Giáo trình Giao tiếp liên văn hóa Việt-Anh dưới góc nhìn nhân học giao tiếp
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Giao tiếp liên văn hóa Việt-Anh dưới góc nhìn nhân học giao tiếp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_giao_tiep_lien_van_hoa_viet_anh_duoi_goc_nhin_nha.pdf
Nội dung text: Giáo trình Giao tiếp liên văn hóa Việt-Anh dưới góc nhìn nhân học giao tiếp
- 31 GIAO TIẾP LIÊN VĂN HÓA VIỆT - ANH DƯỚI GÓC NHÌN NHÂN HỌC GIAO TIẾP Vietnamese - English intercultural communication in light of ethnography in communication Châu Thị Hoàng Hoa1 Tóm tắt Abstract Ở Việt Nam cũng như trên thế giới, hiện nay Culture, language and their relationship, có rất nhiều nghiên cứu về văn hóa, ngôn ngữ, specifically the role of culture in language mối quan hệ giữa chúng và vai trò của văn hóa teaching have attracted researchers in Viet Nam trong giảng dạy ngôn ngữ. Bài viết giới thiệu khía and in the world. This paper is to introduce the cạnh của liên văn hóa trong giao tiếp tiếng Việt và intercultural aspect in communication between Vietnamese and English. Some preliminary tiếng Anh. Một số nội dung sơ lược về nhân học and other related concepts of ethnography in giao tiếp và các khái niệm liên quan như cấu trúc communication like communicative structure, hội thoại, hàm ý hội thoại, phép lịch sự trong sử communicative implication and politeness in dụng ngôn ngữ liên văn hóa được bàn bạc, phân using the cultural communication are discussed tích dưới ánh sáng của nhân học giao tiếp. Từ việc in the light of ethnography of communication. hiểu biết về văn hóa ảnh hưởng đến giao tiếp bằng From the awareness about the affect of culture ngôn ngữ, tác giả bàn luận thêm những vấn đề cần on communication, this paper focuses more on lưu ý trong giảng dạy tiếng Anh như là một ngoại English teaching as a foreign language in the ngữ ở Việt Nam. Vietnamese context. Từ khóa: Văn hóa, ngôn ngữ, giao tiếp liên văn Keywords: Culture, language, intercultural hóa, nhân học giao tiếp. communication, ethnography of communication. 1. Đặt vấn đề1 2. Nội dung Việc dạy và học ngoại ngữ, đặc biệt là việc 2.1. Ngôn ngữ xã hội học, nhân học giao tiếp và giảng dạy tiếng Anh ở Việt Nam thu hút sự quan các yếu tố liên quan tâm của nhiều tầng lớp xã hội. Hiện nay, nhiều Ngôn ngữ xã hội học nghiên cứu sự khác biệt nghiên cứu tìm phương pháp giảng dạy tiếng Anh ngôn ngữ trong giao tiếp ở các bối cảnh xã hội khác hiệu quả nhất đã thực hiện, nhưng đây vẫn còn là nhau. Sự đa dạng về cách hiểu và sử dụng ngôn vấn đề tranh luận. Việc học tập, thu nhận, thực ngữ trong giao tiếp xuyên ngôn ngữ, xuyên văn hành và sử dụng tiếng Anh tại Việt Nam có những hóa cũng là một phần nghiên cứu của ngành học đặc điểm riêng so với việc giảng dạy tiếng Anh này. Cụ thể hơn, nhân học ngôn ngữ (linguistics trên thế giới như yếu tố môi trường ngôn ngữ, tính anthography) là một ngành học mới nổi nghiên cổ vũ, chấp nhận của cộng đồng, động lực học tập cứu ngôn ngữ sử dụng trong các bối cảnh xã hội của người học Bên cạnh đó, sự khác biệt văn khác nhau. Đối tượng nghiên cứu của nhân học hóa Đông – Tây cũng gây một số khó khăn nhất ngôn ngữ là nhân học giao tiếp (Ethnography of định cho người học. Trong phạm vi bài viết, tác Communication - EOC). Với cách nhìn này, EOC giả tiếp cận các khái niệm: ngôn ngữ học xã hội, được soi rọi với ánh sáng của ngôn ngữ học và nhân học giao tiếp, mối liên hệ và vai trò của ngôn nhân học trên cơ sở nhấn mạnh yếu tố giao thoa ngữ trong giảng dạy tiếng Anh và giới thiệu sơ văn hóa trong giao tiếp giữa các cộng đồng ngôn lược yếu tố văn hóa trong giao tiếp như cấu trúc ngữ (speech community). Hay nói khác hơn giao tiếp, hàm ý giao tiếp, tính lịch sự, tính gián EOC là ngôn ngữ học xã hội văn hóa (cultural tiếp trong giao tiếp Việt - Anh, từ đó đưa ra những sociolinguistics) hay cụ thể hơn là ngôn ngữ xã hội đề xuất về việc giảng dạy tiếng Anh để người học liên văn hóa (intercultural sociolinguistics). có thể giao tiếp chính xác, trôi chảy và phù hợp. Các nhà nghiên cứu định nghĩa về nhân học 1 Thạc sĩ, Phòng Hợp tác Quốc tế và Xúc tiến dự án, Trường Đại học Trà Vinh ngôn ngữ khác nhau, nên khó có một định nghĩa Soá 18, thaùng 6/2015 31
