đình Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định (*) rằng, ở Việt Nam sự ổn định của gia đình Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. chính là một trong những nhân tố quyết định ĐT: 0903267764. Email: minhngaanh@yahoo.com. 51
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11(96) - 2015 cũng đã ban hành những chỉ thị cụ thể về tác gia đình được thành lập, trực thuộc Ủy vấn đề này. Ngày 04 tháng 5 năm 2001, Thủ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em (nay thuộc tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch). Sau khi 72/2001/QĐ/TTg lấy ngày 28 tháng 6 hàng cơ quan quản lý nhà nước về vấn đề gia năm là Ngày Gia đình Việt Nam. Mục đích đình được kiện toàn, đã có nhiều hoạt động của ngày gia đình Việt Nam là: “Đề cao được triển khai nhằm mục tiêu xây dựng trách nhiệm lãnh đạo các ngành, các cấp, các gia đình Việt Nam, trong đó có việc thực đoàn thể và tổ chức xã hội cùng toàn thể các hiện các mô hình gia đình “no ấm, tiến bộ gia đình thường xuyên quan tâm xây dựng và hạnh phúc”. gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh Phong trào xây dựng “Gia đình văn hóa” phúc, đẩy mạnh công tác bảo vệ, chăm sóc với các tiêu chí như: gia đình ấm no, hòa và giáo dục trẻ em, góp phần vào sự nghiệp thuận, tiến bộ, khỏe mạnh và hạnh phúc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. thực hiện tốt nghĩa vụ công dân được tổ Ngày 21 tháng 2 năm 2005 Ban Bí thư chức rộng khắp ở các địa phương đã có Trung ương Đảng (khoá IX) đã ban hành đóng góp không nhỏ vào việc củng cố gia Chỉ thị số 49-CT/TW về xây dựng gia đình đình và phát huy vai trò của gia đình đối Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH đất nước. với sự phát triển xã hội. Ngoài ra, nhiều Ngày 29 tháng 5 năm 2012, Thủ tướng chương trình, chính sách về xây dựng gia Chính phủ ra quyết định số 629/QĐ-TTg về đình cũng được thực hiện. Chẳng hạn như, việc phê duyệt Chiến lược Phát triển gia Chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình; đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn Chính sách xóa đói giảm nghèo; v.v 2030, trong đó nhấn mạnh xây dựng gia Nhiều phong trào và hành động xã hội đình Việt Nam no ấm, tiến bộ và hạnh phúc cụ thể đã được tiến hành nhằm từng bước là mục tiêu quan trọng của Chiến lược phát đưa luật pháp, chính sách của Đảng và Nhà triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 nước đi vào cuộc sống. Chẳng hạn, thông và là trách nhiệm của mọi gia đình trong tin tuyên truyền trên các phương tiện thông thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. tin đại chúng từ trung ương đến các địa Thể chế hóa các chủ trương, chính sách phương về hôn nhân và gia đình, bình đẳng của Đảng, trong mấy thập niên qua, nhiều giới, về chính sách dân số - kế hoạch hóa bộ luật cũng đã ra đời nhằm xây dựng và gia đình, xây dựng gia đình văn hóa, làng phát triển gia đình Việt Nam, như Luật Hôn văn hóa; xây dựng các câu lạc bộ gia đình nhân và Gia đình 2000; Pháp lệnh Dân số hạnh phúc, câu lạc bộ người lớn mẫu mực, 2003 (sửa đổi, bổ sung năm 2008); Luật trẻ em chăm ngoan, câu lạc bộ phát triển Bình đẳng giới 2006; Luật Phòng chống kinh tế gia đình, câu lạc bộ phụ nữ không bạo lực gia đình 2007; Luật Bảo vệ, chăm sinh con thứ ba, câu lạc bộ phòng chống tệ sóc và giáo dục trẻ em sửa đổi 2004; Luật nạn xã hội xâm nhập vào gia đình; v.v Các Người cao tuổi 2009; v.v tổ chức đoàn thể sáng tạo nhiều hình thức Quán triệt những quan điểm chỉ đạo nêu vận động, tuyên truyền phong phú, thiết trên, vấn đề xây dựng gia đình đáp ứng thực như phát động các phong trào “ông bà, được những yêu cầu của sự nghiệp CNH, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền”, HĐH đã được quan tâm trong những năm “thắp sáng tình yêu thương trong mỗi gia gần đây. Năm 2003, Vụ Gia đình, cơ quan đình”, “vì một mái ấm gia đình không có chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về công bạo lực”; v.v 52
