Giáo trình Lại bàn về thiết chế chính trị-Pháp lý thời Lê sơ - Trương Vinh Khang
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Lại bàn về thiết chế chính trị-Pháp lý thời Lê sơ - Trương Vinh Khang", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_lai_ban_ve_thiet_che_chinh_tri_phap_ly_thoi_le_so.pdf
Nội dung text: Giáo trình Lại bàn về thiết chế chính trị-Pháp lý thời Lê sơ - Trương Vinh Khang
- Tạp chí Khoa học xã hTRIội ViệtẾT Nam, - LU sốẬT 2(9 9- )TÂM - 2016 LÝ - XÃ HỘI HỌC Lại bàn về thiết chế chính trị - pháp lý thời Lê Sơ Trương Vĩnh Khang * Tóm tắt: Ở thời Lê Sơ, cách tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập quyền; cách thực hiện quyền lực nhà nước dựa trên cơ sở chế độ quan lại quan liêu chuyên nghiệp; Nhà nước đề cao pháp luật làm công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội sử dụng Nho giáo làm tư tưởng chính trị - pháp lý chính thống và sử dụng những quy định phi quan phương (lệ làng, luật tục) tham gia điều chỉnh các quan hệ xã hội. Các nội dung của thiết chế chính trị - pháp lý này đã tạo nên đặc trưng điển hình của thiết chế chính trị - pháp lý thời Lê Sơ. Từ khóa: Thiết chế chính trị - pháp lý; cải cách hành chính; thời Lê Sơ; Đại Việt. 1. Mở đầu các đặc trưng của thiết chế chính trị - pháp Đại Việt giai đoạn đầu thời Lê Sơ có lý thời Lê Sơ từ góc tiếp cận của khoa học nhiều biến động, đất nước lâm vào khủng pháp lý và lịch sử. Thông qua các đặc trưng hoảng về mọi phương diện. Ngay sau khi đó, có thể giải mã và phân biệt được thiết lên ngôi vua, Lê Thánh Tông đã tiến hành chế chính trị - pháp lý của các triều đại những cuộc cải cách quy mô lớn trên nhiều phong kiến Việt Nam trước và sau giai lĩnh vực như kinh tế, chính trị, xã hội, pháp đoạn 1428 - 1527.(*) luật, chế độ quan lại nhằm đưa đất nước 2. Thiết chế chính trị thoát khỏi khủng hoảng và phát triển đến Thiết chế chính trị thời Lê Sơ sau cải đỉnh cao của chế độ phong kiến tập quyền. cách hành chính của Lê Thánh Tông mang Công cuộc cải cách này được tiến hành đặc trưng điển hình của nhà nước quân chủ từng bước trong suốt 38 năm ông trị vì đất tập quyền quan liêu. Điều đó được thể hiện nước và đã tạo ra được một diện mạo cơ qua ba phương diện: mô hình nhà nước bản về thiết chế chính trị - pháp lý: mô hình quân chủ; cách thức tổ chức quyền lực nhà nhà nước thời Lê Sơ là chính thể quân chủ nước theo nguyên tắc tập quyền; thực hiện phong kiến, tổ chức bộ máy nhà nước là tập quyền lực nhà nước trên cơ sở chế độ quan quyền quan liêu và sau cùng pháp luật, tư lại quan liêu chuyên nghiệp. tưởng chính trị, các quy định phi quan Trong mô hình nhà nước quân chủ, phương (luật tục, lệ làng) đều cùng tham người đứng đầu nhà nước là nhà vua; nhà gia điều chỉnh các quan hệ xã hội. Chủ đề vua có quyền lực rất lớn (nắm trong tay cả thiết chế chính trị - pháp lý thời Lê Sơ đã quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, vua được tác giả đăng tải ở một số tạp chí trước là nguồn gốc của luật pháp, là người đại đây, nội dung đã phần nào luận giải và nhận diện cho Trời cai trị dân chúng). diện thiết chế chính trị - pháp lý thời Lê Sơ từ các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau. (*) Tiến sĩ, Viện Nhà nước và Pháp luật. Trong bài viết này, tác giả tiếp tục làm rõ ĐT: 0983217171. Email: truongvinhkhang@yahoo.com. 62
