Giáo trình Lý thuyết phê phán của trường phái Frankfurt - Nguyễn Chí Hiếu

pdf 9 trang huongle 5810
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Lý thuyết phê phán của trường phái Frankfurt - Nguyễn Chí Hiếu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_ly_thuyet_phe_phan_cua_truong_phai_frankfurt_nguy.pdf

Nội dung text: Giáo trình Lý thuyết phê phán của trường phái Frankfurt - Nguyễn Chí Hiếu

  1. CHÍNH TRỊ - KINH TẾ HỌC Nguyễn Chí Hiếu Lý thuyết phê phán của trường phái Frankfurt Nguyễn Chí Hiếu * Tóm tắt: Lý thuyết phê phán của trường phái Frankfurt có ảnh hưởng mạnh mẽ tới trào lưu cánh tả phương Tây; đồng thời, trường phái này còn đi tiên phong trong việc chống lại ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa thực chứng và thuyết kỹ trị. Lý thuyết phê phán chỉ ra tác động tiêu cực của khoa học - kỹ thuật và tiến hành phê phán xã hội công nghiệp phát triển Tây Âu từ giác độ triết học xã hội. Từ khóa: Trường phái Frankfurt; lý thuyết phê phán; chủ nghĩa Mác phương Tây. 1. Mở đầu (1894 - 1970), H.Marcuse (1898 - 1979) và Trường phái Frankfurt là một trào lưu E.Fromm (1900 - 1980) đã bắt đầu diễn ra tư tưởng lớn ở phương Tây thế kỷ XX. Các ngay từ những năm 1920. Có thể thấy rằng, đại biểu của trường phái này đã cố gắng ba lĩnh vực khảo sát chủ yếu của Lý thuyết phát triển chủ nghĩa Mác nhằm phê phán phê phán là: kinh tế với tư cách là cơ sở của xã hội tư sản hiện đại (Lý thuyết phê phán) xã hội; sự phát triển tâm lý của cá nhân; văn và chỉ ra con đường khắc phục sự nô lệ, hóa [2, tr.142].(*)Trong đó, Horkheimer và tha hóa của con người phương Tây hiện các trí thức Đức khác đã cố gắng khai thác đại. Tư tưởng của trường phái này có ảnh triết học Kant, Hegel, Mác và đặc biệt đã hưởng rất sâu rộng ở phương Tây, đặc biệt kết hợp giữa học thuyết Mác với phân tâm là ở Mỹ. Nó trở thành cơ sở nền tảng, học Freud để xây dựng nên một Lý thuyết cương lĩnh cho toàn bộ phong trào cánh tả phê phán xã hội. Nhóm triết gia tại Viện ở phương Tây. Bài viết phân tích những Nghiên cứu Xã hội đã quay lại với “triết nội dung cơ bản của Lý thuyết phê phán học phê phán” của Kant, với “phương pháp qua khảo sát tư tưởng của những đại biểu biện chứng” duy tâm của Hegel; luận giải của trường phái Frankfurt và những ảnh ảnh hưởng của Hegel đối với triết học Mác hưởng về tư tưởng của lý thuyết này ở theo tinh thần của chủ nghĩa Mác mới phương Tây. phương Tây mà G.Lukács là người khởi 2. Nội dung của Lý thuyết phê phán xướng. Đối tượng của Lý thuyết phê phán Trường phái Frankfurt bắt đầu ở nước chính là những phân tích mang tính chất Đức từ thời điểm Horkheimer (1895 - 1973) phê phán về xã hội tư bản chủ nghĩa. Nhiệm lên giữ chức Viện trưởng Viện Nghiên cứu vụ của lý thuyết đó là vạch trần cơ chế Xã hội trực thuộc Đại học Frankfurt [5]. Nhưng, trên thực tế, quá trình hình thành (*) Tiến sĩ, Học viện Chính trị Khu vực I. các quan điểm triết học của M.Horkheimer ĐT: 0913532421. Email: nguyenchihieu_05@yahoo.com. và các cộng tác viên gần gũi với ông như Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (Nafosted) trong T.W.Adorno (1903 - 1969), F.Pollock đề tài mã số: I1.6-2013.03. 47