- Gia đình Việt Nam sau 30 năm Đổi mới Những nỗ lực nêu trên của cấp ủy, chính HĐH đất nước cũng như củng cố sự ổn quyền, các đoàn thể và toàn xã hội đã góp định và phát triển xã hội nói chung. phần hiệu quả vào việc xây dựng và phát Trước hết là về mặt luật pháp, chính triển gia đình Việt Nam theo định hướng no sách. Mặc dù Đảng và Nhà nước đã quan ấm, tiến bộ, hạnh phúc. Mức sống các gia tâm đến việc xây dựng hành lang pháp lý đình tăng lên, phúc lợi gia đình được bảo tạo tiền đề cho các hoạt động xây dựng và đảm hơn cho các tầng lớp xã hội. Quyền củng cố gia đình, tuy nhiên, hoạt động triển quyết định hôn nhân có nhiều thay đổi theo khai và thực thi chính sách gia đình vẫn còn hướng tăng vai trò chủ động của thanh niên. nhiều hạn chế. Nhiều văn bản luật chưa Việc nâng cao vai trò của phụ nữ, tăng được cán bộ nhận thức đầy đủ. Các điều cường bình đẳng giới đã làm tăng hạnh luật thường mang tính khung, chung chung phúc gia đình, trong đó người vợ và người và để thực thi lại cần phải nhờ tới những chồng chia sẻ công việc với nhau, cảm văn bản hướng dẫn thực thi dưới luật, tuy thông và quan tâm đến nhau. Người phụ nữ nhiên những văn bản hướng dẫn này thường ngày càng có vị thế độc lập trong gia đình. được ban hành quá chậm. Ví dụ như Luật Chung thủy vẫn là một chuẩn mực trong Phòng, chống bạo lực gia đình đã được quan hệ vợ chồng. Kính trên nhường dưới thông qua từ tháng 11 năm 2007 nhưng cho tiếp tục là chuẩn mực ứng xử trong gia đến tháng 12 năm 2009 mới có 2 văn bản đình, tuy nhiên mối quan hệ cha mẹ - con hướng dẫn thi hành (Nghị định số cái ngày càng dân chủ hơn. Vai trò và vị thế 08/2009/NĐ-CP ngày 04 tháng 02 năm của con cái trong gia đình đã dần tăng lên. 2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi Trẻ em được quan tâm phát triển toàn diện hành một số điều của luật phòng, chống bạo hơn. Xã hội tạo điều kiện nhiều hơn chăm lực gia đình và Nghị định 110/2009/NĐ-CP sóc các cụ cao tuổi. ngày 10 tháng 12 năm 2009 quy định về các 3. Hạn chế trong công tác gia đình mức xử phạt hành chính). Mặc dù Đảng và Nhà nước thừa nhận Công tác quản lý nhà nước về gia đình tầm quan trọng của gia đình đối với sự phát mới được thực hiện chính thức trong thập triển xã hội, tuy nhiên, trong thực tế xây niên vừa qua và còn gặp nhiều khó khăn. dựng chính sách chúng ta chưa nhận thức Đội ngũ cán bộ có kỹ năng và kinh nghiệm đầy đủ vai trò của gia đình với tư cách là chuyên trách về công tác gia đình ở cấp cơ một thiết chế xã hội đặc thù có mối quan hệ sở còn thiếu. Cơ chế phối hợp triển khai chặt chẽ với các thiết chế khác trong hệ thực hiện chính sách gia đình chưa đồng bộ. thống xã hội tổng thể, sự vững mạnh hay Các nguồn dữ liệu về gia đình đến nay mới bất cập của gia đình sẽ có tác động lớn đối bắt đầu tập hợp và xây dựng. Tuy nhiên, với việc quản lý xã hội nói chung. Gia đình việc thu thập thông tin ở cấp cơ sở gặp rất chỉ được coi như là một tập hợp máy móc nhiều khó khăn. của những thành viên chứ không được nhìn Một trở ngại lớn nữa trong việc thực nhận như một thiết chế độc lập, có sự vận hiện công tác gia đình của các cơ quan chức động và phát triển riêng, là đối tượng của năng (kể cả 3 cấp tỉnh, huyện, xã) là thiếu các chính sách độc lập. Chính vì vậy, thiết kinh phí cho việc triển khai thực hiện. chế gia đình chưa có vai trò thực sự trong Nhiều chính sách (như chính sách củng cố việc xây dựng nguồn nhân lực có chất sự bền vững của gia đình, chính sách xây lượng cao tham gia vào sự nghiệp CNH, dựng mối quan hệ vợ chồng bình đẳng, tiến 53