- Trương Vĩnh Khang Bộ máy nhà nước được tổ chức thành hai thế, nhà vua chính là vị chỉ huy tối cao của hệ thống: tổ chức chính quyền ở trung ương quân đội toàn quốc. và tổ chức chính quyền ở địa phương theo Năm 1460, cùng với việc đặt đủ Lục bộ, hướng tập trung toàn bộ quyền lực nhà nhà Lê lập ra Lục khoa (Trung thư khoa, Hải nước về trung ương. khoa, Đông khoa, Tây khoa, Nam khoa và Về tổ chức bộ máy nhà nước ở trung Bắc khoa) để giám sát hoạt động của sáu bộ, ương: các cơ quan nhà nước ở trung ương phối hợp thực hiện công việc và giám sát bao gồm cơ quan giúp việc có tính chất văn chéo với Ngự sử đài, nhất là trong các việc phòng; lục bộ; các cơ quan chuyên môn; tổ tuyển bổ, thăng giáng hay bãi miễn quan lại; chức quân đội; các cơ quan thanh tra giám thẩm tra hình ngục, xét xử các án kiện; tìm sát. Tất cả các cơ quan này được tổ chức hiểu, điều tra đời sống của nhân dân. theo hướng giúp việc cho nhà vua để nhà Ngự sử đài là cơ quan chịu trách nhiệm vua thực hiện quyền lực tối cao của mình. cao nhất và trực tiếp trước nhà vua. Trong Các cơ quan giúp việc cho nhà vua có một số lĩnh vực, Ngự sử đài chịu sự giám nhiệm vụ giúp vua soạn thảo các công văn, sát của Lục khoa, nhưng có quyền hạn và trông coi việc giấy tờ. Dưới triều Lê Thánh trách nhiệm rất lớn: trực tiếp can gián nhà Tông, có năm cơ quan giúp việc là: Hàn vua; tham gia luận bàn chính sự; tham gia vào việc tuyển bổ, khảo xét quan lại; thanh lâm viện, Đông các, Trung thư giám, Bí thư tra, giám sát và trực tiếp xét xử hình án. giám và Hoàng môn sảnh. Theo quan chế triều Lê, không có một cơ Lục bộ (Bộ Lại, Bộ Hộ, Bộ Lễ, Bộ Binh, quan nào có toàn quyền về xét xử hình án, Bộ Hình, Bộ Công) có vai trò quan trọng mà tồn tại một hệ thống các thẩm cấp. Ở hàng đầu, giúp vua trông coi việc nước và các cấp cơ sở, vị thẩm phán cao nhất chính thừa hành mọi công việc chủ yếu của nhà là viên quan đứng đầu địa phương. Việc xét nước [1, t.1, tr.576 - 577]. án chỉ là một trong những công việc hành Các cơ quan chuyên môn thời Lê Thánh chính mà viên quan đó phải đảm nhiệm. Tông chủ yếu bao gồm các giám, ty, viện Đến năm 1460, cùng với sự ra đời của Lục và sở có chức năng tư vấn, giúp việc cho bộ, Bộ Hình trở thành cơ quan chịu trách nhà vua quản trị các lĩnh vực giáo dục, y tế, nhiệm chung về pháp luật và hình án. Cơ xã hội, kinh tế, giao thông như: Quốc tử quan thứ hai có thẩm quyền xét xử hình án giám, Thông chính ty, Quốc sử viện và các là Ngự sử đài. Theo thủ tục thông thường, ở sở đồn điền nông nghiệp. trong kinh thành các án phải qua các cấp Quyền thống lĩnh toàn quân dưới triều xét xử là Đề lĩnh, Phủ doãn, còn ở ngoài Lê Thánh Tông thuộc về một hội đồng gồm các đạo phải qua các Thừa ty và Hiến ty rồi các tả, hữu đô đốc của Ngũ phủ. Ngoài Ngũ mới chuyển về Bộ Hình. Trong trường hợp phủ, nhà vua còn đặt thêm quân ở trong án bị kêu oan và khiếu nại, Ngự sử đài đem kinh thành (vệ binh hay cấm binh) và quân ra duyệt lại [10, tr.99]. địa phương ngoài các đạo. Vệ binh và quân Về tổ chức chính quyền địa phương: bộ các đạo không lệ thuộc trực tiếp và chỉ chịu máy chính quyền địa phương dưới được tổ sự thống lĩnh của Ngũ phủ về mặt nguyên chức thành các cấp đơn vị hành chính như tắc, còn trên thực tế các đơn vị này chịu cấp đạo (thừa tuyên), cấp phủ, cấp huyện - trách nhiệm cao nhất trước nhà vua. Như châu và cấp xã. 63
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(99) - 2016 Cấp đạo là cấp chính quyền địa phương nhanh nhẹn; cha con, anh em, chú bác, cậu trực thuộc trực tiếp chính quyền trung cháu ruột không được cùng làm xã trưởng. ương. Cấp chính quyền này được tổ chức Xã trưởng gồm các chức: xã chính, xã xử, theo hướng ngày càng bảo đảm sự chi phối xã tư. Theo sắc chỉ năm 1483, đại xã được mạnh mẽ của chính quyền trung ương. Vào biên chế 5 xã trưởng, trung xã có 4 xã năm 1464, chức quan hành khiển đứng đầu trưởng, tiểu xã có 1 hoặc 2 xã trưởng, trường cấp đạo đã được bãi bỏ và thay bằng ba hợp xã dưới 60 hộ thì biên chế 1 xã trưởng. chức quan của cơ quan gọi là Tam ty đảm Về thủ tục bầu xã trưởng, sau khi dân bầu trách ba quyền Binh, Chính, Hình độc lập xong, xã trưởng phải trình lên chính quyền với nhau. Việc phân lập các quyền hành cấp trên để chuẩn y [9, tr.89 - 97]. chính, tư pháp, giám sát ở cấp đạo nhằm Thực hiện quyền lực nhà nước trên