Giáo trình Giải quyết vấn đề nhà ở cho người lao động trong các khu công nghiệp ở các tỉnh Bắc Trung Bộ hiện nay - Bùi Văn Dũng
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Giải quyết vấn đề nhà ở cho người lao động trong các khu công nghiệp ở các tỉnh Bắc Trung Bộ hiện nay - Bùi Văn Dũng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_giai_quyet_van_de_nha_o_cho_nguoi_lao_dong_trong.pdf
Nội dung text: Giáo trình Giải quyết vấn đề nhà ở cho người lao động trong các khu công nghiệp ở các tỉnh Bắc Trung Bộ hiện nay - Bùi Văn Dũng
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam,CHÍNH số 5( 90)TRỊ - 2015 - KINH TẾ HỌC Giải quyết vấn đề nhà ở cho người lao động trong các khu công nghiệp ở các tỉnh Bắc Trung Bộ hiện nay Bùi Văn Dũng * Tóm tắt: Hiện nay các tỉnh Bắc Trung Bộ đã có hơn 40 khu công nghiệp (KCN). Số lao động địa phương làm việc tại đây thì có nhà ở, còn lại phần lớn người lao động từ các địa phương khác tới làm việc tại các KCN phải thuê nhà ở. Vì vậy, giải quyết vấn đề nhà ở cho người lao động là việc làm quan trọng để ổn định lực lượng lao động, giúp ổn định trật tự an ninh xã hội, góp phần phát triển các khu công nghiệp. Từ khóa: Vấn đề nhà ở; người lao động; các khu công nghiệp. 1. Tầm quan trọng của việc giải quyết bó của người lao động đối với các doanh vấn đề nhà ở cho người lao động trong nghiệp, các khu công nghiệp sẽ giảm đi. các khu công nghiệp Những vấn đề này có tác động không tốt Thứ nhất, đối với người lao động đến năng suất lao động và kết quả làm việc Giải quyết vấn đề nhà ở cho người lao của nhóm đối tượng này. động trong khu công nghiệp là biện pháp tái Khi người lao động được đảm bảo về sản xuất sức lao động của công nhân. Nhà ở nhà ở thì họ sẽ yên tâm làm việc và có xu là một trong những nhu cầu cơ bản của con hướng gắn bó với các KCN nhiều hơn. Vì người, vì thế bảo đảm nhà ở cho người dân vậy, nhà ở cho người lao động là một biện là một trong những vấn đề xã hội quan pháp tái sản xuất sức lao động cho công trọng. “Có chỗ ở thích hợp và an toàn là nhân. Sau thời gian làm việc, họ cần có chỗ một trong những quyền cơ bản, là điều kiện ở để nghỉ ngơi nhằm tái tạo lại sức lao động cần thiết để phát triển con người một cách để tiếp tục cho quá trình sản xuất.(*) toàn diện, đồng thời là nhân tố quyết định Thứ hai, đối với doanh nghiệp để phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho Thực tế là khi người lao động phải sống sự nghiệp phát triển đất nước”. trong những ngôi nhà không hợp vệ sinh và Khi phải sống trong điều kiện không tốt, mất vệ sinh thường bị nguy cơ về bệnh tật người lao động phải luôn trong trạng thái và gây ra những rắc rối không đáng có tìm được chỗ ở tốt hơn, tâm trí cho việc trong thời gian làm việc tại nhà máy. Tình thực hiện công việc bị ảnh hưởng, và những trạng sức khoẻ không tốt của người lao đóng góp của họ cho quá trình hoạt động, động làm cho năng suất sản xuất của nhà sản xuất của đơn vị sử dụng lao động bị máy bị sụt giảm nghiêm trọng. giảm sút, thì xu hướng chuyển việc, nhảy việc diễn ra thường xuyên. Thêm vào đó, (*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Trường Đại học Vinh. do chỗ ở không tốt, không ổn định, việc gắn ĐT: 0902091969. Email: tsbuidung@vinhun.edu.vn 30