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11(96) - 2015 bộ, hạnh phúc ) được quy định trong các thức thỏa đáng cả từ phía nam giới và phụ bộ luật, pháp lệnh, chiến lược nhưng không nữ và có thể dẫn đến hậu quả tiêu cực cho có mục kinh phí dành riêng cho việc triển quan hệ vợ - chồng và các thành viên khác. khai thực hiện những vấn đề này. Kết quả là Gánh nặng lao động “kép”, với qũy thời việc triển khai thực hiện các chính sách gian hạn hẹp, sức khỏe kém đi, đang gây pháp luật về gia đình chỉ được lồng ghép trở ngại cho phụ nữ phát triển năng lực, kể trong các kế hoạch khác của địa phương. cả về thể chất lẫn đời sống văn hóa tinh Chúng ta chưa có những số liệu đầy đủ ở thần, do đó cũng làm giảm chất lượng mối quy mô quốc gia về sự vận động và phát quan hệ vợ - chồng. triển của gia đình ở Việt Nam, dẫn đến các Truyền thống người chồng đứng tên chính sách thiếu khả thi. Việc hoạch định quyền sở hữu các tài sản lớn của gia đình các chính sách xã hội đối với gia đình hay vẫn còn tồn tại khá phổ biến, đặc biệt ở các quan tâm đến những khía cạnh về gia đình vùng nông thôn. Quan niệm về người chủ trong các chính sách kinh tế - xã hội khác gia đình có sự thay đổi chậm, phần lớn cũng chưa thực sự dựa trên các bằng chứng người dân vẫn coi nam giới là chủ gia đình. và luận cứ khoa học. Nhiều chính sách có Với những “việc lớn” của gia đình, vai trò liên quan đến gia đình Việt Nam không ra quyết định của người đàn ông, người chủ hoàn toàn là kết quả của việc phân tích một gia đình vẫn là một thứ chuẩn mực ít thay cách có khoa học sự vận động và phát triển đổi. Rõ ràng, sự phân biệt giới còn khá phổ của gia đình Việt Nam. Ở đây liên quan đến biến, mối quan hệ vợ - chồng trong nhiều một vấn đề rất lớn của việc xây dựng chính trường hợp dường như đang lặp lại hình ảnh sách đó là thiếu quan tâm đến chiều cạnh xã “chồng chúa vợ tôi” từ xa xưa và cần phải hội của quá trình này, không tính đến có những nỗ lực triển khai mạnh mẽ Luật những người thực hiện chính sách và đối Bình đẳng giới nhằm có được sự bình đẳng tượng của chính sách. thực chất giữa phụ nữ và nam giới. Tác động của những hạn chế nêu trên là - Bạo lực gia đình còn nghiêm trọng, không phải tất cả các gia đình đã thực sự trong đó nổi bật nhất là bạo lực của người trở thành “tổ ấm” cho mỗi con người, mối chồng đối với người vợ, đang là vấn đề quan hệ cá nhân và gia đình còn lỏng lẻo, được sự quan tâm của xã hội. Số liệu điều bất bình đẳng giới và bạo lực trong gia đình tra quốc gia về bạo lực gia đình đối với phụ vẫn tồn tại. Có thể nêu một số bất cập trong nữ Việt Nam năm 2010 cho thấy, có 58,3% đời sống các gia đình như sau: phụ nữ tham gia khảo sát đã trải qua ít nhất - Mối quan hệ giới trong gia đình chưa một hình thức bạo hành về thể chất, tinh thực sự bình đẳng. Trong quan hệ giữa vợ thần hoặc tình dục, trong đó 27% đã trải và chồng, việc phân công lao động trên cơ qua ít nhất một hình thức bạo lực trong sở giới vẫn còn duy trì, mặc dù đã có sự vòng 12 tháng trước cuộc điều tra. Có 32% chia sẻ cân bằng hơn giữa hai giới trong phụ nữ có chồng cho biết, họ từng trải qua công việc sản xuất kinh doanh hoặc một số bạo lực về thể chất; 6% trong số đó trải qua loại việc khác. Nhìn chung, sự tham gia bạo lực trong vòng 12 tháng trở lại. của nam giới vào công việc nội trợ không Bạo lực gia đình, đặc biệt là bạo lực của tăng đáng kể và chưa tương xứng với sự chồng đối với vợ đã gây ra nhiều hậu quả gia tăng của phụ nữ trên thị trường lao đáng tiếc nghiêm trọng cho phụ nữ và trẻ động. Lao động nội trợ không được nhận em. Xét về mặt xã hội, tổn thất kinh tế liên 54