cơ sở ngăn ngừa khuynh hướng cát cứ ở địa chế độ quan lại quan liêu chuyên nghiệp: phương và tăng cường quyền lực nhà nước khác với các triều đại trước, việc thực hiện về trung ương. quyền lực nhà nước sau cuộc cải cách hành Cấp phủ và huyện - châu là hai cấp hành chính của Lê Thánh Tông không chỉ giao chính trung gian được thành lập trong công cho giới quý tộc mà còn mở rộng cơ hội cuộc cải cách hành chính ở địa phương. cho dân chúng thông qua chế độ khoa cử. Theo đó, cấp phủ là đơn vị hành chính dưới Về tuyển chọn quan lại: nhằm thường cấp đạo. Chức năng chủ yếu của cấp phủ là xuyên bổ sung nhân sự cho bộ máy chính truyền lệnh từ trên xuống cho các huyện - quyền, triều Lê Sơ sử dụng ba phương thức châu, đôn đốc và kiểm tra việc thi hành tuyển chọn quan lại chủ yếu là nhiệm tử, lệnh, thu nộp thuế khóa, lao dịch và binh bảo cử và khoa cử. Nhờ kết hợp một cách dịch. Cấp huyện và châu là hai đơn vị hành hợp lý, luôn đề cao tính nghiêm minh và sự chính tương đương. Cấp huyện để gọi các công bằng trong các hình thức tuyển chọn, đơn vị hành chính dưới cấp phủ ở đồng đặc biệt chú trọng khoa cử, triều Lê Sơ bằng, còn cấp châu là đơn vị hành chính trong 100 năm tồn tại đã xây dựng được dưới cấp phủ ở miền núi. Đứng đầu cấp một đội ngũ quan lại đông đảo, có đủ năng huyện là quan tri huyện, đứng đầu cấp châu lực và phẩm chất đáp ứng yêu cầu cao của là quan tri châu đều tòng thất phẩm. Chức công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. năng chính của các quan huyện - châu, theo Về chế độ bổ dụng quan lại: trên cơ sở sắc dụ năm 1471, là trông nom đê điều và tuyển chọn, triều Lê Sơ ban hành nhiều quy khuyến khích dân phát triển nông nghiệp, định liên quan việc chọn bổ, thăng giáng, mở rộng canh tác, làm thuỷ lợi, chấn chỉnh thuyên chuyển các chức quan, tạo nên chế phong tục, làm hưng lợi cho dân. độ bổ dụng quan lại. Đến thời Lê Thánh Cấp xã là cấp chính quyền cơ sở. Sau Tông, năm 1467, nhà vua ra sắc lệnh quy cuộc cải cách hành chính, cấp xã đã được định: những người đỗ hai, ba trường trong củng cố và hoàn thiện. Xã được chia thành các kỳ thi Hội được bổ làm thuộc lại của 3 loại: đại xã, trung xã, tiểu xã (phụ thuộc các nha môn; những giáo chức trúng cách vào số dân của mỗi xã). Đứng đầu xã là xã trong các đợt khảo thí được bổ làm kinh trưởng. Xã trưởng do dân bầu theo những lịch; các học sinh Cục Cận thị trúng cách tiêu chuẩn cụ thể: tuổi từ 30 trở lên; con em được bổ làm huyện thừa; còn thuộc lại các nhà hiền lành có hạnh kiểm tốt; thông thạo nha môn nếu trúng tuyển sẽ được bổ làm chữ nghĩa; có sức khoẻ và có năng lực, giáo chức các phủ. 64
- Trương Vĩnh Khang Những người thi đỗ trong các kỳ thi Hội Chế độ khảo khoá cho thấy triều Lê đặc và thi Đình, sau khi được yết bảng vàng, biệt coi trọng đội ngũ quan lại về phẩm vinh quy bái tổ đều được trở về kinh thành chất, năng lực chuyên môn và kinh nghiệm để nhậm chức. Ngoài các khoa thi định kỳ, làm việc thực tế. Nhà nước đặt yêu cầu cao, những lúc cần kíp, nhà Lê còn mở các chế đòi hỏi người làm quan phải có trình độ về khoa (khoa thi không thường xuyên) để chuyên môn khi thực thi công việc. Muốn tuyển bổ các chức. có trình độ chuyên môn, không cách nào Để bổ dụng con cháu các quan viên cao khác là phải qua học tập và thi cử. Mục cấp, năm 1478, vua Lê Thánh Tông định lệ đích quan trọng hàng đầu của chế độ khảo cho phép cháu trưởng các tước công, hầu, khoá thời Lê Sơ là nhằm loại bỏ những bá, tử, nam và con trưởng các quan văn võ quan lại yếu kém, không đủ năng lực, thanh nhị, tam phẩm được bổ làm tản quan hàm lọc và làm trong sạch đội ngũ quan chức. bát phẩm đến tứ phẩm. Trường hợp người ít Phan Huy Chú đã hết lời ngợi ca: “Chính tuổi nhưng có thành tích học tập thì được sách yên dân chúng chẳng gì hơn việc chấn đặc cách tuyển vào Sùng Văn quán, cho chỉnh quan