Giáo trình Nghiên cứu triết học -Xã hội về môi trường sinh thái ở Việt Nam - Phạm Thị Ngọc Trầm
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Nghiên cứu triết học -Xã hội về môi trường sinh thái ở Việt Nam - Phạm Thị Ngọc Trầm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_nghien_cuu_triet_hoc_xa_hoi_ve_moi_truong_sinh_th.pdf
Nội dung text: Giáo trình Nghiên cứu triết học -Xã hội về môi trường sinh thái ở Việt Nam - Phạm Thị Ngọc Trầm
- Tạp chí Khoa học xã hTRIội ViệtẾT Nam, - LU sốẬT 2(9 9- )TÂM - 2016 LÝ - XÃ HỘI HỌC Nghiên cứu triết học - xã hội về môi trường sinh thái ở Việt Nam Phạm Thị Ngọc Trầm * Tóm tắt: Bài viết tổng hợp những kết quả nghiên cứu chủ yếu về môi trường sinh thái ở Việt Nam dưới góc độ triết học - xã hội trong 45 năm qua. Những kết quả nghiên cứu đó xác định: các nguyên lý cơ bản của mối quan hệ giữa con người và xã hội với tự nhiên; các triết lý tổng quát về mối quan hệ con người - xã hội - tự nhiên; các khái niệm cơ bản liên quan đến môi trường sinh thái ở Việt Nam; một số quan điểm về sinh thái học nhân văn (STHNV), sinh thái nhân văn (STNV) và môi trường sinh thái nhân văn (MTSTNV); một số vấn đề cơ bản của MTSTNV ở Việt Nam. Từ khóa: Môi trường sinh thái; triết học - xã hội; Việt Nam. 1. Mở đầu 2. Những nguyên lý cơ bản của mối quan Thế giới ngày nay đã và đang có những hệ giữa con người và xã hội với tự nhiên thành tựu vĩ đại về khoa học và công nghệ, Thực chất của MTST là mối quan hệ nhờ đó loài người đã đạt được những biến giữa con người, xã hội với tự nhiên. Mối đổi to lớn về mặt kinh tế nói riêng, xã hội quan hệ này đã từng được nhiều nhà khoa nói chung. Song, cùng với những biến đổi học ở những giai đoạn lịch sử khác nhau to lớn đó, loài người lại đang phải đối mặt nghiên cứu. Cách tiếp cận triết học - xã hội với nhiều vấn đề nan giải mang tính toàn nghiên cứu mặt cấu trúc, chức năng, cơ cầu, trong đó có vấn đề môi trường sinh chế vận hành và diễn biến của mối quan hệ thái (MTST). MTST ngày càng được các giữa con người và xã hội với tự nhiên, nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, từ các nghĩa là nghiên cứu nguồn gốc, bản chất nhà khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và nội dung của mối quan hệ. Nhiều tác đến các nhà khoa học xã hội nhân văn. giả đã xác định những nguyên lý cơ bản Những khía cạnh khác nhau của vấn đề của mối quan hệ giữa con người, xã hội MTST đã được đề cập từ các khía cạnh triết với tự nhiên như sau:(*) học, kinh tế học, sinh học, y học Nghiên Thứ nhất, thế giới thống nhất ở tính cứu triết học - xã hội vấn đề MTST ở Việt vật chất Nam bắt đầu từ trước những năm 70 của thế kỷ XX. Bài viết này trình bày những nội (*) dung và kết quả nghiên cứu chính trong hơn Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. ĐT: 01226393545. 45 năm qua về vấn đề MTST ở Việt Nam. Email: ngoctram1946@gmail.com. 16
- Phạm Thị Ngọc Trầm Thế giới vật chất (TGVC) vô cùng phức cơ xung quanh để cùng nhau tiến hành việc tạp và đa dạng, tuy nhiên, suy đến cùng có lưu thông, cải biến, tích lũy vật chất, năng ba yếu tố cơ bản thống nhất với nhau là giới lượng, thông tin, nhằm duy trì sự sống của tự nhiên, con người và xã hội loài người. Sở bản thân, sự tồn tại và phát triển không dĩ chúng thống nhất được với nhau trong ngừng của cả hệ thống. Các quá trình đó một hệ thống mặc dù chúng rất khác nhau đều được thực hiện trong chu trình sinh về cấu trúc và chức năng là vì cả ba yếu tố học, hay chính xác hơn là chu trình sinh - đó đều là những dạng thức khác nhau của địa - hóa học. vật chất. Sự hình thành hệ thống “tự nhiên - Cơ chế hoạt động của chu trình sinh học con người - xã hội” gắn liền với quá trình hay chu trình trao đổi vật chất, năng lượng tiến hóa của TGVC, cụ thể là sự tiến hóa và thông tin của sinh quyển chính là cơ chế của sinh quyển và sự phát triển của xã hội bảo đảm sự thống nhất về mặt chức năng loài người. của hệ thống “tự nhiên - con người - xã Trong quá trình tiến hóa của TGVC đã hội” trong sự phù hợp với cấu trúc của nó. tuần tự xuất hiện 3 yếu tố: sinh quyển (bao Hoạt động của chu trình sinh học tuân thủ gồm toàn bộ các cơ thể sống, các chất vô cơ theo nguyên tắc tự tổ chức, tự điều chỉnh, tự và hữu cơ của môi trường); con người (con bảo vệ, tự làm sạch, tự cân bằng theo một người xuất hiện vào lúc sinh quyển đã có trật tự liên hoàn chặt chẽ. những thuộc tính của một hệ thống tổng Sự thống nhất giữa con người (xã hội) hợp sinh học ở mức cao nhất, có khả năng với tự nhiên được biểu hiện chính trong sự đạt năng suất sinh học lớn nhất và độ phát thống nhất giữa bản tính tự nhiên và bản triển ổn định tối đa; “giới tự nhiên là thân chất xã hội của con