Giáo trình Hương ước trong làng xã đồng bằng Bắc Bộ nửa đầu thế kỷ XX - Vũ Duy Mến
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Hương ước trong làng xã đồng bằng Bắc Bộ nửa đầu thế kỷ XX - Vũ Duy Mến", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_huong_uoc_trong_lang_xa_dong_bang_bac_bo_nua_dau.pdf
Nội dung text: Giáo trình Hương ước trong làng xã đồng bằng Bắc Bộ nửa đầu thế kỷ XX - Vũ Duy Mến
- Hương ước trong làng xã đồng bằng Bắc Bộ nửa đầu thế kỷ XX Vũ Duy Mền* Trịnh Thị Hà Tóm tắt: Hương ước là một phần lệ làng được văn bản hóa, nó phản ánh một cách trung thực, cụ thể và sinh động một góc làng quê đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam với những quy định mang nét đặc trưng. Quy định của Hương ước về Giáp, hội Tư văn, hội Lão (các tổ chức xã hội ở làng xã đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam trong lịch sử) có vai trò quan trọng trong quản lý xã hội. Từ khóa: Hương ước; tổ chức xã hội; đồng bằng Bắc Bộ; Cải lương Hương chính. 1. Mở đầu nơi diễn ra mạnh mẽ nhất.*Các cuộc Cải Sau khi ký với triều đình Huế Hiệp ước lương Hương chính này không chỉ có tác Patenôtre (1884), thực dân Pháp đã chính động đến đời sống chính trị mà còn tạo ra thức đặt ách thống trị lên toàn lãnh thổ những thay đổi quan trọng trong đời sống Việt Nam, đồng thời thi hành nhiều chính sinh hoạt xã hội của cư dân làng xã thông sách cai trị trên tất cả các lĩnh vực, một qua những quy định và sự quản lý chặt trong những chính sách đó là tăng cường chẽ của Hương ước với các tổ chức xã hội việc kiểm soát chặt chẽ bộ máy cai trị từ mà chủ yếu là Giáp, hội Tư văn, hội Lão. trung ương xuống địa phương, cấp thấp Hương ước trong làng xã đồng bằng Bắc nhất là làng xã. Trong khi đó, sang đầu Bộ nửa đầu thế kỷ XX quy định cụ thể, thế kỷ XX do ảnh hưởng của cuộc Chiến quyền lợi và vai trò của các tổ chức xã hội tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918), này, đặc biệt là vai trò đối với đời sống phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, có sự tiếp của nhân dân ta ngày càng lan rộng đến tục kế thừa từ xã hội cổ truyền, nhưng nông thôn, có tác động không nhỏ đến cũng có sự can thiệp của chính quyền thực chính sách, đường lối cai trị của chính quyền thực dân Pháp đối với cấp cơ sở (*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Sử học, Viện Hàn lâm làng xã. Do vậy, với mong muốn kiểm Khoa học xã hội Việt Nam. ĐT: 0982195149. Email: vuduymienhn@yahoo.com soát chặt chẽ nông thôn, tách nông dân và ( ) Thạc sĩ, Viện Sử học, Viện Hàn lâm Khoa học xã nông thôn ra khỏi môi trường cách mạng, hội Việt Nam. ĐT: 0976897199. Email: chính quyền Pháp đã thi hành chính sách trinhha3012@gmail.com. Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc cải tổ lại tổ chức làng xã thông qua việc gia (Nafosted) trong đề tài: Hương ước trong việc thi hành các cuộc Cải lương Hương chính quản lý làng xã đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam với hương trị của Đài Loan (Trung Quốc) cuối thế kỷ XIX nửa ở cả ba miền đất nước, trong đó Bắc Kỳ là đầu thế kỷ XX , mã số IV.1 - 2013.05. 65
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7(104) - 2016 dân trong việc lồng ghép những chức hội đàn Thiền để kỷ niệm Đức Thánh năng mới. Quan công” [23, tr.17]. 2. Quy định của hương ước về đối Hương ước quy định rất cụ thể điều tượng tham gia các tổ chức xã hội kiện gia nhập hội Tư văn, theo đó người Giáp là một tổ chức xã hội trong làng gia nhập hội phải là người có học, biết xã cổ truyền. Các nhà nghiên cứu đều khá chữ, đồng thời phải có phẩm chất, đạo thống nhất với nhau khi đưa ra một khái đức trong sạch, không có tiếng bất hảo. luận chung về Giáp, theo đó: Giáp là một Tuy nhiên, sự can thiệp ngày càng sâu tập hợp người theo lớp tuổi, bao gồm các rộng của chính quyền thực dân Pháp đã đinh nam sau khi lọt lòng đã làm lễ vọng khiến cho yếu tố nho học ngày càng suy Giáp đến cụ ông cao tuổi nhất, là tổ chức yếu, đối tượng và điều kiện gia nhập vào chỉ dành cho nam giới ở trong làng, không hội Tư văn qua hương ước đã mở rộng có phụ nữ tham gia, và mang tính kế thừa: hơn, gồm cả những người theo lối Tây “Phàm là con trai thì bố ở Giáp nào lại học, thậm chí có làng cho cả người dân vào Giáp ấy” [13, tr.28]. Lệ vào Giáp vẫn thường, người từng đi