- 32 chuẩn xác nhất. Khái niệm nhân học giao tiếp được luôn luôn đúng. Ở một số nhóm người Mỹ da đen, Hymes (1962) sử dụng để chỉ bản chất và chức việc nhiều người nói một lúc là điều bình thường năng của hành vi giao tiếp trong bối cảnh văn hóa. và chấp nhận được. Thật vậy, việc nhượng lời (turn Vài nhà nghiên cứu khác cho rằng EOC nghiên - yielding) phụ thuộc vào đặc điểm của từng nền cứu hành vi giao tiếp trong mối quan hệ với các văn hóa. Các nền văn hóa có khoảng cách quyền biến thể văn hóa xã hội gắn liền với sự tương tác lực cao (high power distance), người có vị trí cao liên nhân. Theo Trần và Nguyễn (2004), nếu EOC có xu hướng chiếm lời (turn domination); người có được định nghĩa như trên thì đối tượng nghiên cứu vị trí thấp hơn hay thiếu tự tin và thường nhượng của EOC bao quát và rộng hơn đối tượng nghiên lời cho người có vị trí cao hơn. Hoặc, khoảng dừng cứu của ngôn ngữ học xã hội. Trong phạm vi bài (pause) hay khoảng lặng (silence) giữa các cặp viết, tác giả không bàn thêm về định nghĩa EOC, thoại trong giao tiếp dài hay ngắn cũng khác nhau mối quan hệ giữa ngôn ngữ học xã hội và EOC mà giữa các cộng đồng. chấp nhận đề xuất của Trần và Nguyễn (2004:52); 2.2. EOC trong giao tiếp tiếng Anh và tiếng Việt “EOC nghiên cứu cách thức con người ở một cộng Dưới ánh sáng của EOC, có sự khác biệt về văn đồng nhất định giao tiếp với cộng đồng khác và hóa trong giao tiếp của cộng đồng nói tiếng Anh mối quan hệ xã hội giữa cộng đồng và ngôn ngữ bản ngữ và cộng đồng nói tiếng Việt như là tiếng họ sử dụng”. mẹ đẻ. Trong phần so sánh này, tiếng Việt dùng để Trước khi đề cập đến sự khác biệt trong giao chỉ tiếng Việt ở cộng đồng người Việt ở Việt Nam; tiếp Anh – Việt dưới góc độ EOC, vài phác thảo sơ tiếng Anh được chỉ tiếng được dùng bởi cộng đồng lược về phân loại và tính chất của cấu trúc hội thoại nói tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ. Sự khác biệt về văn cần được bàn bạc. Xét về mặt tính chất, hội thoại hóa trong hai ngôn ngữ được bàn đến là: cấu trúc được xem xét trên các bình diện: tính trang trọng hội thoại (structure of communication), khoảng (formality or informality), ngôn cảnh (context - dừng (pause) và im lặng (silence); cách hiểu về tied), và văn hóa (culture - bound). Trên thực tế, gián tiếp (indirectness) và lịch sự (politeness) tất cả cộng đồng trên thế giới đều có nguyên tắc trong giao tiếp. sử dụng ngôn ngữ khác nhau. Điều này được hiểu 2.2.1. Cấu trúc hội thoại rằng mỗi nền văn hóa có nguyên tắc ngôn ngữ hay khuôn mẫu diễn ngôn riêng. Ví dụ như khi nghe điện Một đoạn hội thoại thông thường gồm ba phần: thoại, người nói tiếng Anh có xu hướng nói trước, mở, thân và kết. Tuy nhiên, cũng có đoạn hội thoại trong khi đó người Nhật đợi người gọi nói trước. gồm hai phần: mở và kết. Cấu trúc mở - kết thường Trong giao tiếp Đông – Tây, người phương Đông được dùng cho mục đích xã giao (interpersonal coi trọng tính gián tiếp (indirectiveness) trong lời function), thân mật để chào nhau. Người Việt nói, đôi khi còn đánh đồng tính gián tiếp với phép truyền nhau câu nói “tiếng chào cao hơn mâm cỗ” lịch sự (politeness), trong khi đó người Âu, Mỹ nhưng chào như thế nào cho hợp với cách của người Việt có thể gây bối rối, đôi khi giữa chính người đề cao tính trực tiếp (directness) trong hội thoại. Việt với nhau. Người nói tiếng Anh chào nhau Theo Hudson (1980), hội thoại gồm các loại bằng “Hi”, “Hello”, “Good morning” Lời chào hội thoại sau: mở - đóng (entries and exits), lượt trong tiếng Việt còn thể hiện thứ bậc. Ở đây, chỉ xét lời (turn - taking), chủ đề (topic), bách khoa trong mối quan hệ cùng thứ bậc giữa bạn bè, đồng (encyclopedic). Tất cả các cấu trúc trên đều có mối nghiệp. Người Việt có những câu chào bằng những liên hệ với ngữ cảnh ngôn ngữ (linguistic context) câu hỏi, thậm chí có thể là câu hỏi thông tin (Wh - và ngữ cảnh ngoài ngôn ngữ (extra – linguistic questions) khiến người nghe khó trả lời. Khi đồng context). Cấu trúc lượt lời (turn structure) thu hút nghiệp, hàng xóm gặp nhau có thể chào nhau “Đi nhiều nghiên cứu trong giao tiếp liên văn hóa. Về đâu đó?”, “Làm gì vậy?”, “Hôm nay không đi làm mặt nguyên tắc, trong cùng một hội thoại, một lúc sao?”, “Cơm nước gì chưa?”