Giáo trình Nhập môn báo trực tuyến - Phan Văn Tú
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Nhập môn báo trực tuyến - Phan Văn Tú", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_nhap_mon_bao_truc_tuyen_phan_van_tu.doc
Nội dung text: Giáo trình Nhập môn báo trực tuyến - Phan Văn Tú
- NHẬP MÔN BÁO TRỰC TUYẾN Trình bày: ThS. PHAN VĂN TÚ BÀI 1: TỔNG QUAN BÁO TRỰC TUYẾN I. Một số vấn đề lý luận 1. Khái lýợc về internet và truyền thông trực tuyến: 1.1. Internet Sự ra đời của một loại hình báo chí gắn liền với những phát minh công nghệ - Phát minh ra máy in của Gutenberg vào thế kỷ XV đánh dấu sự phát triển của báo in; - Phát minh ra máy điện báo và dịch vụ tin tức qua đýờng dây thép; - Nhiếp ảnh ra đời cuối thế kỷ 19; - Radio ra đời đầu thế kỷ 20; - Truyền hình ra đời vào những năm 1930; phát triển mạnh từ những năm 1970; - Internet ra đời vào cuối thế kỷ 20 trở thành nền tảng cho một hình thức truyền thông mới: báo trực tuyến; Một số điểm mốc trong quá trình ra đời của internet - Năm 1957, tổng thống Eisenhower (Mỹ) thành lập Cơ quan các dự án nghiên cứu cao cấp (Advanced Research Projects Agency/ARPA); - Năm 1969, ARPANET ra đời ; - Năm 1972, APRANET lần đầu tiên ra mắt công chúng và đổi tên thành DARPA - Cuối năm 1980, Internet ra đời từ sự tổng hợp từ các mạng ARPANET, NSFNET, USENET, BITNET, Compuserve , American Online Internet là gì? Internet là mạng thông tin diện rộng bao trùm toàn cầu, hình thành trên cơ sở kết nối các máy tính điện tử, cho phép liên kết con người lại bằng thông tin và kết nối nguồn tri thức đã tích luỹ được của toàn nhân loại trong một mạng lưu thông thống nhất. Quy mô, phạm vi ảnh hưởng của thông tin trên mạng Internet rộng lớn hơn nhiều so với các phương tiện thông tin thông thường khác. Với Internet, mọi người có khả năng và điều kiện rất thuận lợi trong việc tiếp cận trực tiếp với các nguồn thông tin trên thế giới 1.2. Internet một thực thể truyền thông mới: - Truyền thông và truyền thông đại chúng - Mô thức truyền thông internet - Truyền thông liên cá nhân - Truyền thông tập thể - Truyền thông đại chúng 2. Khái niệm báo trực tuyến Hiểu một cách chung nhất, báo trực tuyến là loại hình báo chí phát hành trên mạng Internet, sử dụng công nghệ world wide web, với ngôn ngữ HTML, dành cho công chúng sử dụng Internet. 3. Về tên gọi loại hình báo chí phát hành trên mạng Internet ở Việt Nam: - Báo điện tử - Báo online 1
- - Báo mạng - Báo mạng điện tử - Báo trực tuyến Xác định một số tiêu chí nhận diện báo trực tuyến: - Chủ thể của nội dung thông tin phải là các tổ chức được phép hoạt động như một cơ quan báo chí theo Luật báo chí hiện hành. - Báo trực tuyến phải có sự độc lập tương đối trên mạng Internet so với bản báo in, hoặc chương trình phát thanh – truyền hình của cùng cơ quan chủ quản, hoặc phải có ranh giới giữa thông tin của báo trực tuyến với thông tin của trang web mà nó cùng chung tên miền. - Nội dung thông tin phải được truyền bá tới đông đảo công chúng sử dụng Internet, nghĩa là bất kỳ ai sử dụng mạng Internet đều có thể truy cập. - Nội dung thông tin phải được cập nhật liên tục II. Đặc trưng loại hình 1. Cập nhật phi định kỳ: 2. Đặc trưng trình bày: + Đặc thù màn hình và liên kết + Phần mềm xuất bản và kết cấu nhiều lớp + Tính chất phi tuyến tính và liên văn bản + Bài báo mở + Không bị giới hạn về số lượng chữ viết, hình ảnh và số lượng “trang” báo + Vấn đề “bài toán trang nhất” 3. Tích hợp multi media 4. Lưu trữ và tìm kiếm thông tin 5. Phát hành đơn giản và rộng khắp 6. Tính tương tác Tính tương tác là khả năng cho phép công chúng truyền thông cùng tham dự vào nội dung thông tin của báo như phản hồi tin tức, liên hệ với chuyên gia, với những độc giả khác hay với chính những người làm báo Phân loại: - Tương tác giữa công chúng với tòa soạn; Tương tác giữa công chúng với nguồn tư liệu của tờ báo; Tương tác giữa công chúng với nhà báo; Tương tác giữa công chúng với nhân vật của bài báo; Tương tác giữa những công chúng với nhau; 7. Chi phí sản xuất thấp 8. Cá nhân hóa thông tin Đặc trưng cá nhân hóa thông tin của báo trực tuyến có thể hiểu là nhóm khả năng đặc biệt của loại hình báo chí này trong việc cho phép người sử dụng có thể tự do lựa chọn thông tin mình cần, vào đúng lúc mình cần (tiếp nhận thông tin không đồng bộ), theo cách thức mình mong muốn (khả năng tự trình bày) 9. Hạn chế: - Độ tin cậy của thông tin; - Những hạn chế về mặt kỹ thuật (máy móc, cơ sở hạ tầng Internet, điện ); - Những hạn chế do trình độ, thói quen, tâm lý của bạn đọc; - Vấn đề quản lý/sắp xếp trang, mục; 2
- - Nguồn thu; III. Báo trực tuyến trên thế giới 1. Quá trình hình thành và phát triển + Đến nay các nhà nghiên cứu vẫn chưa thống nhất nhau về mốc xác định báo trực tuyến trên thế giới ra đời ở đâu, ngày nào + Nhà nghiên cứu Lancester cho rằng mô hình một tờ báo trực tuyến đã được nghĩ đến từ năm 1973. Nhưng khi tờ báo khảo cứu về lĩnh vực tinh thần xuất bản trên mạng năm 1979 ra đời thì đó là tờ báo trực tuyến đầu tiên. + Những “tờ” báo trực tuyến trên thế giới đầu tiên được biết đến trong giai đoạn 1990 – 1995 như Post modern Culture; Electronic journal of Communication; Journal of the International Academy of hospitality Research; LIBRES: Library and Information Science Research Electric Journal; + Năm 1995, một loạt các tờ báo lớn của Mỹ đã xây dựng website của mình trên mạng như: Los Angeles Times, USA Today, New York Times Cũng năm này, nhiều tờ báo khác ở Châu Á cũng xuất hiện trên mạng internet như China Daily, Utusan (Malaysia), Kompas (Indonesia) Asahi Simbun (Nhật Bản) + Một số mốc trong tiến trình phát triển: Năm 1992, báo trực tuyến tiến thêm một bước mới về hình thức (tích hợp multi media); Năm 1994, web phát triển rộng khắp, báo trực tuyến nở rộ, những nghiên cứu về báo trực tuyến bắt đầu; Năm 1997, đã có giáo trình giảng dạy về báo trực tuyến tại các trường báo chí ở Mỹ 2. Báo trực tuyến trên thế giới hiện nay: + Các cơ quan báo chí trên thế giới hiện nay đều có báo trực tuyến với nhiều hình thức thông tin trực tuyến phong phú + Đội ngũ nhà báo trên thế giới hiện nay đầu có tư duy làm báo trực tuyến, tư duy đa phương tiện + Mô hình tòa soạn các cơ quan báo chí hiện nay mang tính tích hợp cao + Hướng đến việc đưa thông tin trực tuyến qua các thiết bị di động + Quảng cáo online đang dần chiếm ưu thế, các dịch vụ giá trị gia tăng cũng phát triển IV. Báo trực tuyến ở Việt Nam 1. Quá trình hình thành và phát triển Internet ở Việt Nam + Ngày 5/3/1997, Việt Nam thành lập Ban điều phối quốc gia mạng internet. Ngày 19/11/1997, Việt Nam chính thức hòa mạng Internet quốc tế. + Internet đã và đang làm nên nhiều thay trong các mặt đời sống ở Việt Nam. Và tiến trình phát triển Internet Việt Nam đã kéo theo sự ra đời của một thực thể truyền thông mới với sự phát triển nhanh chưa từng thấy: báo trực tuyến. 3
- + Các chỉ số thống kê hơn 10 năm qua cho thấy sự phát triển cực nhanh của hạ tầng kỹ thuật internet và số lượng người sử dụng internet ở Việt Nam cũng như việc ứng dụng internet trong các lĩnh vực đời sống. 2. Sự ra đời báo trực tuyến, bước phát triển của hệ thống báo chí Việt Nam đương đại: + một tháng sau thời điểm Việt Nam kết nối Internet quốc tế, tờ báo đầu tiên của Việt Nam đã xuất hiện trên mạng thông tin toàn cầu: tạp chí Quê hương, tạp chí của Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài. + Giai đoạn 1997 – 2002 được xem là thời kỳ “tập dượt” của làng báo trực tuyến Việt Nam + Từ 2002 đến nay được xem là giai đoạn phát triển cực thịnh của báo trực tuyến Việt Nam; 3. Một số báo tiêu biểu: 4. Một số đặc điểm trong tiến trình phát triển: 4.1. Phát triển gắn liền với thành tựu khoa học - công nghệ: - Công nghệ đã góp phần thay đổi phương thức làm báo - Hạ tầng viễn thông tác động tới việc phát triển - Các thiết bị công nghệ phát triển cũng góp phần tác động tới việc phát triển báo trực tuyến - Đây là đặc điểm có tính quy luật trong tiến trình phát triển của báo chí trực tuyến trên toàn thế giới 4.2. Phát triển từ những cơ quan báo chí truyền thống - Tận dụng nguồn các nguồn lực - Hạn chế: thói quen, tư duy làm báo 4.3. Phát triển song hành cùng với sự thu hút ngày càng nhiều công chúng trẻ và người Việt Nam ở nước ngoài - Công chúng báo trực tuyến là công chúng trẻ - Thế mạnh báo trực tuyến trong tuyên truyền đường lối chính sách đối ngoại, trong thông tin đối ngoại 4.4. Phát triển song hành với trình độ của báo chí trực tuyến thế giới - Công chúng Báo trực tuyến Việt Nam có khả năng sánh vai với làng báo chí trực tuyến toàn cầu - Báo trực tuyến Việt Nam là bước phát triển lớn của báo chí Việt Nam đương đại BÀI 2: TỔ CHỨC TÒA SOẠN VÀ QUY TRÌNH SẢN XUẤT I. Mô hình tòa soạn + Không có mô hình chung cho tất cả các toà soạn báo trực tuyến + Đa phần các toà soạn báo trực tuyến có biên chế gọn nhẹ, chuyên môn hoá cao + Xu thế trên thế giới hiện nay: tòa soạn tích hợp 4
- + Bộ máy nội dung của tòa soạn báo trực tuyến thường gồm (1) Bộ phận nội dung với hệ thống các ban chuyên mục (chuyền đề) - đội ngũ sản xuất (gồm các biên tập viên, thư ký tòa soạn); (2) bộ phận kỹ thuật và (3) đội ngũ quản lý bao gồm Tổng TKTS, Tổng Biên tập TỔNG/PHÓ TỔNG BIÊN TẬP TỔNG/PHÓ TỔNG THÝ KÝ TÒA SOẠN CÁC THÝ KÝ TÒA SOẠN CÁC TRÝỞNG BAN/TRANG ĐỘI NGŨ PHÓNG VIÊN Phó Tổng thư ký tòa soạn Phòng Chương trình Phòng Nội dung Phòng Kỹ thuật Biên tập viên chương Biên tập viên Kỹ thuật Họa sĩ trình (nghiên cứu, phát phụ trách chuyên viên công thiết kế, triển các chương trình mục nghệ trình bày cho báo trực tuyến) thông tin Phóng viên Cộng tác viên 5
