Giáo trình Hoạt động công tác xã hội trong lĩnh vực chăm sóc và bảo vệ trẻ em có khó khăn về tâm lý

pdf 13 trang huongle 5020
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Hoạt động công tác xã hội trong lĩnh vực chăm sóc và bảo vệ trẻ em có khó khăn về tâm lý", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_hoat_dong_cong_tac_xa_hoi_trong_linh_vuc_cham_soc.pdf

Nội dung text: Giáo trình Hoạt động công tác xã hội trong lĩnh vực chăm sóc và bảo vệ trẻ em có khó khăn về tâm lý

  1. Kỷ yếu Hội thảo ngày CTXH thế giới 2009 - "Nhân viên xã hội - Tác nhân của sự thay đổi" HOẠT ĐỘNG CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG LĨNH VỰC CHĂM SÓC VÀ BẢO VỆ TRẺ EM CÓ KHÓ KHĂN VỀ TÂM LÝ TS. Mai Thị Kim Thanh Bộ môn CTXH- Khoa Xã hội học ĐHKHXH&NV – ĐHQG Hà Nội Trong bối cảnh xã hội hiện nay, hoạt động công tác xã hội ngày càng được mở rộng. Sự mở rộng của công tác xã hội diễn ra ở mọi lĩnh vực, trong đó lĩnh vực chăm sóc, bảo vệ trẻ em đang chiếm một vị trí quan trọng trong sự phát triển ngành. Việt Nam là nước đầu tiên tại Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước quốc tế về Quyền trẻ em. Điều này càng thể hiện rõ hơn định hướng lâu dài của công cuộc chăm sóc, bảo vệ trẻ em, mà trong đó, công tác xã hội là một công cụ không thể thiếu và công cụ này đang biến đổi từng ngày. 1. Nhu cầu của trẻ em trong thời đại ngày nay Trước hết, ta cần có những hiểu biết cơ bản về nhu cầu của trẻ em trong thời đại ngày nay. Căn cứ vào 5 bậc thang nhu cầu theo mô hình của Maslow (được xếp theo thứ tự tính cấp thiết phổ biến nhất trong xã hội), ta thấy rõ ràng rằng cá nhân nào cũng có những nhu cầu đáp ứng đời sống tinh thần chứ không chỉ là nhu cầu vật chất. Dù là một đứa trẻ thì bản thân đứa trẻ đó cũng luôn tồn tại nhu cầu được yêu thương, tôn trọng, Bởi vậy khi không được đáp ứng những nhu cầu này (kể cả khi nhu cầu vật chất được đáp ứng đầy đủ) thì tất yếu mặt tinh thần đứa trẻ sẽ nảy sinh vấn đề theo chiều hướng tiêu cực. Đó chính là nhu cầu chính đáng của trẻ em nhưng chính nhu cầu này lại đang bị lãng quên. Trẻ em ngày nay không chỉ "biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan" mà các em còn cần được đón nhận sự yêu thương, tôn trọng, chia sẻ của người lớn và bạn bè. “Bố mẹ em chẳng bao giờ quan tâm tới con cái. Bố mẹ em thường đi làm từ sáng và trở về nhà vào tối muộn. Nhiều khi em phải tự quyết mọi việc vì bố mẹ em không có thời gian dành cho em. Bố mẹ em cứ nghĩ chu cấp tiền cho em thế là đủ, mọi việc khác không hề quan tâm tới. Khi em có lỗi thì bố mẹ mắng, chửi và cho là em hư, không biết thương bố mẹ phải vất vả tối ngày, bố mẹ em đâu có biết rằng em cần sự chia sẻ, cần sự quan tâm. Em cảm thấy lạc lõng giữa gia đình”. (Nam, 17 tuổi) Đại học Đồng Tháp 31
  2. Kỷ yếu Hội thảo ngày CTXH thế giới 2009 - "Nhân viên xã hội - Tác nhân của sự thay đổi" Bất kì đứa trẻ nào cũng cần có những nhu cầu cơ bản, cũng cần được đảm bảo một nơi ở an toàn, được chăm sóc đầy đủ về dinh dưỡng, sức khỏe, được yêu thương, chăm sóc, được thụ hưởng một nền giáo dục đầy đủ, được bảo vệ tránh khỏi những hiểm nguy, đe dọa. Nhu cầu của trẻ em là nhu cầu toàn diện như bất kì con người ở lứa tuổi nào, không chỉ được gói gọn trong vấn đề chăm sóc, bảo vệ về mặt thể chất mà cả tinh thần, không chỉ cần đảm bảo nhu cầu vật chất mà cả nhu cầu xã hội. 2. Những khó khăn tâm lý trẻ em gặp phải trong thời đại ngày nay Trước những nhu cầu toàn diện của trẻ, ta thấy rằng nếu khả năng đáp ứng nhu cầu của trẻ không được