. Đáp lời chào như thế chỉ một người nói. Tuy nhiên, trong các nghiên này không cần cung cấp thông tin chuẩn xác và cứu về nhân học giao tiếp thì điều này không phải chi tiết. Câu trả lời với thông tin đại khái như “Đi Soá 18, thaùng 6/2015 32
- 33 xóm”, “Làm công chuyện” cùng với nhãn giao là nhận hay từ chối dù trực tiếp hay gián tiếp; và nếu đủ để kết thoại. Giao thoa văn hóa trong tiếp xúc từ chối thì nêu rõ lý do. Trong phần đáp thoại trên ngôn ngữ của bộ phận người Việt biết tiếng Anh anh bồi bàn khó đoán được “I am OK” là lời từ là không tránh khỏi. Lời chào dạng câu hỏi có xu chối hay chấp nhận. hướng riêng tư nên ít được dùng dần. Tuy nhiên, Tình huống giao tiếp sau đây cũng có thể bị cho việc thay thế bằng cặp thoại “Chào – Xin chào”, là không thành công. Nếu thiếu am hiểu về văn hóa “Xin chào - Chào” vẫn còn lạ tai. Cho nên, chào Việt thì việc hiểu lời đáp của cô gái người Việt với nhau trong tiếng Việt đa dạng, đặc biệt, có thể gây anh chàng người Mỹ trở nên khó khăn. bối rối cho người ít am hiểu yếu tố văn hóa. Chàng trai: Would you like to go out for a Nhượng lời (turn – giving) hay lấy lời (turn – BBQ next Sunday?/ Chủ nhật này, chúng ta đi taking) cũng khác biệt trong các nền văn hóa. Như BBQ nhé? trên đã giới thiệu, chiếm lời (turn - domination) bị ảnh hưởng bởi yếu tố văn hóa xét trên bình Cô gái: Next Sunday? It is my father’s death diện (dimension) khoảng cách quyền lực (power anniversary./ Chủ nhật này? Ngày Giỗ cha em đó. distance) (Hoftstede, 1997). Mặc dù chưa có số Trong đoạn hội thoại này, chàng trai người Mỹ liệu chính thức được công bố về chỉ số quyền lực có thể đoán được đây là lời từ chối qua ngôn ngữ (PDI - Power Distance Index) của người Việt. Tuy phi ngôn từ, nhưng bằng ngôn ngữ ngôn từ, anh ta nhiên, chắc chắn có sự khác biệt về PDI giữa các cảm thấy lời giải thích không rõ ràng vì anh ấy khó nền văn hóa, điều đó thể hiện ở cách sử dụng ngôn mà biết được ý nghĩa và tầm quan trọng của “ngày ngữ. Ở nền văn hóa có PDI cao, người ở vị trí cao Giỗ” trong truyền thống văn hoá người Việt từ gốc có xu hướng nói nhiều, nói dài, và chiếm lời trong nhìn của người Mỹ. giao tiếp. Tuy nhiên, nói nhiều hay nói ít phần 2.2.2. Im lặng cũng là do thói quen cá nhân. Nhưng phải công nhận rằng, trong giao tiếp có khoảng cách quyền Khoảng lặng trong giao tiếp là điều không thể lực ở Việt Nam cha mẹ - con cái, thầy – trò, thì cha tránh khỏi. Hiểu được tầm quan trọng và ý nghĩa mẹ, thầy cô có xu hướng chiếm lời nhiều hơn so của im lặng ở các nền văn hóa khác nhau đôi khi với con cái và học sinh. Điều này cần phải được phức tạp hơn hiểu lời nói. Im lặng có giá trị rất lớn xác thực thêm qua các nghiên cứu cụ thể để có kết trong giao tiếp bằng tiếng Việt. Trong khi các nước quả so sánh khách quan. phương Tây thường đấu tranh cho quyền tự do phát ngôn (freedom of speech), người Việt muốn Cặp thoại (adjacency pair) có ý nghĩa hay người khác tôn trọng quyền im lặng (freedom of không phụ thuộc vào yếu tố văn hóa. Một cặp thoại silence). Im lặng có thể mang ý nghĩa khác nhau có thể có ý nghĩa trong nền văn hóa này nhưng vô đối với mỗi người, bài viết này chỉ đề cập đến giá nghĩa trong nền văn hóa khác. Ví dụ như cặp thoại trị của im lặng trong cộng đồng. Trong cả hai nền giữa một khách hàng người Mỹ với anh bồi bàn văn hóa, im lặng đúng lúc là cần thiết. “Silence is người Việt sau đây: gold” hay “Im lặng là vàng” có giá trị ở nhiều nền Anh bồi bàn: What else would you like to have văn hóa khác nhau. Người Việt không dừng ở chỗ for a drink?