Giáo trình Luật và chính sách quản lý kiến trúc đô thị - Lê Trọng Bình
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Luật và chính sách quản lý kiến trúc đô thị - Lê Trọng Bình", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_luat_va_chinh_sach_quan_ly_kien_truc_do_thi_le_tr.pdf
Nội dung text: Giáo trình Luật và chính sách quản lý kiến trúc đô thị - Lê Trọng Bình
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC HÀ NỘI KHOA SAU ĐẠI HỌC & GIÁO TRÌNH MÔN HỌC LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ BIÊN SOẠN: TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH HÀ NỘI, NĂM 2004 0 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- GIỚI THIỆU VỀ MÔN HỌC I/ Tên môn học: LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ II/ Đối tượng: Nghiên cứu sinh (tiến sĩ) và cao học (thạc sĩ) III/ Mục đích, yêu cầu và cấu trúc của môn học 1/ Mục đích, yêu cầu - Qua môn học, nghiên cứu sinh phải nắm vững được ý nghĩa và tầm quan trọng của luật và chính sách quản lý kiến trúc cảnh quan đô thị: những khái niệm và kiến thức cơ bản về kiến trúc, cảnh quan đô thi, quản lý Nhà nước về kiến trúc đô thị, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, thẩm quyền ban hành; thể chế nhà nước, và tổ chức quản lý quy hoạch xây dựng và kiến trúc đô thị ở nước ta. - Trên cơ sở những kiến thức môn học, nghiên cứu sinh thảo luận và liên hệ với thực tế, từ đó tự lựa chọn một vấn đề mà bản thân thấy bức xúc, lý thú nhất để viết một tiểu luận về vấn đề đó. Kết quả bài tiểu luận sẽ là điều kiện cần thiết để chấp thuận điểm thi chính thức môn học. - Sự hiểu biết của nghiên cứu sinh về môn học phải được kiểm tra thông qua hình thức thi viết gồm 2 -3 câu hỏi. 2/ Cấu trúc môn học và phân bổ thời gian - Nghe giảng trên lớp : 10 tiết - Thảo luận và giải đáp thắc mắc trên lớp: 5 tiết - Làm bài tập (viết tiểu luận) 10 tiết - Kiểm tra : 5 tiết Tổng cộng: 30 tiết 1 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- MỞ ĐẦU 1. Ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề Kiến trúc và cảnh quan bao gồm các yếu tố tự nhiên và các công trình kiến trúc dân dụng, công nghiệp, kỹ thuật hạ tầng, tạo nên bộ mặt của đô thị, nhằm đáp ứng các yêu cầu về đời sống vật chất và văn hoá tinh thần của dân cư đô thị. Trong quá trình hình thành và phát triển đô thị, quản lý kiến trúc-cảnh quan đô thị là một trong những nội dung chủ yếu của công tác quản lý qui hoạch và xây dựng đô thị, góp phần tạo lập hình ảnh trật tự, đa dạng của đô thị trên cơ sở mối quan hệ hài hoà giữa các công trình kiến trúc với cảnh quan tự nhiên, đem lại bản sắc văn hoá- nghệ thuật của đô thị. Trong hơn nửa thế kỷ qua, đặc biệt là sau 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế, xã hội, qui hoạch xây dựng đô thị Việt Nam đã có những bước chuyển biến mới, mạnh mẽ và sâu rộng, bộ mặt kiến trúc đô thị từng bước đang thay đổi nhanh chóng theo hướng hiện đại, phản ánh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước. Tuy nhiên, do những bất cập trong công tác quản lý qui hoạch và xây dựng đô thị, thực trạng kiến trúc cảnh quan tại phần lớn các đô thị còn nhiều vấn đề bức xúc như: kiến trúc đô thị phát triển tự phát, thiếu định hướng, bộ mặt đô thị lộn xộn, thiếu bản sắc, chưa phản ảnh được vai trò quản lý của Nhà nước trong qui hoạch và xây dựng đô thị. Để khắc phục tình trạng trên cần tiếp tục nâng cao nhận thức, hoàn thiện về mặt lý luận và các phương pháp khoa học về quản lý kiến trúc cảnh quan đô thị, nhằm góp phần tạo lập trật tự, mỹ quan đô thị, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, di tích văn hoá lịch sử, đảm bảo đô thị phát triển bền vững. 2. Mục đích và yêu cầu Chuyên đề này tổng hợp, cung cấp những khái niệm cơ bản về kiến trúc, cảnh quan đô thị; quan điểm và nội dung của công tác thiết kế đô thị, tổ chức không gian kiến trúc và cảnh quan đô thị; cơ sở của việc quản lý và phát triển kiến trúc, cảnh quan đô thị và nội dung chủ yếu của công tác quản lý Nhà nước về kiến trúc và cảnh quan đô thị. Trên cơ sở đó nâng cao nhận thức, tăng cường năng lực của các cán bộ quản lý, nghiên cứu khoa học, thiết kế và đào tạo trong lĩnh vực thiết kế đô thị, quản lý kiến trúc và cảnh quan đô thị. Để đảm bảo tiếp thu những khái niệm trên học viên cần có những kiến thức cơ bản về đô thị, quản lý nhà nước trong lĩnh vực xây dựng đô thị, phương pháp, nội dung lập đồ án qui hoạch xây dựng đô thị, quản lý việc triển khai thực hiện qui hoạch xây dựng đô thị được duyệt. 2 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- CHƯƠNG I MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ QUẢN LÝ KIẾN TRÚC CẢNH QUAN ĐÔ THỊ 1. Khái niệm về đô thị và kiến trúc cảnh quan đô thị 1.1. Định nghĩa đô thị - C.Mác và Angghen trong tác phẩm "Tư tưởng Đức" đã cho rằng, điều kiện quan trọng nhất hình thành đô thị là "Sự phân công lao động trong một quốc gia dẫn đến việc tách lao động công nghiệp, thương mại khỏi sản xuất nông nghiệp, từ đó tạo ra hai kiểu phân bố dân cư là đô thị và nông thôn, chúng đối lập nhau về lợi ích" - V.I. Lê Nin thì định nghĩa" Đô thị là trung tâm kinh tế, chính trị và tinh thần của đời sống nhân dân và là động lực của sự tiến bộ" - V.Gu - Liev định nghĩa " Thành phố của một chế độ nào đó là một điểm dân cư lớn, giữa vai trò là trung tâm chính trị - hành chính, văn hoá và kinh tế có vai trò hấp dẫn và thúc đẩy vùng phụ cận phát triển" - Quyết định 132/HĐBT ngày 5/5/1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) về phân loại đô thị và phân cấp đô thị đã định nghĩa đô thị là điểm dân cư hội đủ 5 yếu tố sau: + Là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng lãnh thổ nhất định. + Có quy mô dân số nhỏ nhất là 4000 người (vùng núi có thể thấp hơn). + Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 60% trở lên trong tổng số lao động xã hội. + Có cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội phục vụ dân cư. + Có mật độ dân cư tương đối cao, tuỳ thuộc và loại đô thị. 1.2. Phân loại đô thị Theo quy mô dân số các đô thị được phân thành đô thị cực lớn(> 1 triệu dân); đô thị rất lớn (50 vạn - 1 triệu dân); đô thị lớn (25 vạn - 50 vạn dân; đô thị trung bình (10 vạn - 25 vạn dân) và đô thị nhỏ (dưới10 vạn dân). - Phân loại theo chức năng; - Đô thị gồm 5 loại trên cơ sở 5 yếu tố trong định nghĩa đô thị. Việc hướng dẫn phân loại đô thị tiến hành theo Thông tư liên Bộ 31/TTLB Xây dựng và Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ. 1.3. Kiến trúc cảnh quan đô thị Đô thị là tổng thể thống nhất, gồm các yếu tố tự nhiên và nhân tạo, vật thể và phi vật thể kinh tế, nhằm bảo đảm yêu cầu đời sống vật chất ( yêu cầu công năng: kinh tế, kỹ thuật), văn hoá tinh thần ( yêu cầu mỹ quan) của dân cư đô thị. Kiến trúc - cảnh quan đô thị được tạo nên bởi các yếu tố nhân tạo (công trình kiến trúc, xây dựng, hạ tầng kỹ thuật, tượng đài ), yếu tố tự nhiên ( địa hình, mặt nước, cây xanh, khí hậu,vv ) và con người một thành phần tham gia tạo lập, hoạt động. Thành phần cấu trúc không gian vật thể và chức năng sử dụng đất của thành phố, 3 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- như trung tâm công cộng, sản xuất, khu nhà ở, giao thông v.v tạo nên môi trường sống của con người. 2. Thiết kế đô thị ( TKĐT) 2.1. Khái niệm Cho đến nay, nhận thức về TKĐT trên thế giới nói chung vẫn chưa thống nhất, có 3 cách hiểu về TKĐT là: - Thứ nhất: thiết kế đô thị là nghệ thuật tổ chức không gian đô thị, "nghệ thuật tạo lập và bảo tồn môi trường vật thể đô thị"; " nghệ thuật thiết kế mọi thứ vật thể thuộc về đô thị, trừ các công trình kiến trúc, xây dựng" (Jonathan Barnett, M. Perfect & G. Power, Anh). - Nhóm quan điểm thứ hai: nhìn nhận TKĐT là qui trình, phương pháp thiết kế độc lập tách biệt vừa là cầu nối giữa với QHXD và thiết kế kiến trúc, có đối tượng là tổng thể đô thị hoặc khu đô thị; là thiết kế chi tiết xây dựng các tổng thể kiến trúc đô thị. - Cách hiểu thứ ba coi thiết kế đô thị là mục tiêu vừa là nội dung có tính xuyên suốt, thuộc về phạm trù quy hoạch xây dựng đô thị, gắn với quá trình xây dựng và phát triển đô thị. TKĐT là trình tự, phương pháp vừa là sản phẩm của nghệ thuật tổ chức không gian đô thị. Xuất phát từ quan điểm đô thị là tổng thể thống nhất được hình thành từ các yếu tố tự nhiên và nhân tạo, mang nội hàm công năng, kinh tế, kỹ thuật và văn hoá tinh thần, có thể hiểu thiết kế đô thị là : "nội dung có tính xuyên suốt của QHXD đô thị, với mục tiêu chủ yếu là tạo lập không gian đô thị vừa bảo đảm công năng có chất lượng thẩm mỹ, nghệ thuật hợp lý, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của đô thị, đáp ứng yêu cầu thẩm mỹ, văn hoá tinh thần của dân cư đô thị". Thiết kế đô thị là nghệ thuật tổ chức cơ cấu, tạo lập mối quan hệ giữa các yếu tố ( nhân tạo, tự nhiên )không gian đô thị, là tổ chức mặt bằng, cơ cấu chức năng, hình khối, tạo lập mối quan hệ thống nhất giữa các thành phần kiến tạo theo yêu cầu nghệ thuật và công năng đô thị, là quá trình không mang tính nghệ thuật thuần tuý, không gian đô thị bao hàm giá trị công năng, giá trị văn hoá, hình thái nghệ thuật, bao hàm hoạt động kinh tế, xã hội của con người. Nội hàm của TKĐT: - Thiết kế đô thị vừa là mục tiêu của QHXD; - Là nội dung của QHXD; - Là Qui trình thiết kế của QHXD - Thiết kế đô thị là cầu nối giữa QHXD và KT; - Cơ sở cho thiết kế kiến trúc về các mặt: tính chất, vị trí, lối ra vào chủ yếu, hình thái, không gian màu sắc, phong cách, v.v của công trình kiến trúc phù hợp với KTCQ khu vực; 2.2. Đối tượng TKĐT Đối tượng của thiết kế đô thị là toàn bộ không gian đô thị với các đối tượng trong không gian đó như tượng đài, quảng cáo, chiếu sáng v.v trừ công trình kiến trúc. Được phân theo 3 cấp độ: 4 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- - TKĐT vùng lãnh thổ: tổ chức không gian, xác định các vùng chức năng và đặc thù cảnh quan vùng. - Tổng thể đô thị, tổ chức không gian hệ thống các khu chức năng đô thị. - TKĐT khu vực: được áp dụng cho một khu chức năng, một trục đường, quảng trường, không gian trống công cộng của đô thị. 2.3. Mục tiêu của TKĐT Tạo lập không gian đô thị vừa bảo đảm công năng có chất lượng thẩm mỹ, nghệ thuật hợp lý, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của đô thị, đáp ứng yêu cầu thẩm mỹ, văn hoá tinh thần của dân cư đô thị. 2.4. Mối quan hệ giữa TKĐT với TK kiến trúc Đối tượng thiết kế khác nhau: Đối tượng của thiết kế đô thị là toàn bộ không gian đô thị ("mọi vật có thể nhìn thấy được từ cửa sổ"). Khu vực không gian có thể chia thành khu nội thành, khu, tiểu khu, khối, dảiv.v Đối tượng của thiết kế kiến trúc là bản thân công trình kiến trúc và môi trường xung quanh (surrounding). - Tầng thiết kế khác nhau: thiết kế đô thị nằm giữa thiết kế quy hoạch chi tiết và thiết kế xây dựng, tỷ lệ xích là 1/1000 hoặc 1/2000 (lớn nhất 1/500). Thiết kế kiến trúc thuộc về phạm trù thiết kế xây dựng sửa chữa, bản vẽ của nó chỉ đạo trực tiếp thi công. - Độ sâu thiết kế khác nhau: thiết kế đô thị xác định mô hình phát triển không gian cụ thể của khu vực qui hoạch, từ khu cây xanh, đường giao thông, và tất cả các đối tượng trong không gian đô thị như tượng đài, quảng cáo, chiếu sáng v.v nhằm tạo ra môi trường không gian đô thị hoàn chỉnh, hoàn mỹ và hài hoà. Thiết kế kiến trúc nhằm mục tiêu thiết kế kỹ thuật thi công xây dựng công trình. - Thiết kế đô thị là cầu nối giữa QHXD và KT, là cơ sở cho thiết kế kiến trúc về các mặt: + Xác định tính chất, vị trí, lối ra vào chủ yếu v.v của công trình kiến trúc trong không gian đô thị; + Xác định yêu cầu về hình thái, không gian màu sắc, phong cách, v.v của công trình kiến trúc phù hợp với KTCQ khu vực; Thiết kế đô thị tạo lập bô khung không gian cảnh quan cho sáng tạo kiến trúc công trình. Trong sáng tạo kiến trúc đòi hỏi nhận thức đúng về không gian cảnh quan noi công trình kiến trúc hình thành để nghiên cứu và xử lý tốt mối quan hệ giữa công trình kiến trúc và không gian đô thị. 2.5. TKĐT trong hệ thống QHXD Hệ thống các dự án quy hoạch xây dựng hiện nay gồm có: a/ Định hướng quy hoạch tổng thể phát triển đô thị và khu dân cư Việt Nam đến năm 2020. b/ Quy hoạch tổng thể xây dựng các đô thị và khu dân cư nông thôn thuộc các vùng có cấp phân vị khác nhau (liên tỉnh, chuyển ngành, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các vùng trong tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ). 5 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- c/ Quy hoạch lựa chọn địa điểm xây dựng các cụm công trình, công trình trọng điểm. d/ Quy hoạch xây dựng đô thị và khu dân cư nông thôn gồm quy hoạch chung, quy hoạch chi tiết và thiết kế đô thị. e/ Quy hoạch xây dựng chuyên ngành. 