- Tổng Biên tập Phó Tổng Trợ lý Tổng Phụ trách kỹ Trưổng phòng Thư ký Toà biên tập thuật hành chính soạn Các Trưởng ban (Kinh tế, Chính trị, Xã hội, Quốc tế, Giải trí Văn hoá, Thể thao, Net Mode, CNTT, Thư Hà Nội, Bạn đọc, Tiếng Anh, Ảnh) Thư ký xuất bản Phóng viên Biên tập viên II. Chức danh và quy trình sản xuất + Tổng biên tập là người đề ra định hướng tổ chức nội dung, người kiểm soát nội dung cao nhất. Nhưng trong quy trình sản xuất, thông thường, TBT chỉ duyệt những tin, bài nhạy cảm về chính trị hoặc những tin, bài do TKTS xin ý kiến duyệt) + Tổng thư ký tòa soạn hoặc Thư ký tòa soạn (kiểm soát nội dung ở mức sau TBT, có quyền đưa lên hoặc không đưa lên hầu hết tin, bài lên báo) + Trưởng ban/Trưởng trang (trực tiếp kiểm soát phóng viên và BTV, PV và đưa tin, bài lên để TKTS thông qua + BTV (biên tập tin, bài phóng viên cùng Trưởng ban/Trưởng trang trực tiếp giám sát, điều chỉnh quá trình thực hiện tin, bài của PV) – PV (thực hiện tin, bài, chịu sự động, giám sát trực tiếp của Trưởng Ban/Trưởng trang) + Các chức danh chính trong một tòa soạn báo trực tuyến: - Cấp quản lý: Tổng biên tập, Phó Tổng biên tập, Phó Tổng Thư ký toà soạn, Trưởng ban; - Bộ phận nội dung: Trưởng ban, Biên tập viên, phóng viên viết, phóng viên ảnh, nhân viên nhập liệu, cộng tác viên; - Bộ phận kỹ thuật – trình bày: chuyên viên kỹ thuật mạng, hoạ sỹ trình bày; + Thông thường, vào đầu giờ sáng hoặc buổi chiều, PV đề xuất hoặc tiếp nhận đề tài từ Trưởng ban/Trưởng trang – Trao đổi những vẫn đề liên quan đề đề tài và quá trình triển 6
- khai với Trưởng ban/Trưởng trang – Lấy thông tin thực tế - Viết tin/bài hoàn chỉnh – Chuyển tin, bài lên BTV. + Tuy nhiên, khi có tin nóng trong ngày, PV có thể chuyển tin thô về BTV/Trưởng trang/TKTS để những người này tổ chức tin, bài, cập nhật lên mạng. + BTV thường là người có kinh nghiệm làm báo, có khả năng xử lý thông tin nhanh nhạy, nắm vững thông tin trong chuyên mục mình phụ trách, có các kỹ năng cần thiết để xử lý tin, bài , âm thanh, hình ảnh + BTV còn có nhiệm vụ đảm bảo cho chuyên mục mình phụ trách luôn được cập nhật, có các tin, bài chất lượng, không vi phạm các quy định, đề xuất những hướng khai thác thông tin, cách trình bày tin, bài mới để phục vụ công chúng, đề xuất giao lưu/ phỏng vấn trực tuyến + BTV có thể tự viết bài, dịch bài hoặc tổng hợp thông tin từ báo bạn. + Nhận bài của phóng viên/nhân viên nhập liệu gửi lên, kiểm tra thông tin, biên tập và xuất bản lên mạng. + Những trường hợp “nhạy cảm”, biên tập viên chuyển bài cho cấp cao hơn xử lý. Biên tập viên có quyền đăng tin, bài trực tiếp lên báo và chịu trách nhiệm sau khi đã ấn phím cho xuất bản. + Phóng viên có vai trò tạo ra bản sắc riêng cho nội dung trang báo trực tuyến; Đặc điểm: Phóng viên báo trực tuyến phải làm việc dưới áp lực deadline mạnh hơn trong các cơ quan truyền thông khác. Công việc: sẵn sàng có mặt tại hiện trường, thông tin về toà soạn theo cách nhanh nhất, có nhiều nguồn tin, viết tin – bài, chụp ảnh, ghi hình + Cộng tác viên đóng vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin/ đóng góp nội dung tin tức cho tờ báo; (TTO nhận trung bình 200 email/ngày) Họ có thể là các chuyên gia trong các lĩnh vực, bạn đọc trong nước và ngoài nước, sinh viên báo chí; phóng viên của những tờ báo khác Tờ báo có mạnh hay không/có những tin tức độc đáo, thú vị hay không là nhờ đội ngũ cộng tác viên + Nhân viên nhập liệu: Chuyển bài từ báo in lên báo trực tuyến, thu thập thông tin từ các mạng khác, viết, dịch bài và chuyển bài cho biên tập viên. Nhân viên nhập liệu của TTO có vai trò như phóng viên cho tờ báo trực tuyến, nhưng khác ở chỗ chủ yếu khai thác thông tin trên mạng. Nhân viên nhập liệu của TTO gồm phóng viên từ ban khác chuyển sang, cử nhân báo chí, sinh viên các ngành xã hội (sinh viên có thể làm bán thời gian vào buổi tối). + Nhân viên kỹ thuật: Phụ trách các vấn đề liên quan đến máy tính, web, các vấn đề kỹ thuật của tờ báo, Ngoài ra nhân viên kỹ thuật cũng có thể viết tin, bài cho báo trực tuyến nếu yêu thích và có thời gian. + Họa sĩ trình bày: Thiết kế, chọn lựa màu sắc, font chữ, sắp xếp giao diện trang chính và các chuyên trang để đạt hiệu quả thẩm mỹ, thu hút người đọc và tạo điều kiện cho người đọc tiếp thu thông tin tốt nhất + Về quy trình: Tuỳ thuộc kiểu toà soạn; Có những đặc điểm chung: - Đi từ dưới lên; - Nhiều tầng duyệt bài -> hạn chế các lỗi chính tả, kiểm tra độ chính xác thông tin; - Người “ấn nút” cho xuất bản sẽ là người chịu trách nhiệm về tin/bài; 7
- + Các toà soạn báo trực tuyến hiện nay đều sử dụng phần mềm toà soạn điện tử cho công việc viết tin, bài, chuyển bài, biên tập, xử lý hình ảnh, âm thanh, xuất bản bài, chỉnh sửa sau khi đã xuất bản + Mỗi người sử dụng được cung cấp 1 tài khoản (account); Cho phép người dùng viết bài, gửi bài, biên tập bài gửi đến cho mình, gửi tiếp cho cấp trên hoặc gửi trả lại cấp dưới; Các biên tập viên luôn có danh sách đầy đủ những bài đang chờ biên tập. Phóng viên có thể biết tình trạng bài viết của mình (đã được đăng hay chưa, ai đang biên tập); + Toà soạn điện tử nhằm mục đích đáp ứng mục tiêu tin học hoá, hiện đại hoá quá trình làm báo, tiết kiệm thời gian, chi phí và nâng cao chất lượng phục vụ bạn đọc. VIẾT VÀ BIÊN TẬP BÁO TRỰC TUYẾN I. Tổ chức “trang” báo trực tuyến 1. Giao diện: + Giao diện (Interface) là hình thức tồn tại của tờ báo, là cách thức truyền tải thông tin đến độc giả, là cầu nối hai chiều giữa tòa soạn và độc giả, là một không gian thông tin không hề bị giới hạn; + Trình bày giao diện; + Tổ chức chuyên mục; + Nguyên tắc chung (báo trực tuyến trên thế giới): TRÌNH BÀY RÕ RÀNG – DỄ ĐỌC 2. Multimedia: (slideshows, thư viện ảnh, video, audio, bản đồ) 3. Blog của nhà báo 4. RSS feeds RSS viết tắt từ Really Simple Syndication hoặc Rich Site Summary là một tiêu chuẩn định dạng tài liệu dựa trên XML (eXtensible Markup Language) nhằm giúp người sử dụng dễ dàng cập nhật và tra cứu thông tin một cách nhanh chóng và thuận tiện nhất bằng cách tóm lược thông tin vào trong một đoạn dữ liệu ngắn gọn, hợp chuẩn. II. Tổ chức tác phẩm báo chí trực tuyến + Đề tài + Tổ chức thực hiện + Các thành tố liên quan trong tác phẩm (text, hình ảnh tĩnh, video, audio, soundslides, ) + Đề tài ở đâu? - Từ thực tiễn cuộc sống - Từ tài liệu (các kết quả nghiên cứu, sách, báo, tài liệu lưu trữ, quảng cáo, Internet, thông cáo báo chí ) - Từ trò chuyện, các câu chuyện phiếm, tin đồn, + Tổ chức thực hiện thế nào? - Tư duy đa phương tiện - Ý tưởng thực hiện Phân công công việc - Thu thập tư liệu - Xử lý tư liệu/thông tin Phân lớp thông tin: 8
- Tựa, tít (headline) LỚP 1 Lời dẫn (lead, chapeau) LỚP 2 Hình ảnh Nội dung Box Biểu đồ - Những bài viết có liên quan (link) LỚP 3 - Các trích đoạn âm thanh, hình ảnh (clip) 9
- Đặc trưng loại hình và kỹ năng viết, biên tập văn bản đối với báo trực tuyến + Trang chủ và bài toán giao diện – biên tập + Thói quen “đọc” báo trực tuyến + Các tiêu chí đánh giá hiệu quả thông tin + Ẩn dụ “câu cá” + Nguyên tắc “con bò và nắm cỏ” IV. Viết lời dẫn (lead, chapeau) + Viết lời dẫn là “đội mũ” cho bài báo nhưng không được che khuất nó. Nó phải gợi, kích thích sự tò mò của công chúng truyền thông + Lời dẫn giúp cho việc hoàn thiện cái tít bằng cách nói rõ hơn chủ đề của tác phẩm báo chí và góc tiếp cận: công chúng hình dung bài báo sẽ nói gì + Lời dẫn gợi cho công chúng cảm giác thông tin liên quan đến họ, kích thích sự tò mò tìm đọc (có tính chất giải thích ý đồ) + Lời dẫn là nơi cho thấy sự sáng tạo của nghề báo. Thậm chí có người nói, nhà báo giỏi hay không thể hiện ở trình độ viết lời dẫn. IV.1: Nội dung lời dẫn có gì? + Nội dung lời dẫn thường thể hiện phần TINH TÚY nhất của tác phẩm. Nội dung lời dẫn trả lời cho câu hỏi: CÂU CHUYỆN/VẤN ĐỀ CHÍNH Ở ĐÂY LÀ GÌ? CÂU CHUYỆN/VẤN ĐỀ CHÍNH Ở ĐÂY NÓI VỀ CÁI GÌ? + Có nhiều cách phân loại lời dẫn. Nhưng trong báo online, nhìn chung, lời dẫn có 2 loại cơ bản: 10
- 1. Loại có tính thông tấn: giản dị, trung tính, nghiêm túc 2. Loại có tính phóng sự, có màu sắc văn nghệ: khơi gợi, nêu lên mâu thuẫn, kích thích sự khám phá của công chúng truyền thông IV.3. Cách viết lời dẫn + Độ dài của lời dẫn trên báo trực tuyến thế nào là hợp lý? + Không có quy ước nào chung cho độ dài của lời dẫn. Với tin, các nhà chuyên môn khuyến cáo lời dẫn dài tối đa 25 – 30 chữ. Với các thể loại khác, bình quân chừng 50 chữ. Một số phần mềm xuất bản chỉ cho phép viết lời dẫn tối đa 50 chữ.+ Lời dẫn cho báo trực tuyến tốt nhất không nên quá ba câu đơn. Lời dẫn xuất sắc có khi chỉ là một câu. + Lời dẫn cần được viết bằng ngôn ngữ dễ hiểu (không lạm dụng các hình thức viết quá văn hoa, đánh đố) + Viết lời dẫn cho tin và các dạng bài tường thuật - Về nội dung, hãy đặt câu hỏi “câu chuyện chính ở đây là gì?”, “những thông tin nào trong tin bài là quan trọng?”. Khai thác các nội dung này để viết lời dẫn. - Lời dẫn trong tin thường cung cấp các câu trả lời về những yếu tố thông tin chưa có hoặc chưa rõ trong tít (như thời gian, không gian, đối tượng, nguyên nhân, mức độ ) - Lời dẫn trong tin thực chất là câu mào đầu của tin. Vì thế, phải cố gắng biểu đạt một ý, thông thường trong một câu ngắn (khoảng 25 – 30 chữ), có cấu trúc ngữ pháp đơn giản. + Với thể loại phỏng vấn, lời dẫn nêu ra hoàn cảnh phỏng vấn, nhân vật được phỏng vấn, vấn đề người đó đề cập + Lời dẫn có thể sử dụng đoạn trích những phát biểu từ trong bài. Tất nhiên, đó phải là những phát biểu có giá trị/hàm lượng thông tin cao hoặc phục vụ tốt cho chủ đề của tác phẩm báo chí + Nếu tít dùng một phát biểu, lời dẫn có thể nêu rõ hoàn cảnh phát biểu, nhân vật phát biểu và vấn đề tác phẩm sẽ đề cập Cao ốc chui vào lòng đất Đất mặt khu trung tâm TP.HCM ngày càng đắt đỏ, nhiều nhà đầu tư tìm cách “chui” xuống đất làm trung tâm thương mại, bãi đậu xe ngầm để tận dụng vị thế “đất vàng”. Các cao ốc đua nhau xuống đất. Du khách nước ngoài bị bắt làm con tin tại Philippines Tình huống xảy ra không khác gì một bộ phim Hollywood. Sáng nay 23-8, một cựu cảnh sát Philippines cầm súng máy đã chiếm giữ một xe buýt tại thủ đô Manila, và giữ gần 30 hành khách làm con tin. Thôi việc thầy giáo phạt học sinh nhập viện Sáng 3/11, Hội đồng kỷ luật trường THPT Lê Quý Đôn (TP HCM) đã họp, xử lý buộc thôi việc đối với thầy Võ Hải Bình về hành vi phạt học sinh sai quy chế. Áo trắng và cuộc chia ly màu đỏ Chín đội bóng tham dự ở hai bảng đấu của môn bóng đá nam tại SEA Games lần này sử dụng từ 2 đến 3 bộ trang phục khác nhau, riêng U23 VN chỉ mặc độc một màu trắng ở 4 trận vòng bảng 11