  2. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(102) - 2016 thống trị và áp bức của xã hội tư bản đương năng xã hội của nó. Sau vài năm, thời, chỉ rõ bản chất tư tưởng hệ của nó Horkheimer tiếp tục chủ đề này trong tác nhằm giải phóng cá nhân, hướng tới xây phẩm “Sự lu mờ của lý tính” [7, tr.230] dựng một xã hội hợp lý. Qua các phân tích (cuốn sách “Góp phần phê phán lý tính triết học xã hội của mình, cả Horkheimer và công cụ” là bổ sung cho tác phẩm này). Khi Adorno đều chỉ rõ “tính chất cực quyền”, đó, bản thân Lý thuyết phê phán được giả độc đoán của xã hội và của chế độ cầm định là lý thuyết về “tự ý thức phê phán của quyền tư bản chủ nghĩa, vạch ra tính tất yếu con người”: “Tự nhận thức của con người ở cần phải thay đổi nó. Lý thuyết phê phán thời hiện đại không phải là khoa học tự muốn đem lại cho triết học ý nghĩa thực nhiên toán học thể hiện như thần ngôn vĩnh tiễn và vai trò trung tâm đối với xã hội và cửu, mà là Lý thuyết phê phán về xã hội thông qua đó, hứa hẹn xây dựng được hiện tồn phục tùng thái độ quan tâm đến các những mối quan hệ tốt đẹp hơn trong một điều kiện hợp lý” [9, t.2, tr.147]. Song, ở xã hội tương lai. đây, cách tiếp cận giai cấp, lịch sử cụ thể lại Các nhà lý luận của trường phái vắng mặt trong tư tưởng của Horkheimer. Frankfurt coi tác phẩm kinh điển đầu tiên Theo Horkheimer và các học giả của và cơ bản của Lý thuyết phê phán là tác trường phái Frankfurt, sự tập trung, tích tụ phẩm Lý thuyết truyền thống và lý thuyết tư bản cao độ, sự quan liêu hóa quá mức phê phán (1937) của Horkheimer. trong xã hội tư bản hiện đại đã làm triệt tiêu Horkheimer hiểu Lý thuyết truyền thống là tính sáng tạo, tính năng động, tự chủ của cá niềm tin trụ vững trong khoa học tự nhiên nhân và đẩy họ vào trong “một thế giới và đặc biệt trong xã hội học tư sản dựa trên hành chính” chặt chẽ, nặng nề. “Thế giới luận điểm: khoa học rút ra lý thuyết toàn hành chính hóa” này cuối cùng sẽ tiến hành vẹn, không mâu thuẫn về mặt lôgíc từ các kiểm soát toàn bộ các cá nhân trong xã hội dữ liệu cảm tính, kinh nghiệm. Theo và hệ quả là dẫn tới sự đè nén đối với tự do, Horkheimer, giữa xã hội học kinh nghiệm ở sáng tạo cá nhân. “Lý tính Khai sáng” tốt các nước nói tiếng Anh và triết học xã hội ở đẹp trước đây đã bị biến thành “Lý tính có Đức không có khác biệt mang tính nguyên tính phương tiện” và “chỉ nhắm tới mục tắc nào trong luận giải về lý thuyết khoa đích”. Cái “Lý tính phương tiện này” xem học. “Tiến bộ kỹ thuật ở thời đại tư sản con người và thế giới chỉ duy nhất dưới không tách rời khỏi chức năng như vậy của lăng kính lợi ích, làm cho mối quan hệ giữa hoạt động khoa học. Một mặt, hoạt động các cá nhân với nhau trong xã hội bị vật khoa học làm cho các dữ liệu trở nên hữu hóa, chỉ đơn thuần là những mối quan hệ có ích cho tri thức có thể áp dụng, sử dụng với tính chất trao đổi. Horkheimer muốn rút ra những điều kiện hiện có, mặt khác, tri thức các bài học kinh nghiệm và phương pháp khoa học áp dụng được vào những dữ liệu” luận từ sự thất bại của “Lý tính Khai sáng” [9, t.2, tr.143]. nhằm tạo ra những điều kiện mới cho một Lý thuyết phê phán không đơn giản chỉ khoa học khách quan, dưới hình thức một ra tính vô căn cứ về mặt triết học của Lý sự phân tích biện chứng kết hợp với lý thuyết truyền thống thực chứng mà còn có thuyết tâm lý học và xã hội học khi nghiên kỳ vọng vạch ra các cơ sở xã hội và chức cứu về xã hội đương đại. Chính tại đây, 48