lính và con cháu đảm bảo nguyên tắc: ai vào Giáp trước của họ được vọng tiền, sửa biện mâm rượu để gia nhập vào hội. Hương ước ngồi trên, ai vào Giáp sau ngồi dưới. Để làng Đại Tài (Bắc Ninh) soạn năm 1941 được vào Giáp, Hương ước quy định các quy định: “Những người đi lính mà dân trai đinh từ 16 đến 18 tuổi phải đóng tiền cắt ra, mãn hạn 5 năm trở về cũng được hương ẩm, mỗi tuổi là 1 quan tiền cổ. Tuy dự vào ngôi Tư văn xã thôn, cách chồng nhiên theo quy định của Hương ước làng tiền và sửa rượu cũng theo như người đỗ Cổ Trai (Thái Bình) soạn năm 1942 thì bằng sơ học yếu lược. Người nào có xã nam đinh ngay từ khi mới sinh ra đã phải thôn rồi thì cho con người lính ấy người “nộp mười lăm xu, ba chục giầu để vào nhà người ấy một ngôi Tư văn xã thôn, để Giáp” [3, tr.16]. tỏ lòng người lính có công khó nhọc” [4, Hội Tư văn là một tổ chức xã hội có tr.14]. Khi mới gia nhập Tư văn, muốn trở vai trò rất quan trọng trong đời sống sinh thành thành viên chính thức, người đó hoạt văn hóa, tín ngưỡng của làng xã cổ phải chuẩn bị một lễ vọng bàn Tư văn, lễ truyền Việt Nam, ra đời trên cơ sở nền vật tùy theo phong tục mỗi làng, như làng giáo dục Nho học mở rộng, phát triển Tam Tảo (Bắc Ninh) quy định lễ vọng xuống cấp làng xã đã lôi cuốn nhiều gồm: 1 cơi giầu, 10 quả cau, 1 mâm xôi, 1 người học chữ Nho tập hợp lại với nhau. gà sống, 1 chai rượu, 1 số tiền là 11 Hoạt động chủ yếu của hội Tư văn là đồng Đây thực chất là hình thức bán thực hiện nghi lễ đề cao các bậc Thánh chân ngôi trong hội Tư văn nhằm lấy tiền hiền (Khổng Tử và 72 học trò thành đạt để giải quyết các việc công ích của làng. của Ngài), cùng những bậc tiên hiền đỗ Hội Lão cũng là một tổ chức xã hội tự đạt của làng quê. “Hội Tư văn là để tôn nguyện trong làng xã được biết đến với giáo Đức Thánh Khổng. Một cầu phúc là vai trò của Hội đồng kỳ lão (Hương lão), để kỷ niệm Đức Thánh Trần Hưng Đạo, gồm các bậc cao niên trong làng nhóm 66
- Vũ Duy Mền, Trịnh Thị Hà họp lại với nhau do một người đứng đầu ta khó theo, vậy lệ vọng tiền nên trước gọi là Trưởng lão (hoặc Trùm lão) nhằm miễn hẳn” [16, tr.16]. giúp đỡ nhau khi có việc. Như vậy, đối tượng gia nhập vào Giáp, Độ tuổi vào hội Lão tùy theo quy định hội Tư văn, hội Lão đều là các nam đinh của mỗi làng, trung bình từ 45 đến 60 trong một làng xã. Tuy nhiên, do đặc thù tuổi, khi vào hội người lão phải làm vọng riêng của mỗi tổ chức xã hội mà đối tượng lão, chủ yếu nộp tiền hoặc sửa soạn mâm tham gia cũng khác nhau, trong đó nếu lễ vật. Theo quy định của làng Cự Trình Giáp là một tổ chức tập hợp theo giới, (Bắc Ninh), người vọng lão phải chuẩn được phân bậc theo lớp tuổi, hội Tư văn bị: 1 con lợn 50 cân, xôi 40 cân, rượu 4 gồm những người có học, chức sắc, có chai, 1 buồng cau 50 quả, chuối 80 quả. phẩm chất đức hạnh, thì hội Lão dành cho Việc đóng tiền hay biện lễ vật là điều các bậc cao niên trong làng. kiện bắt buộc, nếu không đóng thì sẽ 3. Quy định của Hương ước về cơ không được vào, không có vị thứ trong cấu tổ chức, quyền lợi của các thành chốn đình trung. viên thuộc tổ chức xã hội Khi vào sinh hoạt trong hội Lão, thành Vì Giáp là một tổ chức không phân biệt viên hội Lão được phân hạng theo lứa nơi cư trú theo xóm ngõ trong làng, do tuổi: 60, 70, 80, 90, 100. Ai lên hạng tuổi vậy tùy theo quy mô, phạm vi cương vực nào (một số làng Vĩnh Phúc gọi là lệ lên của từng làng mà phân chia đơn vị Giáp lềnh) cũng phải vọng theo hạng tuổi đó. nhiều ít khác nhau, chủ yếu mỗi làng gồm Theo quy định của Hương ước làng Tam từ 2 Giáp trở lên, một số làng có 8, 9 Tảo thì vào hạng trung thọ (60 - 70) và Giáp, thậm chí làng Hạ Bái (huyện Duyên thượng thọ (70 - 90) phải vọng bàn Hà, Thái Bình) có tới 23 Giáp [16]. Đứng đầu tổ chức Giáp là một viên Hương lão một cơi giầu 10 quả cau, 1 Trưởng giáp, một số làng gọi là Trưởng chai rượu, 1 cân xôi, 1 gà sống; còn vọng lệnh, Giáp chỉ, hay Trùm giáp. Ngôi 90 - 100 chỉ cần soạn một cơi giầu 10 quả Trưởng giáp được bổ từ thành viên trong cau, miễn xôi, gà, tiền. Như vậy, tuổi Giáp, thường được kế tiếp bởi viên thứ càng cao thì số tiền vọng càng ít đi và nhì của hàng Giáp: “Mỗi Giáp đặt ra một nghĩa vụ đối với làng xã nhà nước cũng người Trùm giáp để tùy tòng với viên được giảm bớt bởi khi vào ban Hương Hương trưởng viên này do cử ở những lão, sẽ được