/ Bà dùng chi ạ? ngợi ca im lặng mà còn thấy tác hại của lời nói (speech). Điều này thể hiện ở các thành ngữ “Con Khách hàng: I am OK. Thank you./ Tôi ổn. Cảm ơn. ếch chết vì lỗ miệng” hay “Há miệng mắc quai”. “What else would you like to have for a drink?” Im lặng có giá trị liên văn hóa, nhưng im lặng và “I am fne, thank you.” là một cặp thoại tương được hiểu như thế nào trong nền văn hóa Đông thích trong tiếng Anh nhưng nếu không tính đến – Tây. Trong vài văn cảnh, im lặng có nghĩa là yếu tố văn hóa thì cặp thoại này có vẻ không tương thiếu lịch sự trong tiếng Anh nhưng vẫn chấp nhận thích trong tiếng Việt. Để đáp lời một lời mời hay trong tiếng Việt. Khi thấy trong văn phòng còn lời đề nghị, người Việt có xu hướng trả lời chấp nhiều việc phải làm, nhân viên hỏi sếp mình có Soá 18, thaùng 6/2015 33
- 34 cần ở lại làm thêm hay không. Ngay cả khi sếp cách tỏ tình này có thể bị thất bại vì cách nói trực mình im lặng, anh nhân viên đó cũng phải ở lại làm tiếp của chàng trai có thể làm cô gái Việt cảm thấy thêm. Rõ ràng lời đề nghị của anh ta đáng được tán e dè. Ngược lại, cách tỏ tình trong thơ ca tiếng Việt dương. Tình huống tương tự khó chấp nhận nếu đôi khi cần trình độ văn hóa cao sâu để hiểu. xảy ra ở nền văn hóa nói tiếng Anh. Trong trường “Bây giờ Mận mới hỏi Đào hợp này, sếp phải bày tỏ sự trân trọng, ghi nhận đối với lòng nhiệt thành của nhân viên mình. Điều này Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?” không có nghĩa là người Việt Nam kém lịch sự hơn Đây là lời của chàng trai ướm lời yêu cùng cô nhưng sự im lặng này chấp nhận được. Đôi khi, gái. Một cô gái thông tiếng Việt nhưng không thạo im lặng là tích cực đối với người Việt. Một cô gái văn hóa sẽ không hiểu được lời tỏ tình vì không được khen là xinh đẹp sẽ cảm thấy bối rối và im hiểu ẩn ý sau cách xưng hô Mận, Đào, hay cách lặng. Chính sự cái thẹn thùng, lặng lẽ là cái duyên gọi Vườn hồng của chàng trai. Chính yếu tố “gián của người con gái. Sự im lặng để giấu đi cái tôi, tiếp” trong lối nói của người Việt gây khó hiểu cho niềm tự hào cá nhân hay là duyên ngầm trong giao người đến từ nền văn hóa khác. tiếp của người Việt. Hoặc trong câu ca: Tóm lại, để thành công trong giao tiếp, bên “Thò tay ra ngắt cọng ngò cạnh năng lực ngôn ngữ, năng lực ngôn ngữ xã hội – hay hiểu biết về văn hóa là rất cần thiết. Bài Thương em đứt ruột giả đò ngó lơ” viết này không bao quát tất cả các khía cạnh khác Lời ca ngọt ngào này khiến cô thôn nữ xao biệt trong giao tiếp Việt - Anh mà chỉ nêu ra vài ví xuyến mà không có bất cứ sự hiểu lầm nào. Tuy dụ so sánh xét trên bình diện ngôn ngữ xã hội: cấu nhiên, nếu không am hiểu văn hóa, người tiếp trúc giao tiếp và chức năng giao tiếp dưới tác động nhận thông tin sẽ nhận thấy cách nói ví von, bóng của văn hóa. Phần kế tiếp sẽ trình bày sự đa dạng bẩy, gián tiếp này thiếu logic, không liền mạch, trong cách đánh giá tính trực tiếp và tính gián tiếp, dài dòng, tối nghĩa, mục đích phát ngôn không rõ phép lịch sự và tính gián tiếp. ràng. Ý của câu ca là lời tỏ tình với cô gái, chàng 2.2.3. Trực tiếp và gián tiếp ta đã thương cô nàng đến “đứt ruột” chứ không phải là bài ca cần lao của anh nông dân cắt cỏ, hái Như trên đã nói, bàn về văn hóa không chỉ rau (ngò). Nếu vậy, mục đích phát ngôn cũng khác. dành riêng cho cá nhân tiêu biểu nào, mà bàn về Chàng trai này không cố ý khoe là hái được mớ xu hướng tập quán chung của cộng đồng. Ngoài ngò mà mượn lời đệm để tỏ tình cho bớt ngượng. ra, trong bài viết, chúng tôi không hướng đến mục đích so sánh người nói tiếng Anh với người Việt Đối với những người lớn lên từ nền văn hóa mà chỉ so sánh cách hiểu, chuẩn mực của phép lịch Việt, giao tiếp không gặp vấn đề do cùng chia sẻ sự và tính gián tiếp trong hai ngôn ngữ, ảnh hưởng cách thực hành văn hóa và mạch tư duy trong sử của nó như thế nào trong giao tiếp liên văn hóa. dụng