- Gia đình Việt Nam sau 30 năm Đổi mới quan đến các hành vi bạo lực của chồng đối - Một trong những vấn đề cần được quan với vợ có thể chiếm đến 1,78% GDP hàng tâm hiện nay là sự bảo lưu xu hướng ưa năm. Trong khi đó, hầu hết các vụ bạo lực thích con trai. Vẫn còn một tỷ lệ đáng kể gia đình vẫn diễn ra âm thầm đằng sau cánh người dân ủng hộ quan niệm nhất thiết phải cửa gia đình, sự can thiệp của Nhà nước và có con trai. Trong đó, động cơ có con trai để các tổ chức xã hội còn hạn chế. Cũng còn có người nối dõi tông đường là lý do quan thiếu sự thấu hiểu, thông cảm, lắng nghe và trọng. Đáng lưu ý là theo kết quả Điều tra nhường nhịn nhau của những người trong thanh niên và vị thành niên Việt Nam 2009, cuộc. Cùng gây ảnh hưởng tổng hợp duy trì vẫn còn 12,6% thanh niên lứa tuổi 14 - 25 các hành vi bạo lực gia đình, còn có: thói cho rằng cần phải có con trai. Việc phân biệt quen sử dụng rượu và chất gây nghiện; đối xử giữa con trai và con gái dẫn đến tình ngoại tình; thái độ nín nhịn vì giữ thể diện trạng chọn lọc giới tính thai nhi. Tỷ số giới gia đình và xấu hổ; sự dung thứ của cộng tính khi sinh ở Việt Nam đang có xu hướng đồng đối với các hành vi bạo lực; sự gia tăng, từ 110,5 bé trai/100 bé gái vào năm trưởng; sự bất bình đẳng về kinh tế; nhận 2009 đến 111,2 năm 2010; 111,9 năm 2011 thức, trách nhiệm và kỹ năng xử lý các tình và 112,3 năm 2012. Với xu hướng này, nếu huống của các cán bộ có liên quan còn hạn không có sự can thiệp, thì tỷ số giới tính khi chế, v.v sinh ở Việt Nam sẽ sớm đến mức 115 bé trai Như vậy, Luật Phòng chống bạo lực gia /100 bé gái vào năm 2015 và chắc chắn chưa đình, mặc dù đã được ban hành và có hiệu dừng lại ở đó. lực từ năm 2008, đến nay vẫn chưa thực sự Theo xu hướng này, chỉ vài thập niên là sự đảm bảo pháp lý có ảnh hưởng sâu sau tình trạng không có đủ phụ nữ cho đàn rộng đối với mọi tầng lớp nhân dân. ông lấy làm vợ sẽ xảy ra ở nước ta (giống Gắn với các mâu thuẫn, xung đột và bạo như tình trạng đang xảy ra ở các nước và lực gia đình là vấn đề ly hôn. Số liệu thống một số vùng lãnh thổ của Đông Á như kê cho thấy số lượng các cuộc ly hôn tăng Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan hiện dần qua các năm và tỷ lệ nữ đứng đơn ly nay). Nhưng khi tình trạng khủng hoảng hôn ngày càng nhiều hơn nam giới. Việc “thừa nam thiếu nữ” xảy ra thì sự nguy hại đứng đơn ly hôn của người phụ nữ phần không chỉ đến với nam giới, mà còn dành nào cho thấy địa vị của người phụ nữ đã sẵn để chờ người phụ nữ: họ sẽ trở thành thay đổi, nhận thức về quyền của họ đã đối tượng bị tranh cướp, thành vấn nạn mại được nâng lên, người phụ nữ đang ngày dâm và buôn bán phụ nữ, và nhất là nguồn càng tự chủ hơn trong đời sống hôn nhân lao động của đất nước sẽ bị thiếu hụt ở một của mình. Tuy nhiên, đằng sau các lá đơn ly số lĩnh vực cần đến bàn tay khéo léo và óc hôn, kể cả khi phụ nữ đứng tên, cũng phản thẩm mỹ tinh tế của phụ nữ. Đây là một ánh một sự thật là ngày nay, tác động của hiện tượng rất bất bình thường trong lịch sử nền kinh tế thị trường đã len lỏi vào đời phát triển dân số gia đình ở Việt Nam và sống gia đình, nhiều khi chi phối cả mối cần được các nhà hoạch định chính sách quan hệ giữa chồng và vợ và dẫn đến những phát triển xã hội, các bậc cha mẹ, nhất là cuộc ly hôn đáng tiếc. Hậu quả lớn của các những người đang trong độ tuổi sinh đẻ cuộc ly hôn chính là sự phát triển thiếu toàn quan tâm. diện của con cái cũng như sự thiếu tôn - Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trọng của con cái đối với cha mẹ sau này. trường và hội nhập quốc tế hiện nay, chúng 55