3. Quản lý kiến trúc cảnh quan đô thị 3.1. Quản lý đô thị 3.1.1. Quản lý đô thị là một khoa học tổng hợp được xây dựng trên cơ sở của nhiều khoa học chuyên ngành, bao gồm hệ thống các chính sách, cơ chế, biện pháp và phương tiện được chính quyền nhà nước các cấp sử dụng để tạo điều kiện và kiểm soát quá trình tăng trưởng, phát triển đô thị, nhằm thực hiện một cách có hiệu quả các mục tiêu phát triển đô thị. Quản lý đô thị bao gồm nhiều lĩnh vực, nhưng chủ yếu là sản xuất kinh doanh; quy hoạch kiến trúc đô thị; sử dụng đất đai ; đầu tư và xây dựng ; phát triển nhà ở và cơ sở hạ tầng công cộng; tài chính, hành chính, môi trường đô thị, an ninh, trật tự xã hội,v.v 3.1.2. Trong quản lý đô thị, chính quyền các cấp tuỳ theo quyền hạn, chức năng và nhiệm vụ được giao thường áp dụng các phương tiện như: cung cấp và duy trì cơ sở hạ tầng phục vụ lợi ích cộng đồng; ngăn cấm và xử phạt các hành vi hoặc nguy cơ làm mất cân bằng giữa khả năng cung - cầu và tăng trưởng đô thị; khuyến khích các hoạt động mang lại lợi ích cho cộng đồng và tạo ra sự tăng trưởng đô thị; thông tin nắm vững tình hình phát triển đô thị để đề ra những quyết định đúng đắn trong phát triển đô thị. 3.1.3. Ngoài ra, để tạo ra nguồn lực phát triển đô thị, chính quyền Nhà nước còn áp dụng đồng bộ những biện pháp như : xã hội hoá việc cung cấp phục vụ lợi ích công cộng, phân phối lưu thông ; trả tiền khi sử dụng các dịch vụ hạ tầng công cộng, đất đai, nhà xưởng,v.v huy động các nguồn vốn thực hiện các dự án BOT, BT,v.v , tạo điều kiện để mọi thành phần kinh tế tham gia vào các chương trình phát triển đô thị. 3.2. Quản lý quy hoạch và xây dựng đô thị 3.2.1. Quản lý quy hoạch và xây dựng đô thị là một trong những lĩnh vực quan trọng nhất của công tác quản lý đô thị nhằm quản lý quá trình hình thành và phát triển môi trường vật thể của đô thị đảm bảo cho đô thị phát triển hiệu qủa, phục vụ tốt nhất cho nhu cầu vật chất và tình thần của con người. Nội dung quản lý Nhà nước về quy hoạch và xây dựng đô thị gồm: a/ Ban hành các quy định về quản lý quy hoạch và xây dựng đô thị; b/ Lập, xét duyệt và tổ chức thực hiện quy hoạch xây dựng đô thị; c/ Quản lý việc đầu tư cải tạo và xây dựng các công trình trong đô thị theo quy hoạch đô thị được duyệt; d/ Phát triển văn hoá kiến trúc kết hợp bảo vệ các di sản văn hoá, lịch sử cảnh quan và môi trường đô thị; e/ Quản lý việc sử dụng và khai thác cơ sở hạ tầng đô thị; 6 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- f/ Giải quyết tranh chấp, thanh tra và xử lý vi phạm những quy định về quản lý trật tự xây dựng đô thị. 3.2.2. Nội dung quản lý quy hoạch và xây dựng đô thị trong thực tế được cụ thể hoá thành những nhiệm vụ chủ yếu sau: a/ Lập và xét duyệt quy hoạch đô thị; b/ Soạn thảo và ban hành hệ thống các văn bản pháp quy về quản lý quy hoạch và xây dựng đô thị; c/ Xây dựng hệ thống kiểm soát và phát triển đô thị theo quy hoạch và pháp luật; d/ Thanh tra, kiểm tra và quản lý trật tự xây dựng đô thị;' e/ Tổ chức quản lý nhà nước về quy hoạch và xây dựng đô thị. 3.3. Quản lý nhà nước về kiến trúc - cảnh quan đô thị Nội dung quản lý kiến trúc và cảnh quan đô thị gồm: 1/ Xây dựng và tổ chức thực hiện Định hướng phát triển kiến trúc và cảnh quan đô thị. 2/ Ban hành quy định quản lý kiến trúc và cảnh quan. 3/ Xếp hạng và công nhận các công trình kiến trúc và cảnh quan có giá trị. 4/ Lập, thẩm định và thoả thuận các phương án thiết kế kiến trúc các công trình trong đô thị. 5/ Quản lý hành nghề kiến trúc sư. 6/ Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. 7/ Thanh tra, kiếm tra, xử lý các vi phạm trật tự xây dựng và kiến trúc đô thị. CHƯƠNG II VẤN ĐỀ QUẢN LÝ KIẾN TRÚC VÀ CẢNH QUAN ĐÔ THỊ 1. Tổng quan tình hình quản lý kiến trúc cảnh quan đô thị các nước 1.1. Các khuynh hướng phát triển kiến trúc đô thị a/ Khuynh hướng nhân văn Theo khuynh hướng này, đô thị được xây dựng và phát triển không theo sự kiểm soát đáp ứng nhu cầu trước mắt của cộng đồng dân cư đô thị. Không gian đô thị mang tính đa năng, kiến trúc-cảnh quan đa dạng, có sự tham gia của mọi loại hình kiến trúc của cộng đồng, kế thừa những giá trị kiến trúc truyền thống. Christopher Alexander ( Mỹ: đô thị là tổng thể thống nhất, không thể chia cắt, phát triển liên tục, từng bước, không thể định trước, có qui luật riêng của nó, gắn với đời sống hàng ngày của dân cư đô thị. Thiết kế đô thị không phải tạo mô hình phát triển mới mà là quá trình hoàn thiện không gian đô thị truyền thống theo qui luật tăng trưởng của nó. Tồn tại của khuynh hướng này là thiếu định hướng phát triển lâu dài, làm nẩy sinh mâu thuẫn, xung đột về nhiều mặt trong đời sống của xã hội đô thị và tình trạng khó kiểm soát đối với những đô thị có qui mô lớn, làm cho đô thị phát triển không bền vững. b/ Khuynh hướng phân khu 7 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- Được hình thành từ những năm đầu thập kỷ 20, xuất phát từ quan điểm của Hiệp hội kiến trúc sư quốc tế CIAM (1928 - 1959), thường được gọi là quan điểm qui hoạch xây dựng đô thị công năng, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến qui hoạch xây dựng đô thị trên thế giới trong suốt thế kỷ XX, đến nay vẫn là một phương pháp qui hoạch xây dựng chủ yếu của nhiều nước. Đô thị được thiết kế thành các không gian theo chức năng riêng biệt, gồm khu ở, khu sản xuất, khu trung tâm công cộng, cây xanh, giải trí thể dục thể thao, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, vv thông qua qui hoạch mặt bằng phân khu chức năng, qui hoạch sử dụng đất và các sơ đồ tổ chức kiến trúc-cảnh quan. Do chỉ thiên về tổ chức công năng, XD đô thị đạt hiệu quả thấp về thẩm mỹ, tinh thần, bộ mặt kiến trúc đô thị đơn điệu, thiếu bản sắc và và chưa kế thừa những giá trị văn hoá lịch sử của đô thị truyền thống. c/ Khuynh hướng tầng bậc và tiếp cận hệ thống Đô thị được tổ chức theo cấu trúc tầng bậc gồm hệ thống các không gian, từ nhóm công trình đến tổng thể đô thị, vùng lãnh thổ. Quan điểm này gắn quá trình xây dựng và phát triển đô thị hiện đại thế giới với sự ra đời các đô thị ở các dạng chuỗi, tuyến tính, hướng tâm, đa tâm, đô thị vệ tinh, vv vào những năm giữa thế kỷ XX. Tuy nhiên chưa phản ánh và đáp ứng được những yêu cầu phát triển đa dạng của xã hội. Do đó vào những năm của thập kỷ 60-70 của thế kỷ XX, cấu trúc phi tầng bậc đã được Christopher Alexander tổ chức KGĐT theo hướng đa chức năng, không phân cấp, phù hợp với qui luật phát triển của xã hội đô thị. d/ Khuynh hướng ngôn ngữ kiến trúc đô thị Không gian đô thị phải được xây dựng trên cơ sở cảm nhận về cảnh quan đô thị của dân cư, gắn với truyền thống lịch sử, văn hoá: Christopher Alexander ( Mỹ) xác định 253 ngôn ngữ từ qui mô vùng lãnh thổ, đô thị, khu đô thị đến kiến trúc và chi tiết cấu tạo công trình ( 48 ngữ nghĩa). Với hệ ngôn ngữ này có thể tạo ra vô vàn khả năng bố cục không gian đô thị. Kevin Lynch ( Mỹ), xác định 5 yếu tố bố cục hình ảnh đô thị, gồm đường, giải, mảng, cụm và điểm nhấn làm cơ sở tạo lập không gian KTCQĐT. Venturi tổ chức không gian đô thị trên cơ sở các yếu tố gồm đường phố, quảng trường và không gian tổng thể, công trình kiến trúc thông qua mối quan hệ không gian - tỉ lệ - tốc độ giao thông. e/ Khuynh hướng môi trường Do sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, khoa học công nghệ, đô thị hoá và nhiều yếu tố khác đang làm cho tài nguyên thiên nhiên bị cạn kệt, môi trường, sinh thái bị suy thoái, huỷ hoại, khiến mọi quốc gia phải xem xét, điều chỉnh lại các chính sách phát triển, trong đó có qui hoạch xây dựng đô thị, theo hướng thiết kế môi trường đô thị bền vững. Những nguyên tắc bảo vệ môi trường trong QHXD đã được nhần mạnh tại Hội nghị Habitat II ( Istambul năm 1996), những qui định về thiết kế môi trường bền vững tại Mỹ năm 1993, nguyên tắc Hanover ( Đức) năm 1993 và nhiều nghiên cứu khác trên thế giới. Theo quan điểm của xu hướng này, đô thị là thực thể gắn bó của hệ môi trường sinh thái, gồm các yếu tố tài nguyên thiên nhiên, môi trường ( hệ sinh thái, điều kiện đất 8 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- đai, địa hính, khí hậu,vv ); tài nguyên kinh tế, xã hội, văn hoá, vật thể và phi vật thể ( công nghiệp, dịch vụ, nhà ở, hạ tầng, vệ sinh môi trường, truyền thống văn hoá, lịch sử,vv ). Thiết kế đô thị là tạo lập hệ sinh thái đô thị thông qua tổ chức không gian vật thể trên cơ sở giải quyết mọi mâu thuẫn, tác động tiêu cực giữa phát triển và môi trường, trong việc sử dụng các tài nguyên, nhằm phát triển ổn định và bảo đảm môi trường bền vững; đô thị phải có vị trí, chức năng phù hợp với sự phát triển chung của cả nước, vùng và khu vực; phát triển cân đối với tiềm năng của hệ tài nguyên sinh thái, tài nguyên kinh tế-xã hội; cơ cấu chức năng, không gian đô thị phải bảo đảm sự cân bằng, mối quan hệ hài hoà giữa các yếu tố nhân tạo với cảnh quan thiên nhiên, bảo đảm gìn giữ, phục hồi tài nguyên môi trường, sinh thái; coi trọng tính đa dạng, giữ gìn bản sắc, truyền thống, kết hợp hài hoà giữa cải tạo và xây dựng mới; áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ để phát triển, giảm thiểu tác động của con người lên môi trường sinh thái và ngược lại,vv Nguyên tắc thiết kế môi trường còn được áp dụng đối với thiết kế công trình kiến trúc. Là bộ phận hữu cơ của cảnh quan, môi trường, một tiểu hệ sinh thái, công trình được thiết kế theo nguyên tắc cân bằng sinh thái sẽ hạn chế tác động đến môi trường, khai thác tài nguyên hợp lý và góp phần bảo đảm phát triển đô thị bền vững. 1.2. Vấn đề quản lý kiến trúc và cảnh quan đô thị 1.2.1. Quản lý quy hoạch, kiến trúc đô thị a/ Hệ thống đồ án QHXD: Mọi mô hình phát triển không gian đô thị đều thông qua hệ thống các đồ án thiết kế qui hoạch xây dựng đô thị. Nhìnchung các quốc gia đều áp dụng 3 cấp qui hoạch: - Cấp toàn quốc, gồm các qui hoạch tổng thể, chính sách hoặc chiến lược, chương trình phát triển đô thị, khu dân cư; - Cấp vùng, định hướng, chiến lược hoặc sơ đồ phát triển vùng; - Cấp địa phương, qui hoạch đô thị hoặc khu đô thị, gồm các loại qui hoạch xây dựng: Qui hoạch chung hoặc qui hoạch cơ cấu ( structure plan) đối với toàn đô thị hoặc một khu đô thị; qui hoạch sử dụng đất đai hoặc qui hoạch chi tiết khu vực ( Local plan) để cụ thể hoá và hướng dẫn thực hiện qui hoạch chung, qui hoạch cơ cấu. Để triển khai xây dựng đô thị, khu đô thị một số nước còn sử dụng qui hoạch hành động ( action plan), kế hoạch thực hiện (implementation plan). Hệ thống các đồ án qui hoạch xây dựng đô thị các nước được sử dụng để đầu tư xây dựng và quản lý xây dựng theo qui hoạch. Vấn đề kiến trúc, cảnh quan, nói chung được nghiên cứu trong các đồ án qui hoạch xây dựng, chủ yếu ở các đồ án cấp vùng và cấp địa phhương. Những nội dung được xây dựng thành văn bản qui định quản lý và phát triển kiến trúc cảnh quan cụ thể đối với khu vực qui hoạch. b/ Hệ thống pháp luật về quản lý KTCQ Những qui định quản lý và phát triển kiến trúc, kiến trúc cảnh quan đô thị, ở các nước được cụ thể hoá bằng các bộ luật và văn bản dưới luật. - Luật: 9 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- Luật qui hoạch( được ban hành ở Anh, Ba lan, Cu ba, Nhật bản ) luật bảo vệ môi trường, bảo tồn di tích,vv qui định cụ thể về nội dung, trình tự kiểm soát xây dựng các công trình kiến trúc theo qui hoạch, như cấp phép qui hoạch, cấp phép xây dựng ( các nước EU, Nhật bản ); qui định bảo tồn, tôn tạo di tích, cảnh quan thiên nhiên,vv - Văn bản dưới luật: Gồm hệ thống các qui phạm, tiêu chuẩn thiết kế, xây dựng ( Standars, buildingcods ), qui định về kiến trúc-cảnh quan, an toàn PCCC, giao thông, vệ sinh, môi trường,vv đối với đô thị nhiều nước ( Mỹ, Úc, Anh,vv ) đồ án qui hoạch xây dựng cấp địa phương là cơ sở để soạn thảo thành văn bản qui định pháp lý để quản lý kiến trúc cảnh quan. c/ Qui chế quản lý phát triển kiến trúc-cảnh quan đô thị Bao gồm: - Phân vùng quản lý phát triển Đối với đa số các nước trên thế giới, hệ thống phân khu ( zonning) được áp dụng là cơ sở lập các qui định kiểm soát phát triển không gian đô thị. các thành phần quản lý kiến trúc-cảnh quan đô thị được xác định gồm một số thành phần chủ yếu, tuỳ thuộc vào tính chất, qui mô đô thị, ví dụ tại thành phố Melbourne, Australia gồm 11 thành phần: + Mạng đường phố; + Một số phố đặc thù; + Tuyến cảnhquan ven sông; + Trung tâm giao dịch,thương mại (CBD); + Hệ thống đường xe điện nội đô; + Các công trình tượng đài, quảng cáo, tranh hoành tráng; + Hệ thống đường đi bộ, đường dạo; + Các công trình có giá trị sử dụng, kiến trúc, nghệ thuật nổi bật; + Quảng trường; + Công viên, cây xanh; + Di tích lịch sử, khu bảo tồn. Không gian kiến trúc các đô thị Mỹ thường được chia thành 16 thành phần. Nói chung việc phân vùng quản lý ở một số nước đều được xác định ở các qui mô, từ vùng lãnh thổ, như đô thị, khu dân cư nông thôn, công nghiệp, lâm nghiệp, khai khoáng, vùng cảnh quan, du lịch, vùng bảo tồn sinh thái, di tích lịch sử; đến qui mô đô thị gồm bộ khung công năng-kiến trúc-cảnh quan như hệ thống giao thông ( đường đô thị, đường đối ngoại, cao tốc, hệ thống đường đi bộ); hệ thống không gian trống, khu cây xanh, cảnh quan; các tuyến, trục bố cục không gian chính, cửa ô ( lối vào) chính của đô thị; khu vực ngoại thành; khu phố cổ, di tích lịch sử; và các yếu tố kiến trúc nhỏ như ghế ngồi, trạm điện thoại công cộng; hệ thống biển báo chỉ dẫn, quảng cáo, tranh hoành tráng, tượng đài; các khu đặc biệt khác, vv - Các qui định quản lý kiến trúc-cảnh quan đô thị 10 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- Những qui định quản lý đối với các thành phần thiết kế thường bao gồm các nguyên tắc thiết kế, qui định về tính chất công trình, sử dụng đất, mối quan hệ giữa công trình với khu vực lân cận, yêu cầu về hạ tầng, môi trường, kiến trúc công trình ( mật độ xây dựng, khoảng lùi, độ cao, hình thái kiến trúc) , vv ), bảo tồn kiến trúc, hướng nhìn cảnh quan, bộ mặt kiến trúc đô thị vv Ví dụ qui định về quản lý kiến trúc một số đô thị Pháp, gồm: + Sử dụng đất: Các loại công trình theo chức năng riêng, hỗn hợp; + Số tầng tối đa, tầng cao bắt buộc, giới hạn số tầng có thể thay đổi; + Kỹ thuật xây dựng công trình; + Kích thước tối thiểu lô đất: chiều rộng, chiều sâu tối tiểu,vv + Hình thái kiến trúc công trình: + Dạng mái nhà ( nhà chính, nhà phụ), độ dốc mái, vật liệu mái, côn sơn, mái thụt; + Mặt đứng kiến trúc: mặt chính, vật liệu màu sắc, bố cục mặt đứng, hiên, veranda, cổng,vv + Tầng cao: số tầng, độ cao tầng trệt, móng nhà, giọt gianh, cửa đi, cửa sổ,vv + Ngoại thất, sân vườn: Vật liệu, xây xanh, hình thức bố trí, hàng rào, công trình phụ; - Thiết bị kỹ thuật đô thị: Nơi để xe, cửa kính, quảng cáo, ăng ten TV, cột, trạm điện thoại,vv - Hình thức kiểm soát kiến trúc, cảnh quan đô thị: Việc kiểm soát xây dựng đô thị bảo đảm yêu cầu về kiến trúc, cảnh quan thông qua cấp phép qui hoạch và cấp phép xây dựng. Tuỳ thuộc điều kiện luật pháp, mỗi nước có qui định riêng về nội dung và trình tự quản lý, kiểm soát xây dựng. Tại Anh, việc xin cấp phép qui hoạch mang tính bắt buộc đối với mọi công trình xây dựng mới hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng và tách biệt với việc xin giấy phép xây dựng. Các nước Pháp, Hà Lan, Đức, việc cấp phép qui hoạch thực hiện đồng thời trong quá trình cấp phép xây dựng. Nói chung cấp phép qui hoạch là điều kiện quan trọng để công trình được xây dựng theo qui hoạch. Nội dung để cơ quan quản lý nhà nước, thường là cấp địa phương, xem xét khi cấp phép qui hoạch là về vị trí công trình, đặc thù kiến trúc, mốiquan hệ công trình với xung quanh về cảnh quan, môi trường, tính chất sử dụng, bảo tồn di tích, hiệu quả về kinh tế, xã hội, văn hoá, môi trường của công trình và điều kiện, yêu cầu về cơ sở hạ tầng. d/ Quản lý hành nghề kiến trúc và bảo hộ quyền tác giả Vai trò cá nhân kiến trúc sư và những người sáng tác kiến trúc, thiết kế cảnh quan đô thị rất quan trong trong thiết kế, cải tạo và xây dựng các công trình kiến trúc, cảnh quan, di tích lịch sử phù hợp với qui hoạch và luật pháp, bảo đảm an toàn, gìn giữ cảnh quan, môi trường, văn hoá, lịch sử. Chất lượng của kiến trúc, kiến trúc, cảnh quan đô thị phụ thuộc vào chất lương jsáng tác của họ. Do đó để kiểm soát và bảo đảm phát huy sự sáng tạo của giới KTS, nhiều nước đã ban hành luật về kiến trúc, luật hành nghề kiến trúc, luật về quyền tác giả như Trung Quốc, Thái Lan, Nga, Nhật, vv 11 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- Các bộ luật về kiến trúc, hành nghề kiến trúc, luật về quyền tác giả qui định điều kiện về thiết kế, xây dựng các công trình kiến trúc, nội dung hành nghề của kiến trúc sư trong sáng tác kiến trúc, cảnh quan đô thị, trách nhiện, quyền hạn, bảo vệ quyền tác giải đối với tác phẩm kiến trúc, quản lý nhà nước, xã hội đối với cá nhân kiến trúc sư và hoạt động hành nghề kiến trúc. 2. Những vấn đề đặt ra đối với quản lý KTCQĐT - Tính chất đô thị về xã hội, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật, du lịch, giải trí v.v của đô thị hiện đại ngày càng phức tạp, đòi hỏi nhiệm vụ QLĐT càng nặng nề phức tạp hơn. Công năng đô thị ngày càng phức tạp: Các công năng xã hội, kinh tế, giao thông, văn hoá, khoa học kỹ thuật, du lịch, giải trí v.v của đô thịphát triển, khiến cho đô thị hiện đại ngày càng trở thành thực thể hữu cơ của hệ thống mạnh lưới đan xen phưcs tạp. Thiết kế đô thị phải giải quyết vấn đề công năng đô thị phức tạp hơn nhiều so với thời cổ đại và ngay cả với thời cận đại. - Tác động mạnh mẽ của tiến bộ kỹ thuật: Tiến bộ rất lớn của kỹ thuật công trình hiện đại như kỹ thuạt xay dựng siêu cao tầng, không gian lớn, hệ thống giao thông lập nhiều tầng, kỹ thuật làm cầu có khẩu độ lớn, mà lại nhẹ, vật liệu xây dựng mới mẻ và nhiều màu, các loại nguồn ánh sáng mới có độ sáng và màu sắc hơn hẳn trước đâyv.v , manh lại điều kiện và biện pháp kỹ thuật chưa từng có cho thiết kế đô thị hiện đại. - Các loại thay đổi của xã hội hậu công nghiệp: Sự đạt tới xã hội thông tin, yêu càu tối ưu hoá môi trường sinh thái, tư tưởng phát triển bền vữngv.v mang lai cho thiết kế đô thị những ảnh hưởng và nhân tố mới. Thiết kế "màu xanh" bắt đầu trở thành thời thượng và xu thế mới. - Ảnh hưởng quan trọng của "trở về nhân tính". Lý luận cơ bản của thiết kế đô thị hiện đại " coi con người là trung tâm" đã trở thành dòng chính. - Con người là trung tâm đã trở thành cơ sở lý luận của QHXD đô thị hiện đại. - Vấn đề đói nghèo trong đô thị đòi hỏi những giải pháp tổng hợp kinnh tế-xã hội- chính trị Quy hoạch đô thị hiện đại phát triển và thay đổi rất lớn, nhân tố kinh tế xã hội ảnh hưởng tới sự phát triển đô thị ngày càng phức tạp; tác dụng của chiến lược phát triển vùng, các chính sách và cơ chế quản lý ngày càng quan trọng. Quy hoạch đô thị đang tiến tới tổng hợp vè vĩ mô, mang đậm tính chiến lược và tính kế hoạch, phân ranh giới với thiết kế đô thị, tạo ra môi trường không gian vật chất đô thị là chủ yếu. CHƯƠNG III THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KIẾN TRÚC VIỆT NAM 1. Những thành tựu phát triển và quản lý kiến trúc 1.1. Về phát triển kiến trúc 1.1.1. Ở khu vực đô thị 12 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- Đô thị là địa bàn thuận lợi nhất để thu hút các nguồn đầu tư. Tại đây, kiến trúc đã phát triển khá mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu quan trọng thể hiện ở các mặt sau: a/ Phạm vi hoặc địa bàn phát triển kiến trúc đã không ngừng được mở rộng cùng với quá trình đô thị hoá, tăng trưởng và phát triển đô thị. Năm 1995, cả nước có trên 400 đô thị với dân số đô thị là 11,8 triệu người, chiếm 20% số dân toàn quốc, nhưng đến nam 2000 mạng lưới đô thị đã được phát triển và mở rộng với 646 đô thị cùng với khoảng 18 triệu người, chiếm khoảng 24% dân số toàn quốc. Sự phát triển các đô thị trong thời gian qua chủ yếu dựa trên cơ sở các đô thị hiện có và các đô thị mới được hình thành từ các thị tứ, khu công nghiệp và các hoạt động dịch vụ ở các vùng đang phát triển, các khu kinh tế cửa khẩu và khoảng 70 khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao. Quá trình mở rộng mạng lưới đô thị đã tạo cơ sở mở rộng địa bàn phát triển kiến trúc trên phạm vi cả nước. b/ Kiến trúc ở các đô thị đã phát triển với quy mô lớn, làm thay đổi cấu trúc không gian và hình ảnh đô thị. Tại các đô thị, đặc biệt là các đô thị lớn, nhiều công trình kiến trúc mới có quy mô lớn, nhiều tầng đã được xây dựng. Nhiều đường phố mới, khu đô thị, khu công nghiệp mới có cơ sở hạ tầng đồng bộ đã được hình thành. Ngoài ra, một số các khu nhà ổ chuột trên kênh rạch hoặc các xóm liều cũng được cải tạo nâng cấp đã làm cho quy mô, cấu trúc không gian, hình ảnh và mỹ quan đô thị được cải thiện, góp phần tích cực phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. c/ Kiến trúc phát triển khá đa dạng với nhiều thể loại và hình thức phong phú, trong đó một số công trình kiến trúc có chất lượng thẩm mỹ cao, có sự tìm tòi và sáng tạo mới. Cùng với chính sách phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, các nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài đã được huy động vào mục đích xây dựng đô thị, nhờ đó kiến trúc đô thị đã phát triển khá đa dạng với nhiều thể loại và hình thức phong phú. Một số công trình khách sạn, ngân hàng, thể dục thể thao, nghỉ mát du lịch và nhà ở được xây dựng ở thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số đô thị khác có chất lượng thẩm mỹ cao, với sự tìm tòi và sáng tạo mới đã có tác dụng thúc đẩy sự năng động của các kiến trúc sư và làm thay đổi tư duy nhận thức các chủ đầu tư. d/ Việc bảo tồn, tôn tạo các di sản văn hoá lịch sử và cảnh quan thiên nhiên bước đầu đã được coi trọng. Vịnh Hạ Long, Cố đô Huế, Di tích Mỹ Sơn và Đô thị cổ Hội An đã được tu bổ, nâng cấp và được công nhận là di sản văn hoá Thế giới, Bản đồ các khu bảo tồn thiên nhiên đã được Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường lập năm 2001. Tại các đô thị, các di sản văn hoá lịch sử và các công trình kiến trúc có giá trị tiêu biểu cho các thời kỳ khác nhau đã được các chính quyền địa phương coi trọng, xếp hạng và gìn giữ. Ở một số nơi, Bộ Văn hoá - Thông tin và chính quyền địa phương đã dành một khoản đầu tư xứng đáng cho việc cải tạo, nâng cấp và bảo vệ các công trình này. 13 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- 1.1.2. Phát triển kiến trúc công trình a/ Đối với kiến trúc nhà ở. Từ những năm 1960 các khu nhà ở nhiều tầng bằng tấm nhỏ đầu tiên đã xuất hiện ở nhiều thành phố trên miền Bắc. Đến thập kỷ 70 - 80, tại các đô thị miền Bắc, miền Trung đã xây dựng hàng loạt nhà bằng kết cấu lắp ghép lớn hoặc bằng kết cấu gạch kết hợp với tấm lớn, kiểu bố cục căn hộ: một phòng và 2 phòng khép kín, bếp và khu vệ sinh riêng hoàn chỉnh. Kiến trúc nhà ở phát triển trong thời kỳ bao cấp và trong hoàn cảnh chiến tranh kéo dài đã có những đóng góp nhất định của các kiến trúc sư trong việc tìm kiếm một hình thái không gian kiến trúc phù hợp với điều kiện thiên nhiên và vật chất, kỹ thuật còn khó khăn, nhờ đó đã phản ánh được tính hiện thực của một thời kỳ phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Từ những năm 90, nhà ở đô thị đã phát triển rất mạnh mẽ. Sự ra đời của hàng loại các khu nhà ở, đặc biệt là nhà ở do dân tự xây đã nâng chỉ tiêu diện tích nhà ở bình quân từ 2,5m2 sàn/người(1990) lên 5,8m2 sàn/người (năm 1999). Chất lượng không gian nhà ở đã có tiến bộ rõ rệt. Các căn hộ cũ có chung nhau khu phụ đã được thay bằng các căn hộ mới khép kín với diện tích các phòng thích hợp, sử dụng tiện lợi. Nếu như việc phát triển nhà ở trước đây chỉ dựa vào một vài mẫu căn hộ điển hình thì nay đã được thay thế bằng nhiều mẫu căn hộ đẹp, có mức tiện nghi khác nhau. Sự xuất hiện nhiều loại nhà ở: biệt thự, chung cư, nhà liền kề do nhà nước xây dựng hoặc nhân dân tự xây dựng có sự quản lý của nhà nước về mặt quy hoạch xây dựng và sử dụng đất đai đã góp phần làm phong phú thêm kiến trúc khu ở nói riêng và đô thị nói chung. Nhà ở 4-5 tầng đã có hình khối đơn giản hơn, với hình thức đã đạt được sự thống nhất. Giải pháp bố cục quy hoạch chi tiết một số khu ở khá sinh động, trên cơ sở kết hợp hài hoà giữa nhà nhiều tầng với nhà thấp tầng. Các khu nhà ở mới hình thành tại Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hà Nội, thành phố Vũng Tàu và một số đô thị khác được xây dựng gần đây dựa trên cơ sở những quan điểm mới về quy hoạch xây dựng và cơ chế đầu tư phát triển, đã đáp ứng được nhu cầu người tiêu dùng. Các hệ thống kết cấu xây dựng nhà ở cũng đã phong phú hơn, bao gồm hệ tường gạch chịu lực, xây tay đến kết cấu khung, nhà bê tông cốt thép hoặc lắp ghép với các công nghệ, trang thiết bị thi công được cơ giới hoá đảm bảo được các yêu cầu về tiến độ và chất lượng công trình. b/ Đối với kiến trúc các công trình công cộng Từ những năm 60, các công trình công cộng như nhà trẻ, trường học, trạm y tế, cửa hàng các loại cùng với hệ thống hạ tầng kỹ thuật được xây dựng tương đối đồng bộ, đáp ứng được các nhu cầu cơ bản của nhân dân. Từ sau Đại hội VI của Đảng năm 1986, kiến trúc các công trình dân dụng đã có bước phát triển vượt bậc, với sự ứng dụng ngày càng nhiều các thành tựu khoa học công nghệ và vật liệu mới. Sự hội nhập bước đầu với kiến trúc thế giới đã làm cho kiến trúc công cộng trở nên đa dạng hơn, phong phú hơn. Các công trình do các kiến trúc sư trong nước hoặc kiến trúc sư nước ngoài thiết kế như: khách sạn, văn phòng, các trung tâm thương mại, siêu thị được đầu tư bằng vốn trực tiếp của nước ngoài đã đạt được chất lượng khá cao. Nhà ga sân bay quốc tế Nội Bài với dây chuyền công nghệ hiện đại, kết cấu không gian khẩu độ lớn lần đầu tiên được áp dụng ở nước ta. Các công trình Trung tâm Hội nghị Quốc tế, các nhà thi đấu thể 14 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- thao, các công trình văn hoá, các khu nghỉ mát, các công trình