Giáo trình Giá trị và chuẩn mực của văn hóa đạo đức phật giáo - Phan Thị Lan
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Giá trị và chuẩn mực của văn hóa đạo đức phật giáo - Phan Thị Lan", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_gia_tri_va_chuan_muc_cua_van_hoa_dao_duc_phat_gia.pdf
Nội dung text: Giáo trình Giá trị và chuẩn mực của văn hóa đạo đức phật giáo - Phan Thị Lan
- TRIẾT - LUẬT - TÂM LÝ - XÃ HỘI HỌC Phan Thị Lan Giá trị và chuẩn mực của văn hóa đạo đức Phật giáo Phan Thị Lan * Tóm tắt: Nghiên cứu văn hóa đạo đức nói chung và văn hóa đạo đức Phật giáo nói riêng có ý nghĩa thực tiễn quan trọng bởi các công trình nghiên cứu về văn hóa đạo đức Phật giáo dưới góc độ tôn giáo, đặc biệt vấn đề thực hành tôn giáo vẫn còn ít. Bài viết phân tích một số giá trị và chuẩn mực của đạo đức Phật giáo qua các giáo lý và các nghi lễ Phật giáo. Kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học để nhìn nhận và đánh giá khách quan sự đóng góp của văn hóa đạo đức Phật giáo đối với văn hóa đạo đức truyền thống Việt Nam. Từ khóa: Giá trị; văn hóa; đạo đức; chuẩn mực; Phật giáo. 1. Mở đầu Nghiên cứu về văn hóa đạo đức Phật giáo Văn hóa đạo đức là nền tảng tinh thần xã không chỉ giúp chúng ta nhìn nhận và đánh hội. Một xã hội sẽ suy yếu và sụp đổ nếu giá khách quan sự đóng góp của Phật giáo không có một nền tảng tinh thần vững chắc. đối với văn hóa đạo đức truyền thống Việt Văn hóa đạo đức biểu hiện trình độ và tính Nam, mà còn trên cơ sở đó kịp thời đưa ra chất nhân văn của nền văn hóa ở mỗi cộng những giải pháp khắc phục sự lệch chuẩn đồng, mỗi thời đại khác nhau [9, tr.7]. Ở đạo đức ở một bộ phận người dân hiện nay. nước ta hiện nay, nền kinh tế có sự tăng 2. Giá trị đạo đức Phật giáo(*) trưởng vượt bậc, đời sống của người dân Phật giáo đề cao con người. Hay nói cách được nâng cao. Song, mặt trái của kinh tế khác, tiền đề xuất phát của Phật giáo là con thị trường cũng đã làm nảy sinh sự lệch người sống hiện hữu. Con người là trọng chuẩn đạo đức ở một bộ phận người dân tâm trong văn hóa đạo đức Phật giáo. Nền (coi thường các giá trị văn hóa đạo đức dân tảng để xây dựng văn hóa đạo đức Phật giáo tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân là Giáo lý Nghiệp. Đó là định luật về Nhân - vị kỷ ), đang gây hại đến thuần phong mỹ Quả và sự tác động của nó đối với tiến trình tục của dân tộc. Sự suy thoái về đạo đức, lối sống của con người; về sự báo ứng của sống đang diễn ra ở một bộ phận không nhỏ những suy nghĩ, lời nói, việc làm của con cán bộ, đảng viên. Không ít người vì đồng người đối với đời sống của chính mình. Do tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa vậy, con người chính là chủ nhân của sự gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng hạnh phúc hay đau khổ. Muốn có đời sống nghiệp Trước thực trạng đó chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ các loại hình văn (*) Thạc sĩ, Thích Đàm Lan, Giáo hội Phật giáo Việt hóa đạo đức đã tồn tại lâu đời ở Việt Nam, Nam, quận Long Biên, Hà Nội. ĐT: 0942163529. trong đó có văn hóa đạo đức Phật giáo. Email: thaybode_56@yahoo.com.vn. 49