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11(96) - 2015 ta đang chứng kiến một hiện tượng khá bất Sự thiếu hụt kiến thức của các bậc cha ổn ở không ít gia đình, đó là việc thiếu vắng mẹ về đặc điểm phát triển nhận thức, sự sự chăm sóc, giáo dục của các bậc cha mẹ thay đổi tâm sinh lý của con cái trong giai đối với con cái, dù họ vẫn sống cùng nhà đoạn vị thành niên và không nắm được các với các con (kể cả ở những gia đình “ăn phương pháp giáo dục con một cách hiệu nên làm ra”, cũng như ở các gia đình neo quả là nguyên nhân quan trọng làm tăng đơn, đang gặp khó khăn về kinh tế). Theo nguy cơ xung đột giữa cha mẹ và con cái. kết quả Điều tra Gia đình Việt Nam 2006, Khó khăn này đòi hỏi phải thay đổi nhận vẫn còn một tỷ lệ không nhỏ người cha và thức và tăng cường kiến thức của cả cha mẹ người mẹ không dành chút thời gian nào để và vị thành niên trong sự quan tâm đến trẻ chăm sóc con cái dưới 15 tuổi: 6,8% người vị thành niên - một giai đoạn hết sức quan mẹ và 21,5% người cha. Sự thiếu quan tâm trọng trong việc định hình và phát triển của cha mẹ đối với con cái có thể dẫn đến nhân cách con cái. nhiều hậu quả tiêu cực cả về mối liên hệ - Xu hướng già hóa dân cư đang diễn ra tình cảm cha mẹ - con cái hoặc tăng thêm khá nhanh ở Việt Nam: năm 1979 tỷ lệ nguy cơ đối với các hành vi lệch chuẩn người cao tuổi trong tổng số dân cư là trong cuộc sống. Không ít trẻ em trong các 7,1%; đến năm 2009 là 10%. Chỉ số già gia đình không được cha mẹ quan tâm đã hóa (tỷ số giữa dân số từ 60 tuổi trở lên so bỏ học, đi lang thang bụi đời, để cuối cùng với dân số dưới 15 tuổi tính theo phần rơi vào vòng xoáy của các tệ nạn xã hội như trăm) đã tăng từ 18,2% năm 1989 lên cờ bạc, nghiện hút, cướp giật, mại dâm và 42,7% năm 2012. vô số các hiểm họa khác. Hiện nay có khoảng trên 30% số gia Có một tỷ lệ không nhỏ các bậc cha mẹ đình Việt Nam có người cao tuổi. Trong số giáo dục con cái không đúng cách, làm ngơ những người cao tuổi có 70% đang tự làm cho lỗi lầm của con trẻ, đánh đòn con bất kể việc nuôi sống mình hoặc nhờ vào phần trợ lý do gì, hay có thái độ bất lực đối với các cấp và nuôi dưỡng của con cháu; 30% đang hành vi mắc lỗi của con cái. Số liệu điều tra sống trong điều kiện nghèo; 95% đang mắc Thanh niên và vị thành niên Việt Nam lần 2 ít nhất 1 loại bệnh. So với nhiều nước khác (SAVY 2009) cho thấy, có đến 4,1% trẻ vị trên thế giới thì người già ở Việt Nam ở thành niên tuổi 14 - 17 cho biết đã bị người trong tình cảnh khá đặc thù. Do phải trải trong gia đình đánh thương tích, có thể hiểu qua một thời gian chiến tranh khá dài, nên chủ yếu là cha mẹ đánh. Số liệu Điều tra phần đông các cụ không có sổ hưu, không Gia đình Việt Nam 2006 cho biết, có 1,4% có sổ tiết kiệm cũng như các nguồn tích lũy người làm cha mẹ đã đánh trẻ khi con cái khác. Có thể nói nhóm người cao tuổi này mắc lỗi trong 12 tháng trước khảo sát. Việc đang gặp khó khăn, không chỉ trong việc giáo dục trẻ không đúng cách dẫn đến chi trả cho các dịch vụ khám chữa bệnh và những hậu quả tiêu cực. Nhiều em đã có chăm sóc sức khỏe, mà còn khó có thể tự các hành vi như buồn bã, gây gổ đánh nhau, nuôi sống bản thân. Những khó khăn này uống rượu, sử dụng chất gây nghiện, v.v đang góp phần đẩy người cao tuổi vào tình Tình trạng này rất là nghiêm trọng đối với trạng phụ thuộc vào gia đình và con cháu sự phát triển nhân cách của trẻ và đòi hỏi sự mà không có một sự lựa chọn nào khác khi quan tâm nhiều hơn từ phía gia đình và xã các dịch vụ xã hội chăm sóc người cao tuổi hội trong việc bảo vệ sức khỏe thiếu niên. còn non yếu như hiện nay. 56