trường. Mà cách chấn chỉnh phép Bộ Lại chọn bổ các chức Điển nghĩa quan trường tất phải khảo công, để xét rõ và Tư huấn [1, t.1, tr.674]. người hơn kẻ kém mà thăng giáng cho rõ Cùng với việc sắp đặt quan chức, triều ràng, thì liêm sỉ riêng đường, chính hoá đi Lê ban hành quy chế nhằm thường xuyên khắp. Việc cốt yếu cho nước thịnh trị của bậc đế vương không vượt qua điều ấy và định kỳ kiểm tra, đánh giá về năng lực, được” [1, t.2, tr.701]. phẩm chất cũng như hiệu quả làm việc của Về chế độ đãi ngộ quan lại: dưới triều Lê, từng chức quan và lại, phân loại và lấy đó các quan lại được hưởng nhiều đặc quyền làm cơ sở cho việc thăng thưởng, chuyển đặc lợi. Ngoài quyền lực và địa vị xã hội có đổi hoặc bãi miễn các chức. Đó là nội dung được từ chức tước, phẩm trật, họ còn được của chế độ khảo khoá hay còn gọi là phép hưởng những quyền lợi về vật chất thông chọn bổ thời Lê Sơ. qua chế độ ban cấp bổng lộc, gồm lương Về khảo khóa (sách hạch quan lại): phép bổng, ruộng đất và những ưu đãi khác. khảo khoá (hay khảo công) được thi hành Chế độ ban cấp lương bổng cho quý tộc từ thời Lê Thái Tổ, tuy nhiên, phải đến thời và quan lại các cấp được triều Lê ban hành Lê Thánh Tông mới được định rõ. Dưới vào năm Hồng Đức thứ 8 (1477). Đây là lần thời Lê Thánh Tông, những điển chế về đầu tiên trong lịch sử, việc cấp lương cho khảo khoá được ban hành bằng nhiều sắc quan lại được quy định thống nhất thành thể chỉ, lệnh dụ vào các năm 1470, 1471, 1478, chế và ban bố công khai. Theo chế độ này, 1480, 1488, 1489 Theo đó, ba tiêu chuẩn ngoại trừ nhà vua được coi là chủ thể toàn quan trọng nhất để xét các quan có xứng bộ tài sản quốc gia, còn tất cả những quý chức hay không gồm: có yêu thương, chăm tộc vương thất, quan lại, công chức trong lo cho dân hay không; có được nhân dân bộ máy công quyền đều được nhà nước quy yêu mến hay không; dân trong hạt cai quản định cụ thể về mức thụ hưởng. Tuỳ theo có trốn đi nơi khác hay không (lệnh dụ năm chức tước, phẩm hàm hằng năm họ được 1470). Niên hạn khảo khoá theo quy định là triều đình ban cấp tiền gọi là tuế bổng, tiền 3 năm một lần sơ khảo, 6 năm tái khảo, 9 thu thuế một số hộ gọi là thực hộ, đất ở và năm thông khảo. một số loại ruộng đất gọi chung là lộc điền. 65
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(99) - 2016 Về xử phạt quan lại phạm pháp: đi đôi trung thành với nhà vua, với chế độ, với với những chính sách trọng đãi, triều Lê đòi quốc gia. hỏi đội ngũ quan lại phải luôn làm tròn 3. Thiết chế pháp lý chức trách và nhiệm vụ, đồng thời nghiêm Thiết chế pháp lý thời Lê Sơ có đặc minh xử phạt nếu họ không hoàn thành bổn trưng là đề cao pháp luật, coi trọng Nho phận hoặc vi phạm luật pháp. Các quy định giáo và thừa nhận tục lệ cùng các quy phạm về chức phận và hình thức xử phạt quan lại xã hội khác để cai trị đất nước và ổn định phạm pháp được các vua triều Lê ban hành trật tự xã hội. bằng nhiều chiếu, dụ, sắc, chỉ, nhưng tập Pháp luật thời Lê Sơ được nghiên cứu trung nhất là trong các chương Cấm vệ, Vi thông qua Luật Hồng Đức và hệ thống các chế, Tạp luật của bộ Quốc triều hình luật. văn bản luật tại các bộ điển lệ, như: Hồng Về cơ bản, quan lại có hai nghĩa vụ là đối Đức Thiện chính thư; Quốc triều Hồng Đức với nhà vua và với dân chúng, do đó các nhiên gián chư cung thể thức; Sĩ loạn châm hình thức xử phạt cũng được áp dụng tuỳ quy; Lê triều quan chế; Thiên nam dư hạ theo mức độ phạm tội của viên quan đó đối tập. Điều này cho thấy, đặc điểm của pháp với hai loại đối tượng trên. luật thời Lê Sơ là luật tổng hợp, không có Vua là người có quyền lực tối thượng, là khái niệm về sự phân chia luật thành các đại diện cao nhất và duy nhất của một quốc ngành luật, pháp luật được diễn giải bằng gia. Do đó, những tội có liên quan trực tiếp hình thức quy phạm của luật hình. Trên cơ với vua đều