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(100) - 2016 không khổ đau thì mỗi người phải tạo ra giá trị cốt lõi của Phật giáo, có ảnh hưởng “Nghiệp” tốt lành ngay trong suy nghĩ, lời khá nhiều đến đời sống đạo đức của người nói, hành động của mình thay vì đi tìm kiếm Việt Nam trong lịch sử cũng như trong giai hạnh phúc ngoài kiếp sống. Đó là điểm xuất đoạn hiện nay. phát để giáo lý Nghiệp đi đến chủ trương Tâm “Từ” là lòng từ ái vô lượng, vô biên, xây dựng một nền đạo đức nhân bản. Đây là là cái đối trọng với sân hận. Theo quan niệm điểm khác biệt cơ bản giữa Phật giáo với các của Phật giáo, cái tâm sân hận không thể tôn giáo khác (các tôn giáo như Ấn giáo, được dập tắt bằng lòng thù oán mà nó chỉ có Khổng giáo, Đạo giáo, thừa nhận sự thống thể hóa giải được bằng tâm “Từ”. Nếu dùng trị, sự quyết định của các thế lực, các sức oán để trả oán, thì oán oán sẽ chập trùng, mạnh tại ngoại đối với đời sống con người). khó mà chấm dứt được dòng nhân quả vay Phật giáo là một tôn giáo từ bi, một hệ trả, trả vay bất tận. Bởi vì theo Phật giáo: thống triết học và một nền đạo đức nhân “Lấy oán báo oán, oán sẽ chất chồng/ Lấy bản. Hệ thống kinh điển đồ sộ và hoàn thiện ơn báo oán, oán sẽ tiêu tan”. của Phật giáo là “Tam Tạng Kinh” bao gồm Tâm “Bi” là lòng xót thương vô hạn, là Kinh, Luật, Luận, ở đó chứa đựng những sự rung động trước nỗi đau của người khác giá trị đạo đức nhân sinh, hướng con người và nỗi đau của nhân thế; là sự cảm thông vô tới chân lý sống bình đẳng, tri túc, vô ngã vị hạn đối với con người, đối với mọi chúng tha. Những chân lý ấy luôn phù hợp với sinh không phân biệt đẳng cấp, giàu nghèo, mọi căn tính của chúng sinh, đáp ứng nhu sang hèn, thân sơ. Tâm “bi” chính là cái đối cầu của mọi thời đại. trọng với hung bạo, hận thù nhưng nó hoàn Trong “Tam Tạng Kinh” thì Kinh là toàn không phải là sự bi lụy. Đức Phật đã những lời răn, dạy, giáo huấn của Đức Phật dạy rằng, hận thù không bao giờ diệt được về thế gian, vũ trụ và cuộc sống nhân sinh; hận thù, từ bi diệt hận thù đó là định luật Luận là sự lập luận, chú giải, đàm luận của nghìn thu. các đệ tử về những lời dạy trong kinh của Tâm “Hỷ” là vui với niềm vui của người Đức Phật; Luật là những điều Đức Phật chế khác, buồn với nỗi buồn của người khác, định để ngăn cấm, khuyên răn các tín đồ, đệ không hiềm khích ganh tỵ trước thành tựu tử của Ngài. Luật bao gồm những quy của người khác. chuẩn đạo đức bắt buộc đối với các tín đồ, Tâm “Xả” là không luyến ái, không bực đệ tử của Phật, nhằm hướng đến cuộc sống tức, nóng giận trong phiền não. thực hành đạo đức và có tác dụng chuyển Tóm lại, “từ, bi, hỷ, xả” là thái độ cùng hóa con người, cải tạo xã hội, hướng xã hội vui, cùng buồn với tất cả chúng sinh, là tư tới những giá trị đạo đức chân, thiện, mỹ. tưởng cứu khổ, cứu nạn. Những giá trị đạo đức Phật giáo bao gồm Bên cạnh những giá trị đạo đức từ, bi, một hệ thống các giá trị về từ, bi, hỉ, xả, lẽ hỷ, xả vừa nêu trên, công bằng, bình đẳng công bằng bình đẳng, lòng khoan dung và và lòng khoan dung cũng là những giá trị đức hiếu sinh “Từ, bi, hỉ, xả” (hay còn gọi đạo đức quan trọng của Phật giáo. Công là “Tứ vô lượng tâm”) là một trong những bằng là theo đúng lẽ phải, không thiên vị; 50