vui chơi giải trí đã đạt trình độ quốc tế. Nếu trong hoàn cảnh chiến tranh, các công trình kiến trúc công cộng chưa có điều kiện xây dựng đồng bộ, hoàn chỉnh thì nay đã được đầu tư xây dựng hoàn chỉnh hơn, nhất là các công trình văn phòng, nhà hàng, khách sạn, tượng đài, công viên, vườn hoa,v.v với ngôn ngữ, hình thức kiến trúc mới, phong phú góp phần đổi mới hình ảnh đô thị. (8) c/ Đối với kiến trúc các công trình công nghiệp. Trong những năm cuối thập kỷ 60 - 70, kiến trúc các công trình công nghiệp còn nặng nề hình thức; kết cấu, dây chuyền công nghệ sản xuất cũ và giải pháp kiến trúc công nghệ chưa phù hợp với điều kiện khí hậu địa phương, có ảnh hưởng xấu đến môi trường. Từ sau năm 1986, tốc độ phát triển kiến trúc công nghiệp đã tăng nhanh về số luợng và chất lượng. Một số khu công nghiệp cũ trong thành phố là nguồn gây ô nhiễm môi trường đã được cải tạo hoặc di dời nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và cải thiện điều kiện vệ sinh môi truờng. Khoảng 70 khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, khu công nghệ cao mới đã được thành lập với sự đầu tư của nước ngoài và trong nước. Hình thức kiến trúc các công trình sản xuất đã hướng tới tính giản dị, tính chân thực, nhẹ nhàng và khoáng đạt hơn cùng với việc sử dụng hệ thống kết cấu xây dựng chủ yếu bằng thép. Nhà nước đã tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào các khu công nghiệp như cầu, đường, cảng biển, cảng hàng không,v.v tạo điều kiện cho các khu công nghiệp phát triển và nhờ vậy kiến trúc các công trình công nghiệp đã có bước tiến đáng kể, trở thành một bộ phận quan trọng của nền Kiến trúc nước nhà. 1.2. Về quản lý kiến trúc 1.2.1. Công tác quy hoạch xây dựng Quy hoạch xây dựng là cơ sở để quản lý phát triển các đô thị, khu dân cư nông thôn, tạo lập môi trường sống thích hợp cho dân cư và là tiền đề hình thành và phát triển kiến trúc, cảnh quan. Do vị trí và tầm quan trọng của quy hoạch xây dựng, trong những năm qua, công tác này đã được nhà nước quan tâm đầu tư, chỉ đạo đạt kết quả tốt. Trong hơn10 năm, từ 1990 đến nay, 86 thành phố, thị xã và gần 30 đô thị mới đã có quy hoạch chung đến năm 2010 được duyệt, trong đó đã có nhiều đồ án quy hoạch chung đến năm 2020 đã được điều chỉnh. Quy hoạch chung 560 thị trấn về cơ bản đã và đang được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức lập, xét duyệt. Quy hoạch chi tiết 70 khu công nghiệp, các quận và các khu chức năng chính trong đô thị đã được lập, xét duyệt để làm cơ sở triển khai đầu tư xây dựng và quản lý đô thị. Đối với vùng đô thị lớn, do tính chất đa ngành và liên vùng ngoài quy hoạch chung nhà nước đã cho lập quy hoạch xây dựng chuyên ngành. Gần 9000 xã trên địa bàn cả nước cũng đang được chỉ đạo lập quy hoạch xây dựng, trong số đó nhà nước đặc biệt quan tâm ưu tiên và có chương trình riêng cho các dự án quy hoạch xây dựng 15 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- các trung tâm xã, cụm xã và các khu dân cư trong vùng bị ngập lũ bị thiên tai đe doạ. Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và hướng dẫn của Bộ Xây dựng, quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị, khu dân cư nông thôn tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đang được lập, xét duyệt để cụ thể hoá Định hướng quy hoạch tổng thể phát triển đô thị cả nước đến năm 2020, làm cơ sở để điều chỉnh quy hoạch xây dựng đô thi, khu dân cư nông thôn và chỉ đạo việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, bảo vệ môi trường trên diện rộng. 1.2.2. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý quy hoạch xây dựng và kiến trúc. Các văn bản quy phạm pháp luật về quy hoạch, đầu tư và xây dựng, quản lý kiến trúc cảnh quan và nhà đất đã ban hành khá đồng bộ nhằm tăng cường công tác quản lý xây dựng đô thị và khu dân cư nông thôn. Quản lý kiến trúc cảnh quan đô thị ở nước ta là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của công tác qui hoạch xây dựng đô thị, đang từng bước được hoàn thiện. Công cụ chủ yếu của quản lý phát triển kiến trúc cảnh quan đô thị là quy hoạch, kế hoạch và pháp luật. Theo qui định của Nghị định số 91/CP ngày 17/8/1994 của Chính phủ, Quyết định 322/BXD-ĐT ngày 28/12/1993 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng ban hành quy định lập các đồ án quy hoạch xây dựng đô thị, hệ thống các đồ án quy hoạch phát triển đô thị đang được áp dụng trong thực tiễn ở nước ta như sau: - Định hướng Quy hoạch tổng thể phát triển đô thị quốc gia đến năm 2020. - Sơ đồ quy hoạch xây dựng vùng - Quy hoạch chung xây dựng đô thị - Quy hoạch chi tiết Đồ án qui hoạch xây dựng và điều lệ quản lý qui hoạch cung cấp một hệ thống các qui định kiểm soát phát triển không gian kiến trúc cảnh quan đô thị, gồm những chỉ tiêu về phân khu chức năng, hệ số sử dụng đất, mật độ xây dựng, lộ giới, hạn tuyến, tầng cao, yêu cầu kiến trúc cảnh quan, bảo tồn, hạ tầng kỹ thuật,vv Các văn bản pháp quy chủ yếu có liên quan đến nội dung quản lý kiến trúc-cảnh quan đô thị được ban hành hiện nay gồm: các văn bản về kiểm soát sự phát triển đô thị theo quy hoạch: giới thiệu địa điểm, cấp chứng chỉ quy hoạch, lập, xét duyệt các dự án đầu tư; giao đất, cho thuê đất, lập, thẩm định các thiết kế xây dựng, cấp giấy phép đầu tư, cấp giấy phép xây dựng đô thị, kiểm tra giám định chất lượng công trình; lập hồ sơ hoàn công; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu công trình; các văn bản về thanh tra, kiểm tra, xử phạt hành chính trong quản lý trật tự xây dựng đô thị; phát triển nhà và đất, các văn bản về quy định về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, bộ máy quản lý quy hoạch và xây dựng đô thị; các văn bản hướng dẫn chuyên môn và nghiệp vụ kỹ thuật; quy chuẩn, quy trình kỹ thuật, tiêu chuẩn kỹ thuật, chỉ dẫn thiết kế, v.v.v có liên quan. Nói chung hệ thống các văn bản pháp luật đã qui định cụ thể nội dung về kiểm soát xây dựng đô thị theo quy hoạch như giới thiệu địa điểm, cấp chứng chỉ quy hoạch, lập, xét duyệt các thiết kế xây dựng, cấp giấy phép đầu tư, cấp giấy phép xây dựng đô thị, kiểm tra giám định chất lượng công trình; lập hồ sơ hoàn công; thanh tra, 16 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- kiểm tra, xử phạt hành chính trong quản lý trật tự xây dựng đô thị; quản lý hành nghề kiến trúc sư; chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, bộ máy quản lý quy hoạch và xây dựng đô thị; các văn bản hướng dẫn chuyên môn và nghiệp vụ kỹ thuật; quy chuẩn, quy trình kỹ thuật, tiêu chuẩn kỹ thuật, chỉ dẫn thiết kế, v.v 1.2.3. Các mô hình quản lý đầu tư và phát triển đô thị Nhiều mô hình đầu tư và xây dựng mới như: mô hình dự án các khu công nghiệp tập trung, mô hình sử dụng quỹ đất tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị, mô hình dự án phát triển các khu đô thị tập trung, mô hình các khu kinh tế cửa khẩu; dự án cải tạo các khu phố, tuyến phố tập trung, các dự án theo hình thức BOT, BT, BOO được hình thành nhằm thu hút các nguồn lực vào đầu tư xây dựng theo quy hoạch, tạo lập sự phát triển đồng bộ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc cảnh quan, từng bước xoá bỏ hình thức xây dựng chia lô manh mún, riêng lẻ và hiện tượng phát triển tự phát còn tồn tại khá phổ biến hiện nay trong đô thị. 1.2.4. Về phân công, phân cấp trong quản lý đô thị Trên cơ sở hệ thống chính trị, bộ máy nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân đã được hoàn thiện. Quyền và nghĩa vụ của Uỷ ban nhân dân, Hội đồng nhân dân các cấp cũng đã được xác định rõ tại các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nưóc. Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố Trung ương đã rất coi trọng việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về quy hoạch xây dựng và kiến trúc đô thị. Ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, Chính phủ đã cho phép áp dụng thí điểm mô hình kiến trúc sư trưởng thành phố để thống nhất quản lý kiến trúc và quy hoạch trên địa bàn. Tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các cơ quan đơn vị tư vấn chuyên môn như Viện quy hoạch xây dựng, các công ty tư vấn xây dựng, Hội đồng kiến trúc - quy hoạch và các Hội nghề nghiệp đã thành lập và được tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động để có thể tư vấn cho Nhà nước hoặc chủ đầu tư lựa chọn được những mô hình, giải pháp phát triển kiến trúc hợp lý nhất. Tại các đô thị, vai trò của Chính quyền đô thị cũng đã được nâng cao, nhất là trong việc tổ chức thực hiện quy hoạch và pháp luật, giải quyết các thủ tục hành chính, cung cấp cơ sở hạ tầng và đảm bảo trật tự xây dựng trong đô thị. Hiệp hội đô thị các tỉnh lỵ đã được thành lập nhằm trao đổi các kinh nghiệm và phối hợp các hành động trong quản lý và phát triển đô thị. 1.3. Đánh giá chung Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực phát triển và quản lý kiến trúc đô thị trong thời gian qua trước hết là do đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước đã tạo tiền đề thu hút nhiều nhân tài, vật lực vào sự nghiệp phát triển đô thị, khu dân cư nông thôn, trong đó có sự tham gia tích cực của nhân dân vào quá trình sáng tạo, kiểm soát phát triển, tạo lập môi trường sống và sự cố gắng lớn lao của giới kiến trúc sư có vốn sống, giầu lòng yêu nghề, giữ được phẩm chất đạo đức, kiên định quan điểm sáng tạo phục vụ nhân dân, phục vụ sự nghiệp cách mạng, đã đóng góp cho nước nhà những tác phẩm kiến trúc có giá trị. 2. Những tồn tại và yếu kém 17 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- Bên cạnh những thành tựu đạt dược, công tác phát triển và quản lý kiến trúc trong thời gian qua còn bộc lộ nhiều tồn tại và yếu kém; 2.1. Kiến trúc phát triển còn thiếu trật tự, đa dạng nhưng không thống nhất và chưa có bản sắc riêng Tại các đô thị, trật tự kiến trúc của toàn đô thị nói chung và từng đường phố, khu phố nói riêng chưa được thiết lập. Sự phát triển thiếu một định hướng thống nhất và sự thiếu kiểm soát chặt chẽ đã làm bộ mặt kiến trúc công trình được tạo lập riêng lẻ theo yêu cầu của chủ đầu tư hoặc theo sở thích riêng của người thiết kế, của người quản lý đã làm cho mỹ quan kiến trúc đô thị bị xuống cấp. Kiến trúc của từng đô thị, từng khu dân cư nhìn chung chưa có được bản sắc riêng. Cảnh quan đô thị là một tổng thể các công trình kiến trúc, công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật và thiên nhiên có quan hệ chặt chẽ với nhau tạo nên vẻ đẹp cuả kiến trúc đô thị. Song nhìn chung, việc cải tạo và xây dựng đô thị vẫn nặng về chắp vá không đồng bộ, cơ sở hạ tầng thiếu, xuống cấp, thiên nhiên bị xâm phạm, môi trường bị ô nhiễm, nên không có được tính thống nhất trong tổng thể kiến trúc. 2.2. Trong thiết kế sáng tác kiến trúc chưa có tác phẩm lớn, đạt đỉnh cao về chất lượng tương xứng với tầm vóc của thời kỳ đổi mới. Giai đoạn từ 1954 đến 1975, hoàn cảnh kinh tế đất nước hết sức khó khăn nên ít công trình được xây dựng. Một số các công trình tuy được xây dựng theo quy hoạch, kế hoạch nhưng hình thức kiến trúc thường nghèo nàn. Từ năm 1975 đến nay, nhất là sau năm 1986, nhiều vật liệu xây dựng và công nghệ mới được áp dụng đã cho phép đổi mới trong sáng tác kiến trúc. Tuy nhiên, nhiều công trình vẫn còn chạy theo chủ nghĩa hình thức, chắp vá, phô trương chi tiết, nhái lại cái cũ. Hình thức kiến trúc nhà ở còn bị lệ thuộc quá nhiều vào sở thích của chủ đầu tư. Kiến trúc công cộng thiếu bản sắc, đặc biệt là thiếu sự tiếp thu có sáng tạo truyền thống của kiến trúc Việt Nam và các dòng kiến trúc thế giới. Trong những năm gần đây, hình thức kiến trúc các công trình bị lai tạp, đặc biệt là nhà ở. Nhìn chung, trong sáng tác kiến trúc vẫn chưa có tác phẩm lớn, đạt đỉnh cao về chất lượng tương xứng với tầm vóc của thời kỳ đổi mới. 2.3. Việc bảo tồn, tôn tạo các di sản văn hoá, lịch sử, cảnh quan thiên nhiên và các công trình kiến trúc có giá trị còn nhiều bất cập. Công việc này trong thời gian qua tuy đã được chú ý, nhưng vẫn chưa được tiến hành thường xuyên và thiếu hệ thống, đôi khi còn bị các mục tiêu sản xuất kinh doanh lấn át nên nhiều di sản văn hoá lịch sử và cảnh quan đã bị xuống cấp, thậm chí còn bị vi phạm nghiêm trọng, làm biến dạng hoặc mai một các giá trị văn hoá và lịch sử vốn có của các công trình theo thời gian. Việc bảo tồn kiến trúc cổ chưa được quan tâm hoặc chưa có biện pháp hữu hiệu bảo vệ, gìn giữ và phát huy giá trị trong điều kiện đổi mới. 2.4. Quản lý chưa làm chủ động và kiểm soát được tình hình phát triển Việc soạn thảo các định hướng phát triển, các chính sách và pháp luật để quản lý kiến trúc còn chưa bắt kịp với sự phát triển của kiến trúc đô thị và nông thôn. Công tác quản lý kiến trúc nhìn chung vẫn chưa làm chủ được tình hình và chưa phù hợp với yêu câù phát triển của kiến trúc. Tình trạng xây dựng lộn xộn không có quy 18 