Giáo trình Kỹ năng dạy trẻ - Bài 9: Khả năng giao tiếp phi ngôn ngữ ở bé 0 – 1 tuổi
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Kỹ năng dạy trẻ - Bài 9: Khả năng giao tiếp phi ngôn ngữ ở bé 0 – 1 tuổi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_ky_nang_day_tre_bai_9_kha_nang_giao_tiep_phi_ngon.pdf
Nội dung text: Giáo trình Kỹ năng dạy trẻ - Bài 9: Khả năng giao tiếp phi ngôn ngữ ở bé 0 – 1 tuổi
- Khả năng giao tiếp phi ngôn ngữ ở bé 0 – 1 tuổi
- Khi chưa biết nói, khả năng giao tiếp phi ngôn ngữ ở bé 0 – 1 tuổi sẽ giúp mẹ hiểu được về bé, về những điều bé cần: nét mặt vui, buồn; khóc; cử động đầu và cơ thể; cử động tay, chân và giao tiếp bằng ánh mắt Giao tiếp không lời Trẻ có thể dùng phương thức giao tiếp không lời để chuyển tải suy nghĩ và cảm xúc đến bạn. Đây là một dạng thức quan trọng của quá trình giao tiếp. Cụ thể, trẻ giao tiếp thông qua nét mặt và nụ cười. Tuy nhiên, trước khi biết cười, trẻ có thể tiếp xúc bằng mắt, quan sát mọi thứ trong tầm nhìn của mình. Ví dụ, trẻ có thể thể hiện sự no nê bằng cách không chịu ăn và biểu hiện sự căng thẳng hoặc nghỉ ngơi bằng cách thay đổi trương lực cơ. Mặc dù, trẻ chưa thể hiểu ý nghĩa những điều bạn nói và không thể tham gia vào câu chuyện cùng với bạn, nhưng trẻ hiểu được những dấu hiệu không lời đi kèm như: âm thanh dịu dàng của giọng nói, hay cách bạn bế trẻ khi nói chuyện. Trẻ đáp lại những điều này theo cách riêng, có thể bằng cách nhìn chăm chú vào khuôn mặt bạn, hoặc cười đáp lại và phát ra những tiếng thủ thỉ nhẹ nhàng để biểu hiện cảm xúc.
- Khả năng giao tiếp phi ngôn ngữ ở bé 0 - 1 tuổi sẽ giúp mẹ hiểu được về bé, về những điều bé cần Ngôn ngữ cơ thể Khi kiểm soát được các chi trên, trẻ có thể biểu hiện những cử chỉ có ý nghĩa bằng hai tay. Trẻ đưa hai tay về phía bạn là một cách mạnh mẽ để thu hút sự chú ý của bạn, hoặc ném đồ vật đi để thể hiện sự buồn chán, bực tức. Trẻ em rất giỏi dùng ngôn ngữ cơ thể để biểu lộ ác cảm và những cảm xúc tiêu cực. Khi giận, bé thể hiện rất rõ bằng nét mặt và cử chỉ từ chối mạnh mẽ. Nếu trẻ quá khó chịu, trẻ có thể khóc toáng lên và giãy giụa liên tục Bắt chước cũng là một hình thức ngôn ngữ cơ thể, giúp trẻ trao đổi và tương tác với người khác. Trẻ thường có những hành động bắt chước người lớn, nhưng đôi khi cha mẹ cũng bắt chước cử động và hành vi của trẻ để tương tác
- với trẻ một cách hiệu quả hơn. Đây được xem là quá trình tương tác rất hiệu quả. Bắt chước nhanh chóng trở thành trò chơi tương hỗ, trò chơi ú òa là một điển hình. Đến 1 tuổi, trẻ thường diễn đạt bằng điệu bộ như: đưa tay lên tai và bi bô nói chuyện. Chúng tưởng tượng đó là chiếc điện thoại dùng để trao đổi thông tin với người khác Chúng ta dễ nhận biết được ngôn ngữ cơ thể của trẻ thông qua cách vẫy tay tạm biệt và hôn vào má mẹ, hoặc chỉ tay về đồ vật mà trẻ thích Những cử chỉ, điệu bộ này giúp trẻ chuyển tải thông tin nhiều hơn so với lời nói. Và đây được xem là một dạng ngôn ngữ tinh vi. Ngôn ngữ dấu hiệu Trẻ có thể được dạy những kỹ năng về ngôn ngữ biểu hiện ngay từ lúc 6 – 8 tháng tuổi và qua các dấu hiệu này, trẻ thể hiện những nhu cầu của mình. Ngôn ngữ dấu hiệu giúp trẻ thể hiện những ý tưởng và khuyến khích khả năng giao tiếp của trẻ. Tuy nhiên, ngôn ngữ nói cũng có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống của trẻ. Trước khi nói được, trẻ thường phát ra những âm bập bẹ, vì thế bạn nên kết hợp tất cả các loại ngôn ngữ ở trẻ, giúp trẻ phát triển toàn diện về khả năng ngôn ngữ. Điều kiện tiên quyết để trẻ phát triển khả năng này là bạn dành nhiều thời gian để giao tiếp cùng trẻ và tạo cho trẻ có các cơ hội để thể hiện những khả năng ấy. Tìm hiểu về sự giao tiếp phi ngôn ngữ của bé từ 0 đến 3 tháng tuổi 04-02-2013
- Ngay từ lúc mới chào đời, cho dù chưa thể nói ra thành lời nhưng bé đã có khả năng giao tiếp. Bé sẽ cảm nhận những lời nói, nét mặt, cử chỉ, điệu bộ của những người xung quanh, quá trình trải nghiệm sẽ giúp bé đoán biết được ‘người đối diện’ đang muốn nói gì. Bé sẽ đáp lại những sự tương tác của mọi người, với những điều mà bé cảm nhận được bằng ngôn ngữ của cơ thể và cả những âm thanh cơ bản: tiếng khóc, cười Trẻ giao tiếp thông qua tiếng khóc Trong khoảng 2 tuần đầu sau khi sinh, khóc là cách chủ yếu mà trẻ biểu lộ nhu cầu của mình. Tiếng khóc của trẻ rất hiệu quả, bởi khi cha mẹ nghe thấy tiếng con khóc thì ngay lập tức họ sẽ dỗ dành trẻ và tìm ra nhu cầu của trẻ để đáp ứng. Lúc này, trẻ còn sử dụng ngôn ngữ của cơ thể. Chẳng hạn như duỗi tay hay ưỡn người ra, vặn vẹo người. Ngoài ra, bé còn dùng cách biểu lộ ở nét mặt như chớp mắt, nhăn mặt, và những biểu hiện này của bé ngày càng hấp dẫn và có biểu cảm hơn.