- Giải quyết vấn đề nhà ở cho người lao động Việc giải quyết vấn đề nhà ở cho người 2. Thực trạng giải quyết vấn đề nhà ở lao động tại các KCN, không chỉ đảm bảo cho người lao động trong các khu công tinh thần làm việc cho người lao động mà nghiệp ở các tỉnh Bắc Trung Bộ còn là động lực để giữ chân người lao động Thứ nhất, phía doanh nghiệp làm việc tại các doanh nghiệp. Bởi ổn định nhân sự tại khu công nghiệp Trong tổng số 58 doanh nghiệp được là yếu tố quan trọng khi tiến hành các hoạt điều tra, hiện tại chỉ có 7 doanh nghiệp có động sản xuất. Với nhân sự ổn định, doanh nhà ở cho người lao động đang làm việc ở nghiệp sẽ không phải mất thời gian đào tạo các KCN. Kết quả điều tra cũng cho thấy, nhân lực mới được tuyển dụng, tạo điều hiện nay việc xây dựng nhà ở cho người lao kiện duy trì và nâng cao năng suất lao động, động trong các KCN hoàn toàn do doanh từ đó gia tăng lợi nhuận. nghiệp sử dụng lao động xây dựng; còn Thứ ba, đối với sự phát triển bền vững Nhà nước, thậm chí kể cả Ban quản lý khu của địa phương công nghiệp cũng chưa tham gia vào quá Khi mà phần lớn lao động đến làm việc trình cung ứng nhà ở cho nhóm đối tượng tại các KCN phải đi thuê nhà, nhưng do thu này. Tại 7 doanh nghiệp đã thực hiện cung nhập từ quá trình làm việc tại các KCN cấp nhà ở cho người lao động, kết quả trả chưa cao, người lao động để có thêm tiền lời phỏng vấn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo tích luỹ phải giảm thiểu các chi phí. Do đó, tại các doanh nghiệp này cho thấy, tình trạng cung cấp nhà ở mà doanh nghiệp thực họ phải tìm nhà ở với giá rẻ, và sống ở hiện đối với người lao động mới chiếm một những nơi có điều kiện vệ sinh không thật tỷ lệ nhỏ, vai trò của doanh nghiệp trong tốt. Những điều này có nguy cơ làm nảy việc cung cấp nhà ở cho người lao động sinh các tệ nạn xã hội và làm cho vệ sinh chiếm vị trí thấp nhất khi so sánh với các môi trường khu vực đó trở nên xấu thêm. nhóm đối tượng khác về cung cấp nhà ở Thêm vào đó tâm lý tạm bợ về chỗ ở làm cho người lao động. Kết quả điều tra cũng cho sự ổn định về lao động của địa phương cho thấy, xu hướng các doanh nghiệp thực luôn dao động, điều này lại gây tác động hiện giải quyết vấn đề nhà ở cho người lao xấu đối với đơn vị tuyển dụng, dẫn đến tình động có chiều hướng giảm, các KCN đang trạng lợi nhuận của các doanh nghiệp tại xem nhẹ việc cung ứng nhà ở cho người lao các KCN có thể giảm khi lực lượng lao động bởi số lượng, tỷ lệ người lao động động tham gia làm việc tại đây giảm. Sự phải ở nhà trọ tư nhân, hay nhà ở của người giảm sút về lợi nhuận tất yếu sẽ dẫn đến thân người quen có xu hướng gia tăng. Trong 7 doanh nghiệp thực hiện cung đóng góp của doanh nghiệp vào nguồn thu cấp chỗ ở cho người lao động làm việc tại của địa phương giảm các khu công nghiệp, thì từ khi thành lập Chính vì vậy, việc giải quyết vấn đề nhà đến nay, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ ở cho người lao động làm việc tại các KCN phần là những đơn vị tham gia nhiều nhất là điều mà chính quyền trung ương, chính trong việc cung ứng chỗ ở cho người lao quyền địa phương cần phải quan tâm, và động. Xét về mặt tỷ lệ, nhìn chung tỷ lệ các tiến hành thực hiện tốt những chủ chương, doanh nghiệp trong nước tham gia cung chính sách liên quan đến vấn đề này. ứng chỗ ở cho người lao động làm việc 31