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- hoạch, xây dựng không phép và trái phép còn khá phổ biến. Lực lượng sáng tác kiến trúc và quản lý kiến trúc- xây dựng trong các đô thị - nông thôn còn yếu. Việc cấp phép xây dựng còn khá nhiều phiền hà và tiêu cực. Các chính sách, biện pháp, cơ chế hành nghề kiến trúc sư và tạo vốn phát triển kiến trúc còn thiếu. Các thủ tục hành chính trong giao đất, cấp giấy phép xây dựng và thẩm định các dự án đầu tư còn rườm rà, phức tạp. Các tồn tại lịch sử trong quản lý nhà và đất đô thị chưa được giải quyết dứt điểm đang là trở ngại lớn trong việc thiết lập lại trật tự kỷ cương và tạo nguồn lực phát triển đô thị. Quan hệ giữa quy hoạch, thiết kế đô thị và thiết kế kiến trúc công trình còn thiếu phối hợp chặt chẽ. Thiết kế đô thị chưa được thể chế hoá và chưa có chuyên gia về lĩnh vực này. Công nghệ thiết kế còn bất hợp lý. Thiết kế sơ bộ, thiết kế sơ phác là khâu mang tính sáng tạo cốt lõi nhất lại bị lồng ghép trong nội dung quản lý đầu tư nên bị lu mờ, coi nhẹ. Giá thiết kế thấp cũng là nguyên nhân của chất lượng thiết kế kém. Mối quan hệ giữa thiết kế và thi công chưa hợp lý đã gây ra sự lộn xộn trong quản lý đô thị và có ảnh hưởng xấu tới kiến trúc, cảnh quan. Quản lý kiến trúc nông thôn còn bị buông lỏng. Nhà nước chưa có chính sách động viên thích đáng các kiến trúc sư đi vùng sâu, vùng xa nên sự phân bổ lực lượng sáng tác kiến trúc không đều trên địa bàn cả nước. 2.5. Lĩnh vực lý luận phê bình sáng tác kiến trúc, nghiên cứu, đào tạo và hành nghề kiến trúc sư chưa được coi trọng Tình hình kém lý luận và thiếu thông tin trong lĩnh vực lý luận phê bình kiến trúc đã có ảnh hưởng đến chất lượng sáng tác kiến trúc. Hệ thống tiêu chuẩn ISO về xây dựng; những quy chuẩn về quy hoạch, về xây dựng, về phòng cháy, chữa cháy và hệ thống tiêu chuẩn của các nước phát triển là nguồn chất xám và trí tuệ quý báu của cộng đồng thế giới chưa được khai thác là trở ngại lớn đối với chủ trương xuất khẩu thiết kế, thi công ra các nước và hội nhập thế giới. Bước vào Thế kỷ XXI, tri thức và thông tin đang trở thành động lực của sự phát triển. Tuy nhiên, việc thu thập và trao đổi thông tin với các nước còn rất hạn chế. Nhiều cơ quan nghiên cứu tư vấn, khi giải quyết một vấn đề mới hoặc thiết kế các công trình lớn, phức tạp về công nghệ, thường gặp khó khăn, lúng túng về tư liệu và kiến thức. Trong lĩnh vực đào tạo, phương pháp và nội dung chương trình đào tạo kiến trúc sư còn những hạn chế, vì vậy chất lượng đào tạo chưa cao. Tổ chức hành nghề kiến trúc sư còn trong tình trạng lộn xộn. Nhiều tổ chức tư vấn thiết kế chưa đủ năng lực. Việc cấp chứng chỉ hành nghề và kiểm tra chất lượng hành nghề chưa chặt chẽ. Trách nhiệm và quyền hạn của kiến trúc sư trong xây dựng chưa được phân định rõ ràng; việc bảo hộ quyền tác giả của kiến trúc sư chưa được hướng dẫn. 3. Những nguyên nhân 3.1. Về mặt khách quan 3.1.1. Nước ta đã phải trải qua nhiều năm bị chiến tranh tàn phá nặng nề; trình độ phát triển lực lượng sản xuất còn yếu, cùng với nền kinh tế kém hiệu quả, bị tác động bởi cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp đã làm cho tình hình kinh tế chậm phát 19 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- triển nói chung và nền kiến trúc nói riêng của nước ta ở mức thấp, tụt hậu khá xa so với những nước phát triển. 3.1.2. Cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế bên cạnh những tác động tích cực to lớn đã bộc lộ những mặt trái tiêu cực. Sự phát triển chạy theo lợi nhuận thuần tuý đã có ảnh hưởng không nhỏ đến việc lựa chọn các giải pháp kiến trúc có chất lượng cao. 3.1.3. Nước ta còn nghèo, cơ sở kinh tế còn yếu kém, trình độ khoa học và công nghệ chưa phát triển, trong khi phát triển kiến trúc có chất lượng cao, ngoài tri thức còn phải có nguồn vốn rất lớn, trình độ khoa học và công nghệ hiện đại, song khả năng đáp ứng còn hạn chế do thiếu những điều kiện và phương tiện vật chất cần thiết. 3.2. Về mặt chủ quan 3.2.1. Trình độ dân trí và nhận thức về quản lý và phát triển kiến trúc chưa cao. Công tác thông tin, tuyên truyền, phổ cập các tri thức về văn hoá, kiến trúc chưa làm được nhiều và còn thiếu những biện pháp thiết thực. Nhà nước còn thiếu cơ chế tạo điều kiện để cho dân tham gia vào quá trình tạo lập, phát triển kiến trúc và bảo vệ môi trường sống. 3.2.2. Trong đội ngũ sáng tác kiến trúc còn thiếu nhân tài, thiếu những khuynh hướng có tầm chiến luợc. Đội ngũ chuyên gia hành nghề thiết kế kiến trúc chưa được trang bị những kiến thức cần thiết về pháp luật và các thông tin cập nhật về tiến bộ khoa học kỹ thuật có liên quan đến nghề nghiệp chuyên môn và về một phương pháp thiết kế kiến trúc mới. Một bộ phận kiến trúc sư còn coi trọng lợi ích kinh tế thuần tuý, chưa đề cao đạo đức nghề nghiệp, nên đã chạy theo thị hiếu thị trường. 3.2.3. Trong quản lý kiến trúc còn có những biểu hiện buông lỏng, né tránh, hữu huynh; thiếu định hướng phát triển lâu dài và thiếu văn bản quy phạm pháp luật, khung và các cơ chế, chính sách tạo điều kiện phát triển kiến trúc. Quy trình kiểm soát phát triển kiến trúc lồng ghép trong quản lý đầu tư và xây dựng còn chưa hợp lý. Tổ chức bộ máy quản lý kiến trúc, quy hoạch ở các cấp, các ngành còn thiếu hệ thống. Năng lực cán bộ, công chức quản lý kiến trúc và quy hoạch ở các cấp nhìn chung còn bất cập. 3.2.4. Công tác đào tạo kiến trúc sư chưa được đổi mới. Chất lượng đào tạo kiến trúc sư chưa cao, vẫn còn nặng nề về số lượng. Nội dung chương trình giảng dạy còn chậm được cải tiến; trình độ đội ngũ cán bộ giảng dạy còn hạn chế; cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy còn thiếu thốn. Việc đào tạo sau đại học, thạc sĩ, tiến sĩ còn tràn lan, trình độ chưa tương xứng với bằng cấp, chưa coi trọng đào tạo chuyên gia làm công tác nghiên cứu, lý luận, phê bình và đào tạo lại cho các chuyên gia đang công tác. 4. Phương hướng và nhiệm vụ phát triển kiến trúc Việt Nam đến năm 2020 4.1. Mục tiêu 4.1.1. Mục tiêu tổng quát Mục tiêu tổng quát của Định hướng phát triển kiến trúc Việt Nam đến năm 2020 là “ Nâng cao chất lượng kiến trúc, phát triển môi trường cư trú bền vững, đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển văn hoá, kinh tế, xã hội trong sự nghiệp công 20 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo tiền đề vững chắc cho quá trình hình thành một nền kiến trúc Việt Nam hiện đại, giàu bản sắc dân tộc trong Thế kỷ XXI". 4.1.2. Những mục tiêu cụ thể a/ Nghiên cứu, xác lập cơ sở lý luận về tính hiện đại và tính dân tộc của Kiến trúc Việt Nam, trên cơ sở đó tuyên truyền, giáo dục và nâng cao nhận thức cho giới Kiến trúc sư và toàn dân về ý nghĩa, tầm quan trọng, phương hướng, nhiệm vụ xây dựng một nền kiến trúc hiện đại, giàu bản sắc dân tộc. b/ Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá kiến trúc truyền thống và bản sắc dân tộc trong phát triển kiến trúc nước nhà. c/ Đào tạo, xây dựng đội ngũ Kiến trúc sư có năng lực, có đức, có tài, có bản lĩnh nghề nghiệp, trong đó phải đặc biệt coi trọng việc vun trồng những kiến trúc sư đầu ngành; có chính sách hành nghề kiến trúc phù hợp để các kiến trúc sư có thể sáng tạo ra được nhiều tác phẩm kiến trúc có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu vật chất, tinh thần của con người và xã hội, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước. d/ Phát huy vai trò của dân cư và cộng đồng trong việc tham gia phát triển kiến trúc hiện đại, dân tộc và tạo lập môi trường cư trú bền vững. e/ Tăng cường vai trò quản lý nhà nước về kiến trúc theo định hướng phát triển nền kiến trúc hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc. 4.2. Những quan điểm chỉ đạo cơ bản 4.2.1. Kiến trúc phục vụ và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Thành quả phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong 15 năm đổi mới đã tạo ra tiền đề phát triển kiến trúc, làm cho các đô thị, khu dân cư nông thôn phát triển mạnh mẽ, khối lượng xây dựng các loại công trình gia tăng, bộ mặt kiến trúc cảnh quan đô thị - nông thôn được cải thiện rất đáng kể. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chủ trương tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa đang mở ra những nhu cầu và khả năng to lớn cho sự phát triển kiến trúc, tạo ra những cơ hội mới cho sự sáng tạo của các kiến trúc sư trong việc xây dựng chỗ ở và tạo lập môi trường sống của con người. Tuy nhiên, kiến trúc không chỉ là kết quả của kinh tế, mà còn là động lực của sự phát triển kinh tế. Sự phát triển của kiến trúc đã góp phần thúc đẩy ngành công nghiệp, xây dựng nước nhà đã giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, chiếm tỷ lệ 36,6% trong tổng giá trị sản lượng quốc dân. 4.2.2. Phát triển kiến trúc phải phù hợp với đường lối của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hoá, nghệ thuật của nước ta được hình thành và phát triển qua nhiều năm lịch sử do công lao to lớn cuả 54 dân tộc đã vun đắp nên. Vì thế nó rất đa dạng, phong phú và có bản sắc riêng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ V của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII và Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ "Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, 21 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá". Kiến trúc là hiện thân của văn hoá, là tấm gương phản ánh trình độ văn minh của một xã hội, vì vậy, phát triển kiến trúc phải quán triệt quan điểm của Đảng: Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, kết hợp với việc tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại. Xây dựng và phát triển kiến trúc là nhằm tạo ra môi trường văn hoá tốt đẹp cho mọi người, làm phong phú đời sống tinh thần của toàn xã hội. Do đó, kiến trúc cần được phát triển trên cơ sở kế thừa các thành quả phát triển kiến trúc của nhân loaị; khai thác tinh hoá văn hoá kiến trúc địa phương thông qua việc nghiên cứu lịch sử, bảo vệ và phát huy tính độc đáo văn hoá kiến trúc truyền thống của các vùng; coi trọng tố chất văn hoá của mỗi người sáng tác và kết hợp nhuần nhuyễn giữa khoa học với sáng tạo nghệ thuật. 4.2.3. Phát triển kiến trúc phù hợp với điều kiện tự nhiên, góp phần vào việc giữ gìn cân bằng sinh thái và bảo vệ môi trường Các điều kiện tự nhiên như đất đai, địa hình, địa chất, thuỷ văn, khí hậu, cảnh quan là những yếu tố tiên quyết hình thành các giải pháp kiến trúc, tạo lập nên môi trường sống cuả con người và của các hệ sinh thái tự nhiên. Sự phù hợp kiến trúc với tự nhiên thể hiện ở chỗ không gian kiến trúc được tạo lập phải kết hợp hài hoà hoặc gắn bó hữu cơ với khung cảnh thiên nhiên, đồng thời làm phong phú thêm môi trường và cảnh quan thiên nhiên. Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, nước ta là một dải đất chạy dài từ Bắc xuống Nam, qua nhiều vĩ tuyến, có địa hình, cảnh quan đa dạng gồm đồi, núi, cao nguyên, đồng bằng và cửa sông ven biển. Đặc điểm tự nhiên đó là cơ sở hình thành một nền kiến trúc đa dạng, lấy việc bảo vệ môi trường và quy luật cân bằng sinh thái làm cơ sở để phát triển kiến trúc sinh thái bền vững, giảm thiểu tối đa sự tác động xấu đối với tự nhiên; coi trọng việc xử lý chất thải sinh hoạt và sản xuất bằng các giải pháp và công nghệ thích hợp. 4.2.4. Kiến trúc phải phục vụ nhân dân, coi trọng lợi ích của toàn xã hội Xây dựng và phát triển kiến trúc là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ kiến trúc sư và sự tham gia của nhân dân giữ vai trò quan trọng. Một công trình kiến trúc có chất lượng cao, trước hết phải có giá trị sử dụng, giá trị thẩm mỹ và lấy việc phục vụ đại đa số quần chúng nhân dân và lợi ích của toàn xã hội làm mục đích cao nhất. Nói một cách khác, kiến trúc phải mang tính đại chúng. Xuất phát từ đặc điểm trên, công tác phát triển kiến trúc phải bắt nguồn từ yêu cầu cuộc sống, các hoạt động của con người, xã hội, điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế, trình độ khoa học - kỹ thuật và văn hoá để xây dựng môi trường vật chất và tổ chức chỗ ở, làm việc nghỉ ngơi giải trí phù hợp. Trong môi trường đó, những công trình kiến trúc có giá trị toàn diện về các mặt công năng, nghệ thuật, giá thành phù hợp với điều kiện và trình độ kinh tế của từng giai đoạn phát triển sẽ đem lại niềm tin, hạnh phúc, sự sáng tạo cho các thành viên xã hội. 4.2.5. Phát triển kiến trúc trên cơ sở áp dụng có chọn lọc các tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại và thích hợp. 22 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- Khoa học kỹ thuật là cơ sở cho sự sáng tạo kiến trúc, giúp cho kiến trúc những bước phát triển mới. Sự giao lưu văn hoá, kinh tế thúc đẩy công nghệ xây dựng ở nước ta phát triển, cho phép sử dụng vật liệu xây dựng, kết cấu mới, trang thiết bị và công nghệ thi công hiện đại trong sáng tạo kiến trúc. Việc ứng dụng các thành quả khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại của thế giới vào Việt Nam cần được cân nhắc nhiều mặt để chọn được công nghệ xây dựng phù hợp, tránh nguy cơ huỷ hoại môi trường. Ngoài ra, sự áp dụng rộng rãi công nghệ mới thiếu cân nhắc trong xây dựng và kiến trúc của thế giới có thể sẽ dẫn tới mất đi bản sắc địa phương trong xu thế "toàn cầu hoá kiến trúc". Vì vậy, việc du nhập khoa học công nghệ xây dựng của thế giới vào nước ta cần được nghiên cứu, áp dụng có chọn lọc vừa đảm bảo tính hiện đại, vừa không làm mờ nhạt đi bản sắc dân tộc của kiến trúc nước nhà. Do đặc điểm của thời đại có nhiều kỹ thuật cùng tồn tại, nên trong phát triển kiến trúc cần áp dụng đồng thời các giải pháp thích hợp với địa phương gồm kỹ thuật truyền thống, công nghệ thích hợp (appropriate technology) và kỹ thuật cao (high tech, low tech) tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng địa phương và của từng công trình. 