đáp ứng tất yếu sẽ nảy sinh vấn đề. Vấn đề của trẻ xuất phát từ sự đáp ứng không phù hợp với nhu cầu rất đa dạng ở từng trẻ. Thế nhưng trong thực tế cuộc sống ngày nay, trẻ em phải đối phó với nhiều khó khăn trong cuộc sống, dẫn đến những khó khăn trong tâm lý của các em. Khó khăn ấy có thể là những khó khăn về vật chất dẫn đến sự khó khăn trong đáp ứng những nhu cầu tinh thần của trẻ. Đến tháng 12/2008, Việt Nam có 1,4 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Trong đó những em này tập trung chủ yếu ở vùng có điều kiện khắc nghiệt, kém phát triển. Thậm chí ngay giữa những đô thị phát triển, những thành phố lớn, vẫn còn nhiều trẻ em lang thang, trẻ em lao động sớm do hệ quả của đói nghèo khiến các em không được đảm bảo những điều kiện tối thiểu cho một cuộc sống bình thường. Những điều này cản trở trẻ thực hiện quyền sống còn và được bảo vệ, chưa nói đến quyền được tham gia, quyền phát triển. Những khó khăn tâm lý của trẻ đôi khi lại không xuất phát từ sự thiếu thốn về vật chất mà là từ những xung đột, mâu thuẫn xung quanh đời sống của trẻ, từ những người thân thiết nhất với trẻ (bố mẹ, bạn bè, ) hay từ những hệ thống ảnh hưởng mạnh mẽ nhất tới trẻ (gia đình, trường học, ). Theo nhận thức của nhiều người dân hiện nay, việc chăm sóc trẻ em chỉ mới giới hạn ở mức độ đảm bảo nhu cầu vật chất cho các em bằng cách để các em có nơi ở, được ăn uống đầy đủ. Trong khi đó, nhu cầu tinh thần của trẻ đôi khi chưa được chú trọng. Nếu ở gia đình có hoàn cảnh khó khăn, cha mẹ trẻ phải vật lộn kiếm sống không có thời gian bày tỏ tình cảm, sự yêu thương với con cái thì ở một số gia đình khá giả, trẻ đôi khi bị bỏ rơi về mặt tình cảm, hoặc bị ép buộc tham gia quá nhiều hoạt Đại học Đồng Tháp 32
  3. Kỷ yếu Hội thảo ngày CTXH thế giới 2009 - "Nhân viên xã hội - Tác nhân của sự thay đổi" động (học văn hóa, học thêm, học năng khiếu, ). Cả hai thái cực này đều ảnh hưởng tiêu cực tới tinh thần của trẻ. Những khó khăn trên có thể dẫn đến những vấn đề nguy hại với tâm lý và sự hình thành nhân cách của trẻ. Chúng ta biết rằng, ở trẻ em, quá trình xã hội hóa diễn ra mạnh mẽ và liên tục. Chính quá trình xã hội hóa này hình thành nên nhân cách của trẻ. Trong quá trình xã hội hóa đó, trẻ tương tác với những cá nhân khác, nhóm khác, chịu ảnh hưởng của những hệ thống khác nhau. Nhận thức và hành vi của trẻ chi phối lẫn nhau trong mối quan hệ biện chứng. Cả nhận thức và hành vi của trẻ đều nằm trong phạm vi tác động của môi trường xung quanh, của sự tương tác xã hội trẻ tiếp xúc hàng ngày. Cũng chính từ đó, trẻ có thể hình thành những nhận thức sai lầm về bản thân qua quá trình xã hội hóa (nếu trẻ bị cha mẹ chửi rủa “đồ vô tích sự”, “sao không chết đi”,” Cút đi cho khuất mắt tao” thì trẻ sẽ nhận thức sai lầm về bản thân, cho rằng mình vô giá trị, từ đó dẫn đến trầm cảm, sa sút về tâm lý, có thể có những hành vi sai lệch: xa lánh bạn bè, đái dầm, ). Hoặc hệ thống giáo dục gây sức ép quá lớn tới trẻ dễ khiến trẻ khủng hoảng tâm lý. Bên cạnh đó, trẻ còn phải đối mặt với nhiều sức ép, ảnh hưởng tiêu cực của hoàn cảnh, các tệ nạn xã hội như mại dâm, ma túy, tình trạng lang thang, lạm dụng trẻ em. Tất cả những điều này khiến cho quá trình xã hội hóa của trẻ bị đảo lộn theo hướng không mong đợi, dễ làm méo mó nhận thức, hành vi và nhân cách của trẻ. Hệ quả của những vấn đề này để lại trong tâm lý của trẻ rất sâu sắc và có tính ảnh hưởng lâu dài, nghiêm trọng. Bảng số liệu sau đây cho thấy rõ điều đó: Bảng: Phân bố rối loạn liên quan sức khỏe tâm thần (n=2549) STT Các rối loạn N % 1 Lo âu 315 12.3 2 Trầm cảm 214 8,4 3 Sợ bẩn 256 10.0 4 Đái dầm 162 6.3 5 Tíc 105 4.2 Đại học Đồng Tháp 33