- Ngay từ lúc mới sinh, trẻ đã biết cách giao tiếp cho dù chưa nói ra thành lời. Trẻ giao tiếp thông qua nụ cười Bé biết cười, nụ cười thực sự khi trẻ được khoảng 6 tuần tuổi. Tuy rằng trước đó, bé đã có nhiều kiểu biểu hiện ở mặt tương tự như mỉm cười, trong tâm lý học gọi hiện tượng đó là “phức cảm hớn hở”. Có khi trẻ biểu lộ nụ cười này quá nhanh nên bạn có cảm giác như là trẻ đang bị ợ. Tuy nhiên, lúc được khoảng 6 tuần tuổi, bé sẽ biết cười thực sự, bởi đi cùng với nụ cười là sự rạng rỡ trong ánh mắt. Nếu lúc này bạn cười lại với trẻ thì trẻ sẽ cười to hơn và tỏ ra thích thú kèm theo khua tay khua chân loạn xạ. Không ai biết được chắc chắn điều gì khiến bé bắt đầu cười. Bé sẽ cười khi thấy biểu hiện nét mặt của cha mẹ, song không phải hoàn toàn như vậy, những em bé bị mù bẩm sinh cũng biết cười. Trò chuyện với trẻ
- Thông thường cha mẹ hay lên giọng khi trò chuyện với trẻ, đồng thời cũng cố gắng diễn tả ý thật đơn giản để bé có thể hiểu được một cách dễ dàng. Ngôn ngữ sẽ rất hữu ích trong giai đoạn này, do đó nó có thể giúp bé học được nhiều âm thanh khác nhau trong cách diễn đạt. Bé cũng rất thích những âm thanh gù gù êm ái hoặc các âm thanh hơi nhấn nhá trong giọng của cha mẹ khi nựng trẻ. Trẻ trò chuyện với bạn Bé cũng tròn miệng hay mấp máy môi để “trả lời” khi bạn nói chuyện với bé. Khi được gần 8 tuần tuổi, bé đã biết “hỏi và đáp” trong nhiều tình huống. Không bao lâu sau trẻ có thể phát ra các âm thanh riêng biệt của mình để trả lời bạn. Bạn và bé sẽ thay phiên nhau trò chuyện. Quá trình này diễn ra ngay từ ngày đầu sau khi bé mới sinh, và ngày càng thể hiện rõ rệt hơn. Khi bạn trò chuyện với bé, bé sẽ yên lặng và lắng nghe Khi bạn ngưng nói, bé sẽ phát ra âm thanh “ư ử” và ngọ nguậy cơ thể. Trong tình huống đó, nếu bạn không đáp ứng lại có thể sẽ khiến cho bé hơi bối rối, mất hứng, thậm chí còn khóc nữa. Những kĩ năng chuẩn bị tập nói của trẻ Ngay cả khi bé mới được 12 tuần tuổi, bé có thể “học lỏm” để hiểu được ý nghĩa của âm thanh. Khả năng bắt chước này là do thiên phú bẩm sinh. Bé cũng có thể học bằng các ví dụ mẫu nữa, vì vậy trò chuyện với bé càng nhiều bao nhiêu thì khả năng phát triển ngôn ngữ của bé càng tốt bấy nhiêu.
- Cần có thêm thời gian nữa thì bé mới biết chính xác lúc trò chuyện, song điều này không quan trọng lắm, khả năng cảm nhận ngôn ngữ luôn phát triển trước khả năng diễn tả ngôn ngữ. Nói cách khác, bé sẽ hiểu trước khi biết nói. Những âm thanh đầu tiên Những âm thanh mà bé phát ra đầu tiên đó là những nguyên âm, chẳng hạn như “a”, “e”, “u”, “o”. Khi được 7 tuần tuổi trở về sau, bé thực sự đã nói được rõ các nguyên âm này. Tuy phát triển được nhiều âm thanh khác nhau, song bé thường chỉ thích một hay hai âm thôi, chẳng hạn hay âm “o” hay “a”. Bé cũng thích “gừ gừ” để tỏ ra thích thú. Khi được 12 tuần tuổi, bé bắt đầu nói được một vài phụ âm. Khi hài lòng, bé thường phát ra các phụ âm “g” hay “nh”, còn khi bực mình bé hay phát ra các phụ âm “b” hay “p”. Bạn nên gọi tên của bé để giúp bé dần hiểu được đó là tên của mình. Đồng thời, bạn nên hát cho bé nghe những bài đồng dao, hát ru tất cả đều giúp bé học được nhiều dạng ngôn ngữ khác nhau.