4.2.6. Phát triển bền vững Phát triển bền vững là sự lựa chọn chung của xã hội loài người; là sự phát triển làm thoả mãn nhu cầu hiện tại, nhưng không làm tổn hại đến năng lực của các thế hệ mai sau nhằm thoả mãn các nhu cầu của tương lai. Sự phát triển bền vững chính là việc cân đối nhu cầu với tiềm năng, phù hợp với khả năng dung nạp hạn chế của môi trường trên tất cả các phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, khoa học công nghệ, văn hoá, thẩm mỹ và môi trường. Phát triển bền vững là nguyên tắc tổng quát chi phối tư tưởng phát triển kiến trúc Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và trong thế kỷ XXI, là nền tảng gắn sự phát triển kiến trúc của một công trình với đô thị và vùng, gắn thiết kế quy hoạch xây dựng với thiết kế kiến trúc đảm bảo tương lai kiến trúc của mỗi công trình không tách rời với tương lai phát triển của hệ thống cư trú và môi trường sống của con người. 4.3. Định hướng phát triển kiến trúc Việt Nam đến năm 2020. 4.3.1. Phát triển tổngthể kiến trúc đô thị Phát triển và hình thành tổng thể kiến trúc ở khu vực đô thị trên cơ sở phân bố và phát triển hệ thống đô thị cả nước gồm 10 vùng đô thị hoá liên tỉnh, 5 vùng đô thị cấp trung tâm quốc gia, 11 vùng đô thị cấp trung tâm vùng, 73 vùng đô thị cấp trung tâm tỉnh, 2000 đô thị trung tâm cấp huyện, tiểu vùng hoặc khu vực và khoảng 30 đô thị mới. (9) Tổng thể kiến trúc của mỗi vùng và đô thị phải có bản sắc riêng, phù hợp với điều kiện kinh tế, tự nhiên, đặc điểm dân số - xã hội, trình độ khoa học kỹ thuật và truyền thống văn hoá lịch sử của địa phương. Việc hình thành tổng thể kiến trúc của mỗi đô thị phải căn cứ vào các đồ án quy hoạch xây dựng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, trong đó phải coi trọng nội dung thiết kế đô thị, nhằm 23 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- mục tiêu gắn kết các công trình kiến trúc và cảnh quan thiên nhiên tạo thành một chỉnh thể hài hoà, một hình ảnh đô thị đặc trưng đa dạng trong sự thống nhất. Phát triển tổng thể kiến trúc là một quá trình tái hoà nhập giữa quá khứ, hiện tại với tương lai bao gồm việc cải tạo, nâng cấp giá trị làm hồi sinh các khu vực đô thị hiện có, đồng thời phát triển các công trình và khu đô thị mới, hiện đại, có cơ sở hạ tầng đồng bộ, sao cho giữa cải tạo và xây dựng mới được kết hợp hài hoà, môi trường văn hoá kiến trúc truyền thống được đổi mới, song vẫn không mất đi bản sắc của riêng mình. Trong tổng thể kiến trúc, mỗi một công trình phải là một bộ phận cấu thành bố cục chung không gian đô thị. Do đó, việc tạo lập và hình thành một công trình kiến trúc trong tổng thể kiến trúc đô thị phải tuân thủ nguyên tắc kết hợp chung với riêng, cá nhân với cộng đồng, quá khứ với hiện tại và tương lai, nói một cách tổng quát là mọi việc cải tạo, xây dựng trong đô thị phải tuân thủ các quy tắc quản lý quy hoạch và xây dựng đô thị theo một cơ chế kiểm soát chặt chẽ từ khâu địa điểm, cấp chứng chỉ quy hoạch, thiết kế, đầu tư, giao đất, xây dựng đến khâu đăng ký nhà đất nhằm tạo nên một trật tự kiến trúc phù hợp với không gian và thời gian; từng bước giảm tỷ lệ xây dựng các công trình không có thiết kế, không phép, trái phép, xây dựng tự phát manh mún để tăng dần tỷ lệ xây dựng phù hợp với quy hoạch và pháp luật. 4.3.2. Thiết kế và phát triển Kiến trúc các thể loại công trình a/ Thiết kế và phát triển Kiến trúc nhà ở - Tạo ra môi trường cư trú phù hợp với nhu cầu tâm sinh lý của cư dân, coi trọng việc bảo vệ môi trường và cân bằng sinh thái. - Thoả mãn nhu cầu đa dạng, đảm bảo cung cấp nhà ở cho xã hội với nhiều loại hình với các tiêu chuẩn và giải pháp phù hợp. - Sử dụng tiết kiệm đất xây dựng phù hợp với quy định của quy hoạch xây dựng. - Công nghiệp hoá phát triển nhà ở phù hợp với điều kiện của từng địa phương, nhằm thu hút các nguồn lực phát triển, sử dụng vật liệu, áp dụng hợp lý kỹ thuật truyền thống; đẩy nhanh tốc độ phát triển nhà ở. - Khuyến khích ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ mới trong phát triển kiến trúc nhà ở, đảm bảo nhà ở có mức độ trí năng nhất định. - Coi trọng việc kết hợp xây dựng nhà ở mới với việc cải tạo nhà ở hiện có phù hợp với quy hoạch chi tiết và dự án phát triển các khu nhà ở xây dựng tập trung có kết cấu hạ tầng đồng bộ và tổng thể kiến trúc thống nhất. b/ Thiết kế và phát triển kiến trúc công cộng - Bảo vệ môi trường, giữ gìn cân bằng sinh thái góp phần quan trọng trong việc tạo lập cấu trúc bố cục không gian và làm phong phú hình ảnh đô thị. - Coi trọng chất lượng, đảm bảo phản ánh được tinh thần thời đại, truyền thống dân tộc, bản sắc địa phương. Có giải pháp kiến trúc độc đáo, phát triển kiến trúc siêu cao tầng và kiến trúc có khẩu độ lớn, cùng với hệ thống kết cấu, hệ thống thiết bị và hệ thống phòng chống sự cố công nghệ phù hợp với thực tế của Việt Nam. - Áp dụng thành quả khoa học công nghệ mới trong thiết kế và phát triển kiến trúc công cộng. 24 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- c/ Thiết kế và phát triển kiến trúc công nghiệp - Đảm bảo tính thống nhất trên cơ sở quy hoạch xây dựng các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, khu công nghệ cao; tìm tòi giải pháp xây dựng phù hợp với thực tế của từng địa phương. - Nâng cao tính linh hoạt, tính thích dụng phù hợp công nghệ sản xuất, quản lý hiện đại và tiến bộ khoa học kỹ thuật. - Khắc phục khuynh hướng chỉ coi trọng công nghệ sản xuất mà coi nhẹ nhu cầu tâm lý của con người; tạo ra môi trường có lợi cho sản xuất và con người. - Cải tiến và hoàn thiện công tác tiêu chuẩn hoá, định hình hoá, đa dạng hoá và mức độ đồng bộ cấu kiện công trình kiến trúc công nghiệp; phát triển hệ thống kết cấu công trình công nghiệp có hàm lượng khoa học công nghệ cao và mới. - Tiết kiệm năng lượng, tiết kiệm đất, bảo vệ môi trường, phòng chống ô nhiễm và sự cố công nghệ, nâng cao hiệu quả kinh tế , tăng tuổi thọ công trình. - Nghiên cứu cải tạo công nghệ và sử dụng hợp lý kiến trúc công nghiệp hiện có. Việc dỡ bỏ và cải tạo các công trình hiện có phải thận trọng, nhằm giảm bớt chi phí không cần thiết hoặc tránh được những ẩn hoạ khi thay đổi cách sử dụng. d/ Thiết kế và phát triển tiêu chuẩn định hình kiến trúc và các công trình ngầm - Đẩy nhanh công tác thiết kế tiêu chuẩn định hình kiến trúc, xê ri hoá cấu kiện, chế phẩm và thiết bị xây dựng; bước đầu thực hiện công nghiệp hoá sản xuất sản phẩm và thương nghiệp hoá cung ứng sản phẩm. - Kiến trúc ngầm phải được coi trọng trong quy hoạch xây dựng chuyên ngành phù hợp với quy hoạch chung đô thị; quán triệt nguyên tắc "kết hợp sử dụng trong thời bình và thời chiến" bước đầu hình thành hệ thống không gian công cộng ngầm chuyên chở người và hàng hoá kết hợp với các công trình xây dựng trên mặt đất. 4.4. Những nhiệm vụ cụ thể 4.4.1. Tăng cường nghiên cứu lý luận và phê bình kiến trúc. Nghiên cứu lý luận và phê bình kiến trúc giữ vai trò rất quan trọng đối với công tác quản lý, thiết kế và phát triển kiến trúc. Ở Việt Nam, công tác nghiên cứu lý luận có nhiệm vụ tổng kết quá trình hình thành và phát triển kiến trúc truyền thống; nghiên cứu xác lập cơ sở khoa học thiết kế và phát triển kiến trúc trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; hoàn thiện quan niệm về tính dân tộc và tính hiện đại, đổi mới phương pháp thiết kế kiến trúc và bảo tồn các di sản kiến trúc Việt Nam. Trong xu thế toàn cầu hoá và tự do hành nghề kiến trúc sư, kiến trúc Việt Nam sẽ trở thành một bộ phận của kiến trúc quốc tế. Tuy nhiên, kiến trúc Việt Nam chỉ có thể đứng vững được khi còn giữ được bản sắc riêng của chính mình. Vì lẽ đó, việc nghiên cứu lịch sử phát triển kiến trúc thế giới, đặc biệt là các dòng kiến trúc của Thế kỷ XX và xu hướng phát triển kiến trúc hiện đại Thế kỷ XXI là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Những nghiên cứu lý luận về lịch sử phát triển kiến trúc thế giới cho phép xác lập quan niệm mới về kiến trúc hiện đại, từ đó hình thành cơ sở lý luận phát triển kiến trúc hiện đại nước nhà trong xu thế hội nhập với kiến trúc toàn cầu. 25 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- Song song với nghiên cứu lý luận về kiến trúc, công tác phê bình kiến trúc có nhiệm vụ tìm ra cái đúng, cái sai; cái hay, cái dở; cái độc đáo, mới mẻ, cũng như cái kém cỏi của các tác phẩm kiến trúc và của tác giả, từ đó có định hướng đúng đắn cho công tác sáng tác, hướng dẫn tốt cho dư luận xã hội và thị hiếu công chúng nhằm phát huy dân chủ trong sáng tạo và sự tham gia của dân cư trong phát triển kiến trúc. 4.4.2. Tiếp tục đổi mới công tác quy hoạch xây dựng đô thị và hình thành chuyên ngành thiết kế đô thị. Cùng với sự nghiệp đổi mới kinh tế xã hội, công tác quy hoạch xây dựng đô thị trong những năm qua đã được cải cách và đạt được nhiều tiến bộ quan trọng trong nhận thức, trình tự, nội dung, phương pháp lập quy hoạch xây dựng và việc triển khai thực hiện các đồ án quy hoạch xây dựng đô thị được duyệt. Trong những năm tới, tình hình phát triển kinh tế - xã hội và xu thế đô thị hoá của nước ta có nhiều biến đổi đòi hỏi công tác quy hoạch xây dựng phải tiếp tục được đổi mới để có thể đáp ứng được yêu cầu cải tạo, xây dựng và quản lý đô thị, phục vụ tốt hơn cho sản xuất, kinh doanh. Phù hợp với nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng Xã hội chủ nghĩa, quy hoạch đô thị không chỉ bao gồm các bản vẽ tốt, tiện cho việc xây dựng, mà còn phải có tác dụng điều tiết, hướng dẫn, phối hợp giữa các chủ đầu tư thuộc các thành phần kinh tế tham gia vào đầu tư xây dựng đô thị, nhằm phát triển đô thị bền vững, khắc phục được những mặt trái tiêu cực của kinh tế thị trường trong việc bảo vệ cảnh quan, môi trường, hình thành bố cục không gian kiến trúc đa dạng, giữ gìn bản sắc văn hoá lịch sử, sử dụng tiết kiệm quỹ đất nông nghiệp, phát triển các công trình phục vụ lợi ích công cộng, đảm bảo an ninh, quốc phòng và an toàn xã hội. Những vấn đề nêu trên thường không được thị trường quan tâm, nhưng quy hoạch xây dựng thì phải coi đó là mục tiêu sống còn, vì lợi ích của con người và toàn xã hội. Để có thể thực hiện được chức năng này, việc lập quy hoạch xây dựng đô thị phải đảm bảo được tính khoa học, tính khách quan và tính phù hợp với quy luật kinh tế - xã hội, đặc điểm tự nhiên và truyền thống văn hoá của từng địa phương. Có như vậy, quy hoạch đô thị mới trở thành nền tảng hình thành và phát triển kiến trúc bền vững. Cầu nối giữa quy hoạch đô thị và thiết kế kiến trúc công trình là thiết kế đô thị (Urban design). Mục tiêu của thiết kế đô thị là xác lập cấu trúc hình thể hoặc bố cục không gian của đô thị, trên cơ sở đó hình thành kiến trúc công trình. Để khắc phục tình trạng "phân mảnh" về bố cục không gian và sự "chắp vá" trong cơ cấu quy hoạch xây dựng đô thị, việc hình thành chuyên ngành thiết kế đô thị là một nhu cầu bức xúc đòi hỏi phải sớm được thể chế hoá thành các quy định của pháp luật, trên cơ sở đó xây dựng quy trình, giá thiết kế, hệ thống các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật và đào tạo chuyên gia cho lĩnh vực này. 4.4.3. Đổi mới công nghệ thiết kế kiến trúc Quan niệm mới về kiến trúc Thế kỷ XXI, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, tính đa ngành của bộ môn thiết kế kiến trúc hiện đại và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành xây dựng là tiền đề đổi mới công nghệ thiết kế kiến trúc hiện đại, nhằm tạo ra sự gắn bó hữu cơ trong quá trình thiết kế, sản xuất và thi công. 26 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- Đổi mới công nghệ thiết kế kiến trúc là khâu quan trọng nhất để nâng cao chất lượng và hiệu quả kiến trúc. Bởi vì, quá trình thiết kế kiến trúc là hoạt động mang tính sáng tạo, vận dụng tổng hợp các biện pháp khoa học, công nghệ, nghệ thuật và quản lý, làm thoả mãn yêu cầu sử dụng kiến trúc của xã hội. Thành quả thiết kế kiến trúc vừa là sản phẩm vật chất vừa là sản phẩm tư duy tinh thần. Hồ sơ thiết kế