  4. Kỷ yếu Hội thảo ngày CTXH thế giới 2009 - "Nhân viên xã hội - Tác nhân của sự thay đổi" Từ bảng trên, ta thấy được rằng: Rối loạn lo âu chiếm tỉ lệ lớn nhất 12,3%, sau đó đến sợ bẩn 10,0%; trầm cảm 8,4%; đái dầm 6,3%; tíc 4,2%. Nhận xét này phù hợp với kết quả khảo sát vào tháng 7/2009 vừa qua của chúng tôi cho thấy tỷ lệ rối loạn lo âu chung ở trẻ em là từ 3 - 30% trẻ em. Sợ bẩn: Các ám ảnh này thường nổi lên ở lứa tuổi trẻ em hay tuổi thành niên sớm và chúng có thể duy trì lâu dài về sau nếu không được điều trị. Đặc điểm rối loạn trầm cảm: Kết quả có 8,4% số học sinh có cảm giác buồn rầu vì thấy vô dụng, kém cỏi; hay khóc lóc hoặc cảm thấy cô đơn. Các em này được xác định đủ tiêu chuẩn chẩn đoán cho một giai đoạn trầm cảm. Tỷ lệ này cao hơn hẳn tỷ lệ trầm cảm ở thanh thiếu niên nói chung mà Hoàng Cẩm Tú đã thông báo nhưng vẫn nằm trong khoảng tỷ lệ 4 – 24% của Kerry Pearce 1996 đã công bố. Các rối loạn về Tic, đái dầm: Những trẻ em có biểu hiện các rối loạn về Tic, đái dầm thường có cảm giác rất khó chịu làm hạn chế quan hệ xã hội, học tập và sinh hoạt của các em dẫn đến hiện tượng tự ti, mặc cảm ảnh hưởng đến sức khoẻ tâm thần của các em. (TS. Lê Thị Kim Dung, TS. Lã Thị Bưởi, TS. Đinh Đăng Hoè và cộng sự, Trung tâm nghiên cứu và phát triển cộng đồng, 2007, Nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần của học sinh một số trường trung học cơ sở) Ngoài ra, hiện nay sức khỏe thể chất lẫn tinh thần của thanh thiếu niên đang bị đe dọa bởi sự tấn công từ nhiều phía của các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, trộm cắp Trong nhà trường cũng luôn luôn có một tỉ lệ học sinh có vấn đề về sức khỏe tinh thần, số liệu 19,46 % học sinh trong độ tuổi từ 10 -16 tuổi gặp trục trặc về sức khỏe tinh thần trong cuộc khảo sát mới đây cho thấy tình hình rất đáng lo ngại. Theo một khảo sát của Thạc sỹ - bác sĩ Bùi QuốcThắng - giảng viên trường đại học Y Dược TP.HCM và bác sĩ Nguyễn Lê Anh Tuấn, trong 41 ca trẻ tự tử nhập viện tại BV Nhi Đồng 1 từ 1/1/2001 đến 30/6/2002, lứa tuổi chiếm nhiều nhất là 14-15 (65,84%), nữ chiếm 60,9%. Trẻ tự tử là trẻ sống trong gia đình mà 79% cha mẹ có trình độ học vấn thấp (mù chữ, cấp 1 và cấp 2), có đến 87,5% trường hợp trẻ tự tử có cha mẹ làm nghề lao động chân tay; chỉ có 1,4% cha mẹ có trình độ đại học. Có 85,4% trẻ sau tự tử, không làm gì để tỏ dấu hiệu tự tử và được người nhà phát hiện khi có triệu chứng, 14,6% các cháu xa lánh mọi người, vào phòng riêng, không có trường hợp nào thông báo cho người nhà biết sau Đại học Đồng Tháp 34
  5. Kỷ yếu Hội thảo ngày CTXH thế giới 2009 - "Nhân viên xã hội - Tác nhân của sự thay đổi" khi thực hiện hành vi tự tử (Báo Vietnam Net ngày 18/11/2003 tâm lý. Những biểu hiện bất thường của trẻ như là những dấu hiệu cho thấy trẻ đang bị khủng hoảng, chấn thương tâm lý). 3. Thực trạng hoạt động công tác xã hội trong chăm sóc, bảo vệ trẻ em tại Việt Nam hiện nay Rõ ràng, khó khăn tâm lý ở trẻ em là một vấn đề bức thiết, cần được xã hội nhận thức và can thiệp đúng đắn, kịp thời. Từ trước tới nay, Việt Nam đã có nhiều cơ quan ban ngành, các tổ chức trong và ngoài nước hoạt động trong lĩnh vực chăm sóc, bảo vệ trẻ em. Đặc biệt, công tác nghiên cứu, chăm sóc trẻ em gặp khó khăn về tâm lý đang ngày càng được quan tâm. Công tác chăm sóc trẻ em gặp khó khăn về tâm lý đang ngày càng được Nhà nước quan tâm. Đã có nhiều nghiên cứu về lĩnh vực này được triển khai, đặc biệt là các nghiên cứu tâm lý học. Nhiều dịch vụ chuyên biệt chăm sóc tâm lý trẻ em cũng được mở rộng. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tế, số lượng những dịch vụ này vẫn còn khá khiêm tốn. Tại khoa khám tâm thần trẻ em Bệnh viện Sức khỏe tâm thần thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), mỗi tuần tiếp nhận trung bình từ 400 đến 500 lượt trẻ em đến khám và điều trị về rối loạn sức khỏe tinh thần, có nhiều trẻ bị chấn thương tâm lý rất nặng nề. Điều này cho thấy nhu cầu khám chữa, chăm sóc sức khỏe tinh thần của trẻ em rất lớn, chỉ tính riêng khu vực thành thị. Tuy nhiên, con số này chưa thể hiện hết nhu cầu thực tế của trẻ. Bởi trẻ em gặp khó khăn về tâm lý rất đa dạng, không chỉ gồm những trẻ sống ở thành thị mà cả nông thôn. Những trẻ có hoàn cảnh kinh tế khó khăn thường không có cơ hội tiếp xúc với những dịch vụ này kể cả khi các em có vấn đề. Hơn nữa, nhân viên công tác xã hội chưa tham gia nhiều vào lĩnh vực này. Thực tế, trên thế giới, vai trò nhân viên công tác xã hội trong bệnh viện nhằm hỗ trợ trẻ em gặp vấn đề là rất quan trọng. Thế nhưng tại Việt Nam, nhân viên công tác xã hội chưa có nhiều cơ hội khẳng định vai trò của mình ở khu vực bệnh viện công. Bên cạnh các Bệnh viện công phụ trách khám chữa, chăm sóc sức khỏe tinh thần cho trẻ em, các dịch vụ tư nhân cũng đóng góp công sức lớn. Những dịch vụ tư nhân Đại học Đồng Tháp 35
  6. Kỷ yếu Hội thảo ngày CTXH thế giới 2009 - "Nhân viên xã hội - Tác nhân của sự thay đổi" chẳng những giúp giảm tải áp lực cho các bệnh viện công mà còn cung cấp những dịch vụ chuyên sâu theo yêu cầu. Phòng khám Tuna tại Hà Nội là một ví dụ điển hình. Trung tâm RTCCD đã thành lập Phòng khám TuNa dành cho trẻ rối nhiễu tâm trí vào tháng 12/2005 đáp ứng nhu cầu cấp bách của xã hội. Sau 2 năm hoạt động, phòng khám đã tiếp nhận hàng trăm bệnh nhân trẻ em với nhiều dạng rối nhiễu tâm trí khác nhau, sử dụng các kỹ thuật chẩn đoán sớm đã được chuẩn hoá trong điều kiện Việt nam và áp dụng mô hình can thiệp của Tổ chức y tế thế giới, có sự thay đổi linh hoạt trên từng bệnh nhân và đã thu được nhiều kết quả. Tại phòng khám TuNa, các chuyên gia tâm thần học, tâm lý học, giáo dục học, nhà dịch tễ học, bác sĩ chuyên khoa nhi, bác sĩ chuyên khoa thần kinh cùng phân tích, đánh giá thực trạng sức khoẻ trẻ em, nguyên nhân gây rối nhiễu tâm trí và có các giải pháp kế hoạch phù hợp cho trị liệu. Mô hình kiểm soát rối nhiễu tâm trí trẻ em tại phòng khám TuNa dựa theo mô hình của WHO. Tại phòng khám này, có sự đóng góp vai trò khá lớn của các nhân viên công tác xã hội. Điều này cho thấy, hiệu quả làm việc của nhân viên công tác xã hội trong lĩnh vực này khá cao và vị trí của họ là cần thiết nhằm hỗ trợ trẻ em có khó khăn về tâm lý. Cùng với đó, một số hoạt động tư vấn cũng đem lại sự hỗ trợ cần thiết cho trẻ. Tại Việt Nam, dịch vụ hỗ trợ trẻ khó khăn tâm lý phổ biến nhất là dịch vụ tư vấn tâm lý. Ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, hoạt động tư vấn tâm lý giáo dục tại các trường học đang phát triển với tốc độ nhanh, từ chỗ chỉ có 2 điểm tư vấn tâm lý tại trường trung học cơ sở đầu tiên vào năm 2000, đến nay Uỷ ban dân số – gia đình & trẻ em thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng được 31 điểm tư vấn học đường cho cả 3 cấp tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông (theo số liệu tháng 1-2005). Đa số các điểm tư vấn học đường chỉ mở cửa 1-2 ngày trong tuần. Phương