  3. Nguyễn Chí Hiếu Horkheimer và các đồng nghiệp của mình kỹ thuật trong điều kiện chủ nghĩa tư bản cũng đã tiến hành phê phán triết học thực độc quyền nhà nước. Habermas cố xây dụng đang nổi lên tại Mỹ lúc đó, đồng thời dựng lý thuyết “thông thạo giao tiếp” có chỉ rõ những tác động tiêu cực của thế giới nhiệm vụ minh biện về mặt triết học cho bị khoa học hóa và kỹ thuật hóa cao độ thực tiễn của các cải cách dân chủ xã hội. trong chủ nghĩa tư bản đối với tồn tại của Cùng với Marcuse, ông nhấn mạnh rằng, con người. với tư cách sản phẩm của xã hội tư sản, giai Có thể khái quát lịch sử hình thành và cấp lao động dường như không sở hữu phát triển Lý thuyết phê phán của trường “thông thạo giao tiếp” để lĩnh hội các tư phái Frankfurt đến giữa những năm 1970 tưởng siêu việt hóa hiện thực và hoàn toàn qua hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất bắt bị tích hợp vào “xã hội công nghiệp phát đầu từ năm 1930; ở giai đoạn này triển”. Habermas muốn dựa vào “giới trí Horkheimer, Adorno và Marcuse triển khai thức có tư duy phê phán” để sử dụng ở bên tư tưởng, đánh giá về chủ nghĩa phát xít và trong bản thân bộ máy quản lý nhà nước chủ nghĩa tự do. Adorno công khai viết các phương tiện hình thành dư luận xã hội rằng, “quan điểm thực chứng về thực tại” (trường phổ thông, trường đại học, truyền được hoàn tất trong “công nghệ duy lý” của hình, truyền thanh, in ấn, quản lý nhà nước) các trại diệt chủng phát xít. Thậm chí, toàn cho các cải cách “cấp tiến” theo tinh thần bộ khoa học thực chứng cùng với xu hướng của “chủ nghĩa xã hội dân chủ”. toán học hóa và duy nghiệm dường như chỉ 3. Ảnh hưởng của Lý thuyết phê phán là sản phẩm của ý thức tư sản và là cội ở phương Tây nguồn củng cố quan niệm “công cụ” về 3.1. Định hướng, đặt nền móng tư chân lý, là công cụ thống trị của con người tưởng cho trào lưu cánh tả mới đối với tự nhiên và đối với con người. Sau Cùng với phát triển của chủ nghĩa tư bản đó là quá trình triển khai các tư tưởng này độc quyền nhà nước và cách mạng khoa trong “siêu phê phán lý luận nhận thức” của học - kỹ thuật đi liền với những hậu quả xã triết học tư sản (từ Descartes đến Husserl) ở hội của nó, những người bảo vệ Lý thuyết Adorno, trong “phê phán lý tính công cụ” phê phán đã đi đến kết luận về khải hoàn (từ Kant đến chủ nghĩa thực chứng) ở tuyệt đối của ý thức “một chiều” mang tính Horkheimer. Giai đoạn thứ hai bắt đầu vào chất thực chứng, công cụ, biện hộ tư sản; ý những năm 1960 đó là, giai đoạn mới trong thức này điều khiển ý thức của đại chúng phát triển của Lý thuyết phê phán. Từ giai nhờ phổ biến các nhu cầu nhân tạo, “tha đoạn phát triển trước đó, lý thuyết này giữ hóa” thông qua các phương tiện truyền lại tư tưởng phê phán triết học đối với chủ thông đại chúng. Theo họ, hy vọng vào khả nghĩa thực chứng, chủ nghĩa thực dụng, chủ năng hình thành ý thức giai cấp cách mạng nghĩa duy lý. Ở giai đoạn này, Lý thuyết của giai cấp vô sản đã hoàn toàn tiêu tan: phê phán phê phán dữ dội chủ nghĩa Mác trong điều kiện cách mạng khoa học - kỹ Xô-viết, coi nó chỉ là biến thể ý thức bị tha thuật, chỉ những kẻ giá lề, bộ phận sinh hóa của mọi xã hội tiêu dùng và sản xuất viên, trí thức với tư duy phê phán mới có hàng hóa. Các đại diện của Lý thuyết phê khả năng loại bỏ tư duy thực chứng “một phán cũng khảo cứu cách mạng khoa học - chiều”, thoát ra khỏi khuôn khổ ấy. Họ cho 49