- Phan Thị Lan bình đẳng là ngang hàng nhau về địa vị và cần thiết cho Phật tử sau khi quy y. Giới thứ quyền lợi; còn khoan dung là lòng rộng nhất là không sát sinh, đó là tôn trọng sự lượng tha thứ cho những người lầm lỗi. sống của muôn loài, đảm bảo cho sự cân Theo cách hiểu thông thường, công bằng và bằng về môi trường sinh thái. Điều này là bình đẳng là một điều hiển nhiên trong mối vô cùng quan trọng, nhất là trong giai đoạn quan hệ giữa người và người. hiện nay, vấn đề bảo vệ môi trường, đặc Ngoài ra, Phật giáo còn đề cao giá trị biệt bảo vệ động vật quý hiếm đang được “đức hiếu sinh”, đó là xoa dịu nỗi đau đặt ra cấp bách không chỉ với riêng Việt thương, cứu giúp người cùng khổ, người Nam, thế giới mà có tính toàn cầu. Giới thứ nghèo đói, ốm đau, bệnh tật. Tinh thần cứu hai là không trộm cắp, tôn trọng tài sản của khổ ấy của Phật giáo phù hợp với truyền kẻ khác, sống theo lương tâm và lẽ phải. thống luân lý đạo đức “yêu nước, thương Giới thứ ba là không ngoại tình, là bảo vệ người” của nhân dân ta, gần gũi với triết lý hạnh phúc của gia đình và tôn trọng hạnh sống trong ca dao tục ngữ của người dân phúc của kẻ khác. Giới thứ tư là không Việt Nam (như “Lá lành đùm lá rách”, hay vọng ngữ, là tôn trọng sự thật, giữ lòng “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/Người trong thành tín với mọi người; không được nói lời một nước phải thương nhau cùng”). trái với sự thật để mưu cầu lợi mình, hoặc Sự nhường cơm sẻ áo, cảm thông những hại người là nói dối. Giới thứ năm là không nỗi khổ của đồng bào, đồng loại, đó cũng là uống rượu, là bảo vệ sức khỏe, giữ gìn tâm nền tảng giáo lý từ bi của Phật giáo. Phật trí sáng suốt. giáo dạy con người sống theo lương tâm, Để cụ thể hóa hơn nữa những điều trong sống có đạo đức. Một nền đạo đức cần thiết Ngũ giới, Phật giáo đã đưa ra những chuẩn cho mọi dân tộc và mọi thời đại. mực đạo đức chi tiết hơn nữa trong Thập 3. Chuẩn mực đạo đức Phật giáo thiện. Thập thiện tức là mười điều thiện bao Đạo đức Phật giáo bao giờ cũng đề cao gồm ba điều về thân, bốn điều về khẩu và tính nhân văn; khuyên con người yêu thương ba điều về ý. Ba điều thiện về thân gồm: giúp đỡ nhau; luôn hướng con người làm không sát sinh mà phải phóng sinh; không điều thiện, tránh điều ác, phi nhân tính Bởi trộm cắp mà phải bố thí; không tà dâm mà vậy, đạo đức Phật giáo có những điều phù phải sống trong sạch. Bốn điều thiện về hợp với đạo đức xã hội, trở thành giá trị văn khẩu: không nói lời dối trá, mà phải nói lời hoá tinh thần của nhân loại. trung thực; không nói lời độc ác, xúc xiểm Hệ thống chuẩn mực đạo đức của Phật mà phải nói lời hiền dịu; không nói lời thêu giáo bao gồm các giới luật để điều chỉnh dệt, đơm đặt mà phải nói lời có ích; không hành vi của các tín đồ. Giới luật Phật giáo nói lưỡi hai chiều. Ba điều thiện về ý bao cũng đồng nghĩa với luân lý đạo đức, cách gồm: không tham lam, không sân hận, cư xử, nếp sống hướng thiện, được quy không si mê. định trong Ngũ giới, Thập thiện và Tứ ân. Có thể nói, mười điều thiện của Phật Ngũ giới là năm điều ngăn cấm các Phật giáo là một nền tảng những chuẩn mực đạo tử; là những chuẩn mực đạo đức vô cùng đức bao trùm tất cả mọi hành vi lẽ sống của 51