ngôn ngữ. Tuy nhiên, đôi khi vẫn có hiểu nhầm do cách diễn đạt, cách hiểu văn hóa và ngôn Ở cấp độ diễn ngôn, ta nhận thấy rằng cách diễn ngữ ít nhiều mang dấu ấn cá nhân. đạt ý tưởng của người Việt rất phong phú. Trong 2.2.4. Lịch sự và gián tiếp khi đó, người Anh có xu hướng đi thẳng vào chủ đề muốn nói. Lối nói vòng vo, gián tiếp trong tiếng Thái độ đối với “gián tiếp” khác nhau trong các Việt có thể bị cho là thiếu logic, kém hiệu quả, ngôn ngữ, điều đó thể hiện rõ trong cách nói của không cô đọng. Sự khác biệt này cũng thể hiện rõ cộng đồng. Gián tiếp trong giao thoại chỉ khoảng trong cách viết của sinh viên Việt Nam ở Úc qua cách ý nghĩa thực của lời nói và ý ẩn của người phần nghiên cứu của Phan (2011), sẽ được đề cập nói. Như các cộng đồng của nền văn hóa tập thể lại và phân tích ở phần sau. Có thể xem xét vài thí (collectivism) khác, cộng đồng nói tiếng Việt coi dụ về cách tỏ tình bằng ngôn ngữ trong thơ ca tiếng trọng thể diện (face), giữ thể diện (saving face) Việt. Lời của một bài hát tiếng Anh “I love you, nên tính gián tiếp trong giao tiếp rất quan trọng. OK?” có thể được yêu thích ở Việt Nam, nhưng Từ chối, phê bình, phản đối trực tiếp có thể cản Soá 18, thaùng 6/2015 34
- 35 trở giao tiếp, đặc biệt là khi nói chuyện với người trong tiếng Việt phải nhượng lời người có tuổi có tuổi hoặc vị trí cao hơn. Trực tiếp có thể bị cho hơn, khoảng dừng giữa các lời thoại khi giao tiếp là thô tục, khiếm nhã, bất kính, thậm chí sỉ nhục; với người lớn tuổi phải dài hơn trong giao tiếp với còn gián tiếp là kín đáo, nhẹ nhàng, duyên dáng, bạn bè trang lứa. Trong khi đó, những yếu tố trên khiêm cung, cẩn trọng. Ngược lại, khi giao tiếp không phải là chuẩn mực giao tiếp lịch sự quan trong tiếng Anh, trực tiếp có ý nghĩa tích cực như trọng trong tiếng Anh. đơn giản, thành thật, rõ ràng, dễ hiểu; còn gián tiếp Làm thế nào để trở nên lịch sự đã khó, lịch sự là dấu hiệu của thiếu tự tin, thiếu kiên quyết hay ở mức độ phù hợp, không quá mức để trở thành không quyết đoán. Cho nên, việc giao tiếp liên văn khách sáo hay lố bịch còn khó hơn. Một lời nói có hóa trong sử dụng tiếng Anh hay tiếng Việt, tùy thể là lịch sự tích cực (positive politeness) ở ngữ hoàn cảnh và mối quan hệ, người nói nên tìm mức cảnh này nhưng lại là lịch sự tiêu cực (negative độ trực tiếp hay gián tiếp nhất định để có được sự politeness) ở ngữ cảnh khác. Trong giao tiếp tiếng thích hợp, hài hòa, tránh trở thành người giao tiếp Việt, lối nói lịch sự của người có vị trí quyền lực thông thạo nhưng vụng về (fluent blunt). cao (lãnh đạo, thầy cô, cha mẹ) với người có vị trí Trong giao tiếp xuyên ngôn ngữ, để có mức độ quyền lực thấp (nhân viên, học trò, con cái) trong gián tiếp thích hợp khó, nhưng đạt mức độ lịch sự văn cảnh không trang trọng đôi khi bị cho là lịch hài hòa còn khó hơn. Phần tiếp sau đây không bàn sự tiêu cực. Một bà mẹ Việt hiếm khi căn dặn con cộng đồng nào lịch sự hơn mà bàn tính lịch sự thể gái mình “Con có thể vui lòng lau nhà trước khi đi hiện trong mỗi ngôn ngữ như thế nào. Dưới góc chơi không?”. Cách nói như thế chỉ xuất hiện trong nhìn của ngôn ngữ học xã hội, tiếng Anh được coi văn dịch từ tiếng nước ngoài khi chưa cân nhắc là ngôn ngữ của phép lịch sự. Có rất nhiều cụm yếu tố văn hóa. Sử dụng nhiều cấu trúc lịch sự bị cho là dài dòng, sáo rỗng, khách sáo, xa cách thậm từ thể hiện tính lịch sự trong giao tiếp bằng tiếng chí là buồn cười, lố bịch. Hiểu đúng về phép lịch Anh như “please”, “thank you”, “could you ?”, sự và lịch sự đúng mực đòi hỏi sự hiểu biết và thâm “would you mind ?”