là trọng tội. sở những nguồn tài liệu sử luật ta thấy, nội Đối với dân chúng, nghĩa vụ của quan lại dung của pháp luật thời Lê Sơ có thể chia là coi sóc, bảo vệ và giáo hoá dân. Nếu viên thành bốn nội dung chủ yếu là: các chế định quan nào không biết chăm lo, bảo vệ dân, hình sự; các chế định hôn nhân gia đình; để dân phải phiêu bạt đi nơi khác, hộ khẩu các chế định dân sự; các chế định tố tụng. hao hụt, giặc cướp nổi lên trong hạt thì bị bãi chức hay tội đồ (điều 284). Các quan Với bốn nội dung chủ yếu trên, pháp luật nếu không biết nêu gương tốt, dùng lễ giáo thời Lê Sơ đã điều chỉnh hầu hết các quan để cảm hoá dân chúng, lại còn mê đắm tửu hệ xã hội đương thời. sắc, để phương hại đến việc quan đều bị xử Các chế định hình sự: hình sự là nội tội biếm hay bãi chức (điều 637). Ngoài ra, dung chủ đạo bao trùm toàn bộ pháp luật tất cả những tội sách nhiễu, hà hiếp dân phong kiến thời Lê Sơ. Pháp luật thời kỳ chúng, tham lam nhận hối lộ hay xâm này tuy không có chương điều riêng quy chiếm tài sản của dân đều tuỳ theo mức độ định cụ thể về các nguyên tắc hình sự, mà bị trừng trị thích đáng (các điều 138, nhưng trên tinh thần và nội dung của luật đã 163, 164, 632, 636, 638, 639 ). thể hiện nhiều nguyên tắc của luật hình sự: Khi ban hành và thực thi những điều luật nguyên tắc vô luận bất hình; nguyên tắc nghiêm ngặt như vậy, triều Lê trước hết chiếu cố; nguyên tắc chuộc tội bằng tiền; muốn củng cố chế độ trung ương tập quyền, nguyên tắc miễn trách nhiệm hình sự; đề cao lợi ích quốc gia và quyền lợi của dân nguyên tắc thưởng phạt; nguyên tắc trách chúng; đồng thời qua đó nhằm xây dựng nhiệm liên đới; nguyên tắc thân thuộc được một đội ngũ quan lại trong sạch, vững che giấu cho nhau; nguyên tắc tổng hợp mạnh, làm việc theo luật pháp và tuyệt đối hình phạt; nguyên tắc lượng hình. 66
- Trương Vĩnh Khang Về các loại tội phạm: tội phạm trong Bộ Ngoài ngũ hình, trong luật Hồng Đức luật Hồng Đức được sắp xếp thành hai thời Lê Sơ còn quy định các hình phạt khác, nhóm tội cơ bản là nhóm tội thập ác và các như: biếm tư, hạ chức, phạt tiền, tịch thu tài nhóm tội khác. sản, thích chữ, tịch thu vợ con. Nhóm tội thập ác thường liên quan đến Về các chế định dân sự: trong chế độ các tiêu chí đạo đức hàng đầu của Nho giáo phong kiến thời Lê Sơ, tài sản bao gồm như: mưu phản, mưu đại nghịch, ác nghịch, động sản như gia súc, thuyền bè, tiền bạc, bất đạo, đại bất kính, bất hiếu, bất mục, bất hoa lợi hay bất động sản như nhà cửa, nghĩa, nội loạn. ruộng đất, ao hồ. Tuy nhiên, ruộng đất là Các nhóm tội khác gồm: nhóm tội vi đối tượng chủ yếu của pháp luật vì ruộng phạm việc bảo vệ cung cấm; nhóm tội đất là phương tiện sản xuất cơ bản, là tài phạm về chức vụ; nhóm tội về nhân mạng, sản chủ yếu. Trên cơ sở các quy định của trộm cướp; nhóm tội đánh người; nhóm tội pháp luật thời Lê Sơ, nhóm các chế định gian dối (trá ngụy); nhóm các tội phạm về dân sự điều chỉnh các mối quan hệ về tài tình dục; nhóm các tội quân sự. Ngoài ra, sản chủ yếu, bao gồm: chế định về sở hữu; chế định về hợp đồng; chế định về thừa kế, còn các nhóm tội về ruộng đất, tội vu cáo, chủ yếu liên quan đến ruộng đất, còn những về hôn nhân và gia đình. tài sản khác nội dung các quy định khá mờ Về các loại hình phạt: trong hệ thống nhạt và đơn giản. Điều này phản ảnh điều pháp luật thời Lê Sơ, hình phạt được quy kiện kinh tế nông nghiệp chủ đạo thời Lê định gồm ngũ hình và các hình phạt khác. Sơ tác động đến nội dung các chế định pháp Ngũ hình là 5 hình phạt cơ bản được quy luật dân sự. định ngay tại điều 1 của Bộ luật Hồng Đức. Chế định quyền sở hữu trong Bộ luật Các hình phạt trong luật được sắp xếp theo Hồng Đức là phạm trù pháp lý phản ánh các trình tự tăng dần, bao gồm: hình phạt xuy - quan hệ sở hữu trong chế độ phong kiến thời hình phạt đánh bằng roi chia thành 5 bậc Lê