người. Con người thể vô cơ của con người”, “con người sống không chỉ là hiện thân mà hơn thế nữa, còn dựa vào tự nhiên”, “sinh hoạt vật chất và là hạt nhân, là kẻ trực tiếp thực hiện sự tinh thần của con người liên hệ khăng khít thống nhất đó, thông qua quá trình lao động với tự nhiên”, “con người là một bộ phận sản xuất xã hội. Con người với tư cách là của tự nhiên”, “con người là một thực thể một thực thể sinh học - xã hội, để tồn tại và sinh học, nên mọi hoạt động sống của con phát triển phải tiến hành quá trình trao đổi người đều phải tuân theo những quy luật chất với tự nhiên như bất kỳ một sinh thể sinh học”, “con người là một thực thể xã nào khác và phải tiến hành lao động sản hội, với bộ óc rất phát triển và đôi tay tự xuất. Nền sản xuất xã hội là phương thức do); xã hội (một bộ phận đặc biệt, được trao đổi chất đặc thù giữa xã hội với tự tách ra một cách hợp quy luật của tự nhiên, nhiên, thông qua chu trình sinh học trong là hình thức tổ chức vật chất cao nhất trong sinh quyển. quá trình tiến hóa liên tục, lâu dài và vô Nhờ có phương thức sản xuất xã hội, con cùng phức tạp của TGVC). người và xã hội càng gắn bó chặt chẽ hơn Toàn bộ các cấu trúc vật chất trong sinh với tự nhiên, nhưng, mặt khác, lại càng quyển (từ đơn giản nhất đến phức tạp nhất, cách xa tự nhiên hơn. Bởi vì, “mắt khâu xã từ đơn bào đến đa bào, đến con người và xã hội” (phương thức sản xuất) trong chu trình hội loài người) đã tác động với nhau và tác trao đổi chất của sinh quyển có những đặc động qua lại với môi trường vô cơ và hữu trưng mà không có một hệ thống vật chất 17
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(99) - 2016 sống nào có thể có được: một là, nền sản được chỉ báo bằng các nấc thang kế tiếp xuất xã hội có thể sử dụng hầu như toàn bộ nhau của các hình thái kinh tế - xã hội từ các nguồn vật chất và năng lượng vốn có thấp đến cao dần, với vai trò quyết định của của tự nhiên; hai là, sự trao đổi chất của lực lượng sản xuất và phù hợp với nó là “mắt khâu xã hội” đạt hiệu quả kinh tế và quan hệ sản xuất. sinh thái đều rất thấp, vừa khai thác và sử Lực lượng sản xuất là tiêu chuẩn đầu dụng lãng phí các nguồn tài nguyên thiên tiên để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhiên, vừa gây ô nhiễm nặng nề môi trường nhau, các trình độ văn minh khác nhau. sống, do thải ra quá nhiều chất thải độc hại Bằng các cuộc cách mạng trong lực lượng mà tự nhiên không thể xử lý được. Với sản xuất (đổi mới và hoàn thiện tư liệu sản những hậu quả đó “mắt khâu xã hội” đã làm xuất, trước hết là công cụ lao động) và liền cho chu trình trao đổi vật chất, năng lượng, sau đó là các cuộc cách mạng xã hội (thực thông tin của sinh quyển bị đứt đoạn, và chất là giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng đây cũng là cội nguồn của những vấn đề sản xuất và quan hệ sản xuất), các mối quan sinh thái gay cấn nhất ngày nay như tình hệ giữa con người với tự nhiên và con trạng cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên người với con người đã không ngừng biến nhiên, ô nhiễm nặng nề môi trường sống, đổi, đưa đến sự thay đổi về chất của cả xã biến đổi khí hậu toàn cầu (BĐKHTC) hội loài người lẫn sinh quyển. Trong suốt Thứ hai, mối quan hệ giữa con người với tiến trình lịch sử, đã và đang diễn ra chủ tự nhiên và con người với con người phụ yếu ba nấc thang về sự thay đổi đó. Thứ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội nhất là cuộc cách mạng lực lượng sản xuất Phương thức sản xuất xã hội là yếu tố cơ lần thứ nhất. Với việc phát minh ra lửa và bản nhất của một hình thái kinh tế - xã hội biết sử dụng lửa, con người đã tự mình tách nhất định. Về mặt cấu trúc, phương thức ra khỏi thế giới động vật. Tuy nhiên, với sản xuất bao gồm: lực lượng sản xuất (mối lực lượng sản xuất còn quá thấp, con người quan hệ giữa con người và tự nhiên) và sống vẫn còn hoàn toàn phụ thuộc vào quan hệ sản xuất (mối quan hệ giữa con những lực lượng tự nhiên. Xã hội loài người và con người trong quá trình sản người lúc bấy giờ và và môi trường sống xuất). Các mối quan hệ này luôn vận động của sinh vật về cơ bản chưa có gì khác biệt và phụ thuộc lẫn nhau tuân theo quy luật về chất, chúng tạo thành một chỉnh thể “về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với thống nhất. Đó là một sinh quyển còn một trình độ phát triển nhất định của lực nguyên sơ, một xã hội chưa có giai cấp đối lượng sản xuất”. Trong tiến trình lịch sử, kháng đã tạo ra một môi trường sống duy phương thức sản xuất xã hội, trước tiên là nhất của người nguyên thủy. Thứ hai là các lực lượng sản xuất, không ngừng phát triển, cuộc cách mạng lực lượng sản xuất lần thứ sự phát triển đó kéo theo sự phát triển của hai, thứ ba, thứ tư với việc chế tạo ra các quan hệ sản xuất, đồng thời dẫn đến sự hình công cụ sản xuất bằng kim loại, từ cơ khí thành các hình thái kinh tế - xã hội mới. thủ công, cơ khí máy móc, đến cơ khí máy C.Mác đã coi sự phát triển của các hình thái móc tự động hóa. Nhờ đó xã hội loài người kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự đã chuyển từ dã man sang văn minh với các nhiên. Do đó, trình độ phát triển của xã hội nền văn minh kế tiếp nhau: văn minh nông 18