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(90) - 2015 trong các KCN nhiều hơn so với các doanh người lao động làm việc tại các KCN ở các nghiệp nước ngoài, các doanh nghiệp tư tỉnh Bắc Trung Bộ sẽ tự quyết định diện nhân, các công ty cổ phần đảm bảo chỗ ở tích ở của mình tùy thuộc vào nhiều yếu tố tốt hơn so với doanh nghiệp nhà nước theo từ quan điểm sống, thu nhập đến sự thuận kết quả điều tra. Xét theo quy mô lao động, tiện cho việc đi lại làm việc. Các hộ gia kết quả điều tra cũng cho thấy, số doanh đình có nhà cho thuê chỉ quan tâm đến số nghiệp có quy mô lao động dưới 300 người tiền mà họ nhận được từ căn nhà cho thuê, chú trọng đến việc cung cấp, giải quyết vấn còn việc có bao nhiêu người sẽ cùng nhau đề nhà ở (chỗ ở) cho người lao động tốt hơn chia sẻ diện tích ở tại căn nhà đó thì không so với những doanh nghiệp mà quy mô lao ảnh hưởng quyết định cho thuê nhà của động từ 500 người trở lên. người chủ. Thứ hai, phía hộ gia đình cho thuê nhà 3. Tác động của việc giải quyết vấn đề đối với lao động làm việc tại KCN nhà ở cho người lao động đến sự phát Phần lớn những ngôi nhà được hộ gia triển các khu công nghiệp ở các tỉnh Bắc đình sử dụng vào mục đích cho người lao Trung Bộ động làm việc ở các doanh nghiệp ở các 3.1. Tác động đến thu nhập và chi tiêu tỉnh Bắc Trung Bộ thuê để kiếm thêm thu của người lao động nhập là những căn nhà cấp 4 (khoảng Số liệu từ 58 doanh nghiệp điều tra cho 98,90% số nhà được điều tra); kết quả điều thấy, khi mới thành lập 95% doanh nghiệp tra cho thấy chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ những thuộc KCN trả tiền lương hàng tháng cho ngôi nhà từ hai tầng trở lên được người dân người lao động là ở mức dưới 2,5 triệu xây dựng để thực hiện hoạt động kinh đồng/người/tháng. Trong đó, số doanh nghiệp doanh (cho thuê chỗ ở) phục vụ cho nhóm chi trả tiền lương cho người lao động dưới đối tượng công nhân làm việc tại các KCN. mức 2 triệu đồng/người/tháng còn cao gấp Không chỉ những hộ gia đình có nhiều đất rưỡi số doanh nghiệp chi trả cho người lao mới thực hiện xây nhà để cho người lao động khoản tiền từ 2 đến 2,5 triệu đồng/ động làm việc tại các KCN thuê để ở mà người/tháng; số doanh nghiệp chi trả tiền những nhóm diện tích đất không nhiều vẫn lương bình quân cho người lao động trên thực hiện xây dựng những ngôi nhà cấp 4 4,5 triệu đồng/người/tháng chiếm tỷ lệ rất để người lao động tại các KCN thuê để ở. nhỏ. Chỉ có doanh nghiệp có vốn đầu tư Nói cách khác, số lượng cũng như tỷ lệ nước ngoài và doanh nghiệp nhà nước trung nhóm đối tượng chỉ xây dựng căn nhà trên ương có khả năng chi trả tiền lương cho diện tích ở tối đa 20m2 để cho người lao người lao động ở mức 2,5 triệu đồng trở lên. động thuê tương đối thấp; phần lớn nhóm Đến nay, mặc dù, mức tiền lương tối đối tượng thực hiện xây nhà cho thuê ở diện thiểu đối với người lao động làm việc tại tích đất xây trên 100m2 chiếm đến hơn 1/3 các doanh nghiệp tăng lên nhưng vẫn còn tổng số nhóm đối tượng hoạt động kinh có những doanh nghiệp chi trả bình quân doanh trong lĩnh vực này. cho người lao động ở mức dưới 2 triệu Diện tích đất ở bình quân của một lao đồng/người/tháng. Kết quả điều tra cũng động thuê nhà tại các hộ dân cư ở các tỉnh cho thấy, số lượng, tỷ lệ doanh nghiệp chi Bắc Trung Bộ hiện nay là dưới 6m2/người. trả mức lương từ 2 đến 2,5 triệu đồng/ Với diện tích căn nhà đi thuê đã cố định, người/tháng tương đương với số lượng, tỷ 32