Sơ. Qua các quy định của pháp luật, nhẹ nặng tăng dần từ 10, 20, 30, 40 đến 50 chính sách ruộng đất và thực tế lịch sử thời roi; hình phạt trượng - hình phạt đánh bằng kỳ này cho thấy, ruộng đất có hai loại cơ bản gậy với 5 bậc từ 50, 60, 70, 80, 90 đến 100 đó là ruộng công và ruộng tư, tương ứng là trượng và chỉ được áp dụng cho đàn ông, các hình thức sở hữu của các chủ sở hữu. còn đối với phụ nữ, nếu mắc tội có hình Ruộng đất công có hai hình thức sở hữu phạt trượng thì được thay bằng hình phạt là sở hữu nhà nước, đại diện danh nghĩa là xuy; hình phạt đồ - hình phạt buộc phạm nhà vua và sở hữu tập thể làng xã, đại diện nhân phải đi làm lao dịch; hình phạt lưu - là chính quyền sở tại. hình phạt phải đi lưu đầy ở nơi xa với 3 cấp Hình thức sở hữu nhà nước là quyền sở độ: lưu đầy đi châu gần (lưu đầy tại vùng hữu tối cao về đất đai được Nhà nước Lê núi của Nghệ An), lưu đầy đi châu ngoài Sơ khẳng định qua việc ban hành chế độ (lưu đầy tại vùng Bố Chánh, Quảng Bình) lộc điền và quân điền. Theo chế độ lộc và lưu đầy đi xứ Cao Bằng; hình phạt tử - điền, nhà vua ra quyết định ban cấp ruộng hình phạt tước đi mạng sống của người đất thế nghiệp hay ruộng đất tạm thời cho phạm tội với các hình thức như thắt cổ, tầng lớp quan lại cao cấp, các vương công chém, chém bêu đầu, lăng trì. quý tộc từ thân vương đến tòng tứ phẩm. 67
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(99) - 2016 Theo chế độ quân điền, nhà vua đưa ra Về nguyên tắc của hợp đồng, phải đảm những chính sách chia ruộng đất công cho bảo các nguyên tắc thỏa thuận, tự nguyện, dân các làng xã từ quan lại đến những trung thực, nếu vi phạm thì phải bồi thường. người mồ côi, góa bụa hay nhân đinh 15 Về hình thức của hợp đồng, trong Bộ tuổi cũng được cấp ruộng đất. luật Hồng Đức quy định khi mua bán những Hình thức sở hữu tập thể làng xã là hình tài sản lớn như nhà cửa, trâu bò, ruộng thức sở hữu đã tồn tại từ rất lâu trong lịch sử đất phải lập thành văn bản, thường được Việt Nam, nhưng đến thời Lê Sơ, do thực thi gọi là văn khế, văn tự. chính sách quản lý đất đai trên phạm vi toàn Trong Bộ luật Hồng Đức không có chú quốc nên quyền sở hữu ruộng đất của làng giải về việc vô hiệu của hợp đồng, nhưng xã bị nhà nước can thiệp sâu, buộc làng xã căn cứ vào quy phạm pháp luật cụ thể, có phải chấp hành cách phân chia ruộng đất thể thấy hợp đồng bị vô hiệu trong các công theo quy định của nhà nước qua chế độ trường hợp vi phạm: nguyên tắc tự nguyện quân điền. Theo đó, tập thể làng xã mà đại giao kết hợp đồng (điều 355); năng lực chủ diện là chính quyền sở tại phân chia đất cho thể ký kết hợp đồng (điều 313); đối tượng các gia đình cày cấy và hằng năm thu thuế hợp đồng (điều 382, 383); hình thức hợp ruộng đất công nộp cho nhà nước. đồng (điều 363, 366). Ngoài ra, trong thời Lê Sơ, do có các Trong Bộ luật Hồng Đức đã đề cập đến công cuộc khai hoang được nhà nước một số loại hợp đồng thông dụng như: Hợp khuyến khích bằng nhiều biện pháp khác đồng mua đứt bán đoạn (người mua trả nhau nên pháp luật đã ghi nhận sự tồn tại tiền, người bán giao tài sản và hợp đồng của phương thức điền trang tư nhân, nhưng chấm dứt); hợp đồng mua bán có thời hạn; phải được phép của nhà nước. Điều 348 của hợp đồng thuê mướn tài sản (như thuê nhà, Bộ luật Hồng Đức quy định: “Người có thuê ruộng đất, thuê thuyền, hay thuê ruộng đất tự tiện lập thành trang trại, chứa mướn gia súc, thuê mướn nhân công); hợp chấp dân đinh trốn tránh, nếu là quan bị đồng vay nợ. xử phạt tiền 300 quan, người trông coi trang Thừa kế là một chế định quan trọng trại xử tội đồ”. trong Bộ luật Hồng Đức, làm căn cứ để xác Hợp đồng, khế ước là những khái niệm định quyền sở hữu của chủ tài sản, đặc biệt không có trong luật pháp thời Lê Sơ mà là thừa kế bất động sản. Đất đai ruộng vườn chỉ có những quy định cụ thể như mua, là