tiện tư vấn tâm lý học đường (school psychologicial counselling) rất phong phú, ngoài cách trao đổi trực tiếp học sinh có thể liên lạc với tư vấn viên bằng những cách khác như: hộp thư điện tử, chat, điện thoại Tuy nhiên, ở một thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh với hơn 800 trường tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông lại chỉ có 31 trường có điểm tư vấn trường học thì con số này rõ ràng còn quá nhỏ. (ThS. Lê Thị Ngọc Dung, Ban tâm lý – Viện nghiên cứu xã hội thành phố Hồ Chí Minh, 2007, Can thiệp và phòng ngừa các vấn đề sức khỏe Đại học Đồng Tháp 36
  7. Kỷ yếu Hội thảo ngày CTXH thế giới 2009 - "Nhân viên xã hội - Tác nhân của sự thay đổi" tinh thần trẻ em ở thành phố Hồ Chí Minh). Số lượng nhà tư vấn, tham vấn hiện nay vẫn chủ yếu là sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành tâm lý. Sự khẳng định vai trò nhân viên công tác xã hội trong lĩnh vực này còn mờ nhạt. Từ một số nét chính như vậy, ta thấy được rằng, dịch vụ hỗ trợ trẻ khó khăn về tâm lý tại nước ta còn thiếu về số lượng, chưa đồng đều về chất lượng. Cả dịch vụ công và tư đều chưa đủ đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng trong hỗ trợ tâm lý trẻ gặp khó khăn. Chúng ta biết rằng, việc chăm sóc, hỗ trợ sức khỏe tinh thần cho trẻ em luôn được đặt trong mối quan hệ của các hệ thống, các tiểu hệ thống khác nhau. Chỉ khi các hệ thống, tiểu hệ thống này tương tác tích cực, cùng hướng đến mục tiêu chung một cách đồng nhất, các dịch vụ này mới đạt đến tầm phát triển cân xứng với nhu cầu của trẻ. Thế nhưng hiện nay, các chính sách về chăm sóc sức khỏe tinh thần cho trẻ em chưa theo kịp với nhu cầu thực tế. Hệ thống cơ sở vật chất, nguồn kinh phí hoạt động và đội ngũ nhân viên hoạt động trong lĩnh vực này còn thiếu. Đặc biệt, vai trò của nhân viên công tác xã hội tại nước ta chưa được phát huy triệt để. Điều này là bởi, công tác xã hội vẫn là một lĩnh vực khá mới mẻ ở Việt Nam. Hoạt động mang tính công tác xã hội đã có nhưng còn tự phát, chưa chính thức. Đội ngũ nhân viên công tác xã hội còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Đây là điều cần đặc biệt chú ý vì nó tác động lớn tới hoạt động hỗ trợ trẻ em. Tất cả những điều này khiến cho hoạt động công tác xã hội trong lĩnh vực chăm sóc, bảo vệ trẻ em có khó khăn về tâm lý vẫn còn nhiều bất cập dù đang trên đà phát triển. 4. Định hướng phát triển hoạt động công tác xã hội trong lĩnh vực bảo vệ trẻ em trong tương lai Trước những nhu cầu cấp thiết và thực trạng giải quyết vấn đề như vậy, ta có thể thấy rằng, trẻ em Việt Nam rất cần sự can thiệp sâu hơn nữa, đa dạng hơn nữa của công tác xã hội để hỗ trợ trẻ. Để làm được điều đó, cần có định hướng phát triển vĩ mô và vi mô. ● Về hướng phát triển vĩ mô: Cần chú trọng đào tạo đội ngũ nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp tăng cả về số lượng và chất lượng. Hiện đã có nhiều trường đại học tại Việt Nam tham gia đào tạo chuyên ngành này nhưng để công cuộc đào tạo phát huy hiệu quả, cần chú trọng tới đội Đại học Đồng Tháp 37