- II. Tổ chức tác phẩm báo chí trực tuyến Phân lớp thông tin: Tạa, tít LạP 1 (headline) Lại dạn (lead, chapeau) LạP 2 Hình ạnh Nại dung Box Biạu đạ - Nhạng bài viạt LạP 3 có liên quan (link) - Các trích đoạn âm thanh, hình ạnh (clip) 12
- + Cách viết: Kết cấu: - Hình tháp ngược; - Hình chữ T; Theo tuyến thời gian Kịch tính Xếp chồng (tin của các hãng thông tấn); - Nhiều cửa; Tổ chức nhiều cửa: - Chính văn (chia thành nhiều phần, sử dụng tít phụ); - Box; - Sơ đồ, bản đồ, biểu đồ, ; - Hình ảnh; - Audio & video; - Phần dành cho độc giả; Chính văn (nội dung bài) nên có những yếu tố sau: + Trích dẫn; + Nguồn tin; + Giải thích; + Phân tích; + Thông tin bối cảnh; + So sánh; Độ dài: Tối đa 800 chữ - Độc giả “lướt mắt” nhiều hơn là đọc (Jacob Nielsen); - Không nói lòng vòng mà đi thẳng vào nội dung chính; - Không nên để độc giả phải lăn chuột hoặc click sang trang thứ hai;- Nên có các tiểu đề/nội đề chứa đựng thông tin (điểm nghỉ cho mắt, độc giả dễ tiếp nhận thông tin hơn); - Nêu rõ nguồn tin; Tiết kiệm thời gian của người đọc: - “Hãy thứ lỗi cho tôi về lá thư dài này, tôi không có thời gian để viết ngắn hơn” (Blaise Pascal)- Công chúng sẽ cảm ơn những người viết không làm họ mất thời giờ. Ngôn ngữ đơn giản, trực tiếp sẽ hiệu quả hơn là những câu chữ khoe khoang trình độ văn học. Phân đoạn: - Mỗi đoạn 1 ý; - Đoạn có độ dài vừa phải (3-4 hàng); - Sử dụng phương pháp liệt kê hoặc gom thông tin thành từng cụm; 13
- Diễn đạt câu: - Nên dùng phương pháp diễn dịch; - Câu chủ động; - Sử dụng nhiều động từ, giảm bớt tính từ; - Rõ ràng, không uốn éo hoa mỹ; Chú ý những lỗi: - Tên gọi; - Chính tả; - Diễn đạt câu; Cháy lớn ở chợ Tân Bình Khoảng 22 giờ tối 11-4, tầng trên mặt tiền của chợ Tân Bình (Quận Tân Bình, TP.HCM) đã bốc cháy dữ dội. Lửa bốc cao khỏi tầng mái và lan rộng ra nhiều sạp hàng. Chỉ sau sau đó ít phút hàng chục xe cứu hỏa đã có mặt và phong tỏa toàn bộ tuyến đường Lý Thường Kiệt, Lê Minh Xuân xung quanh chợ. Khu vực bị cháy được xác định là gian hàng bán vật dụng gia đình và phụ liệu ngành tóc nằm ở tầng 1, có diện tích khoảng 32 mét vuông. Được tin báo, Sở cảnh sát phòng cháy chữa cháy TP.HCM huy động lực lượng của Phòng cảnh sát phòng cháy chữa cháy quận 11 lập tức ứng cứu. Sau khi dùng thang cứu hỏa phun nước từ mái xuống và tiếp cận chợ từ nhiều hướng, đến 23 giờ ngọn lửa phía trên mái đã tạm thời được khống chế. Sau đó cảnh sát phòng cháy chữa cháy đã phá được vào bên trong để tiếp tục dập lửa cho các gian hàng phía trong. Thiệt hại hàng hóa chưa được xác định, song may mắn không có thiệt hại về người. Voi xiếc quật chết một học sinh lớp 6 Khoảng 13g ngày 10-4, em Phạm Xuân Tín - học sinh lớp 6 Trường THCS Bình Đa (P.Bình Đa, TP Biên Hòa, Đồng Nai) - đã bị một con voi xiếc của doanh nghiệp biểu diễn nghệ thuật Sao Mai, tỉnh Hải Dương quật chết ngay tại sân vận động Bình Đa. Theo nhiều học sinh chứng kiến vụ việc thì voi xiếc được xích chân. Lúc đó, một nhóm học sinh, trong đó có Tín, do chưa đến giờ vào lớp nên đã leo vượt qua lưới B40 để nghịch voi. Có nhiều em ném đá, có em kéo đuôi voi Trong lúc voi giận dữ, Tín chưa kịp chạy đi đã bị voi dùng vòi cuốn lại quật hai lần xuống đất mới thả ra. Nhiều học sinh đã la lên và chạy vào khu bảo vệ đoàn xiếc, đánh thức những người đang ngủ trưa ở đây để đưa Tín đi cấp cứu. Ông Nguyễn Văn Hưng, phó đoàn xiếc Sao Mai, giải thích: trước khi xảy ra voi quật học sinh, cả đoàn đang ăn cơm thì có thấy một nhóm học sinh vào chọi voi. Khi chúng tôi ra tới nơi thì voi đã quật em Tín rồi. Ông Hưng cũng cho biết voi quật chết người là con voi cái, làm xiếc đá bóng. Có thể do trời nắng nóng quá nên voi “bực bội” khi bị học sinh nghịch phá. 14
- Chủ tịch UBND P.Bình Đa Phạm Cành Tơ cho biết đoàn xiếc có ký hợp đồng với phường giá 2,5 triệu đồng thuê sân bãi, điện, nước, công tác bảo vệ khán giả để biểu diễn xiếc thú duy nhất một đêm 10-4. IV. Tổ chức nội dung tác phẩm báo trực tuyến + Xử lý kết cấu: mô hình hình tháp ngược. Logic thông tin: mới, lạ trước. + Câu càng ngắn càng tốt, không ôm đồm mệnh đề, tránh tình trạng lẫn ý, ý phụ át ý chính + Mỗi đoạn một ý độc lập + Phần ý kiến nhân vật, tránh để nhân vật nói đi nói lại nhiều lần trong bài + Không viết lòng vòng, nên đi thẳng vào câu chuyện, vấn đề + Với những bài dài, nên có những tít xen chứa đựng thông tin. Tít xen (tít phụ) vừa tạo ra những điểm nghỉ cho mắt, vừa có tác dụng lôi kéo công chúng + Tận dụng tất cả ưu thế trình bày và cập nhật của báo trực tuyến khi viết bài (ảnh, đồ họa, liên kết, các định dạng văn bản ) + Độ dài một bài viết cho báo trực tuyến tùy thuộc vào thể loại, tùy thuộc vào tôn chỉ mục đích và đối tượng của từng tờ báo, nhưng nhìn ở bình diện chung, các nhà chuyên môn đều khuyến cáo không nên quá 800 chữ. V. Chụp ảnh và biên tập ảnh cho website + Vai trò của hình ảnh: - Bắt buộc; Có thể thay thế cho bài viết; Diễn đạt thông tin, tạo sự tin cậy Mục đích sử dụng: - Riêng lẻ: Đặt trong bài viết - Nhiều hình ảnh: thực hiện bài báo thông qua hình ảnh (soundslides), thư viện ảnh, chùm ảnh + Một số lưu ý về hình ảnh: - Bố cục theo nguyên tắc 2/3 - Điểm chết và đường chân trời - Hậu cảnh và tiền cảnh - Góc máy - Hướng nhìn - Khoảnh khắc bấm máy - Thông tin trong bức ảnh - Chú thích cho bức ảnh + Nguyên tắc chụp và biên tập ảnh: 1. Chọn góc máy hợp lý để có sự giao tiếp bằng ánh mắt với đối tượng được chụp 15
- 2. Chọn sử dụng phông rõ ràng 16
- 3. Chú ý nguồn sáng để làm nổi rõ chủ đề 4. Chọn chụp cận để làm nổi rõ chủ đề bức ảnh 5. Không đặt chủ đề vào giữa bức ảnh (các điểm chết) 17
- 6. Tránh sử dụng ảnh bị mất nét chủ đề 7. Phải chú ý các nguồn sáng 8. Khai thác ảnh đứng để tạo hiệu quả chiều sâu 18
- 9. Hãy biết “đạo diễn” cho một bức ảnh khi có thể Tổ chức thực hiện giao lưu trực tuyến Đôi nét về hình thức – thể loại + Giao lưu trực tuyến là hình thức báo chí khai thác thế mạnh tương tác của báo online + Giao lưu trực tuyến nhìn từ hệ thống thể loại báo chí + Đặc điểm của giao lưu trực tuyến so với các hình thức tương tự trên phát thanh, truyền hình Khi nào chúng ta cần tổ chức giao lưu trực tuyến? + Khi công chúng muốn có ý kiến, sự lý giải không phải của nhà báo mà là của những người có trách nhiệm. Do địa vị xã hội và chuyên môn của mình, họ có hiểu biết sâu sắc hơn, thông tin tốt hơn nhà báo về vấn đề mà xã hội quan tâm. + Khi nhà báo không chứng kiến được sự việc. Công chúng cần “nghe” những người trực tiếp tham dự cung cấp thông tin, giảm tối đa sự can thiệp của nhà báo vào phát ngôn của nhân vật. + Khi chúng ta muốn giới thiệu những cá nhân đặc biệt với cái nhìn, quan điểm, trí tuệ, tâm hồn, câu chuyện của chính họ. Phân loại (dựa theo tiêu chí nội dung) 1. Dạng có chủ đề thông tấn: khai thác/cung cấp thông tin từ những người có trách nhiệm, liên quan 2. Dạng có chủ đề tư vấn: lý giải, giải thích cho công chúng những vấn đề; cung cấp phương pháp, nội dung có tính chất chuyên môn 3. Dạng có chủ đề khắc họa chân dung nhân vật: cung cấp cho công chúng về chân dung một nhân vật đặc biệt (thường là người nổi tiếng, nghệ sĩ, vận động viên ) Trong thực tế, sự phân loại này chỉ có ý nghĩa tương đối và thông thường, có sự giao thoa giữa các nhóm chủ đề trên trong nhiều cuộc giao lưu trực tuyến Các bước tiến hành giao lưu trực tuyến 1. Công tác chuẩn bị: + Chuẩn bị chủ đề / góc tiếp cận + “Chuẩn bị” khách mời - Nên mời tối đa bao nhiêu khách? Tùy theo chủ đề giao lưu. Số lượng có thể là 1 hoặc hơn nhưng không nên quá 5 người. Nhiều khách, nội dung sẽ loãng. 19