- Gia đình Việt Nam sau 30 năm Đổi mới Trong khi đó, gia đình vẫn đang đóng trọng “quyền tự do cá nhân”, “bình đẳng vai trò chủ yếu phụng dưỡng, chăm sóc giới”, “quyền trẻ em” cũng ngày càng được người cao tuổi. Tuy nhiên, người cao tuổi khẳng định. Sự biến đổi này, trong một sống dựa vào con cháu đang gặp không ít chừng mực nhất định, đã làm cho mối quan khó khăn vì bản thân cuộc sống của con hệ ông bà - cha mẹ - con cháu không thuận cháu cũng còn nhiều vất vả. Theo số liệu chiều như trước đây và làm tăng những mâu Điều tra Gia đình Việt Nam 2006, có thuẫn và xung đột thế hệ. Điều tra Gia đình khoảng 1/3 số hộ có người cao tuổi là hộ Việt Nam 2006 cho biết, có khoảng 1/10 số nghèo, vì vậy việc chăm sóc, phụng dưỡng ý kiến từ các hộ gia đình có 3 thế hệ chung cha mẹ già trong hộ là thực sự khó khăn sống thừa nhận có sự không thống nhất về trong điều kiện các chính sách hỗ trợ của các vấn đề về lề lối sinh hoạt, cách quản lý nhà nước còn ít. Đối với nhiều hộ gia đình, tiền và tiêu tiền, cách thức làm ăn và phát chi phí chữa bệnh cho người cao tuổi là một triển kinh tế gia đình, cũng như về phương gánh nặng kinh tế, vì việc chi trả cho các pháp giáo dục con cháu. dịch vụ y tế (khám chữa bệnh, thuốc men, Đặc biệt cần quan tâm là một bộ phận chăm sóc ) thường cao hơn rất nhiều so người cao tuổi đang phải trải qua các hành với thu nhập của họ. Ngoài ra, còn những vi bạo lực về thể chất, tinh thần và kinh tế khó khăn khác như: con cái bị tàn tật, đau do con cháu gây ra. Những nguyên nhân yếu, công việc của con cái không ổn định, chủ yếu góp phần dung dưỡng các hành vi nhà neo người Trong điều kiện đó, sự trợ bạo lực đối với người cao tuổi là sự tôn thờ giúp của Nhà nước thông qua những hình giá trị đồng tiền ở một số người, sự khác thức khác nhau (bảo hiểm, trợ cấp tuổi già, biệt về lối sống và sự thiếu quan tâm của v.v.) nhằm giảm bớt sự phụ thuộc về mặt các cấp chính quyền đoàn thể đối với mối vật chất của người cao tuổi đối với con quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình. Hiện cháu có ý nghĩa rất quan trọng. tượng bạo lực đối với người cao tuổi gây ra Đại bộ phận con cái có sự thăm nom, nhiều hậu quả nghiêm trọng đối với người chăm sóc thường xuyên về mặt tinh thần cao tuổi và gia đình, xã hội. đối với người cao tuổi. Trong cuộc sống, Trước đây người cao tuổi thường sống những lúc buồn, vui, người cao tuổi chủ chung với con cháu trong gia đình mở rộng yếu chia sẻ với người thân của mình trong và điều này đã trở thành thứ bản sắc riêng ở gia đình. Tuy nhiên, cũng có một bộ phận các gia đình Việt Nam. Việc chăm sóc của con cháu mới chỉ quan tâm đến đời sống vật con cái đặc biệt có ý nghĩa về mặt tinh thần chất của các cụ, còn cuộc sống tinh thần thì đối với người cao tuổi. Tuy nhiên, hệ thống bỏ bê. Lý do chính là con cháu thiếu thời trợ giúp của gia đình cho người cao tuổi gian, không sẵn sàng lắng nghe và giữa hai trong tương lai gần sẽ gặp những trở ngại bên thiếu sự quan tâm chung. do những biến động của quy mô dân số và Trong bối cảnh của tiến trình CNH, xu thế hạt nhân hóa gia đình. Việc giảm số HĐH và nhất là dưới sự tác động của toàn con trong gia đình sẽ làm giảm nguồn hỗ cầu hóa, hệ giá trị gia đình ở Việt Nam trợ cho cha mẹ khi tuổi già. Sự tham gia của đang có sự biến đổi rất lớn. Bên cạnh phụ nữ vào lực lượng lao động xã hội, những giá trị cổ truyền như “kính trên, nhiều thanh niên di cư tìm kiếm việc làm nhường dưới”, “trọng xỉ” (tôn trọng người khiến cho người cao tuổi càng cô đơn và cao tuổi), thì những giá trị mới như coi thiếu nơi nương tựa. Nhiều người cao tuổi 57