  8. Kỷ yếu Hội thảo ngày CTXH thế giới 2009 - "Nhân viên xã hội - Tác nhân của sự thay đổi" ngũ giảng dạy và các điều kiện thực hành cho sinh viên. Đặc biệt, cần tập huấn, đào tạo các chứng chỉ về tâm lý trẻ em cho sinh viên chuyên ngành công tác xã hội vì những kiến thức này sẽ hỗ trợ nhân viên công tác xã hội rất nhiều khi thực hành nghề nghiệp. Về mặt xây dựng, thực thi chính sách, luật chăm sóc, bảo vệ trẻ em cần có sự tham gia của nhân viên công tác xã hội, những người trực tiếp làm việc với trẻ em yếu thế. Họ sẽ là người tư vấn, đóng góp ý kiến tích cực, hiệu quả để các chính sách ngày càng phù hợp hơn. ● Về mặt vi mô: trong hoạt động công tác xã hội cần chú trọng tới việc thực hành nhằm thể hiện vai trò nhân viên công tác xã hội đúng như mong đợi trên lý thuyết mà các nước tiên tiến đã thực hiện: Vai trò Mong đợi thực hiện vai trò nhân viên Mong đợi thực hiện vai CTXH trên lý thuyết trò nhân viên CTXH trong thực tế Người tạo khả Giúp thân chủ có khả năng đương đầu với - Nhận diện rào cản năng (Enabler) tình huống hay áp lực quá độ. Nhân viên tiếp cận hệ thống an CTXH truyền tải sự hy vọng, giảm bớt sự sinh xã hội của trẻ. cản trở và mâu thuẫn, phát hiện và quản lý - Củng cố khả năng cảm xúc, nhận diện và củng cố năng lực tiếp cận hệ thống an thân chủ cũng như khả năng tiếp cận xã hội, sinh xã hội của trẻ. chia nhỏ vấn đề thành từng phần để giải quyết nó dễ dàng hơn và duy trì sự tập - Chia nhỏ việc hỗ trợ trung và mục tiêu và ý nghĩa của việc đạt trẻ thành nhiều bước được chúng. (Barker, 1995) nhỏ. Người hòa giải Giúp thân chủ giải quyết những tranh luận, - Dựa vào chính sách (Mediator) xung đột tầm cỡ vi mô, trung mô hay liên của tổ chức và chính quan tới hệ thống vĩ mô. Ở mức độ vĩ mô, sách chung của nhà người hòa giải giúp những tiểu hệ thống nước, giải quyết vấn đề khác nhau trong cộng đồng hay một cộng liên quan đến những Đại học Đồng Tháp 38
  9. Kỷ yếu Hội thảo ngày CTXH thế giới 2009 - "Nhân viên xã hội - Tác nhân của sự thay đổi" đồng và vài hệ thống khác, tạo ra sự khác tranh chấp của trẻ. biệt. Ở mức độ vi mô và trung mô, người hòa giải giúp đỡ ở những lĩnh vực như li hôn hay giám hộ trẻ em. Nhân viên CTXH duy trì sự trung lập và không ủng hộ đảng phái trong cuộc tranh luận. (Zastrov and Kirst-Ashman, 1997) Người hợp Hợp nhất là quá trình nhân viên CTXH đưa - Lựa chọn chính sách, nhất/ điều phối những phần riêng lẻ đến cùng nhau hợp dịch vụ phù hợp với (Integrator/ thành một tổng thế thống nhất. Điều phối trẻ. liên quan đến việc các nhân viên CTXH Coordinator) - Hợp nhất những đưa nhiều thành phần cùng vào vài loại của chính sách, dịch vụ những phong tục tập quán có tổ chức. Một nhằm hỗ trợ nếu cần nhân viên CTXH có thể thực hiện chức (nhất là khi vấn đề của năng như một người hợp nhất hay điều phối trẻ phức tạp) theo những cách có thể, sắp xếp trật tự từ việc biện hộ và nhận diện sự điều phối các cơ hội để cung cấp sự hỗ trợ chuyên môn có liên quan trực tiếp đến sự phát triển và thi hành các sự liên kết với các dịch vụ. (Yessian and Broskowski, 1983, p.184). Người quản lý Quản lý trong CTXH liên quan tới việc - Yêu cầu sử dụng (Manager) nhân viên CTXH có những mức độ quyền nguồn lực mà trẻ cần. hạn trách nhiệm hành chính với các tổ chức - Xem xét, tham mưu, xã hội để yêu cầu những nguồn lực và ứng đề xuất xây dựng dụng chúng trong triển khai chương trình, những chính sách, dịch điều phối hoạt động hướng đến đạt được vụ mới cần thiết hoặc những thành tựu từ những mục tiêu đã được thay đổi, điều chỉnh Đại học Đồng Tháp 39