kiến trúc là cơ sở để quản lý thi công và hoàn công , sử dụng công trình xây dựng và có hiệu lực pháp luật trong việc đăng ký quyền sở hữu. Do đó, phương pháp và biện pháp thiết kế kiến trúc cần phải theo sát tiến bộ khoa học công nghệ, tăng cường áp dụng công nghệ thiết kế hiện đại với sự trợ giúp của máy tính (CAD),v.v từng bước tổ hợp hoá, mạng lưới hoá, trí năng hoá phần mềm; đẩy nhanh quá trình thiết kế kiến trúc bằng kỹ thuật CAD. Phù hợp với yêu cầu của xã hội thông tin, công trình kiến trúc hiện đại cần phát triển theo hướng trí năng hoá, cho phép nâng cao chất lượng toàn diện tác phẩm kiến trúc theo yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới công nghệ thiết kế kiến trúc đòi hỏi thiết lập và hoàn thiện hệ thống pháp luật về khảo sát thiết kế; về đơn vị thiết kế, chủ đầu tư và cơ quan quản lý nhà nước; xác định nguyên tắc áp dụng tiêu chuẩn, quy trình thiết kế một cách nghiêm ngặt và làm rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý xây dựng trong việc áp dụng các biện pháp kinh tế, hành chính và pháp luật để tăng cường sự chỉ đạo, giám sát ngành khảo sát, thiết kế kiến trúc. 4.4.4. Phát triển kiến trúc và kiểm soát phát triển kiến trúc Trong điều kiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng XHCN, phát triển kiến trúc là sự nghiệp của toàn dân và của các thành phần kinh tế. Nhà nước có chính sách biện pháp tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường để thu hút các nguồn vốn đầu tư phát triển mạnh mẽ kiến trúc đô thị, nông thôn. Phát triển kiến trúc trong nền kinh tế thị trường được thúc đẩy bởi yếu tố lợi nhuận, song nếu sự phát triển đó không được kiểm soát chặt chẽ sẽ dẫn đến sự phát triển hỗn độn, phá vỡ quy hoạch và môi trường. Cơ chế kiểm soát phát triển kiến trúc được hình thành trên cơ sở lồng ghép hợp lý các hoạt động quản lý quy hoạch xây dựng, quản lý đất đai, quản lý đầu tư và xây dựng, quản lý môi trường và quản lý nhà. Nội dung các hoạt động này cần phải được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật. Trong cơ chế kiểm soát phát triển kiến trúc cần lưu ý xây dựng quy trình phối hợp giữa 4 chủ thể có quan hệ chặt chẽ với nhau cùng tham gia phát triển kiến trúc là: Chủ đầu tư, kiến trúc sư hành nghề, người quản lý và chủ sử dụng. Các Hội KTS, Hội quy hoạch phát triển đô thị, các Hội nghề nghiệp khác và cộng đồng dân cư giữ vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển và kiểm soát phát triển kiến trúc. 4.4.5. Bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản kiến trúc trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá kiến trúc Di sản kiến trúc là những giá trị văn hoá tích luỹ trong quá trình lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Giá trị di sản kiến trúc bao gồm giá trị lịch sử (giá trị khoa học, giá trị cảm xúc, giá trị cổ và giá trị biểu tượng, giá trị nghệ thuật); giá trị lịch sử nghệ thuật (giá trị chất lượng nghệ thuật, giá trị ảnh hưởng nghệ thuật) và giá trị sử dụng. Ngoài những giá trị trên, có thể xem xét thêm giá trị xây dựng đô thị. 27 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- Để thực hiện được sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị các di sản kiến trúc, trong những năm tới cần thực hiện một số nhiệm vụ sau: - Kiểm kê và đánh giá toàn bộ di sản văn hoá và tình trạng bảo tồn cho đến hiện nay. - Thực hiện chính sách bảo vệ di sản thông qua những pháp chế cần thiết, đặc biệt là việc hoàn chỉnh và triển khai Luật về di sản văn hoá. - Đào tạo khẩn cấp thêm nhiều cán bộ kỹ thuật chuyên môn và quản lý các di sản; nâng cao chất lượng đào tạo các kiến trúc sư bảo tồn, phục chế và đánh giá giá trị di sản; tranh thủ sự giúp đỡ quốc trế trong đào tạo. - Có quy hoạch tổng thể chưa đủ, mà còn phải có quy hoạch chi tiết nghiên cứu các điều kiện cụ thể từng nơi có di sản để thực hiện bảo vệ cho tốt. - Vận động nhân dân các địa phương có di sản, tìm hiểu yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân, giúp họ cảm thụ được cái đẹp và giá trị di sản văn hoá, nhằm có được sự ủng hộ và tham gia của nhân dân vào công tác bảo tồn trên cơ sở phương châm bảo vệ di sản văn hoá cho chính nhân dân, chứ không phải là chỉ để phục vụ cho khách du lịch. Ngoài các nhiệm vụ trên, nhà nước tăng cường chỉ đạo việc đầu tư xây dựng các làng văn hoá các dân tộc và thành lập các viện bảo tàng kiến trúc quốc gia và địa phương để bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá kiến trúc đạt hiệu quả. - Nghiên cứu thành lập một Ủy ban quốc tế về phối hợp và huy động bao gồm các chuyên gia của nhiều nước để tập trung các công trình nghiên cứu, biện pháp, tập hợp thông tin và huy động nguồn nhân lực và tài chính cho Hà Nội, Huế và các đô thị khác. - Các hoạt động cần được cụ thể hoá để dễ thực hiện và để nhận được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, đặc biệt của Pháp, Úc, Nhật . UNESCO là những nước và tổ chức giữ vai trò điều phối viên. - Về nguồn tài trợ tài chính và kỹ thuật, ngoài sự đóng góp của các quốc gia, cần huy động thêm các nguồn vốn của các tổ chức và tư nhân vào các hoạt động bảo tồn và tôn tạo các di sản kiến trúc. 5. Các chính sách, giải pháp lớn xây dựng và phát triển kiến trúc 5.1. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về xây dựng và phát triển kiến trúc 5.1.1. Khẳng định việc xây dựng và phát triển kiến trúc là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước tổ chức thực hiện và tạo điều kiện, trong đó đội ngũ KTS, các nhà chuyên môn giữ vai trò quan trọng. 5.1.2. Thực hiện Quyết định 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010, tiến hành cải cách thể chế, cải cách bộ máy hành chính, đổi mới nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và cải cách tài chính công trong lĩnh vực quản lý nhà nước về xây dựng và phát triển kiến trúc. 5.1.3. Tăng cường vai trò, trách nhiệm và quyền hạn quản lý nhà nước của Chính phủ, các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân, Hội đồng nhân dân các cấp trong: - Lập, xét duyệt quy hoạch xây dựng, thiết kế đô thị, xây dựng các định hướng phát triển kiến trúc ở từng tỉnh và thành phố và khu vực nông thôn; 28 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- - Rà soát, bổ sung hoàn chỉnh hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý kiến trúc; hình thành các chính sách, cơ chế phù hợp để tạo điều kiện phát triển kiến trúc; nghiên cứu ban hành hệ thống các tiêu chuẩn quy phạm, quy trình, giá thiết kế, giá tư vấn phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội và điều kiện của từng địa phương. - Thu hút các nguồn vốn phát triển kiến trúc; xây dựng cơ chế, quy trình kiểm soát phát triển kiến trúc thích hợp thông qua việc áp dụng các công cụ: cấp chứng chỉ quy hoạch, xét duyệt thiết kế sơ bộ và cấp giấy phép xây dựng, nhằm đảm bảo sự hình thành kiến trúc phù hợp với quy hoạch; thiết kế đô thị - Đầu tư vốn ngân sách nhà nước cho việc xây dựng các công trình công cộng và các hoạt động nghiên cứu lý luận, thiết kế điển hình phê bình kiến trúc; tuyên truyền giáo dục nâng cao dân trí, đồng thời đẩy mạnh áp dụng biện pháp thanh tra, kiểm tra, xử phạt cương quyết các hành vi vi phạm trật tự kiến trúc và trật tự xây dựng. - Nghiên cứu thành lập thanh tra chuyên ngành để thực hiện nhiệm vụ giám sát phát triển kiến trúc phù hợp với quy hoạch và pháp luật. 5.2. Mở rộng cuộc vận động nâng cao nhận thức, dân trí và sự tham gia của cộng đồng dân cư 5.2.1. Thông qua các hình thức phong phú (phát thanh, truyền hình, thông tấn, báo chí, xuất bản, thông tin điện ảnh, thông tin cộng đồng ) tuyên truyền, giáo dục làm chuyển biến căn bản nhận thức trong toàn dân và trong các giới chuyên môn, cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ các đoàn thể quần chúng về sự cần thiết và cấp bách của việc xây dựng một nền kiến trúc hiện đại; giàu bản sắc dân tộc, về các mục tiêu, quan điểm, định hướng và các nhiệm vụ chủ yếu phát triển kiến trúc Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 5.2.2. Khuyến khích việc tổ chức các hội nghị, hội thảo tổng kết, đánh giá, giao lưu học thuật, xây dựng các cơ sở khoa học và phổ biến các thành quả sáng tạo kiến trúc. 5.2.3. Tạo điều kiện cho dân cư, cộng đồng tham gia vào quá trình xét duyệt quy hoạch xây dựng, thông qua các đồ án thiết kế kiến trúc, xây dựng môi trường văn hoá kiến trúc và thúc đẩy ngành, bộ môn kiến trúc phát triển. 5.2.4. Nâng cao ý thức các chủ đầu tư tư nhân trong việc phát triển kiến trúc đạt chất lượng cao. 5.3. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các Hội nghề nghiệp 5.3.1. Tạo điều kiện thuận lợi để Hội KTS, các Hội nghề nghiệp khác tham gia vào các hoạt động quản lý và phát triển kiến trúc. 5.3.2. Tăng cường vai trò của Hội KTS Việt Nam, thành viên của Hội KTS Thế giới (UIA) trong việc: - Vận động nâng cao nhận thức và dân trí về kiến trúc. - Tập hợp lực lượng sáng tác và định hướng hành nghề KTS; nâng cao trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp và năng lực của các hội viên; phát triển và tổ chức các hoạt động sáng tác để tạo ra các tác phẩm kiến trúc có chất lượng cao; - Phát huy vai trò phản biện, vai trò tư vấn, vai trò hướng dẫn các chủ đầu tư và các nhà quản lý lựa chọn các tác phẩm kiến trúc có chất lượng cao; 29 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- - Động viên các tổ chức, các nhà chuyên môn sáng tạo, hình thành các trường phái kiến trúc góp phần phát triển nền kiến trúc nước nhà đa dạng, phong phú, có bản sắc riêng trong quá trình hội nhập với kiến trúc thế giới, trong xu thế toàn cầu hoá. - Tổ chức các cuộc thi tuyển chọn các đồ án thiết kế kiến trúc xuất sắc, đánh giá bình chọn các công trình kiến trúc đạt chất lượng cao để tặng các loại giải thưởng tương xứng; - Tham gia các Hội đồng kiến trúc - quy hoạch để xét duyệt thiết kế quy hoạch xây dựng và kiến trúc; - Đấu tranh chống những quan điểm, khuynh hướng và hành động làm phương hại đến bản sắc kiến trúc dân tộc và đạo đức nghề nghiệp nhằm xây dựng và phát triển kiến trúc Việt Nam bền vững trong Thế kỷ XXI. 5.3.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật, chính sách cơ chế để tăng cường vai trò của Hội nghề nghiệp và các tổ chức xã hội, các tổ chức phi chính phủ trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kiến trúc. 5.4. Tổ chức, sắp xếp lại lực lượng nghiên cứu, phê bình, tư vấn và thiết kế kiến trúc gắn với việc mở rộng hành nghề KTS 5.4.1. Tổ chức và nâng cao năng lực Viện nghiên cứu Kiến trúc quốc gia (Bộ Xây dựng), các viện, trung tâm nghiên cứu kiến trúc địa phương trong việc nghiên cứu lý luận, phê bình kiến trúc, thiết kế điển hình và xây dựng các tiêu chuẩn, quy phạm thiết kế kiến trúc. 5.4.2. Tạo lập thị trường tư vấn thiết kế kiến trúc thống nhất, mở cửa, cạnh tranh có trật tự Sắp xếp và cải cách chế độ các doanh nghiệp thiết kế tư vấn kiến trúc. Các doanh nghiệp tư vấn, thiết kế kiến trúc phải thiết lập và kiện toàn hệ thống đảm bảo chất lượng; áp dụng nghiêm túc loại tiêu chuẩn ISO 9000 và phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về chất lượng, thành quả thiết kế khi giao nộp theo hợp đồng; Các doanh nghiệp, đơn vị thiết kế kiến trúc phải tôn trọng các quy định pháp luật của nhà nước. Các cơ quan quản lý nhà nước theo thẩm quyền của mình có nhiệm vụ soạn thảo, ban hành các quy dịnh thống nhất về phạm vi nghiệp vụ, giá thiết kế, lệ phí, chế độ thưởng phạt đạo đức nghề nghiệp, tiêu chuẩn ngành, điều chỉnh và chỉ đạo hành vi của doanh nghiệp thiết kế; tăng cường giám sát, kiểm tra chất lượng thiết kế; xây dựng chế độ giám sát kiểm tra chất lượng, chế độ lưu trữ và quản lý hồ sơ và kiện toàn cơ quan giám sát. 5.4.3. Hoàn thiện cơ chế hành nghề KTS trên cơ sở thực hiện nghiêm ngặt chế độ KTS đăng ký: quy định về đạo đức người đăng ký, năng lực nghề nghiệp để xin đăng ký (bằng cấp, luyện tập, thực hành, kiểm tra, phỏng vấn ), trình tự thủ tục đăng ký; quy định chế độ hành nghề KTS trong thị trường thiết kế, cho phép kết hợp tư cách đơn vị thiết kế và tư cách cá nhân KTS đăng ký. 5.4.4. Giáo dục, bồi dưỡng và huấn luyện thường xuyên cho những người thiết kế để nâng cao tố chất nghiệp vụ chính trị và trình độ của các chuyên gia thiết kế; xác định tiêu chuẩn phân loại các đơn vị thiết kế và cán bộ thiết kế như chủ nhiệm đồ án và các thiết kế viên, đồng thời quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của chủ nhiệm đồ án và các thiết kế viên. 30 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- 5.5. Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc 5.5.1. Trên cơ sở Bộ luật dân sự, Nghị định số 76/CP ngày 29 tháng 11 năm 1996 của Chính phủ và thông lệ quốc tế hướng dẫn quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. Trong hướng dẫn, cần lưu ý phạm vi điều chỉnh quyền tác giả từ khâu sáng tác đến khâu xây dựng công trình và khai thác sử dụng công trình, đảm bảo mối quan hệ khăng khít giữa các hoạt động sáng tác, giám sát thi công và bảo vệ công trình. 