- Giải quyết vấn đề nhà ở cho người lao động lệ thực hiện chi trả lương thưởng cho người quân mà họ nhận được từ phía doanh lao động từ 3 đến 4 triệu đồng/người/tháng. nghiệp sử dụng lao động (bình quân 47.200 Nhìn chung số doanh nghiệp thưởng cho đồng/người/tháng). người công nhân cao có xu hướng giảm Chính vì vậy, để giảm thiểu chi tiêu theo mức độ tăng thu nhập mà công nhân nhằm gia tăng thu nhập, các nhóm lao nhận được. 70% doanh nghiệp chi trả lương động làm việc tại các doanh nghiệp trong đối với người lao động ở mức dưới 3 triệu KCN cùng nhau thuê một căn phòng diện đồng/người/tháng; lệ chi trả lương ở mức từ tích khoảng 20m2 xung quanh các KCN. 3 đến 4 triệu đồng/ người/tháng chưa đến Các nhà trọ này thì hầu như không đáp 30% số doanh nghiệp trả lời phỏng vấn nên ứng được các tiêu chuẩn kỹ thuật trong có thể thấy rằng mức tiền lương bình quân thiết kế xây dựng: diện tích nhỏ, chật hẹp, mà doanh nghiệp chi trả cho người lao động ẩm thấp vào mùa mưa, nóng bức vào mùa chỉ dao động xung quanh mức 3 triệu nắng và rét mướt vào mùa đông; không có đồng/người/tháng. phòng vệ sinh riêng; hệ thống thoát nước, Mặc dù, tiền lương thực tế của người lao xử lý rác thải sinh hoạt của khu nhà trọ động dao động ở mức 3 triệu đồng/người/tháng, không được các chủ nhà trọ quan tâm xây nhưng thu nhập thực tế bình quân của người dựng nên nước và rác được thải ra khu lao động làm việc tại các KCN ở các tỉnh vực xung quanh gây ra tình trạng ô nhiễm Bắc Trung Bộ cũng đạt khoảng 4,1 triệu môi trường Nói cách khác, người lao đồng/người/tháng, tương đương với thu động đang làm việc tại các khu công nhập của người lao động làm việc ở các nghiệp nói chung, ở các tỉnh Bắc Trung KCN thuộc các vùng kinh tế khác. Bộ nói riêng hiện đang phải thuê những Sự gia tăng thu nhập của người lao động ngôi nhà để sống trong tình trạng tạm bợ, trong các KCN ở các tỉnh Bắc Trung Bộ và nhiều khó khăn. một phần là do tiền công làm thêm của 3.2. Tác động đến việc ổn định nhân sự người lao động, một phần là hỗ trợ từ doanh và phát triển của các doanh nghiệp các nghiệp đối với nhà ở và đi lại và một số KCN ở các tỉnh Bắc Trung Bộ khoản thu vãng lai khác của người lao Tích lũy không cao, thêm vào đó người động. Nói cách khác, những khoản hỗ trợ lao động làm việc tại các KCN lại gặp người lao động thuê nhà ở cũng góp phần nhiều khó khăn liên quan đến chỗ ở, cũng làm tăng thu nhập của người lao động, khi như các phương tiện phục vụ sinh hoạt họ tối thiểu hóa chi phí chi trả cho thuê nhà. hàng ngày. Sự gắn bó lâu dài của người lao Đối với các khoản chi tiêu của người lao động với các khu công nghiệp ở các tỉnh động làm việc tại các KCN kết quả điều tra Bắc Trung Bộ là không cao. cho thấy, bình quân một người lao động Xét theo nhóm tuổi, sự gắn bó của người một tháng chi khoảng 2,8 triệu đồng. Trong lao động với các KCN trên 1 năm nhiều đó hàng tháng người lao động giành số tiền nhất ở nhóm lao động dưới 30 tuổi. Tuổi chi cho ăn, mặc là 1,5 triệu đồng. Để thuê càng cao, sự gắn bó của người lao động với một căn phòng đảm bảo được nhu cầu sinh các khu công nghiệp càng giảm. Với nhóm hoạt ở mức tối thiểu, người lao động phải tuổi từ 40 trở lên thì sự gắn bó của người chi trả bình quân là 589.100 đồng/người/tháng. lao động với khu công nghiệp còn rất hạn Chi phí này cao hơn 4 lần mức hỗ trợ bình hữu. Hầu như người ta rất khó tìm thấy lao 33