miễn trừ việc đắp đê đường, viên thứ nhì ra, ai hơn tuổi lên trước” [4, trên 61 tuổi được trừ tạp dịch và giảm sưu tr.13]. Như vậy, ngôi Trưởng giáp được thuế. Việc miễn lệ vọng ngân đối với các luân bổ theo thứ tự trên trước, dưới sau, ai cụ già được giải thích bởi lý do rất nhân vào vị trí hương ẩm trước mà ngồi bàn văn: “Hạng lão từ 70 tuổi trở lên, sự hy trên sẽ được bổ ngôi Trưởng giáp trước. vọng ở trên đời thì ít, chỉ trông mong vào Độ tuổi đề cử, hoặc ứng cử vào ngôi con cháu thì nhiều, nếu cứ sống thêm một Trưởng giáp dưới 55 tuổi, thời gian giữ tuần lại mất tiền thêm một món, thì trước ngôi Trưởng giáp từ 2 - 4 năm. Khi nhận là trái với nghĩa thượng xỉ, sau nữa người ngôi, tân Trưởng giáp phải chuẩn bị một 67
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7(104) - 2016 lễ nhỏ để khao mọi người và chức dịch một viên Hội trưởng (hoặc Trưởng văn, trong Giáp, nhỏ gồm trầu cau, lớn phải Trùm Tư văn) do hội bầu chọn. Điều kiện làm mâm cỗ mặn, như quy định của làng giữ ngôi Hội trưởng Tư văn được phản Cao Mỗ (Thái Bình), viên Trưởng giáp ánh qua Hương ước trong thế kỷ XX phải làm rượu đãi 10 bàn trở lên để mời không mấy thay đổi, khi các làng vẫn đề sắc dịch trong Giáp. cao yếu tố đầu tiên là phải am hiểu chữ Hương ước một số làng quy định đặt Nho (sau này gồm cả người theo lối Tây ngôi thứ nhì để tùy tòng, giúp việc cho học), có chân khoa mục rồi mới đến các viên Trưởng giáp, số lượng gồm 1 hoặc 2 đối tượng khác. Thời gian giữ ngôi viên tùy theo quy định mỗi làng. Việc đặt Trưởng hội từ 1 - 4 năm, khi giữ ngôi ngôi thứ nhì cũng theo nguyên tắc “lần Trưởng hội họ được miễn đi canh tuần, lượt ai đến tuổi phải lên”, người được cử miễn một nửa phu dịch, tạp dịch và nhận lên ngôi thứ nhì phải đóng một số tiền cụ một phần lệ biếu vào các kỳ tiết lễ, sóc thể, tùy theo địa vị hương ẩm trong làng vọng của làng. Trách nhiệm của ngôi Hội có mức đóng khác nhau. Theo quy định trưởng là điều khiển các hoạt động của của làng Đại Tài (Bắc Ninh) “nếu là hội, trong đó có nhiệm vụ cắt đặt thành người chức dịch đến tuổi cử lên làm thứ viên trong hội luân phiên cày cấy phần nhì, phải chồng dân 5 đồng bạc, người Tư ruộng hoặc nuôi lợn để lấy hoa lợi biện lễ văn xã thôn phải chồng 10 đồng, vọng 3 đệ niên, tế Tiên thánh ở Văn chỉ. đồng, người bạch đinh phải chồng dân 15 Hỗ trợ cho Trưởng văn gồm hai chức đồng và vọng 6 đồng” [4, tr. 13 - 14]. Điển văn và Tả văn, đều lấy từ những Khi đã lên ngôi Trưởng giáp và thứ nhì, họ sẽ được miễn trừ phu dịch, tạp người có văn học chuyên viết văn tế cho dịch, riêng ngôi Trưởng giáp còn được dân vào các dịp tiết lễ của làng. Trong đó, hưởng phần biếu từ lệ cheo cưới. Theo Điển văn là chức chuyên lo các công việc quy định trong Hương ước thôn Cự Trình hành chính của hội gồm cả viết văn tế. (Bắc Ninh) thì gia đình giáp đinh có con Chức Tả văn chỉ được hội Tư văn giao gái lấy chồng, phải sắm biện lễ vật để viết văn tế trong một số kỳ tiết lễ nhất biếu các vị chức sắc trong làng, Giáp. định, khi chức Điển văn bận rộn nhiều Theo đó vị Trưởng giáp được nhận một việc, hoặc làng không có chức Điển văn, phần cheo nội là: 400 viên gạch lục và do đó có làng cho đặt cả hai, nhưng một 100 khẩu cau bổ; cheo ngoại là 200 gạch, số làng chỉ đặt một trong hai chức này. Cả 2 chai rượu, 1 buồng cau độ 100 quả, tiền Điển văn và Tả văn đều được lấy từ giầu. những người có khoa trường, hoặc có So với Giáp, về mặt hình thức hội Tư phẩm hàm văn giai, võ giai, khi làng văn không chia lẻ như Giáp, bởi một làng không có những đối tượng này thì dân sẽ một xã có thể gồm nhiều Giáp nhưng chỉ giao cho người có chức tước cao nhất của có duy nhất một hội Tư văn. Do đó tổ làng, gồm Lý trưởng hoặc Tiên chỉ. chức nhân sự của hội Tư văn gọn nhẹ, đơn “Người viết văn phải chọn khoa mục Cử giản hơn Giáp. Đứng đầu hội Tư văn là nhân Tú tài trở lên, kế đến khóa sinh nhất 68