- - Khách mời phải có tư duy tốt, có hiểu biết toàn diện về chủ đề, có năng lực diễn đạt, có trách nhiệm liên quan v.v + Chuẩn bị bối cảnh giao lưu - Không gian giao lưu trực tuyến? - Phông nền, trang trí, sắp đặt bàn ghế, máy móc sao cho phù hợp với chủ đề buổi giao lưu và thuận tiện cho tác nghiệp. Chú ý: bối cảnh giao lưu phải đảm bảo dễ chụp hình, ghi hình cho sinh động, tránh tiếng ồn, tránh sự di chuyển + Chuẩn bị các điều kiện kỹ thuật - Máy vi tính cấu hình cao, số máy tương ứng với số PV/BTV nhập tin, số khách mời nếu cần; máy tính xử lý ảnh/video clip , máy tính biên tập và xuất bản - Đường truyền internet tốc độ cao, ổn định - Phần mềm editor trực tuyến thân thiện, link các tính năng tổng hợp câu hỏi từ độc giả, xử lý nhiều câu hỏi và câu trả lời, post nhiều câu hỏi và câu trả lời, post ảnh gần như đồng thời. + Chuẩn bị hệ thống câu hỏi + Chuẩn bị phương án dự phòng 2. Công tác quảng bá: + Nêu rõ chủ đề / vấn đề của buổi giao lưu, giới thiệu kỹ về các khách mời để cho công chúng tiện đặt câu hỏi trước + Ngoài việc giới thiệu trên báo online của mình, còn phải tranh thủ giới thiệu trên các website khác, các kênh khác + Có thể đề ra các hình thức khen thưởng cho câu hỏi hay nhất nhằm thu hút trí tuệ của công chúng góp phần làm nên thành công của cuộc giao lưu 3. Phân công công việc: + Phân công người đảm trách phần kịch bản và dẫn chương trình cho nội dung giao lưu + Phân công PV/BTV đảm trách phần nhập văn bản và biên tập nội dung trả lời của khách mời + Phân công PV/BTV đảm trách phần chụp ảnh, ghi hình, ghi âm + Phân công một BTV giỏi chịu trách nhiệm đọc duyệt và cho xuất bản các nội dung giao lưu + Phân công người lo các công tác hậu cầu: đón khách, tiếp khách, đáp ứng các yêu cầu đặc biệt của khách 4. Xây dựng kịch bản dẫn: + Kịch bản giao lưu trực tuyến và kịch bản “mở” do có sự tham gia của cộng đồng và nội dung giao lưu. Tuy nhiên, ở góc độ tổ chức, cũng cần phải chủ động chuẩn bị một kịch bản gồm các khâu: giới thiệu mục đích ý nghĩa của buổi giao lưu, giới thiệu khách mời và đại biểu, bắt đầu đặt câu hỏi, các phần nội dung chính, các ghi chú cần thiết, phần chào kết và cám ơn, tặng hoa cho khách mời v.v + Kịch bản giao lưu trực tuyến cũng là văn bản dùng chung cho cả ê-kíp, có những quy ước liên lạc khi thay đổi kịch bản hoặc thứ tự các phần việc trong kịch bản + Kịch bản phải thể hiện sự điều tiết nội dung, thời gian hợp lý cho cả ê-kíp cùng thống nhất làm việc 5. Tác nghiệp: + Thống nhất các thao tác chuyên môn, các quy tắc trong quá trình giao lưu trực tuyến 20
- + Chủ động điều phối câu hỏi và nội dung giao lưu + Điều phối thống nhất và xử lý linh hoạt các phát sinh trong quá trình giao lưu + Xử lý các tình huống rủi ro + Biên tập câu trả lời: + Cắt bớt những nội dung thừa, không cần thiết. + Sắp xếp, thay đổi vị trí các phần trả lời cho hợp lý hơn. + Sửa chữa lỗi diễn đạt cho khách mời nhưng không được làm thay đổi tinh thần của phát ngôn 6. Một số yêu cầu: + Cả ê-kíp phải tuân thủ sự chỉ đạo chung + Có cơ chế liên lạc giữa các bộ phận, đặc biệt là trong các buổi giao lưu ở nhiều không gian khác nhau + Người dẫn chương trình và các BTV luôn lắng nghe và quan sát khi khách mời trả lời để có thể kết nối tốt câu hỏi mới với khách mời phù hợp với những nội dung công chúng gửi đến + Người xử lý câu hỏi của công chúng gửi đến phải nhanh, quyết đoán nhưng tránh sơ sót + Trong rất nhiều trường hợp cần cho khách mời xem lại câu hỏi trước khi chính thức post lên + Ảnh chụp phải sinh động, thể hiện được không khí buổi giao lưu (có toàn cảnh trung cảnh và cận cảnh). Chú ý những khoảnh khắc đặc biệt của khách mời. 7. Xử lý tình huống: + Khi khách mời không chịu trả lời những câu hỏi “nhạy cảm”, câu hỏi “sốc”, câu hỏi trách nhiệm + Khi khách mời không tới hoặc bị sự cố tới trễ + Khi đang giao lưu bị cúp điện + Khi đường truyền bị nghẽn mạch + Khi không có nhiều câu hỏi từ công chúng + Khi công chúng hỏi một câu quá khiếm nhã với khách mời + Khi khách mời trả lời quá lan man 21
- ÔN THI NHẬP MÔN BÁO TRỰC TUYẾN 1. Cạnh tranh với các loại hình báo chí khác? Cạnh tranh thông tin giữa các báo điện tử Thứ sáu, 20 Tháng 4 2007 14:48 minhlq Bởi vì thể loại tin chiếm phần lớn nội dung của các báo điện tử cho nên sự cạnh tranh giữa các báo này trước hết và chủ yếu là cạnh tranh về việc đưa tin nhanh và chất lượng thông tin. Đưa tin nhanh Đưa tin nhanh là một lợi thế và cũng là một tiêu chí hàng đầu của các báo điện tử. Những sự kiện thời sự nóng (breaking news) là trận địa nóng bỏng nhất. Họ thường huy động sức mạnh tổng lực cho những sự kiện này. Để chạy đua đưa tin sớm nhất, trước hết, báo điện tử có thể chỉ chạy một cái tít và một câu mở đầu tin để thông báo sự kiện mới xảy ra. Sau đó họ mới bổ sung dần thông tin, ảnh, các dữ liệu khác. Đối với những sự kiện lớn được công chúng quan tâm đặc biệt, họ còn có thể tường thuật trực tiếp sự kiện bằng hình ảnh (web TV) và bằng chữ để độc giả có thể theo dõi liên tục sự kiện đang diễn ra. Nhưng vấn đề quan trọng đầu tiên là làm thế nào để có được thông tin sớm nhất. Ngoài số lượng phóng viên có hạn của mình theo dõi từng lĩnh vực, các báo chỉ có thể dựa vào mạng lưới đông đảo cộng tác viên và cộng đồng bạn đọc thân thiết gắn bó với tờ báo. Tờ báo nào xây dựng được đội quân này đông đảo hùng mạnh thì càng có nhiều cơ hội tiếp nhận được thông tin nhanh. Một xu hướng mới của báo điện tử là công chúng tham gia ngày càng nhiều vào nội dung tờ báo. Trong rất nhiều trường hợp, bạn đọc không chỉ thông báo sự kiện cho báo mà họ còn ghi hình chụp ảnh và tường thuật sự kiện. Chẳng hạn như trong thảm hoạ sóng thần ở châu Á tháng 12-2004, nhiều khách du lịch châu Âu đã viết nhật ký trực tuyến (blog) tường thuật sự kiện và chụp ảnh, quay camera nhiều hình ảnh đưa lên mạng internet, sau đó được nhiều báo sử dụng. Trong khi đó, một số đài ở Việt Nam với số lượng phóng viên lên tới hàng trăm, thậm chí hàng nghìn người nhưng số phóng viên này lại chưa được huy động để giúp báo điện tử nâng cao sức cạnh tranh thông tin. Nguyên nhân của tình trạng này trước hết là do chưa có cơ chế để mọi phóng viên trong cơ quan đều có trách nhiệm săn tin. Mặt khác, viết tin và làm các sản phẩm cho báo điện tử cũng có những yêu cầu riêng và đòi hỏi sức ép về thời gian, kỹ năng sử dụng mạng internet cùng các thiết bị ngày càng tinh xảo phức tạp như máy tính xách tay, máy ảnh, máy camera, xử lý ảnh bằng kỹ thuật số, dựng hình, . Đây là một thách đố lớn đối với nhiều nhà báo quen viết cho báo in hàng ngày, nhất là những nhà báo lớn tuổi. Chất lượng thông tin Đưa tin nhanh là một yếu tố hàng đầu của chất lượng thông tin trên báo điện tử, nhưng chất lượng thông tin còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, trong đó có ba yếu tố quan trọng là việc lựa chọn sự kiện thông tin, khai thác chiều sâu thông tin và kỹ thuật viết tin theo phong cách hiện đại. - Việc lựa chọn sự kiện đưa tin Việc lựa chọn sự kiện đưa tin thể hiện tính chuyên nghiệp của phóng viên và toà soạn. Căn cứ để lựa chọn 22
- sự kiện để đưa tin là giá trị thông tin của sự kiện. Mà giá trị thông tin của sự kiện phụ thuộc vào các yếu tố chính là: kịp thời, gần gũi với bạn đọc (về không gian địa lý và về tâm lý) và tác động xã hội của sự kiện. Trên thực tế, những tờ báo có xu hướng giật gân, câu khách nhiều khi không chú trọng đúng mức các yếu tố chính yếu này mà lại đề cao quá mức các yếu tố như: kịch tính, tính mới lạ hay đời tư các nhân vật nổi tiếng. - Chiều sâu của thông tin Cùng với việc cạnh tranh để đưa tin nhanh, các báo còn cạnh tranh về chiều sâu của thông tin. Sau khi cạnh tranh để đưa lên mạng nhanh nhất thông tin ban đầu rồi, các báo tiếp tục cạnh tranh trong việc khai thác các góc cạnh, đi vào chiều sâu, bản chất của sự kiện. Cũng như các phương tiện truyền thông khác, các báo điện tử cũng có thể triển khai các bài phỏng vấn các nhân vật liên quan, viết chân dung nhân vật, viết phóng sự về vấn đề mà sự kiện đặt ra, viết bình luận phân tích ý nghĩa của sự kiện và bày tỏ thái độ đối với sự kiện. Tuy nhiên, công cụ đắc lực nhất của báo điện tử là loại tin sâu với độ dài khoảng 300-400 chữ trở lên, với cấu trúc rộng lớn, cho phép phóng viên có thể triển khai tới cả nghìn chữ. Kỹ thuật viết tin theo phong cách hiện đại có thể được mô tả tóm tắt qua cấu trúc tin sâu sau đây. - Cấu trúc tin sâu bao gồm 1. Đầu đề Là thông tin quan trọng đầu tiên, thể hiện góc độ của sự kiện mà nhà báo lựa chọn, thông báo về giới hạn nội dung của tin sẽ được đề cập, có vai trò chi phối toàn bộ nội dung của tin. 2. Mở đầu tin Mở đầu tin gồm một hoặc hai câu ngắn gọn, chứa đựng những chi tiết thông tin được phóng viên coi là quan trọng nhất. Phần mở đầu và đầu đề phải nói về cùng một chuyện chứ không nên nói về hai chuyện khác nhau. Nhưng thông tin trong phần mở đầu đầy đủ, chi tiết hơn, hoàn chỉnh hơn, có thể gồm một hoặc hai câu. 3. Trích dẫn Tin sâu luôn cần có các câu trích dẫn trực tiếp, nó làm cho tin thêm sinh động và chân thật vì chúng là lời nói đời thường sống động của những con người thật. Nếu không có những câu trích dẫn, tin sẽ trở nên khô khan, nhạt nhẽo. Trong tin sâu nên có nhiều câu trích dẫn, trải đều trong cả tin. Câu trích dẫn nên xuất hiện sớm, có thể là ở đoạn thứ hai sau phần mở đầu, hoặc chậm nhất là ở đoạn thứ ba, thứ tư. 4. Nguồn tin Tin nào cũng cần dẫn nguồn bởi vì phải có một ai đó là người cung cấp thông tin cho nhà báo, bản thân nhà báo không phải là nguồn tin, trừ phi nhà báo trực tiếp chứng kiến hoặc tham gia vào sự kiện hoặc với tư cách một nhà quan sát thạo tin. Nguồn tin phải rõ ràng, cụ thể, nếu là một người thì phải nêu tên tuổi chức vụ để bạn đọc có thể kiểm tra được, không nên dẫn nguồn chung chung, mơ hồ. Một tin có thể dẫn nhiều nguồn khác nhau, có thể bổ trợ cho nhau, cũng có thể khác nhau về chi tiết, về nhận định. 5. Giải thích Đối với các khái niệm, thuật ngữ, hiện tượng mới khó hiểu phức tạp, cần phải giải thích để bạn đọc dễ hiểu. Nhiều nhà báo không để ý các thuật ngữ chuyên môn gây khó hiểu cho rất nhiều độc giả. Kể cả độc giả có trình độ cao, là nhà chuyên môn nhưng cũng chỉ am hiểu một lĩnh vực mà thôi và họ cũng không hiểu các thuật ngữ chuyên môn trong nhiều lĩnh vực khác. Vì vậy, các nhà báo phải định nghĩa, giải thích các thuật ngữ, các khái niệm khó hiểu mỗi khi chúng xuất hiện. 23