- Phạm Thị Ngọc Trầm nghiệp, văn minh công nghiệp và văn minh sản, đến lượt mình, lại là hình thức xã hội hậu công nghiệp. Tương ứng với sự thay duy nhất cho sự tồn tại của trí tuệ quyển. đổi của lực lượng sản xuất, quan hệ sản C.Mác đã tiên đoán chủ nghĩa cộng sản là xuất đã có những thay đổi phù hợp, đưa đến “sự giải quyết hiện thực mâu thuẫn giữa sự hình thành các xã hội có giai cấp đối con người và tự nhiên, giữa con người và kháng, từ thấp đến cao dần: xã hội chiếm con người”. Theo ông, “tất cả sự vận động hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản của lịch sử” hay toàn bộ quá trình lịch sử - chủ nghĩa. Đây là giai đoạn sinh quyển bị tự nhiên của sự hình thành xã hội loài người con người khai thác mạnh mẽ nhất, nhiều là “hành động hiện thực sản sinh ra chủ nhất, với mong muốn biến nó thành “kỹ nghĩa cộng sản”. thuật quyển”. Kết quả của quá trình biến Thứ ba, con người là chủ thể tích cực đổi đó là sự hình thành một xã hội có giai trong việc điều khiển một cách có ý thức cấp đối kháng ngày càng sâu sắc, phù hợp mối quan hệ giữa xã hội với tự nhiên với một sinh quyển bị tàn phá bởi kỹ thuật Con người sống là không ngừng hoạt và công nghệ. Thứ ba là cuộc cách mạng động, trong đó hoạt động sản xuất ra của lực lượng sản xuất lần thứ năm với sự chủ cải vật chất là quan trọng và quyết định đạo của công nghệ thông tin. Điều đó dẫn nhất. Tuy nhiên, hoạt động của con người đến sự thay đổi sâu sắc cả lực lượng sản từ trước đến nay hầu như chưa tính đến một xuất lẫn quan hệ sản xuất. Trong tự nhiên cách đầy đủ những quy luật tồn tại và phát đó là sự hình thành trí tuệ quyển với sự điều triển của yếu tố tự nhiên, trước tiên là khiển một cách có ý thức của con người những quy luật sinh thái học, những quy trong quan hệ với tự nhiên, thay cho một luật bảo đảm cơ chế hoạt động bình thường sinh quyển đã bị tàn phá. Trong xã hội đó là của chu trình trao đổi vật chất, năng lượng, sự ra đời của xã hội sau tư bản chủ nghĩa, thông tin của tự nhiên hay chu trình sinh trở về với xã hội không có giai cấp đối học trong sinh quyển. kháng ở trình độ phát triển cao, xã hội cộng Con người cũng đã từng đạt được những sản chủ nghĩa. Ở nấc thang phát triển cao kỳ tích vĩ đại trong việc chinh phục thiên này, các mâu thuẫn giữa con người với tự nhiên, song đã bị trả giá quá đắt. Ph.Ăngghen nhiên và con người với con người đều được đã từng nhắc nhở: “Không nên quá tự hào giải quyết, do đó, con người sống hài hòa về những thắng lợi của chúng ta đối với thật sự với tự nhiên, xã hội và tự nhiên giới tự nhiên. Bởi vì, cứ mỗi lần ta đạt được đồng tiến hóa. một thắng lợi là một lần giới tự nhiên trả Trí tuệ quyển và chủ nghĩa cộng sản là thù lại chúng ta”; “Chúng ta hoàn toàn hai mặt của quá trình lịch sử - tự nhiên. Trí không thể thống trị giới tự nhiên như một tuệ quyển là trạng thái có thể duy nhất về kẻ xâm lược đi thống trị một dân tộc khác, cơ sở vật chất tự nhiên (vô cơ và hữu cơ) chúng ta nằm trong lòng giới tự nhiên và tất của sự tồn tại của chủ nghĩa cộng sản, là cả sự thống trị của chúng ta đối với giới tự mức độ cao nhất của sự chinh phục và điều nhiên là ở chỗ, chúng ta khác với tất cả các khiển một cách có ý thức của con người đối sinh vật khác là chúng ta nhận thức được với các lực lượng tự nhiên trong môi trường các quy luật của giới tự nhiên và có thể sử tồn tại của loài người; còn chủ nghĩa cộng dụng được những quy luật đó một cách 19
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(99) - 2016 chính xác”. Để có thể điều khiển được mối nguyên và môi trường. Sự phát triển bền quan hệ giữa con người và tự nhiên, trước vững của một xã hội được đánh giá bằng hết, con người với tư cách là nhân tố có ý những chỉ tiêu hay những thước đo nhất thức duy nhất của hệ thống cần phải nhận định trên cả ba mặt: kinh tế, xã hội - nhân thức cho được những quy luật tồn tại và văn và sinh thái - môi trường. phát triển của giới tự nhiên, phải biết vận 3. Các triết lý tổng quát về mối quan dụng một cách đúng đắn, chính xác những hệ con người - xã hội - tự nhiên quy luật đó vào quá trình hoạt động thực Thứ nhất, con người, xã hội và tự nhiên tiễn của xã hội, mà