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(90) - 2015 động phổ thông ở nhóm tuổi này tại các khu là hầu như không có), nhưng số đối tượng công nghiệp. Xét theo thời gian làm việc tại có thời gian gắn bó trên 3 năm, 5 năm lại có các khu công nghiệp, trong tổng số 170 dấu hiệu giảm dần. Kết quả này một lần nữa người được điều tra thì chỉ có 10% số lao khẳng định tính hợp lý về lý thuyết liên động được điều tra gắn bó trên 5 năm với quan đến sự tham gia vào thị trường lao các khu công nghiệp ở các tỉnh Bắc Trung động, cũng như tính sự gắn bó không cao Bộ (17 người), 19,73% chỉ gắn bó khoảng 3 của lao động với các KCN ở các tỉnh Bắc đến 5 năm (33 người), 55,29% người lao Trung Bộ. động chỉ gắn bó với các khu công nghiệp 3.3. Tác động đến tình hình an ninh trong khoảng thời gian từ 1 đến 3 năm (94 trật tự và phát triển xã hội ở các tỉnh Bắc người) và 15% số lao động được phỏng vấn Trung bộ mới chỉ gắn bó với các KCN trên các tỉnh Phần lớn công nhân tại các KCN, khu này chưa tới 12 tháng (26 người). chế xuất (KCX) đang sống trong môi Xét theo tình trạng hộ khẩu, mức độ gắn trường ba không: không tivi, không sách bó với các KCN trong khoảng thời gian từ 1 báo, không internet Tại hầu hết các cụm, đến 3 năm của lao động ngoại tỉnh cao hơn khu công nghiệp không có một nơi vui chơi so với lao động người bản địa. Tuy nhiên, giải trí công cộng: công viên, sân thể thao, với khoảng thời gian từ 3 năm trở lên thì nhà hát, rạp chiếu phim Bên cạnh đó, áp mức độ gắn bó của lao động bản địa lại cao lực của công việc và làm thêm giờ, nhiều hơn so với nhóm đối tượng lao động ngoại công nhân cả tháng trời không biết đến tivi, tỉnh. Xét theo tình trạng hôn nhân, lao động sách, báo. Điều đó có nghĩa, người lao động chưa có gia đình gắn bó với KCN cao hơn tại các khu công nghiệp đang ở trong tình so với lao động đã có gia đình trong độ tuổi trạng "đói" về văn hóa. Những công nhân dưới 30, với nhóm đối tượng trên 30 tuổi, sau giờ làm việc nặng nhọc, vất vả thường lao động có gia đình thể hiện sự gắn bó với là tụ tập nấu nướng, chơi bài, đánh cờ ở nơi KCN cao hơn. thuê phòng, rủ nhau đi nhậu, quán cà phê, Khi mới tham gia vào thị trường lao hát karaoke Những hoạt động này đã ảnh động cho đến 30 tuổi, phần lớn người lao hưởng đến tình hình an ninh trật tự chung động có xu hướng thay đổi công việc để tìm nơi họ thuê nhà để trọ ra nghề nghiệp phù hợp với bản thân. Thực Thêm vào đó, do sống xa nhà thiếu thốn tế điều tra 170 lao động đang làm việc tại tình cảm, tình trạng nam nữ cùng sống các KCN ở các tỉnh Bắc Trung Bộ cho thấy chung nhà trọ nên quan hệ nam nữ đôi khi có tới 60% lao động được điều tra dưới 30 thiếu lành mạnh, phổ biến là tình hình tuổi chỉ gắn bó với các KCN tối đa 3 năm. “sống chung, sống thử” tại các nhà trọ Còn ở độ tuổi từ 30 trở lên và đặc biệt là đã quanh KCN như hiện nay. Trong đó, nổi lên ổn định về gia đình, nếu không vì tình trạng sự sa sút trong đời sống hôn nhân gia đình bất khả kháng, hay có được cơ hội thăng của lao động nữ, họ ít có cơ hội giao lưu tiến, người lao động rất ngại phải chuyển tìm hiểu để xây dựng hạnh phúc gia đình, tệ đổi nơi làm việc. Tuy nhiên, ở các khu công nạn mại dâm và các vấn đề xã hội khác phát nghiệp ở các tỉnh Bắc Trung Bộ, khi người sinh ngày càng nhiều trên những các tỉnh có lao động có trình độ chuyên môn không cao lao động làm thuê trong các khu công (cơ hội thăng tiến khi chuyển đổi công việc nghiệp sinh sống. 34