- 6. Phân tích Cùng với việc đưa tin, đối với những sự kiện quan trọng, có thể viết tin sâu có phân tích, nêu thực chất vấn đề, bản chất sự việc, dựa trên đánh giá của những nhân vật có thẩm quyền hay am hiểu vấn đề, chứ không phải là ý kiến chủ quan của phóng viên. Cũng dựa vào các chuyên gia nổi tiếng, nhà quan sát đáng tin cậy, tin sâu có thể nêu ý nghĩa và tầm quan trọng của sự kiện; nêu bối cảnh của sự kiện, lý giải nguyên nhân sự kiện; nêu những hệ quả/hậu quả của sự kiện. Phóng viên trích dẫn lời bình luận, nhận định, ý kiến, thái độ của các nhà quan sát, nhà chuyên môn, nêu dư luận công chúng về sự kiện. 7. Thông tin bối cảnh Nhắc lại chuyện cũ, các thông tin cũ liên quan, bối cảnh của sự kiện. Nhiều bạn đọc có thể không theo dõi các sự kiện một cách thường xuyên, không biết đầu đuôi câu chuyện, nên phóng viên cần phải nhắc lại một cách vắn tắt những gì đã xảy ra trước đây để bạn đọc hiểu được đầy đủ toàn bộ câu chuyện mới xảy ra. Tuy nhiên cũng có nhiều người đã biết các diễn biến trước đó rồi, nên không cần viết quá dài dòng chi tiết trong phần này. Bối cảnh còn có nghĩa là giới thiệu với bạn đọc một bối cảnh, khuôn khổ rộng lớn hơn mà trong đó câu chuyện mình kể đang diễn ra. 8. So sánh So sánh sự việc, hiện tượng với chính nó trong các thời điểm trước đây. So sánh nó với các cái khác tương tự, cùng loại. So sánh nó với triển vọng trong tương lai gần, xa. Nhóm 6 – Sự cạnh tranh của báo mạng điện tử với các loại hình báo chí khác Posted on September 21, 2009 by k29bm Báo mạng – một loại hình báo chí tuy chỉ vừa mới xuất hiện trong vài năm trở lại đây – nhưng đã có một chỗ đứng nhất định trong lòng mọi độc giả. Sự xuất hiện của báo mạng điện tử không ít thì nhiều đã gây ra những xáo trộn đối với các loại hình báo chí khác. Cuộc cạnh tranh giữa báo truyền hình, báo nói, báo viết và báo điện tử hiện nay vẫn chưa đến hồi ngã ngũ, nhưng dường như tại thời điểm này, báo điện tử đang chiếm ưu thế, khẳng định sức mạnh của một loại hình báo sinh sau đẻ muộn nhưng đầy tiềm năng. Tháng 10/1993, Khoa báo chí Đại học Florida (Mỹ) tung ra cái mà họ tự tin là tờ báo Internet đầu tiên. Năm 1994, phiên bản online của tạp chí Hotwired chạy những banner quảng cáo đầu tiên và hàng loạt báo khác ở Mỹ ồ ạt mở website. “Cơn sốt vàng” của thời thông tin trực tuyến bắt đầu. Chỉ sau một thời gian ngắn, báo điện tử đã vươn lên chiếm ngôi của những loại báo lúc bấy giờ như báo in, báo hình hay báo nói. Theo các số liệu thống kê, số lượng độc giả của báo mạng tăng 30%, số lượng người đọc các tờ báo online hàng tháng là 55,5 triệu lượt. Một khảo sát lần đầu tiên về độc giả Internetcuar hãng dịch vụ thống kê truy cập Nielsen/NetRatings công bố mới đây cho thấy 1/5 số người lướt web thích đọc báo mạng hơn các phiên bản phi trực tuyến. Vậy nguyên nhân do đâu mà báo mạng điện tử đã có được vị trí như ngày hôm nay? Ưu thế đầu tiên của báo điện tử chính là khả năng cập nhật thông tin nhanh nhạy, cùng với sự phong phú, đa dạng của các thông tin này. Với cùng một thông tin như nhau, nếu là báo hình hoặc báo nói thì phải đợi đến giờ phát sóng của các bản tin, hay với báo in thì phải chờ công đoạn kiểm duyệt thông tin, in báo, sau đó phải đợi đến tận ngày phát hành thì thông tin mới được đến với tay bạn đọc. Trong khi đó, với báo mạng bạn chỉ cần một cái nhấp chuột, tất cả những thông tin nóng hổi nhất sẽ luôn được cập nhật, gần như cùng một lúc với sự kiện diễn ra. Cái mà người đọc cần chính là sự nhanh nhạy trong các thông tin, và báo mạng đã đáp ứng được nhu cầu đó của các độc giả. Báo điện tử đã tham gia vào đời sống xã hội với tư cách như một cơ quan đưa tin chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, những thông tin mà báo mạng đưa ra đều được trải rộng trên mọi lĩnh vực, từ kinh tế – chính trị đến lĩnh vực văn hóa – xã hội hay thể thao, thời tiết, người đọc có thể tùy chọn theo từng mục đề mà 24
- mình thích để đọc báo. Luợng thông tin mà báo mạng đưa ra không hề thua kém những loại hình báo chí khác về sự đa dạng, phong phú. Một trong những lợi thế khác của báo mạng chính là ở khả năng lưu trữ dường như là vô tận của các thông tin. Độc giả chắc sẽ cảm thấy khó khăn nếu muốn lưu trữ hay bảo quản những thông tin đã được phát sóng ở những chương trình phát thanh hoặc truyền hình. Với báo điện tử, người đọc có thể tìm kiếm các tài liệu cần thiết, sau đó có thể dễ dàng lưu (save) các thông tin đó để phục vụ cho mục đích của bản thân. Những tài liệu đó sẽ được lưu trữ một cách an toàn mà không chịu ảnh hưởng của thời gian, không gian như khi ta lưu giữ thông tin trên báo in. Không những thế, bằng cách đánh dấu các bài đọc, độc giả cũng tìm lại được các thông tin một cách dễ dàng. Ngoài ra, sức chứa dữ liệu của báo điện tử cũng vượt mặt những loại hình báo chí khác. Nếu như với báo truyền hình và báo phát thanh, lượng thông tin phải phụ thuộc vào thời lượng phát sóng của từng chương trình, hay với báo viết phải phụ thuộc vào số lượng trang báo thì báo điện tử lại không hề bị giới hạn về lượng thông tin được đưa ra. Báo mạng còn có tính chủ động cao hơn so với các loại hình báo chí khác. Độc giả có quyền được lựa chọn thông tin một cách nhanh chóng. Với một chương trình truyền hình, người xem có thể phải mất một khoảng thời gian để đánh giá chương trình hay hay dở thì với một thông tin trên báo mạng, người đọc dễ dàng nhận ra thông tin mình có muốn theo dõi hay không chỉ qua những dòng chữ đầu tiên. Ngoài ra, giữa độc giả và tòa soạn của một tờ báo mạng luôn có sự tương tác rất cao. Người đọc dễ dàng gửi ý kiến về một bài báo ngay lập tức (đối với một số tờ báo mạng phía dưới bài báo luôn có một khung dành riêng cho ý kiến độc giả), và qua đó tòa soạn cập nhật những nhận xét hay những thông tin nóng được nhanh chóng hơn. Với những thông tin lí thú ở trên những trang báo điện tử, bạn đọc dễ dàng chia sẻ nó cùng với bạn bè hay người thân bằng nhiều cách dễ dàng và thuận tiện như gửi email hoặc gửi trực tiếp vào yahoo messenger. Bằng cách đó, thông tin sẽ lan truyền rộng rãi, có sức ảnh hưởng sâu rộng hơn. Còn một ưu thế nữa của loại hình báo điện tử đó chính là yếu tố đa phương tiện (multimedia). Có thể coi báo điện tử hiện nay là sự hội tụ của cả báo giấy (text), báo tiếng (audio) và báo hình (video). Người đọc lướt web không chỉ được cập nhật thông tin dưới dạng chữ viết mà còn có thể nghe rất nhiều kênh phát thanh và xem truyền hình ngay trên các website báo chí. Ưu thế này không hề xuất hiện ở các loại hình báo khác. Chính những sự ưu việt của báo điện tử đã giúp loại hình báo này “lên ngôi”, đồng thời đẩy những loại hình báo chí khác rơi vào khủng hoảng. Đầu tiên phải kể đến báo in khi vào năm 2008, 5 tờ báo lớn nhất nước Mỹ đều sụt giảm lượng phát hành. Tờ New York Times giảm 3.6%, Los Angeles Times giảm 5.2%, Daily News giảm 7.2%, New York Post giảm 6.3%. Tờ nhật báo hàng đầu Christian Sciene Monitor (CSM) cũng tuyên bố sẽ đình bản in hằng ngày từ tháng 4/2009. Hàng loạt vụ phá sản của báo chí Mỹ cũng xảy ra trong năm 2008, khi mà báo điện tử vươn lên chiếm thế độc tôn. Tại Việt Nam, theo thông tin từ Cục Báo chí (Bộ TT&TT), đến tháng 5/2009 đã có 4 tờ báo xin ngừng hoạt động, 5 tờ báo xin giảm kì, 6 báo xin giảm trang. Có báo lớn đã phải cắt giảm 20% lương nhân viên. Với báo hình, tại Mỹ số người xem truyền hình đã giảm 2,5 triệu chỉ trong vòng từ 2006 đến 2008. Ngoài ra thời lượng xem TV mỗi ngày cũng giảm một cách đáng kể. Nguyên nhân là bởi sự thiếu cải tiến trong các chương trình truyền hình, chưa đáp ứng được nhiều nhu cầu của độc giả. Trong khi đó với báo điện tử, dễ dàng thấy được rằng chất lượng hình ảnh và âm thanh không hề thua kém truyền hình hay phát thanh. Sự phát triển nhanh chóng của các dịch vụ Internet nói chung hay báo điện tử nói riêng đã giúp nhiều công ty kiếm lời bằng cách bán quảng cáo thông qua các đoạn video phát trên mạng. Từ trước đến nay ưu thế này chỉ dành riêng cho truyền hình, và xu hướng này của các nhà quảng cáo đã trở thành một thách thức lớn đối với mạng lưới truyền hình trên thế giới. Nhiều tờ báo in đã phải lập tức triển khai phiên bản điện tử, trong đó phần lớn là phát hành lại các bài báo từ bản giấy và cập nhật thêm thông tin riêng vừa để cạnh tranh với báo điện tử, vừa là không thể cưỡng lại xu thế điện tử hóa. Trên thế giới, các ông trùm báo chí đã “kết án” báo in khi cho ra đời hàng loạt phiên bản điện tử, khiến công chúng không bỏ tiền mua báo in nữa. 25