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11(96) - 2015 sẽ phải sống một mình và tự chăm sóc cho Cùng với tiến trình công nghiệp hóa, một bản thân, phải đối mặt với rất nhiều khó lượng lớn người lao động di cư trong và khăn về tài chính và bệnh tật. Để đáp ứng ngoài nước để bảo đảm cuộc sống gia đình. nhu cầu ngày càng đa dạng của các cụ, bên Sự “phân ly” trong thời bình này đặt ra cạnh các hình thức đã quen thuộc như chăm nhiều vấn đề cần quan tâm để củng cố và sóc, nuôi dưỡng tại nhà, dịch vụ chăm sóc xây dựng gia đình. theo yêu cầu và dịch vụ nuôi dưỡng tập Bạo lực gia đình đang diễn ra khá trung, hiện nay ở nhiều địa phương đã xuất nghiêm trọng tại các địa phương, ảnh hiện nhiều loại hình dịch vụ mới, như dịch hưởng tiêu cực đến chất lượng các mối vụ nuôi dưỡng người cao tuổi dưới hình quan hệ gia đình, đe dọa sự bền vững của thức đầu tư tư nhân, cổ phần Tuy nhiên, gia đình. Cần thiết phải có những giải pháp chưa có sự tổng kết, rút kinh nghiệm các triệt để hơn nhằm thay đổi nhận thức xã hội hình thức dịch vụ này. về bạo lực gia đình, tăng cường công tác 4. Một số vấn đề chính sách cần quan tâm bảo vệ và giúp đỡ nạn nhân, v.v Cho đến nay và cả trong thập kỷ tới, gia Sự biến đổi chuẩn mực vai trò của nam đình rõ ràng vẫn là thiết chế không thể thay và nữ trong gia đình cũng đặt ra những vấn thế đối với việc đảm bảo phúc lợi cá nhân. đề mới về mối quan hệ giữa bình đẳng giới và củng cố quan hệ gia đình trong bối cảnh Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ thể chế gia đình hiện nay. Vì vậy, cần quan tâm củng cố có thể bị khai thác quá tải mà không có chức năng giáo dục của gia đình, xây dựng được hỗ trợ cần thiết. Đặc điểm này cần mối quan hệ mới giữa cha mẹ và con cái được tính đến một cách đầy đủ khi nghiên trên cơ sở tiếp thu những giá trị nhân văn cứu cũng như khi đề xuất các chính sách mới và kế thừa những giá trị tốt đẹp của gia phúc lợi nói chung và chính sách chăm sóc đình Việt Nam truyền thống. nói riêng, bao gồm chăm sóc trẻ em, người Đối với việc phát huy vai trò và chăm ốm, người cao tuổi, v.v sóc người cao tuổi, yêu cầu đặt ra trong thời Ngoài ra, liên quan đến những biến đổi gian tới là cần xử lý một cách thích hợp mối của gia đình Việt Nam từ các mặt chức tương quan giữa các chủ thể thực hiện việc năng, cấu trúc, quan hệ gia đình, có một số này. Trong thập kỷ tới, gia đình có thể vẫn vấn đề đặt ra cần quan tâm như sau: là nơi để người cao tuổi phát huy vai trò của Nhà nước cần tạo những điều kiện cần mình, bên cạnh cộng đồng và xã hội. Đồng thiết và thuận lợi để gia đình có cơ hội tiếp thời, gia đình sẽ là nơi chăm sóc chính đối cận thị trường trong nước và quốc tế. Sự với người cao tuổi, còn các hình thức khác mất cân bằng giới tính khi sinh đang sẽ mang tính hỗ trợ. Do đó, cần làm mọi nghiêm trọng hiện nay đòi hỏi phải tăng việc để hỗ trợ gia đình thực hiện tốt chức cường giáo dục, làm thay đổi tâm lý truyền năng phát huy và chăm sóc người cao tuổi. thống về vai trò của con trai, tạo dựng quan Bên cạnh đó, cần thấy rằng, cùng với quá niệm bình đẳng giữa con trai và con gái trình công nghiệp hóa và đô thị hóa, xu thế trong trách nhiệm nuôi dưỡng chăm sóc cha giảm chức năng chăm sóc người cao tuổi mẹ già và thờ phụng tổ tiên. Bên cạnh đó, của gia đình là không thể đảo ngược, do đó, nhà nước cần có các chính sách và chiến xã hội cần chuẩn bị tốt cho hệ thống an sinh lược lâu dài bảo đảm xã hội cho người già xã hội công để phục vụ nhu cầu của người để giảm bớt sự phụ thuộc của người già vào cao tuổi, đồng thời tạo điều kiện cho các con cái. dịch vụ tư nhân tham gia vào việc hỗ trợ 58