trước tiên và quan trọng đều là vật chất đang vận động, chúng tồn tại nhất là vào lĩnh vực sản xuất xã hội. dưới những dạng thức khác nhau về cấu Bằng con đường phát triển khoa học, kỹ trúc và chức năng. Cả ba yếu tố đó thống thuật và công nghệ, con người đã và đang nhất với nhau trong một hệ thống bao trùm không ngừng khai thác, biến đổi tự nhiên, toàn bộ hành tinh Trái Đất, đó là sinh từ đó tạo nên mâu thuẫn sâu sắc giữa xã hội quyển. Sự thống nhất của hệ thống con và tự nhiên. Ngày nay, cũng chỉ bằng con người - xã hội - tự nhiên được bảo đảm bởi đường phát triển khoa học, kỹ thuật và công cơ chế hoạt động của chu trình sinh học hay nghệ, con người mới có thể quay về với cội chu trình trao đổi vật chất, năng lượng, nguồn của mình, sống hài hòa thực sự với thông tin của sinh quyển; tuân thủ theo các tự nhiên, trên cơ sở hiểu biết sâu sắc và biết nguyên tắc tự tổ chức, tự điều khiển, tự cân vận dụng đúng đắn những quy luật của tự bằng, tự bảo vệ, tự làm sạch theo một trật tự nhiên. Trí tuệ quyển là một giai đoạn tiến liên hoàn chặt chẽ. hóa đỉnh cao của sinh quyển - giai đoạn tiến Thứ hai, con người là sản phẩm và là sản hóa được điều khiển một cách có ý thức của phẩm cao nhất của quá trình tiến hóa của con người. thế giới vật chất, là hiện thân và cũng là hạt Thứ tư, xã hội cần phải phát triển bền vững nhân của sự thống nhất biện chứng giữa con Có nhiều cách hiểu khác nhau về thuật người và xã hội với tự nhiên. ngữ “phát triển bền vững” (PTBV). Tuy Thứ ba, xã hội là một bộ phận đặc thù của nhiên, dù cách hiểu nào đi chăng nữa thì tự nhiên cả về mặt cấu trúc lẫn chức năng. cũng đều phải quán triệt mục tiêu chung của Nền sản xuất xã hội là phương thức trao đổi PTBV đã được nêu lên lần đầu tiên tại Hội chất đặc thù giữa xã hội với tự nhiên. nghị thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc Thứ tư, mối quan hệ giữa con người với (LHQ) về Môi trường và Phát triển, tại Rio tự nhiên và mối quan hệ giữa con người với de Janneiro (Barazin) tháng 6 năm 1992 và con người luôn vận động, phụ thuộc và quy các Hội nghị tiếp theo. Theo đó, PTBV là định lẫn nhau trong suốt quá trình lịch sử - sự phát triển kinh tế - xã hội lành mạnh, tự nhiên. dựa vào việc khai thác và sử dụng hợp lý Thứ năm, con người là chủ thể tích cực các nguồn tài nguyên thiên nhiên và các trong mối quan hệ giữa con người, xã hội điều kiện của môi trường sống hiện có của với tự nhiên. Con người điều khiển mối các thế hệ người hiện tại, nhưng không làm quan hệ giữa xã hội với tự nhiên bằng cách ảnh hưởng bất lợi cho các thế hệ người tiếp nhận thức được các quy luật tồn tại và phát theo trong việc thỏa mãn các nhu cầu về tài triển của giới tự nhiên và biết vận dụng một 20
- Phạm Thị Ngọc Trầm cách đúng đắn và chính xác các quy luật đó sống xung quanh như nước, không khí, ánh vào hoạt động thực tiễn, trước tiên là hoạt sáng, khí hậu, thổ nhưỡng Giữa cơ thể động sản xuất ra của cải vật chất. sống và những điều kiện của môi trường Thứ sáu, cùng với sự phát triển của xã sống luôn có mối quan hệ chặt chẽ và tác hội, con người ngày càng khẳng định vai trò động lẫn nhau. Ngày nay, tuy đã có hàng chủ thể tích cực của mình trong quan hệ với trăm định nghĩa khác nhau về sinh thái học, tự nhiên. Bằng việc nâng cao nhận thức của song nguồn gốc thuật ngữ của nó vẫn còn mình về tự nhiên và hoàn thiện nền khoa nguyên giá trị. Theo cách hiểu chung nhất học - công nghệ hiện đại, con người mới có và phổ biến nhất thì sinh thái học là khoa thể quay về sống hài hòa thật sự với tự học về các mối quan hệ qua lại và tác động nhiên. Quá trình đó được bắt đầu từ nền sản lẫn nhau giữa các cơ thể sống với môi xuất xã hội (phương thức trao đổi chất đặc trường xung quanh. Nói một cách khái quát thù giữa xã hội và tự nhiên), mục đích là và chính xác hơn đó là mối quan hệ qua lại đưa “mắt khâu xã hội” thực sự trở thành và sự tác động lẫn nhau giữa các hệ thống một mắt khâu liên hoàn của chu trình sinh vật chất sống ở cấp độ cơ thể và trên cơ thể học, tạo nên sự đồng tiến hóa giữa xã hội và (loài, quần thể, quần xã, hệ sinh thái) với tự nhiên. những điều kiện của môi trường sống xung Thứ bảy, để thực hiện được mục tiêu quanh. Con người và xã hội loài người là trên, sự phát triển tiếp tục của xã hội ngày những hệ thống vật chất sống, tồn tại trong nay chỉ có thể đi theo con đường PTBV, có tự nhiên (sinh quyển) với tư cách là những như vậy mới bảo đảm cho mọi thế hệ con cơ thể hoàn chỉnh. Từ đó có thể đưa ra định nguời đều được thỏa mãn các nhu cầu của nghĩa nữa về sinh thái học; đó là khoa học mình về các nguồn tài nguyên thiên nhiên nghiên cứu mối quan hệ qua lại và sự tác (TNTN) và các điều kiện môi