- Biện pháp trên cũng được nhiều kênh truyền hình trên thế giới áp dụng. Ngay cả kênh truyền hình CNN cũng phải nhờ tới sự đột phá mang tên “CNN.com” mới giữ vững được ngôi vị là kênh truyền hình tin tức hàng đầu thế giới. Với sự lớn mạnh như vũ bão của báo mạng điện tử, các loại hình báo chí khác đang có những sự thay đổi không ngừng để chiếm lại vị trí của mình trong lòng độc giả. Bên cạnh việc cải tiến nội dung, các loại báo này đang nỗ lực trong việc đổi mới cách trình bày hay giao diện. Mới đây, người ta tuyên bố sẽ gắn con chip điện tử lên những trang báo in, qua đó người đọc có thể thấy những hình ảnh quảng cáo vô cùng sống động như ta xem trên truyền hình. Những hình ảnh này có chế độ tự động bật – tắt khi ta giở sang trang kế tiếp. Cách tân này của báo in đã gây ra sự tò mò rất lớn đối với phần nhiều độc giả. Người ta đang chờ đợi từng ngày để có thể cầm trên tay tờ báo in công nghệ cao đầu tiên trên thế giới. Nhiều tờ báo mạng cũng đã tuyên bố sẽ thu phí đọc báo online đối với các độc giả. Điều này đã gây ra sự hoang mang cho người đọc khi mà ưu điểm chi phí rẻ của báo mạng giờ đây đã không còn. Vậy với sự cạnh tranh không ngừng của các loại hình báo chí khác, liệu báo điện tử còn có thể chiếm vị trí độc tôn nhờ các ưu thế của mình hay không? Tương lai của báo mạng điện tử cùng với báo truyền hình, báo phát thanh và báo viết sẽ ra sao? Những câu hỏi này hiện vẫn đang chờ thời gian trả lời./. 2. Vấn đề nguồn thu báo trực tuyến 1.3. Doanh thu quảng cáo của báo trực tuyến sẽ tăng Doanh thu quảng cáo trên báo chí trực tuyến toàn cầu, nhân tố làm thay đổi và kích thích sự phát triển của loại hình truyền thông này đang tiếp tục tăng và có thể còn tăng nhanh hơn trong thời gian tới. Hoạt động quảng cáo trên các website báo chí Châu Á, theo đánh giá của ADB, tuy chưa có số liệu cụ thể, nhưng cũng tăng trưởng tốt. Sự phát triển đột biến của nguồn thu từ quảng cáo trên báo chí trực tuyến cũng đã kéo doanh thu quảng cáo trên Internet tăng theo. Nhiều báo trực tuyến trên thế giới cho biết họ hoạt động có lãi từ năm 2002. Hiện nay báo trực tuyến ở Việt Nam đa phần vẫn phải bù lỗ, nhưng có một vài đơn vị báo trực tuyến độc lập nay đã bắt đầu khởi sắc. Đó có thể là dấu hiệu đáng ngại cho báo in, nhưng cũng có thể là chiếc phao cho báo in, phát thanh, truyền hình tương lai khi tích hợp truyền thông. Với sự phát triển nhanh của các hình thức truyền thông trực tuyến, chắc chắn, cả báo in, phát thanh và báo hình đang trải qua thời kỳ khựng lại hoặc giảm lượng độc giả, thính giả, khán giả và doanh thu quảng cáo bị chia ra. Tuy nhiên, sự giảm sút này không đáng ngại bằng việc công chúng truyền thông đang có xu hướng chuyển sang loại hình báo chí mới. Theo các thống kê của Hiệp hội báo chí quốc tế, khi có một sự kiện thời sự nóng, chẳng hạn chiến tranh Iraq, vụ tấn công Trung tâm Thương mại thế giới, vòng chung kết giải bóng đá thế giới World Cup lượng công chúng trực tuyến sẽ tăng đáng kể bởi khả năng chuyển tin tức liên tục của báo trực tuyến có lợi thế hơn việc đưa tin theo chu kỳ 12 hoặc 24 giờ/lần như các phương tiện báo chí truyền thống khác. Nhưng cũng có nhiều ý kiến cho rằng sự thay đổi này không quá nhanh như nhiều người hình dung, đặc biệt là ở Việt Nam. Nói cách khác, mặc dù báo in, phát thanh, truyền hình được dự đoán sẽ bị báo trực tuyến “qua mặt” về thu nhập quảng cáo, nhưng điều đó không có nghĩa là doanh thu quảng cáo của các kênh truyền thống sẽ bị chia cho báo trực tuyến. Bởi báo trực tuyến sẽ có đối tượng riêng của mình và các loại hình báo chí truyền thống sẽ tìm ra con đường phát triển riêng 26
- (1). Một số nghiên cứu cho thấy số giờ trung bình mỗi năm mà người dân dành để đọc báo in đang có xu hướng giảm, song đây không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự gia tăng chậm hoặc giảm quảng cáo trên phương tiện truyền thông này. Lý do chính xuất phát từ đặc trưng của báo chí trực tuyến: Quảng cáo trực tuyến đang ngày một phổ biến bởi nó đem lại cho các đơn vị tiếp thị những tính năng đặc biệt mà những kênh thông tin khác không có. Người sử dụng sản phẩm, dịch vụ đã dần có thói quen “lướt web” để tìm hiểu “săm soi” sản phẩm trước khi mua một cách rất riêng tư và thậm chí được tư vấn dễ dàng về chính sản phẩm đó trên mạng. Quảng cáo trực tuyến tạo cho các nhà quảng cáo cơ hội rất tốt để gây ấn tượng với khách hàng trước khi họ quyết định. Báo trực tuyến (và Internet) còn đem lại cho nhà quảng cáo khả năng theo dõi phản ứng của người tiêu dùng trên mạng, nhờ đó đề ra được những cách tiếp thị thích hợp. Góp phần vào sự tăng trưởng của quảng cáo trên báo trực tuyến là sự phổ cập của băng thông rộng, công nghệ giúp tăng mạnh tốc độ truyền và lượng thông tin tới độc giả. Nó cho phép các nhà quảng cáo giới thiệu các phim ngắn về sản phẩm, cho phép độc giả tương tác với sản phẩm: nghe được âm thanh sống động, xem tại nhà để quyết định mua qua công nghệ tạo hiện trường ảo. Chi phí quảng cáo trên báo trực tuyến thấp hơn nhiều so với quảng cáo truyền thống và khả năng tương tác đa dạng và phong phú cũng khiến cho quảng cáo trên Internet hấp dẫn hơn. Đặc biệt với báo trực tuyến, có thể đo lường được hiệu quả quảng cáo (bao nhiêu người có thể nhìn thấy (tiếp cận) thông tin quảng cáo đó 1 lần, 2 lần, n lần – khái niệm “reach”) và có thể tính ra chi phí cụ thể: mất bao nhiêu USD để đưa được thông tin quảng cáo tới 1.000 người khai thác báo trực tuyến (trong tương quan so sánh với giá quảng cáo qua truyền hình vào giờ cao điểm để đưa thông tin đó tới 1.000 khán giả). Với đặc trưng chi phí thấp trong khâu sản xuất, báo trực tuyến càng có lợi thế hơn trong việc thu hút quảng cáo vì báo in để tăng chất lượng thông tin quảng cáo phải tăng chi phí in ấn. Bên cạnh đó, đặc trưng phát hành toàn cầu cho phép báo trực tuyến không bị giới hạn bởi thời gian và không gian địa lý. Sản phẩm dịch vụ quảng bá được rộng rãi, tiếp cận tới công chúng/khách hàng bất kỳ lúc nào và bất cứ đâu khắp toàn cầu. Tất nhiên ở Việt Nam hiện nay, một sản phẩm cụ thể như phân bón, mì chính, dầu gội đầu dành cho đối tượng là nông dân ở những vùng miền cụ thể thì việc quảng cáo trên báo trực tuyến không cần thiết và không hiệu quả (thông tin quảng cáo đó không cần phát hành toàn cầu và nông dân đại đa số chưa làm quen với báo trực tuyến). Nhưng xu thế trên thế giới là lượng độc giả, thính giả, khán giả của báo in, phát thanh, truyền hình truyền thống đang bị thu hút dần qua các báo trực tuyến tương ứng ngày càng nhiều hơn, nhất là công (1) Theo phân tích của JupiterResearch, trong 5 năm tới, chi tiêu vào quảng cáo trên báo in sẽ dao động ít, chứ không giảm. Các doanh nghiệp sẽ bổ sung kênh online vào ngân sách quảng cáo chứ không điều tiết lại nguồn tiền hiện có. 27
- chúng trẻ (2). Bên cạnh đó, trong tương lai, báo trực tuyến Việt Nam còn có thể bán được thông tin khi đã đầu tư xây dựng thương hiệu, củng cố uy tín cũng như cung cấp thông tin hấp dẫn để đủ sức thuyết phục người sử dụng bỏ tiền mua. Và điều đó trên thế giới đã không còn là dự báo bởi từ năm 2003, báo NewYork Times Online (Nytimes.com), không cho phép người sử dụng khai thác tất cả nội dung miễn phí. Ngoài ra, muốn xem thông tin lưu trữ trên Nytimes.com cũng phải mất tiền. Một số báo trực tuyến khác như Wall Street Journal (wsj.com, thuộc Tập đoàn Dow Jones) thậm chí tính phí online cao hơn phí đăng ký báo in dài hạn (79 USD/năm cho báo online, trong khi chỉ 39 USD/năm cho báo in) hoặc Time Online (time.com) từ đầu năm 2004 đã không còn cho khai thác miễn phí tất cả bài báo, đặc biệt các “bài đinh”, chuyên đề (cover story) phát hành thị trường Bắc Mỹ (3). Bên cạnh việc thu hút ngày càng cao hơn doanh số quảng cáo, tài trợ và dịch vụ, việc bán thông tin trên báo trực tuyến được xem là một trong những xu hướng của loại hình báo chí này trong tương lai. 3. Mạng xã hội có làm thay đổi mô thức truyền thông hiện nay? Mạng xã hội Việt Nam: Cờ đã đến tay Hà Cúc Doanh Nhân Sài Gòn 11:05' AM - Thứ bảy, 29/05/2010Có cả sự định hướng của Chính phủ, quyết tâm của doanh nghiệp và sự sa sút của các đối thủ nước ngoài, bức tranh về các mạng xã hội “made in Việt Nam” phần nào rõ nét hơn Ở Việt Nam trong vài năm gần đây cũng đã xuất hiện một số các mạng xã hội hoàn toàn do người Việt xây dựng. Có thể điểm qua các tên như Vietspace, Yobanbe, Zingme. Các mô hình khác thì đều có mặt một vài tên tuổi như Tamtay, Yobanbe, Clipvn, Sannhac, Anhso.net Tuy nhiên, phải thừa nhận, nhìn chung, những mạng xã hội khác này đều là “bản sao chưa hoàn chỉnh” của các trang web nổi tiếng như MySpace, Flickr, Facebook hay Youtube. Các mạng xã hội “made in Vietnam” đều chưa phát triển được các ứng dụng như Facebook hay Google nên không thu hút đựơc người sử dụng. Trong các mạng xã hội của Việt Nam hiện tại chỉ có Zingme là mạng xã hội do Công ty VinaGame xây dựng là có tới khoảng 4 triệu tài khoản. Nhưng người dùng Zingme phần lớn lại là những người chơi game, những học sinh, sinh viên tuổi teen nên không tạo nên ảnh hưởng đến xã hội nói chung. Mặc dù vậy, có thể thấy, sự sa sút của Yahoo! 360 và chập chờn của Facebook là cơ hội cho mạng xã hội Việt Nam phát triển mạnh hơn. Chính phủ mới đây quyết định chi gần 1.000 tỷ đồng vào việc phát triển phần mềm và nội dung số được xem là tín hiệu tốt cho thị trường này. Đồng thời, một yếu tố quan trọng hơn là Bộ trưởng Bộ Thông tin - Truyền thông Lê Doãn Hợp mới đây cũng cho biết, trong năm nay dự kiến (2) Hãng khảo sát thị trường Jupiter Research (Mỹ) vừa đưa ra dự báo: tiền chi vào tiếp thị online trong 3 năm tới sẽ tăng khoảng 500 triệu USD, lên 15 tỷ USD, so với 13,8 tỷ USD của các kênh thông tin truyền thống. Tốc độ đầu tư vào quảng cáo trực tuyến - tức những thông điệp có trả tiền trên các website, dịch vụ trực tuyến và một số kênh tương tác khác như nhắn tin (SMS) hoặc e-mail - dự kiến sẽ tiếp tục tăng (đến năm 2009, đạt 16,1 tỷ USD). (3 ) Dẫn theo www.hocbao.com ; Nguyễn Hoàng dịch và tổng hợp 28