  4. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(102) - 2016 rằng, “hệ tư tưởng Xô-viết” dường như phê phán từ lập trường của cá nhân “nằm đánh tráo chủ nghĩa Mác phê phán bằng hệ ngoài giai cấp có tư duy phê phán” (thực ra tư tưởng giáo điều, thực chứng, cực quyền là trí thức tư sản). Vào năm 1937, khi đang và nhào nặn ý thức mọi người thành ý thức sống ở Mỹ, Horkheimer thường sử dụng hệ “một chiều”. thuật ngữ mác xít, nhận thấy chủ nghĩa tư Từ đó, phái cánh tả cấp tiến yêu cầu bản là cơ sở của mọi mâu thuẫn, song ông quay trở lại với tư tưởng là cần tạo ra “cảm không tìm kiếm lối thoát ở cách mạng vô xúc mới” [1, tr.8] của con người có tư duy sản, mà suy luận về vượt bỏ mâu thuẫn “ý phê phán, được giải phóng khỏi mọi xiềng thức của cá nhân về mục đích, tính tự phát, xích của hệ tư tưởng và đạo đức tư sản, biết tính hợp lý và quan hệ lao động cơ bản cách sử dụng các đòn bẩy của chính sách trong xã hội” [9, t.2, tr.159 -160]. Chính tác phản quyền uy, thực hiện cách mạng văn phẩm này của Horkheimer và tác phẩm “Lý hóa và tạo dựng một xã hội hoàn toàn mới. tính và cách mạng” của Marcuse cho phép Như vậy, Lý thuyết phê phán cố gắng trở nói tới sự gần gũi của những người theo Lý thành ngọn cờ của trào lưu “cánh tả mới”. thuyết phê phán với hệ tư tưởng vô sản. Nhiệm vụ nêu trên được Horkheimer Horkheimer công khai nói rằng, giai cấp vô thực hiện không phải dựa trên quan niệm sản tạo ra lợi ích cho phép nhận thức các duy vật về lịch sử phát triển xã hội, mà mâu thuẫn của quan hệ sản xuất ở xã hội tư bằng cách khẳng định các lực lượng tự sản và đưa đến kết luận về khả năng của phát, nhân tạo và tha hóa của sản xuất hàng một xã hội hợp lý hơn. Song, ông lại hoài hóa chế ngự con người và do vậy, đóng vai nghi: “Nhưng tình cảnh của giai cấp vô sản trò giống như các quy luật tự nhiên. Chỉ có trong xã hội này không đem lại đảm bảo “ý thức giả dối” mới luận giải các lực lượng nào cho nhận thức đúng” [9, t.2, tr.162]. Lý ấy như các lực lượng “khách quan” và các thuyết phê phán cho rằng giai cấp vô sản nhà Lý thuyết phê phán kêu gọi phải khắc ngày càng không có năng lực xây dựng và phục tính khách quan của chúng. Họ hiểu lĩnh hội “ý thức siêu vượt xã hội hiện tồn”, chủ nghĩa duy vật là hệ tư tưởng nhất thời: không thực sự cách mạng, chỉ “giới trí thức không phải chủ nghĩa duy vật lịch sử mà có tư duy phê phán” mới là lực lượng có một quan niệm khác sẽ trở thành cơ sở cho năng lực phát triển và duy trì ý thức cách quan niệm mới về xã hội và lịch sử trong xã mạng. Hơn thế, Horkheimer còn khẳng định hội được giải phóng khỏi sự thống trị, tất rằng, nói chung không nên đứng trên lập yếu của kinh tế. Chủ nghĩa Mác Xô-viết trường của giai cấp vô sản, cho dù ở những cùng với việc bản thể luận hóa phép biện năm 1930 - 1940 ông vẫn có kỳ vọng Lý chứng và tuyệt đối hóa các quy luật biện thuyết phê phán trở thành “phương diện trí chứng như các quy luật vĩnh cửu và bất tuệ của quá trình giải phóng giai cấp vô biến bị bác bỏ. Định hướng như vậy thể sản” [9, t.2, tr.164]. hiện rất rõ trong tác phẩm “Góp phần phê Thực ra, khi luận chiến với Marcuse, phán lý tính công cụ” của Horkheimer [8, Habermas giả định rằng, không phải các tr.233]. quy luật khách quan của quan hệ sản xuất, Ông không muốn đứng trên lập trường mà các quan hệ chủ quan, hữu thức giữa của giai cấp cách mạng, mà muốn tiến hành các cá nhân là lực lượng cứu rỗi, đứng đối 50