trường để tồn động lẫn nhau giữa con người (xã hội loài tại và phát triển tiếp tục. người) với sinh quyển. Điều này có nghĩa 4. Các khái niệm cơ bản liên quan đến là, sinh thái học tiến từ nghiên cứu mối môi trường sinh thái ở Việt Nam quan hệ “cơ thể - môi trường” sang nghiên Thứ nhất, sinh thái theo gốc tiếng La cứu mối quan hệ “con người - tự nhiên”, tinh là Oikos có nghĩa là nhà ở, nơi cư trú, “xã hội - sinh quyển”; mở rộng lĩnh vực nơi sinh sống của các cơ thể sống (từ đơn nghiên cứu ra ngoài phạm vi môn sinh vật bào, đa bào, quần thể, quần xã sinh vật, hệ học thuần túy; tiếp cận với những vấn đề sinh thái đến con người và xã hội loài triết học. người), ngày nay nó được gọi là môi trường Thứ ba, sinh thái là tập hợp toàn bộ sống, môi trường xung quanh hay MTST. những vấn đề có liên quan đến sự tác động Thứ hai, sinh thái học là học thuyết khoa qua lại giữa sinh thể với những điều kiện học về nơi cư trú, chỗ ở, về những điều kiện sống của môi trường xung quanh. Sinh thái sống hay môi trường sống của các sinh thể. nhân văn (hay sinh thái xã hội) bao gồm Mỗi sinh vật sống đều có một nơi cư trú trong nó tất cả các vấn đề có liên quan đến thích hợp. Điều này không phải ngẫu nhiên mối quan hệ qua lại và sự tác động lẫn nhau vì phụ thuộc vào sự phản ứng thích nghi giữa xã hội (với tư cách một hệ thống vật của cơ thể sinh vật với những điều kiện chất sống) và con người (với tư cách là một 21
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(99) - 2016 thực thể sinh học - xã hội - văn hóa) với nghĩa khác nhau về văn hóa, nhưng cái cốt môi trường xung quanh, trước hết là với lõi chung của văn hóa là tri thức, chuẩn sinh quyển. mực và giá trị. VHSTNV là tổng hợp những Thứ tư, MTST là tổ hợp của tất cả các cơ tri thức, những giá trị vật chất và tinh thần thể sống trong sự tương tác qua lại với do con người sáng tạo ra trong quá trình những điều kiện tự nhiên vốn có như ánh tương tác với thiên nhiên, được lưu giữ và sáng, nước, không khí, đất đá, khí hậu. Tổ truyền thụ từ thế hệ này sang thế hệ khác, hợp đó nếu có cả con người và xã hội loài được đúc kết thành những hệ thống chuẩn người thì được gọi là MTSTNV hay môi mực xã hội bền vững (thuận theo, nương trường sinh thái xã hội. MTST là đối tượng nhờ hay tận dụng thiên nhiên và ứng phó nghiên cứu của sinh thái học, còn MTSTNV với thiên tai), nhằm tạo ra cho mình một là đối tượng nghiên cứu của một bộ môn môi trường sống phù hợp hơn, tốt hơn và khoa học mới, được hình thành trên điểm đẹp hơn (chân, thiện, mỹ). Đối tượng nghiên giáp ranh của nhiều khoa học, đó là sinh thái cứu của VHSTNVcũng chính là đối tượng học nhân văn hay sinh thái học xã hội. nghiên cứu của STHNV là MTSTNV, tức là Thứ năm, STHNV nằm trên điểm giáp môi trường của mối quan hệ qua lại và sự tác ranh giữa các khoa học tự nhiên, khoa học động lẫn nhau giữa con người và xã hội với kỹ thuật và khoa học xã hội. Bản chất của tự nhiên, trong đó, con người với tư cách là nó nằm ngay trong lĩnh vực tác động qua lại một thực thể sinh học - xã hội - văn hóa. giữa xã hội và tự nhiên, giữa con người và 5. Một số quan điểm về STHNV, sinh quyển. STHNV hay STHXH là khoa STNV và MTSTNV học nghiên cứu mối quan hệ qua lại và sự Thứ nhất, những tiền đề hình thành tác động lẫn nhau giữa “con người - tự STHNV là nhu cầu cấp thiết của thực tiễn nhiên”, “xã hội - sinh quyển”, cụ thể là bảo vệ môi trường sinh thái vì sự phát triển nghiên cứu những quy luật hoạt động của bền vững, khi mà các nguồn tài nguyên sinh quyển và sự vận dụng một cách có ý thiên nhiên đã bị khai thác cạn kiệt và môi thức của con người những quy luật sinh thái trường sống đã bị ô nhiễm nặng nề; nhu cầu học đó vào hoạt động thực tiễn, nhằm đảm xem xét và định đoạt số phận của con người bảo những điều kiện tự nhiên cần thiết cho và xã hội trong những điều kiện phát triển sự tồn tại và phát triển bền vững của xã hội. mới; nhu cầu nắm bắt và vận dụng một Nói cách khác, STHNV là khoa học nghiên cách hợp lý các quy luật của tự nhiên vào cứu những phương pháp, cách tổ chức hoạt hoạt động thực tiễn, trước hết là hoạt động động của con người trong lĩnh vực quan hệ sản xuất ra của cải vật chất nhằm mang lại qua lại và tác động lẫn nhau giữa con người hiệu quả kinh tế và sinh thái cao; tri thức và tự nhiên, dựa trên cơ sở những yêu cầu khoa học của thời đại đã phát triển đến trình khách quan của các quy luật sinh thái học, độ cao. Trong STHNV, con người trở thành nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển hài đối tượng nghiên cứu trực tiếp. Sự hình hòa và bền vững giữa xã hội và tự nhiên. thành STHNV là một trong những hướng Thứ sáu, văn hóa sinh thái nhân văn phát triển của tri thức nhân loại đã đạt đến (VHSTNV) bao gồm hai thành tố: văn hóa mức, như tiên đoán của C.Mác, khi con và sinh thái nhân văn. Có hàng trăm định người đã trở thành “đối tượng trực tiếp của 22