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(100) - 2016 con người. Những chuẩn mực đạo đức của Trong gia đình, cha mẹ, con cái, vợ chồng, Phật giáo không chỉ là những quy định, anh chị em đều cùng sống hòa hợp với nhau hành vi đạo đức, lương tâm, trách nhiệm và trong một mái nhà phải trên kính dưới nghĩa vụ đối với chính bản thân mỗi cá nhường, thương yêu hòa thuận, đùm bọc nhân trong gia đình, xã hội, mà còn rộng lẫn nhau, chia sẻ công việc cho nhau, không hơn cả là quy định về nghĩa vụ và trách được cãi cọ, đánh đập nhau. 2) Khẩu hòa vô nhiệm đạo đức của cá nhân đối với mọi tránh: miệng hòa hợp, không bao giờ cãi người và xã hội. Điều này được thể hiện cọ, lớn tiếng, mắng chửi nhau. Trong một trong “Tứ ân”. gia đình đôi khi chỉ vì một lời nói không Tứ ân là bốn ân đức lớn mà mỗi người hòa mà anh em xa lìa nhau, cha con ngoảnh đều phải nhớ, phải trả trong cuộc đời của mặt với nhau, vợ chồng “quay lưng sấp mình, đó là ân cha mẹ vì cha mẹ đã sinh ra mặt” với nhau; dù có sống chung trong một ta; ân chúng sinh vì chúng sinh đã giúp đỡ nhà mà mỗi người một thế giới. Như vậy, ta; ân Tổ quốc vì Tổ quốc đã cho ta sự yên nếu không giữ được “khẩu hòa vô tránh” thì bình lạc đạo và ân Tam bảo vì Tam bảo đã cũng không thể nào có “Thân hòa đồng trụ”. cho ta chính pháp. Đây là những chuẩn mực 3) Ý hòa đồng duyệt: ý hòa hợp, cùng vui vẻ đạo đức rất gần gũi với giá trị đạo đức với nhau. Ngay trong ý nghĩ bao giờ cũng truyền thống của người Việt Nam. nghĩ đến sự hòa hợp, vui vẻ với nhau, phải Trong xã hội ngày nay, dưới sự phát nghĩ đến làm sao cho đẹp lòng nhau. 4) Giới triển như vũ bão của khoa học công nghệ, hòa đồng tu: giới luật, cùng hòa hợp tu tập đời sống vật chất và tinh thần của con với nhau. Trong một đoàn thể phải có kỷ người không ngừng được nâng cao. Tuy luật, đã sống hòa hợp với nhau thì phải nhắc nhiên, bên cạnh đó có tình trạng phân hóa nhở nhau giữ kỷ luật. 5) Kiến hòa đồng giải: giàu nghèo, bất bình đẳng trong xã hội, thói những điều thấy biết cùng hòa hợp, giãi bày bon chen, ganh đua, đố kỵ lẫn nhau sự cho nhau. Những điều gì mình thấy rõ, hiểu mất đoàn kết giữa một số cá nhân trong xã sâu nhưng trong tập thể có người chưa thấy hội. Chính vì vậy, Lục hòa là vấn đề cần biết hoặc chưa hiểu rõ thì cùng giãi bày cho thiết được đặt ra đối với mỗi cá nhân, gia nhau trong sự hòa hợp dịu dàng. 6) Lợi hòa đình và toàn xã hội. Trong bối cảnh như đồng quân: những lợi lộc cùng chia hòa vậy, tư tưởng Lục hòa và Lục độ của Phật đồng. Ở gia đình, mọi nguồn lợi của gia đình giáo nếu được hiểu rộng ra có ý nghĩa giáo phải được chi tiêu theo kế hoạch chung, dục sâu sắc và là một trong những tiêu chí không thể chồng hay vợ tuỳ ý chi tiêu riêng để xây dựng nền đạo đức mới cho con cho bản thân của mình. người trong xã hội hiện đại ngày nay. Trong một quốc gia, nếu áp dụng được Lục hòa là sáu sự hòa hợp bao gồm: 1) sáu phép hòa kính như trên thì chắc chắn sẽ Thân hòa đồng trụ: thân cùng ở với nhau xây dựng được một xã hội an lạc, hòa bình. hòa hợp, cùng chung sống với nhau dưới Lục hòa ban đầu chỉ là sáu quy tắc do Đức một mái nhà hôm sớm có nhau, phải hòa Phật chế ra để áp dụng cho Tăng chúng khi thuận thương yêu nhau; giúp đỡ lẫn nhau. cùng sống chung tu tập với nhau. Sáu quy 52