tài sản có giá trị nhất trong xã hội nông bán, cầm cố, cho thuê. Tuy nhiên, các quy nghiệp. Nội dung của chế định thừa kế định của pháp luật trong giai đoạn này có được quy định tại các điều 374, 375, 376, những nội dung khái quát của chế định 390 trong Chương Điền sản. Thừa kế trong hợp đồng (khế ước) như: chủ thể của hợp Bộ luật Hồng Đức được giải quyết theo hai đồng; nguyên tắc hợp đồng: hình thức của trình tự thủ tục là chia theo pháp luật và hợp đồng. chia theo di chúc. Về chủ thể của hợp đồng, nhìn chung Về chế định hôn nhân và gia đình: xuất không phải bất cứ ai cũng là chủ thể của phát từ quan điểm Nho giáo với tư tưởng hợp đồng mà phải là người có tài sản và đáp gia trưởng, trọng nam, coi hôn nhân là để ứng một độ tuổi nhất định mới có quyền ký có người duy trì gia đình và nối dõi dòng hợp đồng (khế ước). họ, hôn nhân phải bảo đảm sự bền vững, 68
- Trương Vĩnh Khang hòa thuận và tôn ti trật tự của gia đình, Đức còn quy định về định tội danh, áp dụng truyền thừa hương hỏa, thờ phụng tổ tiên khung hình phạt, tư cách người tham gia tố nên hôn nhân trong xã hội Lê Sơ được quy tụng, kháng án. định rất chặt chẽ. Luật pháp thời Lê Sơ dành Khi định tội danh, nghiêm cấm việc khá nhiều quy định về vấn đề này. Trong thêm bớt tội danh, hay viện dẫn điều luật Chương Hộ hôn của Bộ luật Hồng Đức đã khác với điều luật đã có để tuỳ ý xét xử quy định khá chi tiết về các nội dung của chế (điều 686 và 722). Khi định khung hình định hôn nhân và gia đình như: kết hôn, phạt, Bộ luật Hồng Đức cũng đặt ra vấn đề chấm dứt hôn nhân, quan hệ vợ chồng, quan giảm tội nếu như quan xử án cảm thấy có hệ tài sản giữa vợ và chồng, quan hệ giữa chỗ nghi ngờ (điều 708). ông bà cha mẹ và con cháu, quan hệ vợ cả Người làm chứng phải đáp ứng các yêu và vợ lẽ, quan hệ giữa các thân thuộc bề trên cầu của luật định. Điều 665 của Bộ luật với các thân thuộc bề dưới. Hồng Đức quy định: “người 80 tuổi trở lên, Các chế định tố tụng: pháp luật thời Lê 10 tuổi trở xuống, và người bị bệnh nặng thì Sơ chưa có sự tách bạch tố tụng dân sự và không được gọi ra làm chứng, nếu trái luật tố tụng hình sự. Trong hệ thống bộ máy nhà này thì bị biếm một tư” [11, tr.226]. Để làm nước cũng chưa có sự tách biệt giữa các hệ sáng tỏ vụ án pháp luật nhà Lê Sơ thừa thống hành pháp và tư pháp, do vậy, quan nhận việc đối chất như là quyền của các lại đứng đầu các cấp chính quyền kiêm luôn bên. Các quan xét việc hình ngục mà không quan tòa xử án. Các chế định tố tụng của tiến hành công việc đối chất theo luật định triều Lê Sơ chủ yếu được quy định trong thì sẽ bị xử tội. Việc đối chất kỳ sau mà lại Chương Bộ vong (13 điều) và Đoán ngục trì trệ lâu ngày không bắt hai bên đối chất (65 điều). Các trình tự tố tụng được luật ghi sẽ bị xử phạt nặng (điều 677). nhận gồm: khởi tố, điều tra (bắt người, Pháp luật nhà Lê Sơ quan tâm việc xét khám nghiệm, tra hỏi), xử án và thi hành xử theo hội đồng (điều 720). Vào ngày án. Chế định tố tụng thời Lê Sơ gồm: quy quyết tụng (tức là ngày xử lại một vụ án lớn định về trình tự và thẩm quyền xử án; quy tại kinh đô), các quan đại thần và các quan định về thủ tục tố tụng. xét án đều phải tham gia hội đồng xét án để Về trình tự và thẩm quyền xử án: theo phát huy trí tuệ tập thể trong việc làm sáng quy định của pháp luật thời Lê Sơ, các cấp tỏ sự thật để bản án được khách quan, công xét xử bao gồm cấp xã, cấp lộ, cấp phủ và bằng và tránh oan sai, tránh bỏ lọt tội phạm. cấp kinh đô để giải quyết các vụ việc tương Điều 672 Bộ luật Hồng Đức quy định ứng. Điều 672 Bộ luật Hồng Đức quy định: trình tự xử lại vụ án (kháng án). Theo trình “có việc tranh kiện nhau, việc rất nhỏ đến tự này, quan huyện xét xử lại các vụ do xã kiện ở xã quan; việc nhỏ đến kiện ở lộ trưởng xử không được, quan phủ xử lại quan; việc trung bình đến kiện ở quan những vụ do quan huyện xử không được, phủ; còn việc lớn thì phải đến kinh”. quan lại cấp trung ương xử lại các vụ do Về thủ tục tố tụng: luật pháp thời Lê Sơ quan phủ xử không được. Đối với việc thi quy định khá cụ thể và chi tiết Quy trình, hành án, để ngăn ngừa kẻ phạm tội có án thủ tục tố tụng gồm các công đoạn như: thụ mà cố cưỡng lại không thi hành án, Bộ luật lý án, bắt, giam giữ, tra khảo hỏi cung, xét Hồng Đức quy định chiếu theo các tội cũ xử và thi hành án. Ngoài ra Bộ luật Hồng tăng nặng thêm một bậc (điều 170). 69