- Vũ Duy Mền, Trịnh Thị Hà nhị trường, tiếp đến Chánh phó tổng, 4. Quy định của hương ước về vai trò Chánh phó lý. Tất cả phải là những người của các tổ chức xã hội có văn phong sáng sủa” [25, tr.271]. 4.1. Hoạt động lễ nghi, hội hè đình đám Thành viên trong hội Lão là những Lễ hội là một sinh hoạt không thể thiếu người cao tuổi, trong đó lại gồm cả những trong đời sống tinh thần của cư dân làng người đã từng đỗ đạt làm quan, hiểu biết xã Việt Nam, được tổ chức quanh năm, Nho học, có kinh nghiệm trong cuộc sống trong đó nhiều nhất là mùa xuân tháng do vậy họ rất được trọng vọng. Vào các giêng, hai, ba (đó là thời điểm nông nhàn dịp lễ hội, tế lễ của làng họ được ưu tiên lại ngay sau dịp Tết Nguyên đán). Một lễ dự bàn trên trong vị thứ đình trung và hội ở đồng bằng Bắc Bộ gồm 2 phần: lễ hương ẩm (bàn 1 đối với các làng có và hội. Phần lễ là các nghi thức thờ cúng, truyền thống trọng xỉ - trọng tuổi tác) bàn tế lễ mang đậm dấu ấn Nho giáo và màu 2 chỉ sau bàn của người đỗ đạt (đối với sắc tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp làng có truyền thống trọng tước - trọng trồng lúa nước, nhằm tỏ lòng thành kính, chức tước). Tập quán trọng lão qua hương biết ơn đối với những người có công lập ước còn được thể hiện dưới nhiều hình làng, đánh giặc (các vị nhân thần), các vị thức khác nhau. Ở một số làng của Nam Tiên hiền để cầu cho mọi sự an lành, mùa Định, Thái Bình, hương ước quy định màng được phong đăng hòa cốc. Theo quy trích một phần ruộng đất công làng xã để định của hương ước, Giáp, hội Tư văn, làm cỗ yến cho các cụ lên lão (ruộng yến hội Lão sẽ đảm trách chủ trì các tiết lễ lão), hoặc khi các cụ bước vào tuổi này, tuy nhiên mức độ chủ trì nhiều hay ít thượng thọ (độ tuổi 60, 70), thượng tiết lễ lại phụ thuộc quy định của mỗi thượng thọ (80, 90 tuổi), làng trích tiền làng. Chẳng hạn theo quy định của làng quỹ để mua tặng các cụ mũ, áo vóc, gấm. Đào Lang (Nam Định), một năm làng có 8 Hương ước làng Tử Vi (Bắc Ninh) còn kỳ tiết lễ, trong đó 5 tiết lễ được bổ về 8 Giáp còn 3 tiết lễ: Kỳ phúc (tháng 2), cho biết làng có một cái “sập sỉ”, cái sập Thượng điền (tháng 7) và Tế mã (tháng này chỉ dành cho những ai nhiều tuổi nhất 12) do cả Giáp đứng ra tổ chức. Riêng kỳ trong làng mới được ngồi. Tuy nhiên, để tế Xuân - Thu thờ Đức Khổng Tử cùng được ngồi trên sập, viên Hương lão phải các bậc tiên hiền do hội Tư văn đứng ra sửa lễ để vọng dân trong làng gồm: 100 điều hành nghi lễ. phẩm oản, 200 quả chuối, 200 khẩu giầu, Việc tế lễ là sinh hoạt tín ngưỡng rất 2 chai rượu, và sau đó phải mua thứ gì quan trọng đối với thành viên trong làng đáng giá 10 đồng bạc để cung tiến dân. xã, do vậy công việc chuẩn bị cho kỳ tế lễ Rõ ràng khi trở thành thành viên của hội được các làng rất coi trọng để cho sự tế lễ Lão là họ có được sự kính trọng của nhân diễn ra long trọng, đặc biệt là việc sửa dân, sự kính trọng đó không chỉ về mặt biện lễ vật. Việc sắm lễ của Giáp chủ yếu tinh thần mà còn thể hiện qua những ưu lấy từ hoa lợi phần ruộng công của làng đãi vật chất mà dân làng dành cho họ. giao cho các Giáp cày cấy, hoặc trích từ 69
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7(104) - 2016 tiền công quỹ của Giáp do các thành viên Thánh hiền. Một số làng gọi đây là hội trong Giáp thay phiên nhau đảm trách. Tước sỉ (làng Đại Tài). Nhưng thực tế một Nhưng vào kỳ lễ đặc biệt quan trọng của số làng tiết Xuân - Thu tổ chức vào ngày năm như đêm 30 tết Nguyên đán hoặc Tết chính đinh (tức 15 tháng 2 và 15 tháng 9) Thượng Nguyên viên Trưởng giáp phải như làng Yên Lãng (Bắc Ninh), hoặc vào trực tiếp sửa biện lễ vật, hoặc phải có ngày 19 tháng 9 như xã Liên Xương (Bắc trách nhiệm kiểm tra các mâm lễ sao cho Giang), vào ngày 22 tháng 9 như xã Cung những lễ vật đem làm đồ tế phải luôn sạch Nhượng (Bắc Ninh). Trong kỳ tiết lễ, viên sẽ, tinh khiết: “Vào kỳ tế, thôn Giáp nào Trưởng hội đứng ra cắt đặt nhiệm vụ cho sửa lễ thì người Trưởng giáp phải trông thành viên của hội phục vụ tế lễ, gồm coi cho được tinh khiết, nếu sơ suất thì người sắm lễ, người giữ vai trò Chủ tế, phải phạt từ 2 hào đến 5 hào” [14, tr.34]. Bồi tế Trong đó Trùm Tư văn hoặc bất Trong buổi tế lễ, vị Chủ tế có vai trò cứ thành viên nào của hội đều có thể giữ rất quan trọng trong việc dẫn dắt buổi chức Chủ tế, quan trọng người đó phải là hành lễ diễn ra trang trọng, do đó ngôi người hiểu chữ nghĩa, có hiếu hạnh, phu Chủ tế được các làng lựa chọn kỹ lưỡng: phụ (chồng vợ) song toàn, không vướng phải là người có chức sắc phẩm hàm hơn nhất, hoặc là Chánh Phó hội, Chánh Phó bụi (không có đại tang). “Người ứng tế lý tân cựu, Tiên chỉ. Tuy nhiên, nếu làng phải chọn chức dịch đức thanh cao, am không có các hạng người này thì Trưởng hiểu lễ nghĩa. Người đọc chúc phải thông giáp sẽ làm Chủ tế. “Quyền Chủ tế sẽ giao văn tự” [25, tr.273]. cho người Trưởng giáp đương thứ được tế Buổi tế lễ Đức Thánh hiền thực chất văn” [2, tr.14], có độ tuổi từ 50 trở lên. cũng là một buổi lễ hội, là thời gian để Khi được giao nhiệm vụ, Chủ tế đến ngày thành viên trong làng bày tỏ lòng thành lễ không được vắng mặt, nếu cáo vắng kính của mình tới những bậc tiên hiền của phải có giấy cáo trước với Hương hội làng do hội Tư văn đứng ra hành lễ. Do hoặc khi tiến hành nghi thức tế lễ. Chủ tế đó hương ước quy định bắt buộc tất cả phải có thái độ trang nghiêm, mũ áo chỉnh những người đã có chân trong hội đều tề, nếu không sẽ bị phạt tiền. phải tham gia dự tế, mũ áo chỉnh tề, “nếu Hội Tư văn giữ vai trò đặc biệt quan người nào xem thường cho qua sẽ bắt phạt trọng trong đời sống tâm linh của làng xã gà rượu trị giá 3 mạch” [21, tr.154]. Việt Nam, điều hành nghi lễ các tiết lễ 4.2. Các tổ chức xã hội với việc tang liên quan đến Nho giáo, chủ yếu nhất là ma, cưới xin hoạt động tế lễ thờ Đức Khổng Tử cùng Theo tục lệ của làng xã đồng bằng Bắc các bậc tiên hiền (tế Xuân - Thu). Thông Bộ, khi gia đình ai đó trong làng có người thường kỳ tế Xuân Thu được tổ chức vào chết ngoài thủ tục phải tường trình cho tháng 2 và tháng 8 hàng năm, diễn ra tại chức dịch hàng xã gồm Hương hội, Lý Văn chỉ của làng nhằm tôn vinh, ca ngợi dịch biết để kê khai sổ tử, ngày đưa tang, những người đỗ đạt theo nghiệp sách tang chủ phải nộp một số tiền gọi là “lệ 70
- Vũ Duy Mền, Trịnh Thị Hà tang” cho làng, thông thường lệ ấy được cần gia chủ biện giầu nước thôi”. Song chia thành 3 hoặc 4 hạng, thậm chí 9 hạng nếu gia đình tang chủ giấu Giáp, giấu làng như làng Quần Phương Đông (Nam Định) không trình báo thì sẽ bị phạt: “Bị khoán [7], mỗi hạng một mức tiền cụ thể để làng nặng mà không được ba đồng bạc giúp đỡ phân bổ người đi tống táng, đô tùy, trống nữa” [5, tr.14]. cờ phù hợp. Tuy nhiên, nhiều hương ước Đối với việc hiếu trong làng, hội Tư quy định việc “tống tử” thuộc về trách văn, hội Lão cũng có vai trò rất quan nhiệm của Giáp, do đó bắt buộc tất cả các trọng về mặt tinh thần trong việc giám thành viên trong Giáp đủ 18 tuổi trở lên sát các lễ thức diễn ra theo đúng tập phải đi hộ táng, nếu không đi sẽ phải nộp quán truyền thống coi trọng tước xỉ của tiền phạt sung vào quỹ Giáp (như làng làng. Thậm chí, việc mời Tư văn trợ tế, Cao Mỗ bắt phạt 2 hào). Để mời Giáp mời ban Hương lão tham dự khi cha mẹ đứng ra lo việc hậu sự, gia đình tang chủ mất còn thể hiện lòng báo hiếu của phải có lời mời kèm lễ vật (gồm trầu, cau) người con như ghi nhận của Tục lệ thôn dâng lên Giáp, đóng tiền lệ táng để Giáp Uy Nghi xã Đồng Xá (Hưng Yên): cắt đặt đồ nghi, người đi tống táng, mức “Trong thôn, nhà nào có bố hoặc mẹ bị đóng lệ tang cao hay thấp tùy gia đình mất thì trước hết phải tường trình lên tang chủ lựa chọn. Theo quy định của người giữ trước bạ. Người nào muốn Hương ước làng Vân Quán (Phúc Yên) báo ân phải mời các bậc Kỳ lão chức soạn năm 1925, hạng thượng lệ nộp 15 dịch trong thôn cắt cử mọi người đưa đồng: 4 người chấp hiệu (được cắt ba bàn tiễn” [25, tr.268]. Song gia đình tang tử Giáp) 64 người đô tùy (cắt vào Giáp, tự chủ cũng phải biện sửa lễ vật một cách 18 tuổi đến 30 tuổi, được đi đòn đại dư, 1 cẩn trọng: “Trong thôn nhà nào có cha cỗ linh xa, 1 cái án tiếu, 1 cái minh sinh, 1 hoặc mẹ bị mất muốn báo ân mà mời Tư chiêng, 1 trống cái); hạng trung lệ nộp 10 văn đến trợ lễ thì phải sắm sửa một con đồng, có 1 người chấp hiệu 24 người đô lợn 20 cân luộc chín (không kể nội tân), tùy, đi đưa một cỗ tiểu dư, 1 cái linh, 1 xôi 20 cân, trầu cau 100 miếng, rượu 3 cái minh sinh; hạng hạ lệ nộp 5 đồng, có 1 chai, cơm rau đủ dùng” [25, tr.267]. người chấp hiệu 16 người đô tùy, còn tang Đối với việc cưới xin, thành viên của nghị cũng như hạng trung [18, tr.15]. Quy Giáp, hội Tư văn, hội Lão sẽ cùng với bậc định như vậy, nhưng thực tế việc áp dụng chức sắc trong làng bàn định, chủ yếu là trong một số làng rất linh hoạt khi Hương việc thu tiền cheo cưới. Điều 5 Khoán lệ ước cho miễn trừ việc đóng lệ tang đối giáp Tây thôn Thục Cầu (xã Thục Cầu với gia đình hiếu chủ có gia cảnh khó tổng Đồng Xá huyện Văn Lâm, Hưng khăn, thậm chí những gia đình này sẽ Yên) lập năm Duy Tân 9 (1915) quy định: được Giáp giúp đỡ cả về vật chất lẫn tinh “Người nào trong Giáp có con gái lấy thần. “Hàng Giáp sẽ trích tiền công của chồng ngoài làng bản Giáp quy định thu Giáp ba đồng, khi mời Giáp đi đưa chỉ lan giai 1 kiện mâm đồng nặng 3 kén, 71