  5. Nguyễn Chí Hiếu lập với “thống trị” của tính duy lý kỹ thuật. tách biệt “tính một chiều” của con người Nhưng, đây chỉ là công việc của các sinh không phải từ bản chất của chủ nghĩa tư viên, của giới trí thức, của một số nhà kỹ trị bản độc quyền nhà nước, mà từ “ý thức một có tư duy phê phán [4, tr.57, 63, 100]. chiều” của xã hội này, các đại diện của 3.2. Phê phán chủ nghĩa thực chứng và trường phái Frankfurt luận giải xã hội nhờ thuyết kỹ trị phê phán khái niệm “tổng thể”. Adorno Theo Habermas, cần phải khước từ mệnh viết: “Tổng thể xã hội không thực hiện một lệnh của tính hợp lý công nghệ với tư cách cuộc sống xã hội nào ở trên bề mặt và đối là yếu tố quyết định những giải pháp của với những gì nó hợp nhất, những gì nó cấu mình và phải xuất phát từ các chuẩn tắc thành. Nó sản xuất và tái sản xuất bản thân mới, lẽ sống mới nhằm làm gia tăng tự do, thông qua những vòng khâu riêng biệt của phát triển nhân cách, nâng cao tính chủ mình” [10, tr.127]. Mặc dù tư tưởng này quan. Chỉ thông qua phản tư của tự ý thức được phát triển trong cuộc luận chiến chống có phê phán, các nhà kỹ trị ấy mới có thể lại chủ nghĩa thực chứng, song nó dẫn tới cải biến được tâm thế của mình. Vì khoa việc phủ định các quy luật khách quan của học trở thành lực lượng sản xuất chủ yếu, đời sống xã hội. còn trí thức có tư duy phê phán là đại diện Cần lưu ý tới nhận định nêu trên khi xem và sản phẩm của nó, nên không phải giai xét quan hệ giữa Lý thuyết phê phán với cấp lao động bị nhấn chìm trong “ý thức các lý thuyết về xã hội công nghiệp ở hạnh phúc” về những nhu cầu giả dối được những năm 1950 - 1960 của thế kỷ XX. kỹ thuật đáp ứng, mà chính trí thức trở Khác với các lý thuyết thực chứng, tư tưởng thành chủ thể của các cải cách xã hội. Lý của trường phái Frankfurt ngay từ đầu đã thuyết giá trị lao động của Mác cũng bị không thừa nhận rằng tính hợp lý của xã hội Habermas xét lại: không phải lao động của công nghiệp phát triển cao là phương tiện công nhân, mà lao động của trí thức, không xóa bỏ các mâu thuẫn của nó; mà thừa nhận phải lao động chân tay mà lao động trí óc rằng chỉ tính hợp lý ấy là phương thức che mới trở thành nguồn gốc của giá trị, kể cả đậy và phủ định hư ảo bản chất mâu thuẫn, giá trị thặng dư trong điều kiện xã hội công thực sự phi hợp lý của xã hội này. nghiệp phát triển cao. Horkheimer tuyên bố chủ nghĩa thực Ở đây, có thể nhận thấy điểm tương chứng mới là kết quả phát triển của toàn bộ đồng và dị biệt giữa Marcuse tả khuynh và hệ tư tưởng tư sản. Các tư tưởng này được Habermas hữu khuynh trong khuôn khổ ông hình thành cùng Adorno trong tác trường phái Frankfurt. Với Marcuse, không phẩm “Biện chứng của Khai sáng”. Song, ai, kể cả người có tư duy phê phán, có thể các tác phẩm ở thời kì đó có chung một hạn đưa ra giải đáp khoa học cho vấn đề này. chế, đó là đã không phê phán gay gắt các Còn Habermas thì quan niệm rằng: dưới hậu quả xã hội của tiến bộ khoa học - kỹ biến thể phê phán của mình, nhờ tự phản tư, thuật trong điều kiện xã hội công nghiệp bản thân khoa học có thể tìm ra câu trả lời phát triển. Dừng lại ở việc phê phán lý và các giải pháp mới. thuyết thực chứng mới và “lý tính công cụ”, Tuyệt đối hóa tính độc lập tương đối của Horkheimer và Adorno mặc dù chuẩn bị các hiện tượng thượng tầng kiến trúc và cho tác phẩm của Marcuse về mặt lý luận, 51
  6. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(102) - 2016 song chưa chuyển sang phê phán công khai trong điều kiện văn minh tư sản có nghĩa là bản thân xã hội phi hợp lý chỉ dựa trên “lý đẩy mạnh “cơn mê sảng tâm thần của lý tính” đó. Marcuse đã thực hiện điều này tính điên rồ”, mà hệ quả của nó chính là nạn vào giữa những năm 1960 và sau đó, ông diệt chủng của chủ nghĩa phát xít. trở thành nhà tư tưởng nổi tiếng và quan Trường phái Frankfurt khước từ nhận phương của phái “cánh tả mới” ở Mỹ và ở thức và tiên đoán khoa học về các quy luật Tây Âu. khách quan và về khả năng phát triển xã 3.3. Phê phán xã hội công nghiệp phát hội. Habermas trình bày quan niệm của ông triển Tây Âu từ giác độ triết học xã hội về khoa học và kỹ thuật như “hệ tư tưởng”: Tiếp thu tinh thần “phê phán” của Mác, niềm tin vào tiến bộ khoa học và kỹ thuật, các đại diện của trường phái Frankfurt đã vào phát triển tiến bộ của lực lượng sản tiến hành phê phán xã hội công nghiệp phát xuất là một kiểu “ý thức giả dối” không triển, vạch trần các hình thức biểu hiện đặc muốn nhận thấy những mâu thuẫn của tiến thù của tha hóa hiện đại và nỗ lực luận giải bộ. Xét trên phương diện lịch sử tư tưởng, nguyên nhân làm xuất hiện tha hóa đó [3, có thể nhận thấy những biến thể khác nhau tr.94 - 99]. của chủ đề này từ khái niệm “hợp lý” của Vấn đề về khoa học và lý tính khoa học - M.Weber cho tới quan điểm “xã hội hậu kỹ thuật, về ứng dụng khoa học về mặt kỹ công nghiệp” trong xã hội học Mỹ. Nhưng, thuật và những hệ quả văn hóa xã hội của đặc thù của các nhà lý luận trường phái nó đã thu hút sự quan tâm của tất cả các đại Frankfurt là thái độ phủ định, “phê phán” diện của trường phái Frankfurt. Họ xuất triệt để hơn đối với các hiện tượng của chủ phát từ tư tưởng của Mác về khoa học như nghĩa duy lý tư sản dựa trên cơ sở xét lại lực lượng sản xuất trực tiếp và lưu ý tới vai học thuyết Mác về hệ tư tưởng. Họ tuyên trò ngày một tăng của khoa học trong phát bố rằng, sức mạnh của sự phê phán cho triển xã hội. Sau đó, xuất phát từ cách mạng phép phá tan mạng lưới những quan niệm khoa học - kỹ thuật diễn ra ở thế kỷ XX, bị gán ghép từ bên ngoài, vốn bị nhào nặn, các đại diện của trường phái Frankfurt có che lấp các mâu thuẫn xã hội khách quan và thái độ tiêu cực đối với cách mạng khoa học do vậy cần dựa vào sức mạnh ấy. - kỹ thuật, vì giờ đây nó đã trở thành Marcuse đưa ra trong tác phẩm “Con phương tiện quân phiệt hóa nền kinh tế của người một chiều” một luận điểm mới, luận phần lớn quốc gia phương Tây, phục vụ cho điểm đó tuyệt đối hóa vai trò của các sự tự duy trì loại hình văn minh đã trở nên phương tiện truyền thông đại chúng như lỗi thời - văn minh tư sản. Theo họ, cách công cụ nhào nặn ý thức và hành vi của con mạng khoa học - kỹ thuật (tức là khoa học người trong xã hội công nghiệp phát triển. truyền thống và tính hợp lý nói chung) Luận điểm này đã có ở Horkheimer và không tách rời khỏi cuộc chạy đua vũ trang Adorno ở một chừng mực nào đó, song nó và kết quả tất yếu của nó là chiến tranh thường bị che khuất trong việc phê phán cùng tất cả những gì biểu hiện cho khát chủ nghĩa duy lý thực chứng và trong việc vọng quyền lực. Từ đó, kết luận chung của tuyệt đối hóa chung chung khái niệm các đại diện trường phái Frankfurt là: việc “thống trị”. Họ không nắm bắt được tính đẩy mạnh cách mạng khoa học - kỹ thuật đặc thù của các yếu tố mới ở xã hội công 52