- Phạm Thị Ngọc Trầm khoa học tự nhiên”; còn “đối tượng của hệ: giữa con người với tự nhiên và mối khoa học tự nhiên - giới tự nhiên” trở thành quan hệ giữa con người với con người. Do “đối tượng trực tiếp của khoa học về con vậy, bản chất của STNV không thể chỉ quy người”; tất cả sẽ trở thành một khoa học. về những mâu thuẫn của quá trình trao đổi Chính sự xích lại gần nhau giữa các khoa chất giữa con người (xã hội) và tự nhiên, học tự nhiên, khoa học xã hội nhân văn và được thể hiện cụ thể ở trình độ phát triển khoa học kỹ thuật - công nghệ trong sinh của lực lượng sản xuất, mà còn phải tính thái học hiện đại đã dẫn đến sự hình thành đến cả những mâu thuẫn giữa con người với STHNV hay STHXH. con người và những mâu thuẫn nảy sinh Thứ hai, nguồn gốc của STNV là sự lãng bên trong sự phát triển xã hội. Có ba loại quên mục tiêu sinh thái trong sản xuất xã mâu thuẫn cơ bản phản ánh bản chất của hội. Thông qua quá trình lao động sản xuất, STNV. Một là mâu thuẫn giữa sinh thái với con người tạo ra nhiều tạo phẩm văn hóa xã hội. Xã hội càng phát triển, càng hiện vật chất và văn hóa tinh thần có giá trị, làm đại, thì tự nhiên càng bị phá hoại, càng trở cho môi trường tự nhiên - người hóa đó nên nghèo hơn. Vì lợi ích trước mắt của ngày càng phát triển phong phú, đa dạng về mình và sự tồn tại phát triển của xã hội, con mặt hình thức lẫn nội dung, ngày càng khác người đã sử dụng khoa học, kỹ thuật và xa so với môi trường tự nhiên thuần túy. công nghệ như một phương tiện hữu hiệu Với quan điểm lấy con người làm trung tâm để khai thác, bóc lột tự nhiên, bất chấp của vũ trụ, của mọi sự phát triển, được hình những quy luật tồn tại và phát triển của nó. thành trong triết học Tây Âu vào thế kỷ Hậu quả nguy hiểm nhất của quá trình này XVII - XVIII, con người đã tập trung mọi là phá hoại cơ chế hoạt động bình thường hoạt động của xã hội vào việc thỏa mãn các của chu trình sinh học trong sinh quyển nhu cầu sống của riêng mình. Điều này (làm mất các khả năng tự tổ chức, tự điều được biểu hiện rõ ràng nhất ở chỗ, trong chỉnh, tự làm sạch, tự bảo vệ, tự cân bằng quá trình sản xuất sự ưu tiên dành cho các của nó) - một cơ chế bảo đảm sự thống mục tiêu kinh tế, còn mục tiêu sinh thái hầu nhất, tính toàn vẹn của hệ thống con người - như đã bị con người hoàn toàn lãng quên và xã hội - tự nhiên. Việc giải quyết mâu thuẫn đó chính là khởi nguồn cho những hậu quả này sẽ đụng chạm đến tất cả các lĩnh vực tiêu cực mà con người đã mang lại cho môi của đời sống xã hội, từ chính trị, luật pháp trường tự nhiên. đến kinh tế, đạo đức, lối sống. Hai là mâu Thứ ba, bản chất của STNV là sự phản thuẫn giữa sự tăng cường mở rộng sản xuất ánh những mâu thuẫn xuất hiện trong quá (tập trung các phương tiện kỹ thuật, công trình tác động qua lại giữa con người và xã nghệ cho sản xuất) với những kết quả cụ thể hội với sinh quyển (tự nhiên). Xét về mặt mà nó đạt được. Nếu không đạt được kết cấu trúc lẫn chức năng và về thực chất, con quả mong muốn, thì nhìn chung, không người và xã hội không có gì mâu thuẫn với nâng cao được hiệu quả kinh tế, ngược lại, tự nhiên. Mâu thuẫn chỉ xuất hiện trong quá nếu hiệu quả kinh tế được nâng lên thì trình con người tiến hành cải tạo, biến đổi thường hay kèm theo những hậu quả tiêu giới tự nhiên bằng lao động sản xuất. Quá cực, trước tiên là về mặt sinh thái, ảnh trình này bị chi phối bởi cả hai mối quan hưởng xấu đến đời sống của con người, 23
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(99) - 2016 mặc dù xã hội đã bỏ ra những khoản đầu tư rắn từ quá trình chế biến tài nguyên khoáng rất lớn. Việc tìm kiếm con đường để giải sản, từ sản xuất và tiêu dùng). quyết mâu thuẫn này cũng chính là quá Hai là, STNV trong mối quan hệ giữa trình tìm kiếm các cách thức kết hợp mục con người với con người (ô nhiễm môi tiêu kinh tế và mục tiêu sinh thái trong nền trường xã hội, các tệ nạn xã hội; vệ sinh an sản xuất xã hội. Ba là mâu thuẫn giữa kinh toàn lương thực, thực phẩm, dược phẩm, tế với sinh thái, mâu thuẫn này xuất hiện mỹ phẩm; đói nghèo và xóa đói giảm trong quá trình con người tìm cách sửa chữa nghèo). Đây là một trong những vấn đề những sai lầm trong hoạt động kinh tế của STNV cấp bách ở Việt Nam. Đói nghèo mình trước đây, đã từng gây nên những hậu cùng với sự kém hiểu biết và sự thiếu công quả tiêu cực cho tự nhiên. Việc sử dụng bằng và bình đẳng trong việc hưởng thụ các những biện pháp sinh thái, trước mắt nguồn TNTN của dân cư ở các vùng giàu thường