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7(104) - 2016 người nào lấy chồng trong làng thì thu đồng (làng Hạ Bái). Còn viên Trưởng tiền lan giai 5 hào” [25, tr.197]. giáp tham gia thu hộ thì không được phụ 4.3. Một số vai trò khác của các tổ cấp gì. Tuy nhiên, Hương ước làng Hạ chức xã hội Bái cho biết Lý trưởng trích một phần phụ Ngoài hai vai trò rất quan trọng trong cấp của mình để trả công cho viên Trưởng đời sống xã hội, văn hóa tín ngưỡng trong giáp, mỗi suất mẫu 0,01 đồng. Như vậy, làng xã, Giáp, hội Tư văn, hội Lão còn có tuy rất ít hương ước quy định trách nhiệm vai trò riêng. của Giáp trong việc thu thuế nhưng qua - Trong việc thu thuế, quân cấp ruộng đó đã thể hiện phần nào chính sách ràng đất cho thành viên trong Giáp buộc và muốn can thiệp sâu của chính Từ sau cuộc Cải lương Hương chính, quyền thực dân tới đời sống của cộng vai trò thay đổi lớn nhất của Giáp chính là đồng làng xã. Việc phân bổ trách nhiệm ở chỗ, Giáp bị lôi cuốn vào việc thu thuế thu thuế của các Giáp đinh đã từng bước của các thành viên trong Giáp (vốn thuế là làm cho Trưởng giáp dần trở thành trợ thủ nhiệm vụ của Lý trưởng và Phó lý). đắc lực cho Lý trưởng. Hương ước làng Mộ Trạch (Hải Dương), Ngoài ra, Giáp còn thực hiện trách làng Hạ Bái, Thuyền Quan (Thái Bình), nhiệm quân cấp công điền cho Giáp đinh, làng Khương Thượng (Hà Nội), làng Ỷ La cắt đặt thành viên trong Giáp luân phiên (Hà Đông) đều cho biết, việc thu sưu đi tuần canh trong làng, đây vốn là trách thuế trong làng chủ yếu do Lý trưởng đảm nhiệm của ban chức dịch hương lý làng, trách, nhưng khi về làng Lý trưởng lại xã. Theo quy định Hương ước của làng phân bổ về cho các Thôn, Giáp. Giáp Nhật Tân (Hà Nội), Quần Liêu (Nam trưởng có trách nhiệm kê khai số đinh, rồi Định) trên cơ sở xác định cụ thể số đinh căn cứ vào mức đóng của từng hộ đinh được nhận phần quân cấp, Trưởng giáp trong Giáp để biên thu, nộp lại cho Lý nhận phần đất hoặc tham gia gắp thăm để trưởng để Lý trưởng đệ nộp lên trên. lấy phần đất đem về chia cho các thành Hương ước làng Ỷ La (Hà Đông) soạn viên: “Nguyên tục lệ của làng ta chia làm năm 1915 quy định: “sau khi Lý trưởng 36 phần trong dân, chia làm 7 Giáp, tùy lĩnh bài chỉ về thời phải thông báo cho Giáp nhớn nhỏ nhận phần nhiều hay ít, có Hội đồng Tộc biểu, các Giáp, Trưởng gia Giáp nhận 7 phần, có Giáp nhận 5 phần, đình chiểu bổ cho đúng số Giáp nào có Giáp nhận 3 phần, có Giáp nhận 2 đinh số bao nhiêu Giáp trưởng phải kê phần” [10, tr.23]. khai để đồng dân chiểu tính cho minh - Trong thiết chế chính trị của làng bạch” [18, tr.533]. Nếu Giáp đinh nào nộp Trong đời sống chính trị, văn hóa xã thuế không đủ, hoặc không đủ khả năng hội của làng xã, thành viên của Giáp, hội nộp hết suất thuế, thì Lý trưởng sẽ bắt Tư văn, hội Lão cũng có vai trò rất quan phạt Giáp đó trong việc trích tiền công trọng khi cùng ban chức dịch, Hương lý quỹ của Giáp để đền bồi phần thuế thiếu. tham gia cầm trịch việc hội họp đình Trong kỳ thu thuế, chỉ có Lý trưởng trung, hương ẩm để bàn bạc, đưa ra các mới được nhận phụ cấp, với mức 0,05 quyết định về công việc quan trọng của 72
- Vũ Duy Mền, Trịnh Thị Hà làng, chủ yếu là việc kiến trúc (xây dựng, viên, cơ cấu vận hành và vai trò riêng trên sửa chữa các công trình đền, chùa, miếu, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất đường sá, cầu cống), cũng như tham gia là trong đời sống văn hóa tâm linh, từ đó vào việc khuyến học ở làng. Thậm chí, tạo nên tính đa dạng, sinh động nhưng khá thành viên hội Tư văn còn tham gia vào phức tạp trong đời sống làng quê sau lũy bộ máy quản lý làng xã, giữ chức Xã tre làng. trưởng (Lý trưởng), Khán thủ, Trương Qua quy định của hương ước, Giáp vẫn tuần nhưng phải đóng một khoản tiền nhất là tổ chức xã hội tập hợp người theo lớp định cho làng, đồng thời chuẩn bị một lễ tuổi kết hợp có thể có quan hệ huyết vọng (gồm lợn, xôi, rượu, trầu) để vọng thống của nam giới, tuy nhiên Giáp trong trong hội. Tục lệ thôn An Xá, xã Giai giai đoạn đó, đôi khi không chỉ là tập hợp Phạm, huyện Văn Giang, Hưng