  10. Kỷ yếu Hội thảo ngày CTXH thế giới 2009 - "Nhân viên xã hội - Tác nhân của sự thay đổi" thiết lập và quản lý, tiếp cận, tạo sự thay đổi những chính sách, dịch cần thiết trong quá trình và xây dựng nhằm vụ mới không còn phù nâng cao tính hiệu quả và tính khả thi. hợp. (Barker, 1995, p.8). Người giáo dục Vai trò giáo dục liên quan đến việc cung - Cung cấp thông tin (Educator) cấp thông tin và dạy các kĩ năng cho khách cho trẻ và gia đình trẻ hàng và các hệ thống khác. Để trở thành về quyền lợi, những người giáo dục hiệu quả, nhân viên CTXH chính sách, dịch vụ mà đầu tiên phải có kiến thức. Thêm vào đó, trẻ đáng được hưởng nhân viên CTXH phải là người giao tiếp và có thể tiếp cận. tiếp để thông tin được truyền tải rõ ràng và - Hướng dẫn cách thức dễ hiểu với khách hàng hay hệ thống vĩ mô. tiếp cận với các nguồn (Zastrov and Kirst-Ashman, 1997). lực đó. Người phân Nhân viên CTXH với nền tảng kiến thức - Đánh giá quá trình trợ tích/ lượng giá lớn về sự đa dang của chức năng hệ thông giúp trẻ thông qua (Analyst/ có thể phân tích hay lượng giá xem chương chính sách, dịch vụ ở trình hay hệ thống làm việc tốt ra sao. Họ tổ chức có hiệu quả Evaluator) còn có thể lượng giá hiệu quả của sự can không. Nếu không cần thiệp của họ. (Zastrov and Kirst-Ashman, xem xét điều chỉnh, 1997). thay thế dịch vụ mới. - Lượng giá hiệu quả một chương trình, chính sách hay dịch vụ xem mức độ khả thi và hiệu quả để đưa ra thay đổi kịp thời. Người môi giới Một người môi giới có thể giúp kết nối các - Kết nối trẻ với những Đại học Đồng Tháp 40
  11. Kỷ yếu Hội thảo ngày CTXH thế giới 2009 - "Nhân viên xã hội - Tác nhân của sự thay đổi" (Broker) khách hàng (cá nhân, nhóm, tổ chức hay chính sách, dịch vụ của cộng đồng) với những dịch vụ hay nguồn tổ chức mà trẻ có nhu lực cộng đồng. Một người môi giới cũng cầu và phù hợp với trẻ. giúp đặt những phần khác nhau của cộng - Cung ứng dịch vụ đồng trong mối quan hệ với một phần khác cứu trợ kịp thời. để dẫn đến những lợi ích lẫn nhau giữa họ. (Barker, 1995, p.43) Trong hệ thống vi mô - Cung cấp thông tin về và trung mô, nó đòi hỏi nhân viên CTXH những nhóm trẻ cần trợ phải quen thuộc với các dịch vụ cộng đồng, giúp với các đơn vị dự có kiến thức hiểu biết chung về yêu cầu án, các đơn vị tài trợ. thích hợp và nhạy cảm với những nhu cầu của khách hàng. Một người môi giới có thể giúp một khách hàng đạt được nhà hay thực phẩm cứu trợ khẩn cấp, hợp pháp hay những nguồn lực hỗ trợ nhu cầu khác. (Zastrov and Kirst-Ashman, 1997). Người tạo điều Một người tạo điều kiện thuận lợi là người - Đưa trẻ vào những kiện thuận lợi mà phục vụ như một trưởng nhóm cho những nhóm sinh hoạt nhóm (Facilitator): kinh nghiệm nhóm. (Barker, 1995, p.129). phù hợp. Nhóm có thể là một nhóm trị liệu gia đình, - Thiết lập một hệ một nhóm nhiệm vụ, một nhóm đồng đẳng, thống các nguồn lực và một nhóm giáo dục, một nhóm tự giúp hay hoạt động mà trẻ cần. một nhóm với vài trọng tâm khác. Vai trò của người tạo điều kiện thuận lợi có thể áp dựng - Hướng dẫn trẻ sử với thực hành vĩ mô. Trong bối cảnh đó, một dụng những nguồn lực người tạo điều kiện thuận lợi gánh lấy trách một cách cụ thể. nhiệm tiến hành sự thay đổi nỗ lực bằng cách đưa con người đến với nhau và kết nối với Đại học Đồng Tháp 41
  12. Kỷ yếu Hội thảo ngày CTXH thế giới 2009 - "Nhân viên xã hội - Tác nhân của sự thay đổi" cộng đồng, lập hệ thống các hoạt động và nguồn lực, cung cấp chúng với sự tiếp cận lời khuyên chuyên môn. Người đàm Một người đàm phán đại diện cho một tổ - Đại diện cho quyền phán chức, một nhóm hay một cá nhân mà đang cố lợi của trẻ để tranh (Negotiator): gắng đạt được điều gì đó từ nhóm hay hệ luận, đưa ra bằng thống khác. Phần nào nó giống với điều đình, chứng cho vấn đề của đàm phán liên quan tới việc tìm ra vị trí trung trẻ, nhu cầu của trẻ và gian mà mọi phía có thể tồn tại với việc đạt những chính sách, dịch được sự nhất trí khi nào có thể. Tuy nhiên, vụ trẻ cần ở tổ chức. không giống như người điều đình, người mà đóng một vai trò trung lập, người đàm phán liên kết rõ ràng họ với một trong những phía liên quan.