làm giảm hiệu quả kinh tế của sản TNTN (thường là ở vùng rừng núi, vùng xuất, nhưng trên bình diện rộng và lâu dài sâu, vùng xa, ) là nguyên nhân trực tiếp là vô cùng cần thiết. Bởi vì, trước hết, con của việc khai thác và sử dụng bừa bãi, lãng người là một sinh thể, nên không thể sống phí các nguồn TNTN (rừng, các loại thiếu được các điều kiện tự nhiên tối cần khoáng sản), để mưu sinh vì cuộc sống của thiết như nước sạch, không khí trong lành, họ gắn bó chặt chẽ và phụ thuộc trực tiếp ánh sáng Mặt Trời, sau đó mới tính đến nhu vào thiên nhiên. Do đó, nghèo đói và việc cầu của một thực thể xã hội - văn hóa như xóa đói giảm nghèo không chỉ là vấn đề xã các tiện nghi, các điều kiện sinh hoạt văn hội, mà thực chất cũng là một vấn đề STNV hóa tinh thần Việc điều hòa mâu thuẫn cấp thiết, cần được quan tâm giải quyết. này là vô cùng cần thiết để con người có thể Ba là, STNV trong lĩnh vực hoạt động tiếp tục tồn tại và xã hội mới có thể phát văn hóa tinh thần hay vấn đề VHSTNV. Đó triển bền vững. Trong quá trình hoạt động là ý thức sinh thái, đạo đức sinh thái, lối sống, con người luôn đối mặt với những sống văn hóa sinh thái. mâu thuẫn đó và thường xuyên giải quyết Một trong những vấn đề VHSTNV gay chúng để tồn tại và phát triển xã hội. cấn và bức xúc nhất ở nước ta hiện nay là 6. Một số vấn đề cơ bản của MTSTNV sự nhận thức về môi trường và bảo vệ môi ở Việt Nam trường (MTST và MTSTNV) của người Một là, STNV trong lĩnh vực sản xuất vật dân, thậm chí cả những người quản lý xã chất. Đây là những vấn đề nảy sinh trực tiếp hội ở các cấp đều còn thấp. Nói chính xác từ trong quá trình sản xuất xã hội, nhất là hơn là ý thức sinh thái và lối tư duy sinh tình trạng khan hiếm và cạn kiệt các nguồn thái của người Việt Nam cho đến nay chủ tài nguyên thiên nhiên (TNTN) và nạn ô yếu vẫn còn ở trình độ thấp, trình độ của nhiễm nặng nề môi trường sống đã lên đến người sản xuất nhỏ, canh tác cây lúa nước mức báo động, đặc biệt là cạn kiệt rừng, đất (tiểu nông) đang phổ biến trong toàn xã hội. đai, nước ngọt và sạch, tài nguyên khoáng Đây là thực trạng và đồng thời cũng là sản, đa dạng sinh học; nạn ô nhiễm (ô nhiễm nguyên nhân quan trọng đưa đến những hậu môi trường nước là nguy hiểm và nghiêm quả tiêu cực cho MTST ở Việt Nam hiện trọng nhất, ô nhiễm không khí và chất thải nay. Ý thức sinh thái (YTST) được hiểu là 24
- Phạm Thị Ngọc Trầm những quan điểm, quan niệm của con về Lối sống VHST được thể hiện ở tình yêu MTST (về cấu trúc, chức năng, các thành thiên nhiên, cách ứng xử có văn hóa của phần cấu thành, các quy luật tồn tại và phát con người với thiên nhiên, linh hoạt và phù triển của nó ); về các quy luật của mối hợp (thuận theo, thích nghi, tận dụng thiên quan hệ, và sự tương tác qua lại giữa con nhiên và ứng phó kịp thời với thiên tai ), người và xã hội với tự nhiên; về tình cảm, nhất là trong điều kiện BĐKH hiện nay. thái độ và trách nhiệm của con người trong Bốn là, hệ giá trị VHSTNV truyền thống việc nghiên cứu, giải quyết các vấn đề sinh Việt Nam. Đó là: triết lý sống hòa hợp và thái và môi trường, nhằm đạt mục tiêu phát yêu thiên nhiên, một triết lý đã luôn đồng triển bền vững của xã hội. Ba mục tiêu này hành cùng với nền văn minh lúa nước; của YTST gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại phương pháp tư duy tổng hợp và biện và quy định lẫn nhau. YTST cũng có đầy chứng dựa trên cơ sở những tri thức kinh đủ các khía cạnh (các hình thái) như ý thức nghiệm; tinh thần yêu nước và ý thức cộng xã hội, nhưng chỉ ứng dụng cụ thể trong đồng dân tộc cao; tinh thần nhân văn cao lĩnh vực mối quan hệ giữa con người và xã cả, lối sống trọng tình cảm, khoan dung; hội với tự nhiên, đó là các khía cạnh chính yêu lao động, biết quý trọng sức lao động trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, văn hóa. và những thành quả của lao động, lối sống Con người là một thực thể sinh học - xã cần cù, giản dị, thanh đạm, tiết kiệm. hội - văn hóa, tồn tại và hoạt động trong Năm là, chiến lược phát triển bền vững ở MTVHSTNV. Sống trong môi trường này Việt Nam. Là một thành viên của mái nhà con người đồng thời phải chịu sự ràng chung Trái Đất, để tồn tại và phát triển, buộc, quy định của ba mối quan hệ chính: Việt Nam không thể không tham gia vào giữa con người với tự nhiên; giữa con Chiến lược phát triển bền vững do Liên người với xã hội giữa người với người. Đạo Hợp Quốc đề ra, với ba mục tiêu: về kinh đức sinh thái (ĐĐST) giữ vai trò quan trọng tế, phải tăng trưởng kinh tế nhanh nhưng an trong việc hướng dẫn, điều chỉnh các mối toàn; về xã hội - nhân văn, phải không quan hệ đó của con người. Đạo đức sinh ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thái