- Phan Thị Lan tắc này đã đem lại sự hòa hợp an lành cho 4. Khía cạnh đạo đức qua một số nghi cả Tăng đoàn, có lúc đến hàng nghìn người. lễ Phật giáo Ngày nay, gia đình Phật tử đã đem áp dụng Những năm gần đây, đạo đức Phật giáo vào tổ chức của mình và cũng chính bằng có điều kiện thấm sâu hơn vào trong quần quy tắc này, gia đình Phật tử sống với nhau chúng nhân dân khi Phật giáo tham gia như một tổ ấm trong cái không khí hòa hợp “nhập thế”. Nhà chùa (tăng, ni) đã giúp một vui tươi, mọi người đều thương yêu nhau bộ phận nhân dân, phật tử thỏa mãn nhu cầu chân tình. tâm linh. Họ đến chùa cúng Phật (cầu an, Lục độ còn gọi là sáu hạnh Ba la mật, giải hạn ); các nhà sư thực hiện những bao gồm: 1) Bố thí: bố là cùng khắp, thí là nghi lễ tôn giáo (làm lễ cầu siêu, đưa vong cho, là trao tặng. Bố thí là cho cùng khắp, lên chùa, xem ngày cưới xin ). Những cho tất cả mọi người, mọi vật, mọi nơi. 2) nghi lễ tâm linh này có khía cạnh đạo đức. Trì giới: trì là giữ chặt chẽ, giới là những Cúng cầu an: Cứ đầu năm tại các chùa điều răn dạy, ngăn cấm, những quy luật mà đều tổ chức đại lễ cầu an. Ở những chùa Đức Phật đã chế ra để hướng dẫn các đệ tử nhỏ, lượng tín đồ ít, nhà chùa thường chỉ tổ của Ngài đi vào con đường giải thoát. 3) chức một lần vào một ngày nhất định. Với Tinh tiến: tinh là chuyên một việc, không có hình thức này, nhà chùa tiến hành làm lễ xen tạp, tiến là tiến tới mãi mãi không cầu an, tụng kinh, đốt sớ cầu nguyện cho dừng, không gián đoạn hay thoái lui. 4) các tín đồ. Ngược lại, ở những chùa lớn, có Nhẫn nhục: nhẫn là nhịn, chịu đựng những số lượng tín đồ đông, nhà chùa thường tổ cảnh trái mắt, nghịch lòng; nhục là điều sỉ chức vào nhiều lần trong các ngày khác nhục, điều xấu hổ, làm tổn thương đến lòng nhau. Đến với lễ cầu an, được nhà chùa làm tự ái của mình. 5) Thiền định: thiền là tư lễ cầu cho gia đình một năm mới tốt lành, duy, tĩnh lự; định là tập trung tâm ý vào sức khỏe, an khang và thịnh vượng, các một đối tượng duy nhất, không cho tâm ý thành viên gia đình đều có chung một tâm toán loạn. 6) Trí tuệ: trí là quyết đoán, sáng trạng an lạc, có niềm tin vào một năm mới suốt; tuệ là diệu dụng soi xét tự tại. diễn ra tốt đẹp và nhiều thành công lớn. Như vậy, theo tinh thần của Lục độ, Đây chính là động lực lớn, giúp cho mỗi muốn được giải thoát thì bản thân cá nhân người tự tin vào bản thân và cuộc sống để mỗi người phải làm thiện, sau đó giúp mang lại những gặt hái trong công việc. người khác làm thiện. Và cuối cùng, việc Đây có lẽ là ý nghĩa đạo đức lớn nhất của lễ giúp mình, giúp người trở thành lẽ tự nhiên cầu an đầu năm mà các chùa Phật giáo đem trên con đường thực hiện giải thoát. lại cho người dân. Tóm lại, những giá trị, chuẩn mực Phật Cúng sao giải hạn: bên cạnh lễ cầu an giáo đó là lòng yêu thương con người và diễn ra từ đầu năm mới, lễ cúng sao giải vạn vật; lòng hiếu thảo với cha mẹ và thuận hạn cũng được tiến hành tại các chùa. Khác thảo với mọi người; lòng yêu quê hương đất với lễ cầu an thường gắn với tất cả các nước và nhân loại; tinh thần khuyến thiện, thành viên trong gia đình, lễ cúng sao giải trừ ác. hạn chỉ gắn với từng cá nhân có sao xấu 53