Yên, lập người cùng huyết thống của một dòng họ, năm Khải Định thứ 4 (1919) quy định: mà đã gồm đại diện của nhiều dòng tộc “Trong hội Tư văn có người nào làm Xã trong làng xã. Điều đó là khá phù hợp với trưởng thì phải nộp cho bản thôn 13 quan mục đích khơi dậy sức sống và vai trò của tiền, lễ vọng 1 con lợn, 1 mâm xôi, 1 chai quan hệ tộc họ ở làng xã trong việc tăng rượu, 50 miếng trầu nhỏ” [25, tr.94]. cường ảnh hưởng của chính quyền thực Như vậy qua hương ước có thể thấy, dân vào việc quản lý nông thôn. Vai trò Giáp, hội Tư văn, hội Lão có vai trò rất của Giáp được hương ước phản ánh trên quan trọng trong đời sống tín ngưỡng của nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, hoạt động cộng đồng dân cư làng xã đồng bằng Bắc tín ngưỡng của làng xã: tham gia chủ trì Bộ Việt Nam, chủ yếu vẫn là việc “phù các tiết lễ của làng, thực hiện trách nhiệm sinh tống tử”, đứng ra đăng cai các lễ tiết “phù sinh tống tử”, thu thuế các Giáp chính trong năm như lễ giao thừa đón năm đinh, quân cấp công điền công thổ, canh mới, lễ Nguyên tiêu, Kỳ phúc, lễ Hạ điền, phòng So với làng xã truyền thống trước Thượng điền, Thường tân (cơm mới), đây, vai trò của Giáp trong nửa đầu thế kỷ mừng thọ, giỗ hậu, kỳ tế Xuân - Thu XX vừa có sự kế thừa, vừa có điểm khác 5. Một vài nhận xét biệt, biểu hiện cụ thể nhất là vai trò “phù Việc dẫn ra những điều quy định trên sinh tống tử”, thu thuế. Nếu trong xã hội về các tổ chức xã hội của một số làng xã trước đây, Giáp hoàn toàn chủ động việc khu vực Bắc Bộ được ghi trong hương thu chi lệ tang, tiền cheo cưới cho cả mọi ước cho thấy: cho đến nửa đầu thế kỷ XX, thành viên trong làng, thì trong hương trong kết cấu làng Việt, người nông dân ước Cải lương, Giáp chỉ có trách nhiệm đã hợp lại và có quan hệ với nhau trong đối với thành viên trong Giáp, và chỉ tham nhiều tổ chức xã hội, tiêu biểu là tổ chức gia khi có mệnh lệnh của ban Hương hội Giáp, hội Tư văn và hội Lão, để cùng gắn trong việc cắt đặt đồ nghi tùy táng, người kết và thực hiện những nguyên tắc của trợ táng theo “hạng tiền” người dân đã cộng đồng nhằm đảm bảo thuần phong, đóng góp cho làng. Bên cạnh đó, hương mỹ tục của làng xã. Mỗi một tổ chức xã ước một số làng quy định khá cụ thể trách hội này lại có tiêu chuẩn xét nhận thành nhiệm của Giáp trong việc thay mặt Lý 73
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7(104) - 2016 trưởng kê khai nhân đinh trong Giáp, thu văn có tác động sâu sắc đến đời sống tâm thuế thành viên Giáp rồi nộp cho Lý linh trong việc tuyên truyền và củng cố ý trưởng. Vai trò này vốn không phổ biến thức hệ Nho giáo, góp phần ổn định xã trong xã hội trước đây đã cho thấy chức hội cấp cơ sở theo một trật tự nhất định, dịch làng xã muốn lợi dụng khai thác triệt thì hoạt động vai trò của hội Lão lại giúp để Giáp trong việc kiểm soát chặt chẽ chúng ta nhận thức được giá trị tốt đẹp, nhân đinh để không bỏ sót nguồn thu thuế nhân văn trong truyền thống trọng lão nào cho chính quyền thực dân. Mặc dù của dân tộc ta. chính quyền thực dân đã tác động ít nhiều Tuy nhiên, cũng như quy định đối với đến cơ cấu, vai trò hoạt động của Giáp, Giáp, những quy định chặt chẽ về lệ vọng nhưng qua Hương ước Cải lương chúng ta vào hội Tư văn, vọng Lão, lệ mua ngôi Tư vẫn thấy có sự coi trọng nếp sống và tập văn, đặc biệt quy định về quyền lợi, vị quán sinh hoạt trong đời sống tâm linh khi thứ, bàn ngồi, chỗ ngồi của Tư văn, hội Giáp vẫn giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ của các bậc lão, đã phần nào thể hiện một chức các tiết lễ của làng. Dù có điểm cách chân thực, sinh động về trật tự đẳng chung hay riêng, nhưng rõ ràng Giáp cùng cấp trong xã hội phong kiến. Người có với bộ máy làng xã, các tổ chức xã hội ngôi thứ cao không chỉ được mọi người khác luôn thể hiện được vai trò duy trì sự kính nể, tôn trọng mà còn được hưởng tự quản, tự trị của làng xã, đảm bảo sự tồn những quyền lợi vật chất thiết thực. Chính tại bền vững của làng xã trước mọi biến vì vậy với tâm lý “một miếng giữa làng cố xã hội. hơn một sàng xó bếp” đã ăn sâu vào nếp Khác với Giáp, hội Tư văn, hội Lão lại nghĩ của người dân khi họ thực sự rất coi là hai tổ chức xã hội tập hợp theo mục trọng danh dự, địa vị của mình trong làng đích tự nguyện, trong đó hội Tư văn là xã. Người ta coi trọng miếng ăn