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(99) - 2016 Nho giáo thời Lê Sơ đã được các vị vua 4. Kết luận từ Lê Thái Tổ đến Lê Thánh Tông chính Việc chỉ ra diện mạo của thiết chế chính thức thừa nhận là hệ tư tưởng chính trị - trị - pháp lý Việt Nam thời Lê Sơ từ sau pháp lý chính thống của triều đại. Pháp luật cuộc cải cách hành chính của Lê Thánh của nhà nước thời Lê Sơ là công cụ bảo vệ Tông đã góp phần làm rõ các đặc trưng của vương triều, bảo vệ hệ tư tưởng Nho giáo. thiết chế này và thông qua những đặc trưng Nho giáo được các nho gia Việt Nam đó ta có thể phân biệt một cách rõ nét nó đương thời tiếp cận từ nhiều góc độ và với các thiết chế chính trị - pháp lý của các mức độ khác nhau. Giai đoạn Lê Sơ, hai giai đoạn lịch sử trước và sau đó. đại nho gia là Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông có sự khác biệt trong khi tiếp cận hệ Tài liệu tham khảo tư tưởng này. Với Nguyễn Trãi, tư tưởng [1] Phan Huy Chú (2007), Lịch triều hiến chương của ông mang đậm yếu tố nhân: “Việc loại chí, t.1, t.2, Nxb Giáo dục, Hà Nội. nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Đến Lê Thánh [2] Đại Việt sử ký toàn thư (2004), t.2, Nxb Tông, Nho giáo mang đậm yếu tố lễ. Ông Khoa học xã hội, Hà Nội. là người cổ động cho Nho giáo và đưa [3] Trương Vĩnh Khang (2007), “Tìm hiểu tư Tống Nho vào Việt Nam. Xét về hình thức, tưởng của Lê Thánh Tông về pháp luật”, lễ là loại quy phạm điều chỉnh hành vi xử Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 3. sự của con người. Năm 1465, khi đổi niên [4] Trương Vĩnh Khang (2013), “Thiết chế hiệu từ Quang Thuận sang Hồng Đức, nhà chính trị - pháp lý thời Lê Sơ”, Tạp chí vua nói: “Người ta sở dĩ khác với loài cầm Khoa học xã hội Việt Nam, số 7. thú là vì có lễ để làm khuôn phép giữ gìn” [2, tr.465]. [5] Trương Vĩnh Khang (2014), “Hệ thống Việc sử dụng những quy định phi quan giám sát quyền lực trong nhà nước Việt phương (lệ làng, luật tục) để điều chỉnh Nam thời phong kiến”, Tạp chí Nhà nước các quan hệ xã hội: các quy định phi quan và Pháp luật, số 3. phương (quy phạm xã hội) như lệ làng, [6] Lê triều giáo hóa điều luật (1962), Bộ luật tục đã tham góp vào điều chỉnh các Quốc gia giáo dục, Sài Gòn. quan hệ xã hội một cách rất hiệu quả từ [7] Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê phía nhà nước. Điều này đã làm nên nét (1993), Đại Việt sử ký toàn thư, t.2, t.3, đặc sắc trong thiết chế pháp lý Việt Nam Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. thời Lê Sơ. [8] Lê triều hình luật (1998), Nxb Văn hóa Nhiều nhà nghiên cứu nhất trí cho rằng, Thông tin, Hà Nội. bắt đầu từ đời Lê Thánh Tông, lệ làng có [9] Lê Thị Nga (2013), Giáo trình lịch sử nhà một bước phát triển đột biến cả về hình nước và pháp luật Việt Nam, Nxb Tư thức thể hiện, lẫn nội dung điều chỉnh và pháp, Hà Nội. quy mô tồn tại. Lê Thánh Tông đã thừa [10] Lê Kim Ngân (1963), Tổ chức chính nhận lệ làng, luật tục và là vị vua đầu tiên quyền trung ương dưới thời Lê Thánh chính thức chấp nhận sự tồn tại của hương Tông (1460 - 1497), Bộ Quốc gia giáo ước (lệ làng được văn bản hoá) và sử dụng dục, Sài Gòn. lệ làng, luật tục như một loại công cụ hỗ trợ [11] Quốc triều hình luật (1995), Nxb Chính trị cho pháp luật trong quản lý xã hội. quốc gia, Hà Nội. 70
- Trương Vĩnh Khang 71