  7. Nguyễn Chí Hiếu nghiệp phát triển và của tiến bộ khoa học - nhiên hành vi con người (giống như bản kỹ thuật, đã đẩy chúng xuống hàng thứ yếu. năng), không tách lý tính mình ra khỏi giới Thực ra, họ tiến hành phê phán các lý tự nhiên, không nhìn nhận giới tự nhiên như thuyết thực chứng mới về xã hội công khách thể, mà lắng nghe những nhịp điệu nghiệp phát triển, chứ không phê phán bản và hòa nhịp với nó. thân xã hội công nghiệp phát triển. Cách mạng khoa học - kỹ thuật được các Nói tóm lại, tinh thần phê phán xã hội tư đại diện của trường phái Frankfurt quan bản chủ nghĩa của Mác được các đại diện niệm là nhân tố bao trùm lên tất cả mọi mặt của trường phái Frankfurt nỗ lực áp dụng đời sống con người và xã hội - kinh tế, vào việc phê phán nền văn minh công chính trị, văn hóa, quan hệ giữa người với nghiệp phát triển, thông qua phân tích có người, ý thức và tự ý thức con người. Cách phê phán hiện tượng cách mạng khoa học - mạng khoa học - kỹ thuật có tiền sử từ thời kỹ thuật và những hệ quả văn hóa xã hội tiền thần thoại, kéo dài nhiều thế kỷ, kết của nó. Cách mạng khoa học - kỹ thuật thúc và đạt tới đỉnh điểm ở thế kỷ XX. Đây được nhìn nhận là quá trình làm cằn cỗi, là quá trình hình thành toàn bộ thế giới đối giết chết giới tự nhiên và sản xuất, con tượng bao quanh con người, toàn bộ thế người và xã hội bởi chính bản thân con giới văn hóa xã hội, qua đó con người đối người. Đây là tiếng chuông cảnh tỉnh chúng mặt với tính tổng thể (totalitaet) của những ta về những hệ quả nhân văn khôn lường do liên hệ và quan hệ vô cùng đa dạng bị trung quá sùng bái tiến bộ khoa học - kỹ thuật mà gian hóa bởi lý tính và bị nó chế định như lãng quên đi giới hạn của nó. cái biểu thị khát vọng quyền lực. 4. Đánh giá sơ bộ về Lý thuyết phê phán Theo chúng tôi, không phải tự thân khoa Xuất phát từ luận điểm coi lý tính như học, tự thân kỹ thuật mà quan niệm tiêu cực lực lượng sáng tạo ra lịch sử, các nhà tư về tiến bộ khoa học - kỹ thuật đến lối sống tưởng của trường phái Frankfurt cho rằng của con người hiện đại (cụ thể là chủ nghĩa toàn bộ lịch sử “Khai sáng” phương Tây là duy khoa học, chủ nghĩa duy kỹ thuật, thuyết sản phẩm của lý tính theo tinh thần của chủ kỹ trị, tệ sùng bái đồng tiền, của cải vật chất, nghĩa duy tâm cổ điển Đức: là dạng lý tính bạo lực, v.v.) mới tạo ra một lối sống phản tự trị và “tự lập pháp”, đem gán ghép các văn hóa nhân văn truyền thống. Những quy luật của mình cho giới tự nhiên. Tóm thành tựu khoa học và kỹ thuật đã làm thay lại, bí ẩn thực sự trong căn bệnh của lý tính đổi đáng kể bộ mặt của thế giới và của con khai sáng là quan niệm duy tâm của lý tính người. Những hậu quả tích cực của cuộc về bản thân mình. Vì vậy, theo Lý thuyết cách mạng công nghệ là rất đa dạng. Sức phê phán phương thức duy nhất để chữa trị mạnh kỹ thuật đã mở ra những khả năng to nó là bước chuyển sang lập trường chủ lớn cho sự phát triển tinh thần theo các nghĩa tự nhiên của trường phái Frankfurt. phương hướng khác nhau nhất. Tuy nhiên, Các đại diện của trường phái Frankfurt cho tự thân kỹ thuật không kéo theo sự tiến bộ rằng lối thoát duy nhất khỏi bối cảnh khủng trong lĩnh vực văn hóa và tinh thần - đạo khiếp hiện tại của con người và của xã hội đức , con người có nguy cơ đánh mất bộ công nghiệp phát triển là hạ thấp lý tính mặt của riêng mình khi đối mặt với sức xuống cấp độ nhân tố điều tiết một cách tự mạnh của kỹ thuật. Nói cách khác, nếu tuyệt 53