ở chốn một tổ chức xã hội được nhóm họp bởi đình trung không phải vì tham ăn uống các Nho sĩ, những người có học, biết chữ mà là vì đẳng cấp xã hội, ngôi đình đồng nhằm thực hiện các nghi thức tế lễ tại nghĩa với sắp xếp trật tự xã hội của làng. Văn từ đề cao Khổng Tử cùng các bậc 6. Kết luận tiên hiền nơi làng xã. Còn hội Lão Giáp, hội Tư văn, hội Lão là những tổ (Hương lão), một tổ chức xã hội gồm các chức xã hội riêng biệt nhưng xét về mối bậc cao niên trong làng, nhóm họp lại với quan hệ xã hội lại có sự gắn kết với nhau, nhau nhằm giúp đỡ nhau khi có việc. sự gắn kết đó thông qua vai trò trung gian Mặc dù rất ít hương ước có điều khoản là những quy định mang tính áp đặt của quy định cụ thể về hội Tư văn và hội Lão hương ước. Mặc dù các quy định đó có (chủ yếu hoạt động, vai trò của hội Tư thể được nhìn nhận là tiến bộ hay lạc hậu văn, hội Lão được phản ánh qua các điều nhưng đặt trong bối cảnh xã hội nửa đầu khoản liên quan đến mục Lễ nghi của thế kỷ XX, các quy định của hương ước làng), nhưng vai trò của hai tổ chức xã đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao hội tự nguyện này đến đời sống làng quê trách nhiệm của các tổ chức xã hội đối với vẫn được thể hiện rất cụ thể. Nếu hội Tư cộng đồng. Đây chính là chức năng quản 74
- Vũ Duy Mền, Trịnh Thị Hà lý của hương ước, Thông qua việc đề ra [12] Hương ước làng Quần Phương Đông, tổng các điều khoản quy định về đối tượng, Quần Phương, huyện Hải Hậu, Nam Định, điều kiện gia nhập, quy định về vai trò soạn năm 1938, ký hiệu 2066. hoạt động của Giáp, hội Tư văn, hội Lão, [13] Hương ước làng Tam Tảo, tổng An Phú, nhất là điều khoản xử phạt khi thành viên huyện Yên Phong, Bắc Ninh, soạn năm của mỗi tổ chức xã hội này không thực 1941, ký hiệu 474. hiện tốt chức trách của mình, hương ước [14] Hương ước làng Thượng Đồng, tổng Thượng đã thể hiện rất rõ vai trò quản lý xã hội. Đồng, Huyện Ý Yên, Nam Định, soạn năm Tài liệu tham khảo 1942, ký hiệu 4615. [1] Hương ước làng Ân Phú, tổng Ân Phú, [15] Hương ước làng Vân Quán, huyện Yên huyện Yên Phong, Bắc Ninh, soạn năm Lãng, tỉnh Phúc Yên, soạn năm 1925, ký 1942, ký hiệu 419. hiệu 4921. [2] Hương ước làng Cao Mỗ, xã Cao Mỗ, phủ [16] Hương ước làng Vân Quán, huyện Yên Tiên Hưng, Thái Bình, soạn năm 1936, ký Lãng, tỉnh Phúc Yên, soạn năm 1941, ký hiệu 3176. hiệu 4938. [3] Hương ước làng Cổ Trai, tổng Duyên Hà, [17] Hương ước làng Vân Điềm, tổng Hà Lỗ, phủ Từ huyện Duyên Hà, tỉnh Thái Bình, soạn năm Sơn, Bắc Ninh, soạn năm 1942, ký hiệu 394. 1942, ký hiệu 2852. [18] Hương ước làng Ỷ La, tổng La Nội, phủ Hoài [4] Hương ước làng Đại Tài, tổng Xuân Cầu, Đức, tỉnh Hà Đông, lập năm 1915, ký hiệu 553. huyện Văn Giang, Bắc Ninh, soạn năm 1941, [19] Hương ước làng Yên Lãng, tổng Dũng Liệt, ký hiệu 402. huyện Yên Phong, Bắc Ninh, soạn năm [5] Hương ước làng Đôn Nông, tổng Canh 1942, ký hiệu 441. Nông, huyện Duyên Hà, Thái Bình, soạn năm 1936, ký hiệu 2860. [20] Hương ước thôn Cự Trình, xã Hội Phụ, tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh, soạn năm [6] Hương ước làng Đỗ Quan, tổng 1942, ký hiệu 375. Duyên Hưng, huyện Nam Trực, Nam Định, soạn năm 1942, ký hiệu 2211. [21] Hương ước xã Đa Ngưu, tổng Đa Ngưu, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, soạn năm [7] Hương ước làng Kim Thiều, tổng Nghĩa Lập, phủ Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh, soạn năm 1936, 1942, ký hiệu 398. ký hiệu 382. [22] Hương ước xã Hạ Bái, tổng Thượng Bái, [8] Hương ước làng Khê Ngoại, tổng Thạch Đà, huyện Duyên Hà, Thái Bình, soạn năm 1942, phủ Yên Lãng, Phúc Yên, soạn năm 1942, ký hiệu 2867. ký hiệu 4925. [23] Hương ước xã Lịch Động, tổng Đông Động, [9] Hương ước làng Nho Lâm, tổng Tân An, phủ Tiền phủ Thái Ninh, Thái Bình, soạn năm 1936, Hải, Thái Bình, soạn năm 1932, ký hiệu 3226. ký hiệu 3094. [10] Hương ước làng Nhật Tân, huyện Hoàn Long, [24] Khoán lệ giáp Tây thôn Thục Cầu, xã Thục Cầu, tỉnh Hà Đông, soạn năm 1921, ký hiệu 566. tổng Đồng Xá, huyện Văn Lâm, Hưng Yên, lập [11] Hương ước làng Phả Lại, tổng Đào Viên, ngày 15 tháng 1 năm Duy Tân 9 (1915). huyện Quế Dương, Bắc Ninh, soạn năm [25] Nguyễn Tá Nhí (Chủ biên) (2013), Hương 1935, ký hiệu 348. ước cổ Hưng Yên, Nxb Thời Đại, Hà Nội. 75
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7(104) - 2016 76