- sẽ ra mắt mạng xã hội Việt Nam đủ sức định hướng và cung cấp đầy đủ thông tin theo nhu cầu người dân qua mạng internet. Vấn đề còn lại là các mạng xã hội Việt Nam phát triển như thế nào, liệu có đủ khả năng cạnh tranh và thay thế các mạng xã hội nước ngoài? Có thể thấy, đây là câu hỏi có tính thị trường và dành cho các doanh nghiệp đã và đang đầu tư cho các mạng xã hội tại Việt Nam. Trước đó, những website Việt ra đời trong "trào lưu" Web 2.0 nhấn mạnh nội dung do người dùng tự tạo như Ngoisaoblog.com, Clip.vn, Cyworld.vn, Yobanbe.vn, Cyvee.com, Phununet.com, Henantrua.com Các mạng này và những mạng xuất hiện sau đó đều đang dựa chủ yếu vào hai mô hình kinh doanh là quảng cáo trực tuyến và dựa vào dịch vụ đi kèm, bán tài sản ảo. Hầu hết doanh thu từ các mạng xã hội chưa là bao nhưng các doanh nghiệp đều xác định đầu tư lâu dài “nuôi thị trường”. Tính ra có gần 100 mạng xã hội do các doanh nghiệp nội địa đầu tư kéo theo sự cạnh tranh gay gắt lẫn một bức tranh “hỗn tạp” của mạng xã hội Việt Nam. Cho đến thời điểm hiện tại rất nhiều sản phẩm sống lay lắt sau một thời gian hoạt động hoặc dừng hẳn. Dù chưa có đánh giá cụ thể nhưng tiềm năng kinh doanh trên các mạng xã hội thực sự rất lớn, với khả năng thay thế di động, các hình thức kết nối, quảng cáo, nghiên cứu thị trường Vì vậy, dù chưa thực sự hấp dẫn như các thị trường khác nhưng các “đại gia” bắt đầu nhảy vào đầu tư cho mạng xã hội và nội dung số. Các tên tuổi lớn như FPT, VCCorp, VinaGame, VTC Intecom, Vega Corp và Viettel đều ít nhiều đã tham gia vào thị trường này với các sản phẩm khá phong phú, từ tán gẫu, mạng xã hội, học tập cho đến các chương trình truyền hình số và các dịch vụ đa phương tiện khác. Tất nhiên, Quỹ đầu tư mạo hiểm IDG Ventures Vietnam với lợi thế đi trước đã có mặt ở hầu hết các dịch vụ nội dung thông qua việc rót vốn cho các công ty nhỏ hoặc các ý tưởng có triển vọng với tham vọng tạo lập một chuỗi dịch vụ để hợp nhất cơ sở dữ liệu của cộng đồng. Theo ông Paul Hưng, Giám đốc công ty VON (chủ sở hữu YuMe), nhận định: “Không thể có sản phẩm đáp ứng được mọi nhu cầu, nên vấn đề của các mạng xã hội khác là phải tìm kiếm và phục vụ cho những nhu cầu chưa được đáp ứng”. Ngoài những mạng xã hội “sao chép” nước ngoài, hiện nay nhiều mạng xã hội Việt Nam chuyển sang những thị trường ngách nhỏ hơn nhưng khác biệt. Thay vì phát triển các sản phẩm giống như Facebook, Myspace, Twister, nhiều sản phẩm lại được hướng vào các lĩnh vực chia sẻ nội dung nhạc, video, hình ảnh, game, marketing và tin tức. Tạp chí Forbes châu Á mới có một bài viết về VinaGame - công ty đang đặt mục tiêu trở thành một trong những công ty internet nội địa hàng đầu. Với doanh thu năm 2009 vừa được công bố là 50 triệu USD, đạt mức tăng trưởng 50% so với năm 2008, Không chỉ thống trị thị trường game online, VinaGame cũng đã bắt đầu chuyển hướng sang đầu tư vào lĩnh vực mạng xã hội, đồng thời lên kế hoạch đổi tên công ty thành VNG để phản ánh một cách chính xác hơn sự phong phú về các loại hình dịch vụ mà họ cung cấp. Hai năm trước, VinaGame đã ra mắt cổng thông tin tổng hợp Zing.vn. Hiện website này đang được Alexa.com - dịch vụ xếp hạng website uy tín hàng đầu thế giới xếp ở vị trí thứ ba tại Việt Nam chỉ sau Google và Yahoo!, tính theo số lượng người truy cập. Mạng xã hội ZingMe với các chức năng, cũng đang dẫn đầu thị trường với 4 triệu người dùng thường xuyên mỗi tháng. Ông Henry Nguyễn, Tổng giám đốc IDG Ventures, cho biết, VinaGame hiện nay là một công ty có lợi nhuận khá lớn và đã bắt đầu giai đoạn tái đầu tư. Dù còn nhiều điều đáng bàn nhưng thành công của VinaGame cũng mang lại nhiều hy vọng cho một mạng xã hội “made in Vietnam” trong tương lai. Hình thức kinh doanh của các mạng xã hội tại Việt Nam: 1. Quảng cáo trực tuyến bao gồm quảng cáo truyền thống, quảng cáo đa phương tiện, quảng cáo tài trợ, quan hệ công chúng (đa số các mạng xã hội đều ít nhiều 29
- áp dụng như zing.vn, clip.vn, yume.vn, cyworld.vn, ) 2. Bán tài sản ảo: có thể là đồ đạc, xe cộ, đồ thời trang, cuộc hẹn (henantrua.vn, cyworld.vn, play.zing.vn, vihuni.vn ) 3. Dịch vụ cao cấp khác: nhắn tin SMS kích hoạt tài khoản, đặt mua dịch vụ như henantrua.vn, mkool.zing.vn; tính phí giao dịch như PhunuNet.com, LopViet.com, Ringring.vn Mạng xã hội Việt Nam - con đường phía trước? Đỉnh điểm của phong trào mạng xã hội Việt Nam là vào năm 2008, khi hàng loạt cái tên mới xuất hiện lúc đầu năm và cũng một vài cái tên khác lặng lẽ ra đi vào cuối năm. Giới trẻ vẫn đang kỳ vọng vào một mạng xã hội Việt Nam trong tương lai gần Mạng xã hội Việt Nam có nhiều cơ hội phát triển Sự phát triển của MXHVN là xu hướng tất yếu bởi nó là một trào lưu của cả thế giới hiện nay. Tuy nhiên, ngay cả trên thế giới, mạng xã hội cũng chưa thực sự phát triển ổn định mà nó vẫn đang trong quá trình định hình mặc dù có rất nhiều cái tên đình đám. Khó khăn đến từ đâu? Đã được gần hai năm kể từ ngày mạng xã hội Việt Nam (MXHVN) được manh nha. Đỉnh điểm của phong trào này là năm 2008 khi mà hàng loạt cái tên mới xuất hiện lúc đầu năm và cũng một vài cái tên khác lặng lẽ ra đi vào cuối năm. Có ba loại mạng xã hội chính là ego-centric, relationship-centric và content-centric. Cả ba loại hình này đều đã có mặt ở Việt Nam và có những hướng phát triển riêng dựa trên đặc thù của từng loại hình. Với mạng xã hội ego-centric thì Yahoo! 360 chính là một người khổng lồ mà cái bóng của nó không dễ gì vượt qua. Các mô hình khác thì đều có mặt một vài tên tuổi như Tamtay, Yobanbe, Clipvn, Sannhac, Anhso.net v.v, tất cả đều hào hứng với sân chơi mới, cả những người làm ra nó và cả những người trẻ tuổi sử dụng nó. Nhìn chung, những mạng xã hội khác này đều là ‘sản phẩm nhái’ (hay còn gọi là clone) của các trang web danh tiếng và cực kỳ phát triển của thế giới như MySpace, Flickr, Facebook hay Youtube. "Chúng ta có nên quá lo lắng cho các mạng xã hội Việt Nam hay không?”. Đó là một câu hỏi lớn xuất phát từ những khó khăn, bất cập mà hầu hết các MXHVN đang phải đương đầu. Khó khăn thứ nhất không dễ gì vượt qua đó là các MXHVN sẽ phải đương đầu với các người khổng lồ. Ví dụ như Yahoo 360 đã chiếm phần lớn chiếc bánh thị trường blog của Việt Nam. Các nhà chiến lược của Việt Nam khi muốn xây dựng các trang mạng xã hội ego-centric tương tự như Y!360 đều phải tạo thêm tiện ích để hỗ trợ người dùng di chuyển tất cả nội dung từ Y!360 sang trang web mới. Tuy nhiên, việc này thật chẳng dễ dàng gì vì bản chất người sử dụng là ngại sự thay đổi một cách ép buộc. Về mạng xã hội relationship-centric như Tamtay, Yobanbe v.v - liệu rằng khi Facebook nay đã được dịch chuẩn sang tiếng Việt thì chỗ đứng của các mạng xã hội dạng này có còn nguyên vẹn? Đành rằng các trang MXHVN là thuần Việt nhưng đôi khi tâm lý người tiêu dùng Việt Nam lại chuộng ngoại hơn. Họ không chỉ muốn kết bạn với những người trong nước mà còn muốn tham gia vào ngôi nhà thế giới kia. Hơn nữa, về tiềm lực kinh tế, để phát triển các ứng dụng trên mạng xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người sử dụng thì chắc chắn rằng các MXHVN khó có thể ‘chọi’ được với các đại gia thế giới. Bên cạnh đó, tuy số dân sử dụng Internet ở Việt Nam ngày càng gia tăng nhưng cần nhớ rằng chỉ có một phần trăm rất nhỏ sử dụng mạng vì những mục đích như phục vụ công việc, học tập v.v, còn lại là đa phần chơi game. Đây là một thực trạng khó có thể chối cãi trong giới trẻ Việt Nam. 30
- Nhìn ra thì còn mạng xã hội content-centric là còn có nhiều hy vọng hơn cả. Điều này bắt nguồn từ lý do đặc thù văn hóa vì sẽ chỉ có người Việt chăm chút đầu tư cho những nội dung phù hợp với đặc trưng dân tộc mà thôi. Tuy nhiên, nhìn theo một hướng khác thì cái quy mô của mạng xã hội này sẽ khó có thể trở nên to hơn được mảnh đất hình chữ S. Những lợi thế thấy rõ của MXHVN Lợi thế đầu tiên có thể thấy ngay được đó là MXHVN được làm bởi người Việt Nam nên hiểu người dùng Việt Nam và nắm bắt được thị hiếu của khách hàng. Làm tốt được điều này là những trang mạng như Zing hoặc Sannhac. Nếu như Zing phục vụ đủ mọi nhu cầu của khách hàng từ đọc tin giật gân, nghe nhạc, xem phim trực tuyến đến đăng hình những thành viên mạng xinh đẹp thì Sannhac lại chỉ chuyên vào sự đam mê âm nhạc và ca hát của nhóm khách hàng của mình. Trường hợp của Zing cũng là một thành công đáng nể phục vì giờ đây Zing là trang web có số lượng người truy cập cao nhất, vượt trên cả những trang web lâu đời và có truyền thống như Vnexpress hoặc Vietnamnet (theo thống kê của Alexa). Sản phẩm của Zing chủ yếu là ‘mì ăn liền’: nhanh nhất, giật gân nhất và phục vụ đúng một mục đích chung: thỏa mãn sự hiếu kỳ của khách hàng. Lượng người truy cập tăng, số lượng thành viên tăng và quảng cáo cũng tăng lên nhanh chóng. Bên cạnh đó, một số MXHVN khác cũng hướng hoạt động của mình theo những con đường ‘tiểu ngạch’ theo cách nói hóm hỉnh của dân trong nghề. Các mạng xã hội này không hướng tới tất cả những người sử dụng mạng nói chung mà chỉ tập trung vào một nhóm thành viên nhỏ, ví dụ như trang web Khi nói đến các hot boys và hot girls lứa tuổi thanh thiếu niên là người ta ngay lập tức nghĩ đến Webpro. Có thể coi đây là một hướng đi khá an toàn vì để thiết lập những mạng xã hội kiểu như thế này thì không cần quá nhiều vốn đầu tư. Vô hình trung, họ không phải tham gia các cuộc ‘chạy đua vũ trang’ nâng cấp các ứng dụng của mạng xã hội và cũng không phải cạnh tranh với các ‘ông lớn’. Một lợi thế khác của MXHVN là có khả năng tổ chức các buổi họp mặt offline và các hoạt động gặp gỡ giữa các thành viên. Ở điểm này, các mạng xã hội nước ngoài khó có thể thực hiện được. Một số trang web ra đời dựa trên ý tưởng này và phát triển thành các trang mạng xã hội dành cho việc hẹn hò giữa các thành viên, tìm kiếm bạn tâm giao như trang mạng Cyvee, Henantrua hay Vietspace. Người dùng cần gì ở MXHVN? Một khi MXHVN đã có ý tưởng rồi hoặc đơn thuần chỉ là bắt chước ý tưởng của người khác thì khách hàng bao giờ cũng cần những sản phẩm có chất lượng tốt nhất. Có ý kiến chủ quan cho rằng nếu trên thế giới có một mạng xã hội rất phát triển thì chỉ trong vòng từ một tới một tháng rưỡi, ở Việt Nam sẽ có một phiên bản với ý tưởng tương tự. Tuy nhiên, do phải phát triển với tốc độ quá nhanh như vậy (chủ yếu trên mã nguồn mở) nên các mạng này không được chăm chút mà có muôn vàn lỗi khiến người dùng không khỏi khó chịu. Ngoài vấn đề kỹ thuật, người dùng còn cần cái mà họ mong muốn. Điều này tưởng chừng quá hiển nhiên nhưng không phải vì thế mà chúng ta có thể dễ dàng đáp ứng được. Về điều này, trang web Vietnamworks đã làm rất tốt khi mà cả hai phía nhà tuyển dụng và người tìm việc đều tới đây nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Tuy Tamtay, Yobanbe, Cyvee hay Cyworld và cả Sannhac đều đang có những bước đi đáng kể nhưng xét về lâu về dài, cách phát triển của những trang web này đều có thể cải tiến hơn nữa. Hãy cho người dùng thật nhiều cơ hội để họ cá nhân hóa cái tôi ảo của mình. Xét cho cùng, mạng xã hội cũng là một cách để thể hiện bản thân, vậy thì tại sao cái tôi của người sử dụng lại cứ bị giới hạn trong một khuôn khổ vô hình? Bên cạnh đó, cũng hoàn toàn có thể tận dụng nguồn khách hàng này để tạo nên một cơ sở dữ liệu cho mạng xã hội - một cơ sở dữ liệu không bao giờ đóng mà lúc nào cũng sẽ trong trạng thái vận động phù hợp với nhịp sống. Sự phát triển của MXHVN là xu hướng tất yếu bởi nó là một trào lưu của cả thế giới hiện nay. Tuy nhiên, ngay cả trên thế giới, mạng xã hội cũng chưa thực sự phát triển ổn định mà nó vẫn đang trong quá trình định hình mặc dù có rất nhiều cái tên đình đám. Vì thế, không hề có một đám mây đen tối nào đang che 31