bao gồm một hệ thống các quan điểm, thần của con người; thực hiện dân chủ, tư tưởng, tình cảm, các nguyên tắc, những công bằng và bình đẳng xã hội; bảo đảm chuẩn mực quy định điều chỉnh hành vi các chỉ số phát triển con người (HDI) với của con người trong quá trình tác động, các số đo về hệ số bình đẳng thu nhập, các biến đổi, cải tạo tự nhiên, nhằm phục vụ tiêu chí về giáo dục, dịch vụ y tế, tuổi thọ, cho đời sống của con người, cho sự tồn tại về hoạt động văn hóa; về sinh thái - môi và phát triển không ngừng của xã hội, trong trường, phải bảo vệ và không ngừng cải những điều kiện của môi trường VHSTNV thiện chất lượng môi trường sống; khai thác nhất định. ĐĐST cũng như đạo đức xã hội và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên nói chung gồm có ba thành tố chủ yếu: ý thiên nhiên, bảo đảm các chức năng của thức ĐĐST (lý tưởng, quan niệm, tư tưởng, môi trường sinh thái Ba mục tiêu này đã tình cảm của con người); quan hệ ĐĐST được đưa ra trong Chương trình nghị sự thế (quan hệ lợi ích trong mối quan hệ giữa con kỷ XXI tại Hội nghị Thượng đỉnh của Liên người với tự nhiên); thực tiễn ĐĐST (được Hợp Quốc về Môi trường và Phát triển ở thể hiện ở hành vi ĐĐST). Rio de Jannero (Brazin, 1992) và đã được 25
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(99) - 2016 Hội nghị Thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc từ 1 - 1,5%/năm nâng cao nhận thức cho về phát triển bền vững năm 2002 tại Nam con người về môi trường và bảo vệ môi Phi coi là ba trụ cột của phát triển bền trường, về BĐKH, tiến tới xây dựng nền vững. Căn cứ vào tình hình cụ thể của nước kinh tế xanh. ta. Việt Nam cũng đã xây dựng Chương 7. Kết luận trình nghị sự thế kỷ XXI và đã được Thủ Trên đây là những nội dung và kết quả tướng Chính phủ phê duyệt vào năm 2004. nghiên cứu chính ở Việt Nam trong hơn 45 Sáu là, biến đổi khí hậu toàn cầu. Theo năm qua về môi trường từ góc độ triết học Công ước khung của Liên Hợp Quốc về - xã hội. Những kết quả nghiên cứu này BĐKH thì BĐKH là những ảnh hưởng có cùng với những kết quả nghiên cứu từ các hại của sự thay đổi khí hậu, là những biến góc độ khác đã góp phần nâng cao nhận đổi trong môi trường vật lý hoặc sinh học thức của con người Việt Nam về môi gây nên những hậu quả tiêu cực đáng kể trường sinh thái. đến thành phần, chất lượng, khả năng phục hồi hoặc sinh sản của các hệ sinh thái tự Tài liệu tham khảo nhiên và đến hoạt động của các hệ thống [1] Trần Lê Bảo (Chủ biên), Nguyễn Xuân kinh tế - xã hội, đến sức khỏe và hạnh Kính, Vũ Minh Tâm, Phạm Thị Ngọc phúc của con người. Báo cáo lần thứ tư Trầm (2001), Văn hóa sinh thái nhân văn, của Ủy ban Liên chính phủ về BĐKH năm Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 2007 đã đánh giá cho thấy hơn 90% tác [2] Nguyễn Viết Chức (2002), Văn hóa ứng nhân gây ra BĐKH ngày nay là do hoạt xử của người Hà Nội với môi trường thiên động của con người; 3/4 lượng CO2 phát thiên, Nxb Văn hóa - Thông Tin, Hà Nội. thải vào khí quyển là do con người đã sử [3] V.I.Lênin (1979), Toàn tập, t.15, Nxb Tiến dụng quá nhiều nhiên liệu hóa thạch, phần bộ, Mátxcơva. còn lại là do chặt phá rừng bừa bãi, do [4] C.Mác và Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, cháy rừng Trên thực tế, con người đã t.20, 23, 42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. nhìn thấy tính chất nguy hiểm, cấp bách [5] Hà Huy Thành (2001), Một số vấn đề Xã của vấn đề BĐKH, điều này đã được thể hội và Nhân Văn trong việc sử dụng hợp lý hiện rõ qua nhiều Văn kiện của Liên Hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường ở Việt Quốc về Môi trường và Phát triển, đặc biệt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. là Nghị định thư Kyoto và các Bản Tuyên [6] Phạm Thị Ngọc Trầm (1997), Môi trường bố của các Hội nghị Thượng đỉnh của Liên sinh thái: vấn đề và giải pháp, Nxb Chính Hợp Quốc về BĐKH (COP. 12,13,14 19, trị quốc gia, Hà Nội. và 20 ở lại Lima (Pê ru) năm 2014). Việt [7] Phạm Thị Ngọc Trầm (2003), Khoa học Nam đã tích cực tham gia các Hội nghị Công nghệ với sự nhận thức, biến đổi Thế này. Là một trong những nước chịu ảnh giới và Con người, Mấy vấn đề lý luận và hưởng nặng nề nhất của BĐKH toàn cầu, thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Việt Nam luôn ưu tiên đẩy mạnh các hoạt [8] Phạm Thị Ngọc Trầm (Chủ biên) (2006), động đối phó và thích ứng với BĐKH, như Quản lý Nhà nước đối với Tài nguyên và đặt ra mục giảm cường độ phát thải khí Môi trường vì sự phát triển bền vững dưới nhà kính từ 8 - 10% so với 2010, giảm góc nhìn xã hội nhân văn, Nxb Khoa học lượng tiêu hao năng lượng tính trên GDP xã hội, Hà Nội. 26
- Phạm Thị Ngọc Trầm 27