. Bên cạnh đó, tần suất các nhập văn hóa nhất định. Có như thế năng lực ngôn cấu trúc sử dụng cách nói rào đón (hedge) xuất ngữ mới trở thành năng lực giao tiếp. Hay nói một hiện nhiều hơn trong tiếng Anh như: “maybe”, cách khác, biết ngôn ngữ mà không am tường về “could”, “would”, “should”, “possible”, Thí dụ, văn hóa thì giao tiếp khó thành công. một chuyên viên tư vấn khách hàng sẽ căn dặn khách hàng: “Could you possibly consider handing 3. Thảo luận và kết luận in your documents before Friday?” thay cho cách EOC trong giao tiếp liên văn hóa cho ta thấy nói thẳng thắn hơn: “You have to hand in your học và hiểu văn hóa nước ngoài trong việc học documents before Friday.” ngoại ngữ rất quan trọng. Xuất phát từ những khác Có lẽ do chưa quen diễn đạt phép lịch sự biệt được trình bày bên trên, việc dạy và học tiếng bằng ngôn ngữ nên người Việt có xu hướng biểu Anh như một ngoại ngữ cần chú trọng các điểm hiện sự nhẹ nhàng, lịch thiệp, gần gũi của mình sau đây: qua các hành vi phi ngôn ngữ ở dạng ngoại ngôn Một là, chú trọng đến yếu tố văn hóa trong (extralanguage) như cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt, nụ việc dạy ngoại ngữ. Đây không phải là đề xuất cười, tư thế, hay cận ngôn (paralanguage) như tốc mới mà đã được các nhà giáo dục, các nhà nghiên độ nói, khoảng lặng, nhượng lời, cao độ, trường cứu đề xuất từ lâu. Bàn đến yếu tố văn hóa, có hai độ, Yếu tố khoảng lặng (silence) và điểm dừng câu hỏi đặt ra: Dạy văn hóa gì? Dạy như thế nào? (pause) sẽ được bàn trong phần kế tiếp. Muốn giao Đây là hai câu hỏi lớn cần phải được đánh giá và tiếp lịch sự, trước hết phải giao tiếp thích hợp từ trả lời bằng nghiên cứu cụ thể. Trong phạm vi bài cách nhượng lời, mở lời, chuyển thoại, dùng từ, đặt viết này, tác giả đề xuất (1) dạy văn hóa bản địa và câu, chủ đề được đề cập có nhạy cảm, tổn thương văn hóa nước ngoài; (2) dạy yếu tố liên quan đến người khác. Người được cho là giao tiếp lịch sự văn hóa cả trong lớp học và ngoài lớp học. Soá 18, thaùng 6/2015 35
- 36 Hiện nay, xu hướng sử dụng các giáo trình dạy 93% ý nghĩa xã hội được gắn kết với giao tiếp phi tiếng Anh do nước ngoài biên soạn rất phổ biến. ngôn từ. Giao tiếp phi ngôn ngữ đóng vai trò quan Điều này rất tốt để giáo viên dạy chủ điểm văn trọng, đặc biệt là khi giao tiếp bằng ngôn ngữ của hóa trong quá trình dạy ngôn ngữ. Các chủ điểm người học còn hạn chế. Ngữ điệu, cử chỉ, điệu bộ văn hóa như những bài đọc, nghe về đất nước, con kèm theo lời nói rất quan trọng. Giáo viên phải người, lịch sử, tín ngưỡng, đi lại, mua sắm được chú ý các yếu tố này khi dạy ngoại ngữ. Giao tiếp sử dụng như là nội dung giảng dạy ngoại ngữ. Văn không thành công do thiếu đồng bộ giữa ngôn ngữ hóa được truyền tải đến người học qua ngôn ngữ. và phi ngôn ngữ có thể xuất hiện trong mọi tình Ngoài ra, văn phong (style), bố cục của các bài viết huống. Ví dụ, trẻ con mới học Anh văn vỡ lòng (discourse organization) được trình bày theo lối tư thích tập nói tiếng Anh với người nước ngoài một duy của ngoại ngữ hay ngôn ngữ thứ hai (L2) nên cách rất tự nhiên mà ít cân nhắc đến mục đích giao người học nhận thức văn hóa một cách vô thức tiếp và có xu hướng thực hành những gì đã học. qua học ngoại ngữ. Tuy nhiên, đối với đối tượng Trong những lần giao tiếp đầu tiên, các em có thể là thanh thiếu niên, việc sử dụng các tài liệu giảng sử dụng ngữ điệu hay cử chỉ kèm theo chưa thật dạy biên soạn ở nước ngoài nên được cân nhắc, bởi sự thích hợp. Rất nhiều điều liên quan đến văn hóa các em chưa hình thành cái tôi văn hóa mẹ đẻ hoàn cần phải định hướng, giảng dạy, tổ chức học tập, chỉnh, chưa nhận thức cái khác biệt để đánh giá và thực hành một cách trực tiếp hay gián tiếp. Trong thực hành hợp lý. Cho nên, khi sử dụng sách nước đó, chính cách cư xử, sử dụng ngôn ngữ của giáo ngoài biên soạn để giảng dạy tiếng Anh cho đối viên cũng là tấm gương, điển hình văn hóa L2 mà tượng này cần so sánh các chủ điểm văn hóa được học sinh có thể tham khảo. đề cập với văn hóa mẹ đẻ. Ví dụ, khi dạy cách chào Ba là, giáo viên cần chú ý đến tập quán văn hỏi ở các nền văn hóa khác nhau, giáo viên nên hóa của học sinh và có ứng xử phù hợp với đối hướng dẫn cho học sinh cách chào nhau như thế tượng của mình. Việc dạy tiếng Anh lấy người nào của người Việt, đặc biệt là cách chào theo thứ học làm trung tâm luôn tôn trọng khả năng hoạt bậc