  8. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(102) - 2016 đối hóa sức mạnh toàn năng của những 5. Kết luận thành tựu kỹ thuật, thì con người có thể vô Tiếp thu tinh thần “phê phán” của Mác, tình đánh mất những giá trị nhân văn, như các đại diện của trường phái Frankfurt đã năng lực thấu hiểu và đồng cảm với người tiến hành phê phán xã hội công nghiệp phát thân, khái niệm về cái thiện và cái ác, điều triển, đã vạch trần các hình thức biểu hiện này kéo theo sự phi nhân văn hóa quan hệ xã đặc thù của tha hóa hiện đại, đã nỗ lực luận hội và quan hệ của cá nhân với nhau. giải nguyên nhân làm xuất hiện tha hóa đó. Bên cạnh những đóng góp đáng ghi nhận Chủ nghĩa Mác phương Tây (hay chủ nghĩa (phát triển chủ nghĩa Mác trên nhiều luận Mác mới) ở Frankfurt cho thấy một cách tiếp điểm cơ bản cho phù hợp với xã hội phương cận và phát triển độc đáo học thuyết Mác Tây hiện đại, nhận diện về lý luận các mối trong điều kiện văn minh công nghiệp hiện quan hệ xã hội tư bản chủ nghĩa đương thời, đại. Nghiên cứu di sản lý luận của trường vạch rõ bản chất bất bình đẳng, cơ chế “cực phái này cho phép chúng ta hiểu rõ hơn bản quyền” của nó, hướng con người cá nhân tới thân học thuyết Mác và những vấn đề xã hội một thực tiễn xã hội tốt đẹp hơn, giải phóng ngày nay đặt ra cho tư tưởng mác xít. cá nhân khỏi sự đè nén, kiểm soát của “thế Tài liệu tham khảo giới hành chính hóa”, khỏi “thế giới kỹ thuật [1] A.Schmidt (1973), Cảm xúc giải phóng, hóa cao độ” ), thì Lý thuyết phê phán cũng Frankfurt a. Main. bị phê phán mạnh mẽ, không chỉ từ các nhà [2] Nguyễn Chí Hiếu, Đỗ Minh Hợp (2013), mácxít chính thống, mà còn từ phía các nhà Chủ nghĩa Mác phương Tây - trường phái mác xít mới phương Tây. Theo các nhà Frankfurt, Nxb Tôn giáo, Hà Nội. mácxít chính thống, Lý thuyết phê phán xã [3] Nguyễn Chí Hiếu (2013), “Trường phái hội của trường phái Frankfurt có tính chất Frankfurt và ảnh hưởng chính trị tại Phương “duy tâm, tư sản”, vì nó chẳng cho thấy mối Tây”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3. quan hệ hữu cơ nào với thực tiễn cách mạng [4] J.Habermas (1969), Kỹ thuật và khoa học và vì thế, Lý thuyết phê phán chỉ làm cho như là “hệ tư tưởng”, Frankfurt a. Main. phong trào cách mạng trở nên bị cô lập và [5] J.Habermas (1969), Phong trào phản kháng suy yếu đi. G.Lukács - (cha đẻ của chủ nghĩa và cải cách đại học, Frankfurt a. Main. Mác mới phương Tây) đưa ra nhận xét, [6] M.Horkheimer (1931), Thực trạng triết thông qua hình ảnh ẩn dụ: các thành viên của học xã hội và các nhiệm vụ của một Viện trường phái Frankfurt đang sống trong “một Nghiên cứu Xã hội, Frankfurt a. Main. khách sạn hạng sang” và từ ban công của [7] M.Horkheimer (1947), Sự lu mờ của lý khách sạn, với ly rượu ngon trên tay, họ tính, New York. ngắm nhìn sự khốn cùng của thế giới. [8] M.Horkheimer (1967), Góp phần phê Dẫu vậy, một trong những đóng góp to phán lý tính công cụ, Frankfurt a. Main. lớn của Horkheimer và các đại biểu của Lý [9] M.Horkheimer (1968), Lý thuyết phê phán, thuyết phê phán của trường phái Frankfurt t.1, t.2, Frankfurt a. Main. là xác định được vấn đề “cốt tử” của xã hội [10] Th.W.Adorno (1969), Về lôgíc của lý phương Tây hiện đại - là sự tha hóa tinh thuyết khoa học xã hội - Cuộc tranh luận thần của con người và cố gắng tìm con về chủ nghĩa thực chứng trong Xã hội học đường, biện pháp khắc phục sự tha hóa đó. Đức, Neuwied - Berlin. 54
  9. Nguyễn Chí Hiếu 55