5.5.2. Thực hiện chế độ kiểm tra và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. 5.5.3. Có chế độ khen thưởng đối với những tác giả có tác phẩm kiến trúc đạt chất lượng cao ở các cấp quốc gia và địa phương. 5.6. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực 5.6.1. Công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kiến trúc phải quán triệt Nghị quyết Đại hội IX của Đảng về giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo toàn dân, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống quản lý giáo dục thực hiện tiêu chuẩn hoá, hiện đại hoá và xã hội hoá. Ngoài ra, công tác đào tạo kiến trúc sư nước ta cần được hoàn thiện trên cơ sở tham khảo một cách nghiêm túc Hiến chương UIA, UNESCO về giáo dục kiến trúc đã được Hội nghị toàn thể UIA ở Barcelona 1996 chấp thuận và các thoả thuận của UIA về tiêu chuẩn năng lực nghề nghiệp Quốc tế có tính khuyến nghị đối với hành nghề KTS (1996 -1998). 5.6.2. Nghiên cứu xây dựng mô hình đào tạo và đổi mới chương trình đào tạo kiến trúc sư áp dụng thống nhất cho các trường Đại học kiến trúc và xây dựng trong cả nước từ khâu tuyển sinh, chương trình giảng dạy, thực hành; cấp bằng và tổ chức sử dụng khi ra trường. 5.6.3. Giao cho Bộ Xây dựng lập Quy hoạch sắp xếp lại hệ thống các trường đại học đào tạo KTS và thống nhất quản lý các trường đại học, trung học chuyên nghiệp đào tạo cán bộ chuyên môn về kiến trúc phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống các trường đại học và trung học chuyên nghiệp trên địa bàn cả nước. Đầu tư, nâng cao năng lực đào tạo cho các trường đại học kiến trúc và đại học xây dựng để nâng cao chất lượng đào tạo KTS 5.6.4. Nghiên cứu và đưa vào áp dụng chính sách bố trí và sử dụng hợp lý lực lượng KTS mới ra trường, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh, thành phố trong cả nước Tổ chức việc đào tạo lại đào tạo nâng cao cho các KTS hành nghề, để cập nhật kịp thời với khoa học công nghệ mới nhằm nâng cao hiệu quả hành nghề kiến trúc sư. 5.6.5. Xây dựng chính sách khuyến khích sáng tạo trong thiết kế kiến trúc, chăm lo vun đắp nhân tài và xem xét trao những giải thưởng lớn quốc gia cho các KTS tài năng có nhiều đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kiến trúc. 5.7. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. 5.7.1. Tạo điều kiện da dạng hoá, đa phương hoá mở rộng các hình thức và biện pháp hợp tác quốc tế giữa các tổ chức chính phủ, phi chính phủ hoặc cá nhân trong việc trao đổi thông tin, chuyên gia, hợp tác nghiên cứu lý luận đào tạo, giáo dục thiết kế 31 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- kiến trúc, tham gia các cuộc thi sáng tác kiến trúc, quản lý phát triển kiến trúc với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới. 5.7.2. Nghiên cứu tìm hiểu các thông lệ về công ước quốc tế về phát triển kiến trúc; rà soát sửa đổi bổ sung hoàn chỉnh hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của nước ta về quản lý kiến trúc phù hợp với yêu cầu hội nhập và xu hướng toàn cầu hoá. 5.7.3. Tiếp thu một cách sáng tạo và có chọn lọc các tiến bộ khoa học kỹ thuật, các thành tựu nghiên cứu, sáng tác, thiết kế và quản lý kiến trúc của các nước trên thế giới để áp dụng và tạo điều kiện cụ thể của nước nhà. 5.7.4. Tranh thủ các nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế, sự đóng góp của Việt kiều yêu nước trong việc bảo tồn phát huy các giá trị di sản kiến trúc và phát triển kiến trúc. 5.7.5. Nghiên cứu mở rộng thị trường cung cấp dịch vụ tư vấn và thiết kế kiến trúc, hành nghề kiến trúc sư với các nước ASEAN và những nước có quan hệ hợp tác song phương hoặc đa phương. 5.7.6. Tạo điều kiện cho các tổ chức chính phủ, các hiệp hội nghề nghiệp và các tổ chức phi chính phủ tham gia các diễn đàn quốc tế, các hội nghị quốc tế do Liên hiệp quốc, Hiệp hội KTS quốc tế (UIA), UNESCO hoặc các nhóm nước đã ký kết hợp tác văn hoá với Việt Nam. CHƯƠNG IV HỆ THỐNG CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT 1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật 1.1 Văn bản do Quốc hội ban hành: Hiến pháp, Luật, Bộ luật, Nghị quyết và văn bản do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành: Pháp lệnh, Nghị quyết. 1.2. Văn bản do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác ở Trung ương ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội. - Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước - Nghị quyết, nghị định của Chính phủ; quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. - Quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ. - Nghị quyết, thông tư liên tịch giữa các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với tổ chức chính trị - xã hội. 1.3. Văn bản do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ban hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên; văn bản do Uỷ ban nhân dân ban hành còn để thi hành Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp nhuư Nghị quyết của Hội đồng nhân dân; quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân. 2. Các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý kiến trúc cảnh quan đô thị. Các văn bản pháp quy chủ yếu trong quản lý quy hoạch và xây dựng đô thị gồm: - Văn bản quy phạm pháp luật khung của Ngành gồm: + Luật quy hoạch xây dựng; + Luật xây dựng và Luật về nhà ở. 32 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- + Luật bảo tồn di sản văn hoá, đang trình Quốc hội; + Luật về quyền tác giả. - Các văn bản về quản lý quy hoạch kiến trúc đô thị: + Nghị định số 91/CP ngày 17/8/1994 của Chính phủ ban hành điều lệ quản lý đô thị; + Nghị định 76/CP của Chính phủ hưởng dân thi hành Luật về quyền tác giả + Nghị định 52/CP, 12/CPcủa Chính phủ về quản lý đầu tư và xây dựng; Quyết định sô 17/2000/QĐ-BXD ngày 02/8/2000 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng ban hành Qui định quản lý chất lượng công trình xây dựng ; + Quyết định 322/BXD-ĐT ngày 28/12/1993 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng ban hành quy định lập các đồ án quy hoạch xây dựng đô thị; + Thông tư số 03/BXD-KTQH của Bộ Xây dựng hướng dẫn lập, xét duyệt quy hoạch xây dựng thị trấn, thị tứ và Thông tư 04/BXD-KTQH ngày 30/7/1997 của Bộ Xây dựng hướng dẫn lập, xét duyệt quy hoạch chi tiết khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao theo Quy chế ban hành kèm theo nghị định 36/CP của Chính phủ; + Thông tư số 24/BXD-KTQH ngày 16/12/1994; Thông tư số 05/BXD-KTQH ngày 18/9/1996 của Bộ Xây dựng và Thông tư liên tịch số 09/1999/TTLT-BXD-TCĐC ngày 10/12/1999 của Bộ Xây dựng và Tổng cục Địa chính hướng dẫn cấp chứng chỉ quy hoạch và cấp phép xây dựng các công trình; + Thông tư 25/BXD-KTQH ngày 22/8/1995 hướng dẫn xét duyệt đồ án quy hoạch xây dựng đô thị; + Quyết định số 91/BXD-ĐT ngày 16/4/1993 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng về ban hành quy chế hành nghề kiến trúc sư. + Thông tư số 18/BXD-ĐT ngày 28/8/1993 hướng dẫn thực hiện quyết định 91/BXD- ĐT của Bộ trưởng Bộ Xây dựng; + Thông tư liên tịch Bộ VHTT-XD hướng dẫn thực hiện Nghị định 76/CP về bảo hộ quyền tác giả trong tác phẩm kiến trúc; + Quyết định số 12/BXD-ĐT ngày 1/1/1993 và Quyết định số 429BXD/KTQH ngày 16/7/1996 ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng Kiến trúc - Quy hoạch của Bộ trưởng Bộ Xây dựng; + Quy chuẩn thiết kế quy hoạch xây dựng đô thị và kiến trúc đô thị ban hành theo Quyết định 682/BXD-CSXD ngày 14/12/1996 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng; + Về quản lý trật tự xây dựng đô thị có Nghị định 48/CP về xử phạt vi phạm hành chính trong xây dựng và Nghị định 36/CP trong trật tự giao thông v.v CHƯƠNG V MỘT SỐ NỘI DUNG THIẾT KẾ KIẾN TRÚC CẢNH QUAN ĐÔ THỊ 1. Phạm vi, ranh giới và thời hạn lập TKĐT 33 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- - TKĐT được lập đối với tổng thể đô thị ( gọi chung là TKĐT tổng thể). Được lồng ghép khi lập quy hoạch chung hoặc lập thành đồ án TKĐT tổng thể khi cần thiết. - TKĐT được lập đối với các khu đô thị ( gọi chung là TKĐT khu vực): a/ Khu chức năng đô thị; b/ Trục đường, đường phố; c/ Quảng trường, khu công viên, khu cây xanh đô thị; - TKĐT khu vực được lập theo các hình thức sau: a/ Được nghiên cứu lồng ghép khi lập quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị. b/ Đồ án TKĐT được lập đối với các khu đô thị theo qui định tại điểm 3.2, nhằm cụ thể hoá các quy định của quy hoạch chung, quy hoạch chi tiết về không gian, kiến trúc cảnh quan đô thị. - Ranh giới lập TKĐT được xác định căn cứ vào quy hoạch chung, QHCT xây dựng đô thị do cơ quan có thẩm quyền xét duyệt quy hoạch quyết định. - TKĐT được lập cho thời hạn là 5 năm. 2. Căn cứ lập TKĐT - Qui hoạch chung xây dựng đô thị, qui hoạch chi tiết xây dựng do cơ quan có thẩm quyền xét duyệt. - Chương trình, kế hoạch đầu tư xây dựng đô thị. - Các bản đồ khảo sát địa hình, hiện trạng khu vực lập TKĐT; - Các tài liệu, số liệu khác có liên quan. 3. Trình tự và phương pháp lập TKĐT Bước 1: Thu thập các căn cứ để lập và soạn thảo nhiệm vụ thiết kế đô thị. a/ Xác định ranh giới lập TKĐT căn cứ vào quy hoạch xây dựng (QHC, QHCT) do cơ quan có thẩm quyền xét duyệt quy hoạch quyết định. b/ Thu thập các căn cứ để TKĐT gồm có: + Các loại bản đồ có tỷ lệ thích hợp với yêu cầu TKĐT, kết hợp khảo sát hiện trạng để sơ phác phương án. + Các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, các dự án quy hoạch và đầu tư XD có liên quan được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. + Điều kiện tự nhiên khí hậu, địa hình, địa mạo, địa chất, cảnh quan tự nhiên các nguồn tài nguyên khu vực lập TKĐT. + Hiện trạng kiến trúc cảnh quan, di tích văn hoá, lịch sử,vv khu vực lập TKĐT; c/ Soạn thảo nhiệm vụ thiết kế, xác lập cơ sở TKĐT gồm: + Phân tích đánh giá các căn cứ lập, trên cơ sở đó xác định các yếu tố thuận lợi và tồn tại cần giải quyết. + Đánh giá tổng hợp và xác định hướng thiết kế đô thị. + Luận chứng xác định tính chất, quy mô, nhu cầu, tiêu chuẩn và các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật chủ yếu; + Xây dựng quan điểm mục tiêu và nguyên tắc TKĐT. 34 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH
- d/ Khi thu thập các căn cứ để lập, soạn thảo nhiệm vụ thiết kế đô thị, cần tổ chức các hội nghị, hội thảo hoặc các hình thức khác để xin ý kiến của các tổ chức và cộng đồng tại nơi lập TKĐT về nhu cầu, nội dung nhiệm vụ TKĐT; Bước 2: Nghiên cứu các giải pháp TKĐT, gồm: a/ Xác định các yếu tố thiết kế gồm: + Phân vùng kiến trúc cảnh quan đô thị; + Các yếu tố kiến trúc cảnh quan như: địa hình, cây xanh, mặt nước, công trình kiến trúc, xây dựng, vv và các yếu tố chủ đạo bố cục kiến trúc cảnh quan đô thị. b/ Giải pháp bố cục kiến trúc cảnh quan, gồm: + Tổ chức mặt bằng tổng thể kiến trúc cảnh quan khu vực thiết kế; + Xác định yêu cầu về kiến trúc cảnh quan đối với các khu vực thiết kế; + Xác định các điểm nhìn, hướng nhìn cảnh quan đặc thù để bảo tồn, khai thác, hoặc đưa vào bố cục tổng thể kiến trúc cảnh quan khu vực thiết kế. + Giải pháp thiết kế đối với các yếu tố kiến trúc, cảnh quan đô thị. c/ Lập qui chế quản lý kiến trúc, cảnh quan khu vực thiết kế. d/ Lập hồ sơ trình duyệt để trình các cơ quan có thẩm quyền quyết định và phê duyệt. e/ Khi nghiên cứu các giải pháp thiết kế đô thị, cần tổ chức các hội nghị, hội thảo hoặc các hình thức khác để xin ý kiến của các tổ chức và cộng đồng tại nơi lập TKĐT về nội dung nội dung và các giải pháp TKĐT; Bước 3: Tổ chức xét duyệt, ban hành qui chế quản lý kiến trúc, cảnh quan, và công bố công khai TKĐT được duyệt. 4. Nội dung thiết kế đô thị 4.1. TKĐT tổng thể a/ Xác định các yếu tố kiến trúc, cảnh quan chủ yếu tạo lập diện mạo đô thị và các quan hệ giữa chúng với tổng thể đô thị và các khu đô thị: - Sơ đồ hiện trạng, kiến trúc và cảnh quan tổng thể đô thị; (tỷ lệ 1/10.000-1/25.000). Trong đó cần thể hiện rõ: + Các vùng, phân loại kiến trúc cảnh quan, khu đô thị đặc thù tạo lập diện mạo đô thị; + Các yếu tố chủ yếu tạo lập kiến trúc cảnh quan tổng thể đô thị ( nhân tạo, tự nhiên như địa hình, mặt nước, cây xanh các công trình kiến trúc, xây dựng, hạ tầng kỹ thuật, ); vị trí, qui mô, hình thái của các yếu tố trên. - Các bản vẽ phân tích đánh giá hiện trạng kiến trúc và cảnh quan tổng thể đô thị (áp dụng tỷ lệ thích hợp); trong đó cần thể hiện rõ: + Tính chất sử dụng, công năng hoạt động của khu vực, công trình chủ yếu; + Hướng nhìn, điểm nhìn cảnh quan tỏng thể đô thị; + Các trục bố cục chủ đạo; + Bố cục các yếu tố tạo lập diện mạo kiến trúc cảnh quan tổng thể đô thị; + Hình thái của tổng thể, khu vực, màu sắc, tỉ lệ; 35 LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ TS.KTS. LÊ TRỌNG BÌNH