khác nhau, bởi đây vừa là phần mở rộng ngữ động tích cực của học sinh. Trong các lớp theo liệu có liên quan đến bài giảng vừa là cách lưu giữ kiểu phương pháp này, thời lượng nói của giáo viên trao truyền văn hóa. (Teacher Talking Time - TTT) luôn được kiểm soát Bên cạnh việc dạy văn hóa qua các bài học kỹ ở mức độ ngắn gọn nhất. Tuy nhiên, giáo viên đôi năng, giáo viên có thể dạy văn hóa như là một bài khi thiếu kiểm soát TTT do ảnh hưởng tiềm thức học riêng - dạy văn hóa bằng ngoại ngữ. Ví dụ như cố hữu là người thầy thì phải dạy, mà dạy thì phải giáo viên cần bổ sung các chủ điểm văn hóa L2 giảng, và giảng thì phải nói nhiều. Việc chiếm lời theo từng thời điểm trong năm như Giáng sinh, của giáo viên với học sinh trong lớp học kỹ năng Ngày của Cha, Ngày của Mẹ, Ngày của Thầy cô, ngoại ngữ là điều cần tránh. Ngoài ra, giáo viên Ngày Độc lập, Ngày Cá tháng Tư, trong văn hóa nên có chiến lược thích hợp để cả lớp cùng tham L2 qua các hoạt động trong lớp học tương ứng. gia hoạt động lớp bằng cách chú ý học sinh kém, Ngoài ra, có nhiều hoạt động đặc biệt để dạy văn thiếu tự tin. Điều này xuất phát từ yếu tố văn hóa, hóa được đề cập trong nghiên cứu của Phan và người nói kém thường thiếu tự tin, có xu hướng Nguyễn (2008) như Trình bày văn hóa (Culture nhượng lời cho người nói tốt. Có trường hợp, học capsules), Thành ngữ (Proverbs), Nghe và hành sinh thiếu tự tin giao tiếp trở nên im lặng. Sự im động (Audio – motor Units) lặng của học sinh có thể gây bối rối cho một số giáo Hai là, quan tâm đến yếu tố phi ngôn ngữ trong viên nước ngoài, nhưng đây là một phần của thói giao tiếp liên văn hóa. Dạy văn hóa trong ngôn quen cần được thông cảm, thấu hiểu và động viên. ngữ không chỉ dừng lại dạy lời nói hợp văn hóa hay Để xây dựng lòng tự tin trong giao tiếp, giáo giới thiệu văn hóa mà cần phải chú trọng đến các viên cần nhạy cảm và linh hoạt. Sự nhạy cảm rất yếu tố phi ngôn ngữ trong giao tiếp và thực hành cần thiết trong việc đánh giá năng lực, mức độ tự văn hóa. Mehrabian và Wiener (1966) phát hiện tin, hứng thú của học sinh để phát hiện, khơi gợi Soá 18, thaùng 6/2015 36
- 37 khả năng, thiên hướng của người học. Nhờ vào các đến nội dung chính. Bên cạnh đó, cách định hướng cách phát vấn khác nhau, phù hợp với năng lực, người đọc theo dàn ý, trật tự làm cho người Việt tâm lý của học sinh, giáo viên có thể giúp các học học viết tiếng Anh thấy gò bó, thiếu sáng tạo. Cuối sinh thiếu tự tin tham gia học tập tốt. Ví dụ như, cùng, phong cách diễn đạt của mỗi ngôn ngữ khác giáo viên nên bắt đầu hỏi học sinh yếu những câu nhau. Do ảnh hưởng nhiều cách nói gián tiếp, tránh hỏi ít yêu cầu năng lực ngôn ngữ, dần dần sẽ hỏi đụng chạm, nói chung chung, hay dùng từ tượng những câu khó hơn để học sinh đi từng bước từ xây trưng, hoa mỹ trong tiếng Việt, văn phong người dựng lòng tự tin đến sẵn sàng nhận thách thức và Việt khi viết tiếng Anh thường khó đọc, khó hiểu, tự thách thức bản thân. Sự đa dạng về kiểu sắp xếp thậm chí mơ hồ. hoạt động trong lớp (work arrangement) là công cụ Nhận biết được sự khác biệt có thể gây khó hữu hiệu để giáo viên giúp học sinh ở mọi cấp độ khăn cho học sinh Việt Nam trong viết tiếng Anh, tham gia bài tích cực hơn. Học sinh yếu cảm thấy giáo viên cần thận trọng đối với việc hình thành dễ chịu hơn khi được làm việc với bạn theo cặp và thói quen rèn luyện viết theo cấu trúc L2 và sử nhóm (pair, group work) hơn là nói trước lớp hay dụng ngôn ngữ L2 để tư duy. Điều này rất quan nói với giáo viên. Khi nắm bắt được tâm lý thiếu tự tin, hay im lặng, nhường lượt cho người giỏi hơn trọng nhưng khó rèn luyện đặc biệt ở học viên của học sinh, giáo viên nên có biện pháp thích hợp lớn tuổi do họ đã có nếp nghĩ và quen với cách để giúp học sinh bằng sự cảm thông và nghệ thuật viết trong tiếng mẹ đẻ. Có thể, học sinh thấy việc giảng dạy của mình. sắp xếp ý theo tiếng Anh là gò bó, đơn điệu; hoặc không quen với cách viết này nên viết bằng tiếng Bốn là, giáo viên nên