(Zastrov and Kirst-Ashman, 1997). Người biện hộ Biện hộ liên quan đến hành động của sự đại - Phát ngôn đại diện (Advocate): diện trực tiếp cho một diễn biến của hành cho trẻ và gia đình trẻ động về sự thay mặt cho một hay nhiều cá nhằm đạt được mục nhân, nhóm hay cộng đồng với mục tiêu đạt tiêu là trẻ được tiếp được sự duy trì công bằng xã hội nhận và thụ hưởng (Mickelson, 1995, p.95) Vai trò biện hộ liên những chính sách, dịch quan tới việc hướng tới và phát ngôn đại vụ an sinh xã hội của diện cho hệ thống khách hàng. Vai trò biện tổ chức. hộ là một trong những vai trò quan trọng nhất của nhân viên CTXH nói chung có thể làm bất chấp những khó khăn có thể xảy ra. (Zastrov and Kirst-Ashman, 1997). Đó là những vai trò cơ bản nhất mà một nhân viên công tác xã hội cần thực hiện. Những vai trò đó được thể hiện rõ nét trong những hoạt động nghề nghiệp cụ thể: Đại học Đồng Tháp 42
  13. Kỷ yếu Hội thảo ngày CTXH thế giới 2009 - "Nhân viên xã hội - Tác nhân của sự thay đổi" ▪ Công tác tham vấn/ tư vấn tâm lý cho trẻ: Nhân viên công tác xã hội cần được tập huấn sâu về kiến thức và kỹ năng với tuổi vị thành niên. Nhân viên công tác xã hội cũng cần liên hệ chặt chẽ với giáo viên nhằm phát hiện sớm và hỗ trợ tâm lý kịp thời cho trẻ trong nhà trường. Điều quan trọng là nhân viên công tác xã hội cần can thiệp sớm giải quyết các xung đột gia đình, nhà trường, những rắc rối trong quan hệ của bố mẹ, thầy cô giáo, những người xung quanh với trẻ. Giải tỏa xung đột sẽ giúp ngăn ngừa hữu hiệu những hậu quả có hại cho sức khoẻ tinh thần trẻ em trong tương lai. Đồng thời hỗ trợ giúp các em trang bị đủ kỹ năng sống, sự chuẩn bị cần thiết để đối phó với các tình huống khó khăn trong cuộc sống. Điều này đã được tổ chức CEPHAD thực hiện rất tốt khi tập huấn kĩ năng sống cho trẻ em lang thang đường phố. Đây có thể được coi là một mô hình phù hợp để học tập. ▪ Các dự án chăm sóc, bảo vệ trẻ em: hơn ai hết, các nhân viên công tác xã hội chính là người đóng vai trò quan trọng trong xây dựng, triển khai các dự án. Nhân viên công tác xã hội cần làm rõ vai trò biện hộ, môi giới, kết nối nguồn lực, tạo điều kiện, của mình, giúp cho trẻ em được thụ hưởng lợi ích của dự án và dự án đạt được mục tiêu của mình. ▪ Hoạt động thực hành công tác xã hội cá nhân, nhóm: trong các cơ quan, dịch vụ, nhân viên công tác xã hội cần tăng cường học hỏi, thực hành, rút kinh nghiệm khi ứng dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân, nhóm. Sự ứng dụng những phương pháp này đang mở rộng hơn ỏ Việt Nam. Những phương pháp chuyên ngành này sẽ giúp giải quyết triệt để những vấn đề của trẻ em hiện nay. Do đó, cần có sự ứng dụng rộng rãi chúng thông qua các mô hình dịch vụ tại nước ta. Nói tóm lại, hoạt động công tác xã hội trong lĩnh vực chăm sóc, bảo vệ trẻ em hiện nay đã được thực hiện khá đa dạng và đem lại nhiều hiệu quả. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tế, cần có sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng hơn nữa những hoạt động này. Với tình hình thực tế xã hội luôn thay đổi như hiện nay, công tác xã hội cũng cần có sự biến đổi, phát triển phù hợp để góp phần đẩy mạnh hiệu quả hỗ trợ trẻ em. Vai trò của công tác xã hội trong công cuộc bảo vệ trẻ em ngàng càng trở nên cấp thiết hơn nữa. Chú trọng vào phát triển công tác xã hội là điều thiết yếu, một nhu cầu thời đại. Đại học Đồng Tháp 43