- Gia đình Việt Nam sau 30 năm Đổi mới người cao tuổi do nhiều người trong số họ thiệt hại kinh tế do bạo lực gia đình đối với phụ có khả năng chi trả dịch vụ. nữ tại Việt Nam, Hà Nội. Do UNWomen tại Liên quan đến việc bảo vệ, chăm sóc và Việt Nam xuất bản, Hà Nội. giáo dục trẻ em, có thể nêu hai yêu cầu 10. Nguyễn Hữu Minh và Trần Thị Hồng chính: một là vai trò của Nhà nước, thể hiện (2011), “Thái độ của thanh thiếu niên Việt Nam ở sự đầu tư nguồn lực cho việc bảo vệ, về hôn nhân và gia đình”, Tạp chí Nghiên cứu chăm sóc và giáo dục trẻ em; hai là việc Gia đình và Giới. điều phối mối quan hệ giữa Nhà nước, gia 11. Nguyễn Tấn Dũng (2015), Diễn văn của đình và các chủ thể khác trong công tác bảo Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại lễ kỷ niệm 40 vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, 30 tháng 4 năm 2015, Tài liệu tham khảo Tp. Hồ Chí Minh. 1. Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở 12. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Trung ương (2010), Tổng điều tra dân số và Việt Nam (2009), Luật người cao tuổi, Hà Nội. nhà ở Việt Nam năm 2009: Các kết quả chủ 13. Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ yếu, Hà Nội. nghĩa Việt Nam (2000), Luật Hôn nhân và Gia 2. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch - Tổng đình, Hà Nội. cục Thống kê, Viện Gia đình và Giới, UNICEF 14. Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ (2008), Kết quả điều tra gia đình Việt Nam năm nghĩa Việt Nam (2007), Luật Phòng chống bạo 2006, Hà Nội. lực gia đình, Hà Nội. 3. Chính phủ Việt Nam (2012), Phát biểu 15. Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng tại đình, Tổng cục Thống kê, Ngân hàng phát triển Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Châu Á (2010), Điều tra quốc gia về vị thành Nam (CG), Hà Nội. niên và thanh niên Việt Nam lần thứ 2, Hà Nội. 4. Chính phủ Việt Nam (2013), Báo cáo 16. Tổng cục Thống kê (2010), Im lặng là của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm chết: Kết quả nghiên cứu quốc gia về bạo lực 2013, kết quả 3 năm thực hiện kế hoạch 5 năm gia đình đối với phụ nữ tại Việt Nam, Hà Nội. (2011 - 2015) và nhiệm vụ 2014 - 2015 (do Thủ 17. Tổng cục Thống kê (2012), Điều tra tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng trình bày Biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình thời tại phiên khai mạc kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa điểm 1 tháng 4 năm 2012, Các kết quả chủ yếu, XIII, ngày 21 tháng 10 năm 2013), Hà Nội Nxb Thống kê, Hà Nội. 5. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa 18. Tổng cục Thống kê (2013), Báo cáo Việt Nam (2006), Luật Bình đẳng giới, Hà Nội. Điều tra Lao động việc làm năm 2012, Nxb 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn Thống kê, Hà Nội. kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb 19. Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới Chính trị quốc gia, Hà Nội. (2010), Báo cáo tổng quan chương trình “Những 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn vấn đề cơ bản về gia đình và giới ở Việt Nam kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb trong giai đoạn 2011 - 2020”, Hà Nội. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 20. Vụ Nghiên cứu Gia đình và Viện Nghiên 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn cứu Gia đình và Giới (2012), Báo cáo điều tra kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb thực trạng bạo lực gia đình, đề xuất giải pháp Chính trị quốc gia, Hà Nội. có tính đột phá nhằm giảm thiểu bạo lực gia 9. Nata Duvvury, Nguyễn Hữu Minh, Patricia đình trong năm 2012 và giai đoạn 2012 - 2016, Carney (2012), Báo cáo hoàn thiện về ước tính Hà Nội. 59
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11(96) - 2015 60