chú trọng sự khác biệt Việt trước, rồi dịch sang tiếng Anh sau. Ngoài việc cấu trúc tư duy trong giao tiếp liên văn hóa. Văn dạy cách viết theo tiêu chuẩn L2, giáo viên cần có hóa mẹ đẻ ảnh hưởng rất lớn đến rèn kỹ năng giao thông tin định hướng khác biệt văn hóa để người tiếp trong L2, đặc biệt là rèn kỹ năng viết. Có rất học hiểu và chấp nhận sự khác biệt để luyện tập nhiều nghiên cứu chứng minh sự khác biệt về văn cách viết mới theo tiêu chuẩn của L2. Để khuyến hóa gây một số khó khăn nhất định trong việc khích học sinh luyện cách viết mới của nền văn dạy môn Viết tiếng Anh cho học sinh Việt Nam. hóa mới, giáo viên cần hiểu học sinh của mình trên Tác giả tâm đắc phát hiện trong nghiên cứu của nền tảng văn hóa, cách tư duy, năng lực ngôn ngữ Phan (2011), học sinh Việt Nam gặp các vấn đề của văn hóa mẹ đẻ để điều chỉnh, động viên, định mang dấu ấn văn hóa và ngôn ngữ mẹ đẻ như khó hướng thích hợp và tránh áp đặt vì xét ở khía cạnh đảm bảo tính mạch lạc (coherence), bố cục trình văn hóa chỉ có sự khác nhau, không có sự hơn thua bày (organization of discourse) và phong cách và viết là một quá trình sáng tác mang tính sáng tạo diễn đạt (style) khi sử dụng L2. Khi viết, người và tính chủ quan cao. viết phải viết những điều liên quan đến chủ đề có chủ đích cụ thể; nhưng trong tiếng Việt người đọc Bài viết này điểm sơ về ảnh hưởng của văn hóa chấp nhận thậm chí mong đợi điều bất ngờ, mới trong giao tiếp ngôn ngữ và một số bàn luận trong mẻ, có thể ít liên quan đến nội dung chính. Đôi việc dạy tiếng Anh như là một ngoại ngữ. Cách khi, cách trình bày ý tưởng trong tiếng Việt có thể tiếp cận văn hóa và ảnh hưởng của văn hóa trong bị cho vòng vo trước khi đi vào nội dung chính. giao tiếp Việt - Anh xuất phát từ góc nhìn nhân Những sự khác biệt này làm giảm đi tính mạch học giao tiếp. Cho nên, tác giả không tham vọng lạc khi viết tiếng Anh. Kế đến, bố cục trình bày mang lại cách nhìn toàn diện về mối quan hệ văn ý tưởng trong tiếng Anh rõ ràng, có định hướng hóa – ngôn ngữ trong giao tiếp Việt - Anh mà chỉ người đọc như có mở đầu, kết thúc, chuyển tiếp góp phần khẳng định văn hóa là cái gốc, là tiếp cận kết nối, giới thiệu trình tự. Cách sắp xếp câu chủ cơ bản để giải quyết vấn đề liên quan đến các khía đề, ý chính, ý ủng hộ trong tiếng Việt khác với cấu cạnh của nó như ngôn ngữ, sự khác biệt trong hành trúc trong tiếng Anh; trong tiếng Anh người viết vi ngôn ngữ, phi ngôn ngữ, Việc cân nhắc yếu có xu hướng trình bày nội dung quan trọng trước, tố văn hóa trong giảng dạy ngôn ngữ để có cách còn trong tiếng Việt phải qua nhiều dẫn dắt mới giảng dạy phù hợp, hiệu quả là điều cần thiết. Soá 18, thaùng 6/2015 37
- 38 Tài liệu tham khảo Hofstede, G. 1997. Cultures and Organizations Software of the mind. McGaw-Hill Companies. Inc. Hudson. R. A. 1980. Sociolinguistics. Cambridge: Cambridge University Press. Hymes, D. H. 1962. “The ethnography of speaking”. Trong Gladwin, Thomas; Sturtevant, William C. Anthropology and Human Behavior. Washington, D.C.: Anthropology Society of Washington. Hymes, D. H. 1964. “Introduction: Toward Ethnographies of Communication”. Trong J. J. Gumperez and D. Hymes, The Ethnography of Communication, The American Anthropologist 66 Part 2 (1964): 1-29. Mehrabian, A. và Wiener, M. 1966. “Non Immediacy between Communication and Object of Communication in a Verbal Message” , Journal of Consulting Psychology 30 (1966) 225. Phan, Le Ha. 2011. Negotiations, and Conflicts: Writing Academic English Across Cultures.Emerald Group Publishing Limited. Số 22, 23-40. Phan, Văn Hòa và Nguyễn, Thị Thu Trang. 2008. “Dạy văn hóa và dạy học ngoại ngữ: một quá trình thống nhất”. Tạp chí khoa học và công nghệ. Đại học Đà Nẵng – Số 6 (29).2008. Trần, Văn Phước và Nguyễn, Thanh Bình. 2004. A Course in Sociolinguistics. Hue University. Tăng, Tấn Lộc: “Lời tỏ tình” trong ca dao. Xem 15.01.2015 . Trần, Kathy. Tương tư trong ca dao. Xem 14.01.2015 Soá 18, thaùng 6/2015 38