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(100) - 2016 chiếu mệnh trong năm. Theo quan niệm dân nhỏ, cầu siêu là mong cho vong hồn đứa trẻ gian, hàng năm mỗi người có một sao chiếu được sớm đầu thai. mệnh, tất cả có 9 ngôi sao và cứ chín năm Lễ đưa vong lên chùa: Lễ đưa vong lên lại luân phiên trở lại (nghĩa là sau chín năm chùa được thực hiện khi người mất được thì ngôi sao đó lại đến). Các sao chiếu một thời gian, có thể là một hoặc ba năm. mệnh bao gồm Thái Dương, Thái Âm, Mộc Con cháu người đã mất muốn người thân Đức, Vân Hán, Thổ Tú, Thái Bạch, Thủy của mình được về hầu cửa Phật nên làm lễ Diệu, La Hầu và Kế Đô. Những người có đưa vong lên chùa. Sau khi làm lễ, gia chủ sao chiếu mệnh xấu trong năm (La Hầu, Kế đặt một bát hương và ảnh người mất tại ban Đô, Thái Bạch) thường đến chùa làm lễ vong của chùa làm chỗ trú ngụ cho vong cúng sao giải hạn. Để yên tâm về mặt tâm hồn. Từ đó, chùa là nơi vong hồn đi về. Vào lý, các tín đồ có sao xấu chiếu mệnh nhờ ngày cúng giỗ, con cháu nhất định phải lên nhà chùa làm lễ “cắt sao”. Lễ này thường chùa thắp nhang. Ngày nay, khi hỏa táng được tiến hành vào các ngày nhất định, phổ biến, số người đưa vong lên chùa càng tương ứng với từng loại sao. Sau khi được nhiều. Các gia đình thực hiện nghi lễ hỏa nhà chùa làm lễ cầu an, cúng sao giải hạn, táng không chỉ đưa vong lên chùa, mà còn đến cuối năm, các hộ gia đình và cá nhân gửi bình tro người thân trên chùa. Lệ phí thường quay lại chùa để làm lễ tạ Phật với ý cho lễ này tùy thuộc từng chùa, hoặc gia nghĩa cảm ơn Phật đã độ trì, che chở cho họ chủ tùy tâm. Khi bát hương người thân được mạnh khỏe, làm ăn phát đạt, tránh được đưa lên chùa, nhiều gia đình ngày nay được tai ương. Nhiều người đã cảm ơn nhà còn tiến hành làm giỗ ngay tại chùa, cỗ bàn chùa vì một năm tốt lành về sức khỏe và lên tới hàng chục mâm để mời anh em, công việc; một số người bị sao xấu chiếu người thân, bạn bè. mệnh, được nhà chùa cúng giải hạn, “hạn” của họ đã nhẹ hơn rất nhiều và tránh được Lễ bán khoán: Lễ bán khoán được thực tổn thất lớn. Lễ cúng sao giải hạn do đó hiện cả ở chùa và đền theo ý muốn của cũng có khía cạnh đạo đức là đem lại sự những tín đồ có trẻ nhỏ. Nhiều người Việt bình an về tâm linh cho con người. Nam quan niệm rằng những đứa trẻ khó Lễ cầu siêu: theo quan niệm của người nuôi, kém ăn, ốm đau, nghịch ngợm, hoặc Việt Nam, người mất trong vòng 49 ngày là con hiếm muộn, khi được đem bán cho chưa về hẳn “thế giới” bên kia. Những ngày chùa làm con của Phật, Thánh, Đức Ông đó, vong hồn người chết vẫn quanh quẩn thì sẽ được phù hộ, dễ nuôi, mau lớn, thông trong nhà nên người Việt Nam từ xưa minh hơn người. Đứa trẻ thường được bán thường có tục cúng cơm đủ 49 ngày. Sau 49 khoán đến năm mười hai, mười ba tuổi (tức ngày, vong hồn người chết thực sự rời khỏi sau 1 giáp), khi đó cha mẹ lại phải làm lễ người thân về thế giới bên kia. Vào ngày chuộc về, vì quan niệm nếu không chuộc này, người thân trong gia đình lên chùa làm chúng sẽ khó lập gia đình sau này. Tuy lễ cầu siêu cầu mong cho vong hồn người nhiên, một số gia đình vẫn bán khoán con thân được siêu thoát về đất Phật không phải cả đời cho chùa gọi là bán khoán “bách đày đoạn nơi chín tầng địa ngục. Đối với trẻ niên” và đứa trẻ vẫn gặp nhiều may mắn. 54