- Giải quyết vấn đề nhà ở cho người lao động 4. Giải pháp giải quyết vấn đề nhà ở doanh nghiệp. Hỗ trợ thủ tục pháp lý, tạo cho người lao động trong các khu công điền kiện thuận tiện cho việc xây dựng nhà nghiệp ở các tỉnh Bắc Trung Bộ ở cho người lao động KCN của người dân. Thứ nhất, cần giải tỏa những ách tắc Đặc biệt, đối với đất thuộc quyền sử dụng trong chính sách của nhà nước về nhà ở xã của người dân cũng được miễn tiền chuyển hội cho người lao động trong KCN quyền sử dụng đất. Tất nhiên, nhà ở cho Trong Chiến lược nhà ở giai đoạn 2011 - công nhân được hỗ trợ phải làm theo quy 2020 đã khẳng định nhà ở xã hội phải được chuẩn quy định không được làm nhà cấp 4, ưu tiên xây dựng để những người thu nhập mái tôn quá đơn giản. Bên cạnh đó, diện thấp có cơ hội sở hữu nhà ở. Nghị định nhà do dân làm được hỗ trợ từ nhà nước 188/2013/NĐ-CP của Chính phủ ban hành cũng phải tuân thủ mức giá cho thuê do nhà đã cụ thể hóa chiến lược này hay Luật Nhà nước quy định, không được vượt giá trần. ở được Quốc hội khóa XIII thông qua tại Thứ ba, hoàn thiện công tác quy hoạch Kỳ họp thứ 8 cũng có một chương riêng về và kiểm tra giám sát thực hiện quy hoạch phát triển nhà ở xã hội. Chính sách này cho nhà ở cho người lao động làm việc trong KCN thấy sự tôn trọng quyền có chỗ ở của người Khắc phục những tồn tại của giai đoạn đầu dân như Hiến pháp đã khẳng định, nó cũng phát triển KCN, Nghị định 29/2008/NĐ-CP phù hợp với các quan điểm của Đảng về của Chính phủ ngày 14 tháng 3 năm 2008 giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh về “Quy định về khu công nghiệp, khu chế tế với công bằng xã hội. Các đối tượng khó xuất và khu kinh tế, Nghị quyết số khăn về nhà ở, đặc biệt, là đối tượng được 18/2009/NQ-CP, ngày 24 tháng 04 năm hỗ trợ như hộ dân nghèo ở nông thôn, 2009 của Chính phủ về “Một số cơ chế, người có công, lực lượng vũ trang, công chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển nhà ở chức viên chức trong hệ thống chính trị, cho học sinh, sinh viên các cơ sở đào tạo và sinh viên, công nhân ở khu công nghiệp đều nhà ở cho công nhân lao động tại các khu là đối tượng được thụ hưởng trong chính công nghiệp tập trung, người có thu nhập sách nhà ở xã hội. thấp tại khu vực đô thị, Quyết định số Thứ hai, khuyến khích người dân xây 66/2009/QĐ-TTg ngày 24 tháng 04 năm dựng nhà ở cho người lao động thuê 2009 ban hành một số cơ chế chính sách Trong điều kiện số lao động ngày càng phát triển nhà ở cho công nhân lao động tại tăng, doanh nghiệp, các Ban quản lý khu các khu công nghiệp thuê đã quy định việc công nghiệp, các Công ty xây dựng cơ sở xây dựng nhà ở cho người lao động phải hạ tầng tại các KCN chưa đáp ứng được, nằm trong quy hoạch phát triển KCN, phải việc khuyến khích người dân xây dựng nhà là trách nhiệm của các doanh nghiệp, các ở cho người lao động KCN thuê cũng là Ban quản lý KCN và các doanh nghiệp xây một giải pháp thực tiễn. dựng cơ sở hạ tầng KCN, tuy nhiên đến nay Để khuyến khích người dân tham gia đây vẫn là vấn đề còn rất khó khăn. xây dựng nhà ở cho người lao động làm Đối với các doanh nghiệp, thực tiễn cho việc trong KCN thuê, Nhà nước cần sớm thấy, chỉ có những doanh nghiệp có tiềm ban hành các nghị định và thông tư hướng lực mạnh về vốn, có kỹ thuật hiện đại, có ý dẫn thi hành Luật Nhà ở (sửa đổi) hỗ trợ về định hoạt động lâu dài mới chú ý đến việc vay vốn (số vốn, lãi suất) tương tự như xây dựng nhà ở cho người lao động. Ngược 35