- Phan Thị Lan Cưới xin: trước khi tiến tới hôn nhân, nghĩa xã hội” của Giáo hội Phật giáo Việt nhiều đôi bạn trẻ đến chùa khấn nguyện với Nam. Đây là nét đẹp văn hóa đạo đức đặc chư Phật phù hộ cho mối lương duyên của sắc của Phật giáo cần được nhân rộng và họ được thuận buồm xuôi gió. Hiện tượng phát huy trong thời đại mới. này diễn ra khoảng vài ba năm trở lại đây. Họ đến nhờ nhà chùa lễ Phật, nhờ xem tuổi Tài liệu tham khảo lứa đôi, xem ngày ăn hỏi, ngày cưới Nhà [1] Ngô Thị Lan Anh (2008), “Ảnh hưởng chùa giúp đôi trẻ làm lễ “hằng thuận quy y” “tâm” trong Phật giáo đối với văn hóa tinh trước khi rước dâu. Đó là một lễ chúc lành thần của người Việt Nam hiện nay”, Tạp ngắn gọn và được chư Tăng khuyên dạy chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 5. một số nguyên tắc đạo đức Phật giáo để làm [2] Nguyễn Thị Bảy (1997), Văn hóa Phật kim chỉ nam cho cuộc sống như việc ứng giáo và lối sống của người Việt ở Hà Nội xử trong mối quan hệ vợ - chồng; quan hệ và châu thổ Bắc Bộ, Nxb Văn hóa Thông hai bên nội, ngoại tin, Hà Nội. Tóm lại, trước những biến cố lớn trong [3] Trần Văn Bính (2011), Xây dựng văn hóa cuộc đời của cá nhân (như cưới xin, tang đạo đức, lối sống của người Việt Nam, ma và cả trong cuộc sống sinh hoạt thường Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. ngày), nhiều người đã tìm đến Phật giáo. [4] Thích Minh Châu (1993), Năm giới, một nếp sống lành mạnh, an lạc, hạnh phúc, Các nghi lễ Phật giáo đáp ứng nhu cầu tâm Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Thiền viện linh của một số người nhưng cũng có khía Vạn Hạnh xuất bản, Tp. Hồ Chí Minh. cạnh đạo đức vì giúp cho một bộ phận nhân [5] Thích Minh Châu (2002), Đạo đức Phật dân có tâm an lạc, tư tưởng thái bình. giáo và hạnh phúc con người, Nxb Tôn 5. Kết luận giáo, Hà Nội. Nhìn một cách tổng quát, những giá trị [6] Nguyễn Đăng Duy (1999), Phật giáo với và chuẩn mực đạo đức Phật giáo đã góp văn hóa Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội. phần hình thành nên nhân cách, lối sống [7] Nguyễn Thành Duy (2004), Văn hóa đạo của người Việt Nam trong lịch sử và hiện đức, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt nay. Thực hành lối sống đạo đức Phật giáo Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. gắn liền với lương tâm, nghĩa vụ và trách [8] Nguyễn Hồng Dương (2008), “Nghiên cứu nhiệm của người Phật tử. Thực hành lối và ứng dụng các giá tri văn hóa Phật giáo sống đạo đức Phật giáo ngoài xã hội gắn trong xã hội Việt Nam hiện nay”, Tạp chí liền với các hoạt động từ thiện, cũng là cơ Nghiên cứu Tôn giáo, số 5. hội để Phật giáo đi sâu và gắn kết với cộng [9] Lê Quý Đức, Hoàng Chí Bảo (2007), Văn đồng dân tộc, nhằm xoa dịu nỗi đau khổ hóa đạo đức ở nước ta hiện nay, vấn đề và của những người chịu nhiều bất hạnh trong giải pháp, Nxb Văn hóa Thông tin và Viện cuộc sống, đóng góp cho đất nước những Văn hóa, Hà Nội. giá trị nhân văn tốt đẹp. Bên cạnh đó, thực [10] Lê Hữu Tuấn (1999), “Ảnh hưởng của đạo hành lối sống đạo đức Phật giáo còn là đức Phật giáo với việc xây dựng đạo đức phương tiện hữu hiệu thể hiện tốt hơn nữa của chúng ta hiện nay”, Tập san Nghiên phương châm “Đạo pháp - dân tộc và chủ cứu Phật học, số 5. 55
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(100) - 2016 56