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(90) - 2015 lại, các doanh nghiệp tiềm lực kinh tế việc, tạo cơ hội cho họ tiếp cận các dịch vụ mỏng, kỹ thuật giản đơn, làm ăn mang tính pháp luật, nhà ở, chăm sóc y tế, giáo dục, cơ hội thường không chú ý đến việc xây việc làm, học nghề, sao cho giảm chi phí dựng nhà ở cho người lao động. Điều này và phiền hà cho người lao động nhập cư. đặt vấn đề trách nhiệm đối với cơ quan quản lý nhà nước. Tài liệu tham khảo Thứ tư, tăng cường công tác kiểm tra, 1. Chính phủ (2009), Nghị quyết số 18/2009/NQ- giám sát và phối hợp tổ chức thực hiện chủ CP, ngày 20 tháng 04 năm 2009 của Chính phủ về trương xây dựng nhà ở cho người lao động một số cơ chế, chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển trong KCN nhà ở cho học sinh, sinh viên các cơ sở đào tạo và Cùng với quy hoạch xây dựng nhà ở cho nhà ở cho công nhân lao động tại các khu công người lao động và lựa chọn doanh nghiệp nghiệp tập trung, người có thu nhập thấp tại khu vực đầu tư vào KCN, các cơ quan quản lý nhà đô thị. nước cũng cần tăng cường công tác kiểm 2. Chính Phủ (2009), Quyết định 66/2009/QĐ- tra giám sát giải quyết vấn đề nhà ở cho TTg về cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho công người lao động. Ở các địa phương cần nhân lao động tại các khu công nghiệp thuê. thành lập Ban chỉ đạo tại địa phương về 3. Chính Phủ (2011), Quyết định số 2127/QĐ- chính sách nhà ở để chỉ đạo và tổ chức thực TTG ngày 30 tháng 11 năm 2011 của chính phủ phê hiện các chủ trương, chính sách đã ban duyệt Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm hành, giải quyết kip thời đối với những 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. trường hợp vi phạm hợp đồng, cam kết. 4. Mai Ngọc Cường (2013), Chính sách xã hội Trong Ban chỉ đạo cần có các thành phần đối với di dân nông thôn - thành thị ở Việt Nam hiện Đảng, Chính quyền, các đoàn thể, trước hết nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. là tổ chức công đoàn, các Ban quản lý KCN 5. Bùi Văn Dũng, Tổng hợp số liệu điều tra luận và đại diện các doanh nghiệp sử dụng lao án tiến sĩ "Giải quyết vấn đề nhà ở cho người lao động tham gia. động các khu công nghiệp - Nghiên cứu trên địa bàn Thứ năm, tăng cường tổ chức cung ứng một số tỉnh Bắc Trung Bộ", năm 2013. các dịch vụ xã hội cho người lao động làm 6. Lê Quốc Hội (2012), Việc làm và đời sống của việc tại các KCN người lao động trong khu công nghiệp, khu chế xuất Các địa phương có KCN cần chú trọng và khu kinh tế ở Việt Nam, Đề tài KHCN Trường đầu tư phát triển các dịch vụ xã hội gần Đại học Kinh tế Quốc dân. KCN, nhất là nhà trẻ, mẫu giáo, trường học, 7. Vũ Thành Hưởng (2010), Phát triển bền vững về bệnh viện, bưu điện, bến xe, hệ thống cửa kinh tế các Khu công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm hàng, ngân hàng, siêu thị, chợ, sân vận Bắc Bộ: Thực trạng và các khuyến nghị chính sách. động, tạo điều kiện thuận lợi cho người Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. lao động trong làm việc KCN tiếp cận với 8. Nguyễn Thăng Long, Trần Việt Tiến (2014), các dịch vụ xã hội. “Vai trò của Khu kinh tế Vũng Áng đối với sự phát Đồng thời cần tiếp tục đẩy mạnh cải triển kinh tế - xã hội ở Hà Tĩnh”, Tạp chí Kinh tế và cách thủ tục hành chính, nhất là các hạn chế Phát triển, số 202(II) tháng 4, tr.20-25. của chính sách hộ khẩu hiện hành, cải thiện 9. Trần Việt Tiến (2009), Một số vấn đề xã hội tính công bằng cho người lao động di cư từ trong các khu công nghiệp Việt Nam, Nxb Đại học các địa phương khác đến các KCN làm Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. 36
- Giải quyết vấn đề nhà ở cho người lao động 37