- trên bầu trời MXHVN. Chúng ta vẫn có quyền đặt hàng giới công nghệ thông tin trong nước, hi vọng và chờ đợi. 4. Báo trực tuyến có đặt dấu chấm hết cho báo in, phát thanh, truyền hình? 2.3.2. Hạn chế: Tuy nhiên, cho đến nay, báo chí trực tuyến Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập. Sự bất cập ấy trước hết xuất phát từ sự mặt trái của thông tin trên Internet nói chung. Đó là – đôi nơi, đôi chỗ - còn tình trạng phát hành những thông tin thiếu chọn lọc, sai sự thật, ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục hoặc tác động tiêu cực đến đời sống, đến công tác quản lý điều hành xã hội. Rõ ràng việc phát triển cực kỳ nhanh chóng của Internet đang tác động mạnh mẽ đến nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội, mang lại nhiều cơ hội cho việc phát triển báo chí trực tuyến ở Việt Nam, nhưng đồng thời cũng tiềm ẩn những nguy cơ về nguồn thông tin không lành mạnh nếu chúng ta không kịp thời tận dụng thế mạnh về công nghệ, chủ động cung cấp trên Internet những nguồn nội dung đa phương tiện, những chương trình truyền hình trực tuyến chính thống và lành mạnh. Điều may mắn là những bất cập trên Internet hầu hết thuộc về những báo trực tuyến không chính thống (dù không chính thống nhưng trong thực tế nó vẫn tồn tại và thu hút một khối lượng không nhỏ công chúng trẻ tuổi). Có không ít những trang tin trực tuyến “lá cải” chuyên cung cấp những thông tin giật gân câu khách và không có tính định hướng, giáo dục cần thiết. Và cùng với sự tăng trưởng của Internet tốc độ cao, đã xuất hiện nhiều website cung cấp video và truyền hình trực tuyến cả trong và ngoài nước, trong đó phần nhiều là những chương trình không chính thống, những video clip không lành mạnh Hệ thống báo chí trực tuyến Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và các cơ quan chủ quản đã và đang là những công cụ tuyên truyền sắc bén. Nhưng, hạn chế lớn của hệ thống báo chí trực tuyến ở Việt Nam lâu nay xuất phát từ đặc trưng cập nhật: tốc độ của thông tin là lợi thế song cũng vô tình trở thành điểm yếu. Độ tin cậy và chính xác của thông tin của báo trực tuyến chưa cao. Một hạn chế khác của báo trực tuyến Việt Nam là nhiều đơn vị hiện nay (đặc biệt là các báo ngành, báo Đảng địa phương, Đài địa phương) vẫn còn xem báo trực tuyến là “bản phụ” của tờ báo in, đài phát thanh - truyền hình. Những website này có tốc độ cập nhật thấp, trễ và ít tính tương tác. Số báo trực tuyến ở Việt Nam tận dụng thế mạnh của các đặc trưng của báo chí trực tuyến chưa nhiều. Ví dụ: Số báo trực tuyến tổ chức được diễn đàn, đối thoại, tổ chức hồi âm của công chúng truyền thông, tích hợp phát thanh – truyền hình trên mạng vẫn còn đếm trên đầu ngón tay trong số hơn 50 báo trực tuyến ở Việt Nam. Hoặc việc khai thác thế mạnh của đặc trưng trình bày như cách rút tít (title, headline) hoặc cách viết lời dẫn (lead) hiện chưa được một số báo trực tuyến ở Việt Nam sử dụng hiệu quả. Bên cạnh đó, số cán bộ, phóng viên làm việc ở một số báo trực tuyến chủ yếu từ báo in sang nên gặp rất nhiều khó khăn trong tác nghiệp. Các cơ sở đào tạo hiện nay mới bắt đầu đào tạo phóng viên báo 32
- trực tuyến và năng lực đào tạo chưa thật sự đáp ứng nhu cầu phát triển quá nhanh của loại hình báo chí mới mẻ nhưng khá năng động này. Tốc độ truy nhập vào một số báo trực tuyến ở Việt Nam còn chậm. Nguyên nhân của vấn đề này có phần do kênh truyền dẫn kết nối từ các IXP hoặc ISP đến máy chủ lưu trữ trang báo còn hẹp (thuê bao đường truyền dung lượng quá thấp) hoặc do việc tổ chức mạng tại trụ sở của báo và việc tổ chức thông tin trên các trang báo chưa thật khoa học (dữ liệu quá nặng khó tải) dẫn đến tình trạng mất “độc giả” – điều này cũng xuất phát từ việc chưa nắm vững đặc trưng của báo chí trực tuyến. Ngoài ra, hiện nay một số trang tin trực tuyến ở Việt Nam chưa được chính thức hóa nên chưa có cơ chế định hướng thông tin, chưa xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu. Đặc biệt, hành lang pháp lý cho việc quản lý thông tin trên các trang Web hiện vẫn chưa đầy đủ. Một hạn chế khác của báo chí trực tuyến ở nước ta là đối tượng khai thác Internet chủ yếu là giới trẻ, công chức, doanh nhân, nên báo chí trực tuyến hiện chưa thể phổ biến cho rộng rãi các tầng lớp nhân dân và nhất là những người có thu nhập thấp. Tóm lại, báo trực tuyến Việt Nam đã đóng một vai trò quan trọng trong các hoạt động tuyên truyền chính sách của Đảng và Nhà nước đến cộng đồng người Việt Nam trong nước, kiều bào ta ở nước ngoài, và cộng đồng quốc tế; cung cấp thông tin phục vụ các hoạt động phát triển kinh tế xã hội, nâng cao dân trí cho một phần không nhỏ các bộ phận dân cư. Báo trực tuyến Việt Nam đã biết phát huy thế mạnh nội sinh của mình và chủ động hoà nhập với thế giới, xứng đáng là cánh cửa thông tin đầu tiên và đáng tin cậy cho bạn bè năm châu tìm hiểu về Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức rất rõ vị trí, vai trò, tác động của mạng thông tin toàn cầu nói chung và các báo trực tuyến nói riêng đến sản xuất và đời sống xã hội. Thành tựu thời gian qua sẽ góp phần quan trọng vào việc tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động cũng như công tác chỉ đạo, quản lý của các cơ quan nhà nước đối với báo chí trực tuyến; xây dựng các báo trực tuyến ở nước ta có kỹ thuật và công nghệ hiện đại, đúng đắn, chân thực, phong phú về nội dung, sắc bén về tính định hướng, tính chiến đấu, có tính văn hóa, tính nghiệp vụ cao, thực sự là vũ khí chính trị tư tưởng quan trọng, sắc bén của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể, phục vụ đắc lực sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Báo trực tuyến "vượt mặt" báo in Trong kết quả nghiên cứu mới được công bố, Pew - trung tâm nghiên cứu báo chí và con người Mỹ - cho hay dân Mỹ và Anh thích đọc tin tức trực tuyến hơn hẳn đọc báo in. Chiến thắng này có nghĩa loại hình đọc tin tức trực tuyến đã tiến thêm một bước lớn, đánh bật báo giấy ra khỏi vị trí thứ 3 trong top các kênh truyền thông, chỉ sau truyền hình địa phương và truyền hình quốc gia. Theo phân tích của Pew, điều này có được là do nhu cầu tìm hiểu thông tin của người Mỹ hiện tại là mọi lúc và mọi nơi, trong khi báo in khó có thể làm được điều đó. 33
- Hơn 90% tổng số người được hỏi thường sử dụng nhiều cách để tiếp cận tin tức. Top 3 loại hình truyền tải thông tin được yêu thích nhất là: các kênh truyền hình địa phương (78%), các kênh truyền hình quốc gia như NBC hay truyền hình cáp như CNN, Fox News (71%), các kênh tin tức trực tuyến (61%). Sự ưa thích đối với báo giấy chỉ là 50%, xếp vị trí thứ tư. Kết quả của Pew đưa ra cũng cho hay các trang tổng hợp tin tức (như Google News và AOL) hiện đang được ưa chuộng hơn cả, tiếp theo đó là website của CNN và BBC. Mỹ: Báo trực tuyến lên ngôi Khi các nhà quảng cáo và người đọc đang dần bỏ rơi tờ báo giấy truyền thống để chuyển sang các website trên Internet, thì ngày càng có nhiều tờ báo Mỹ coi báo trực tuyến như một giải pháp cứu vãn tình thế. Các báo trực tuyến, một thời từng bị xem là mối đe dọa lớn nhất đối với báo in truyền thống, hiện nay dường như lại đang được xem là những vị cứu tinh của báo in. Trong một cuộc khủng hoảng dường như không có hồi kết, gần đây tờ Philadelphia Inquirer đã thông báo cắt giảm 17% số biên tập viên, tờ Boston Globe đóng cửa ba đại diện ở nước ngoài cuối cùng của mình, còn tờ Los Angeles Times thì đang tìm kiếm người mua lại. Theo Hiệp hội báo chí Mỹ (NAA), doanh thu của các tờ báo in đang tiếp tục giảm, với số người đọc trong khoảng từ tháng 4 đến tháng 9/2006 giảm 2,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong bản báo cáo về Tình hình báo chí truyền thông 2007, Dự án Excellence in Journalism viết: "Ngành công nghiệp báo chí đang ngày càng quan tâm tới báo trực tuyến hơn, và điều này có thể sẽ gia tăng trong năm 2007". Theo số liệu của NAA, trong năm 2006, số lượng bạn đọc của các tờ báo trực tuyến đã tăng 22%, đạt 56,4 triệu người. Trong một cuộc phỏng vấn đầu năm nay, ông Arthur Sulzberger, chủ bút tờ Thời báo New York nói: "Tôi thực sự cũng không biết là trong năm năm tới, chúng tôi có in tờ Thời báo New York nữa hay không? Tôi không quan tâm". Sau đó, ông này đã phải sửa lại bình luận của mình và nói rằng: "Tôi vẫn tin tưởng rằng các tờ báo in sẽ vẫn tồn tại lâu dài. Nhưng tôi cũng tin rằng chúng ta cần phải chuẩn bị cho tình huống lời nhận định này là sai lầm". Mọi tờ báo đều có chiến lược riêng của mình. Nhờ có hai ban biên tập riêng biệt, tờ Bưu điện Washington đã tạo ra một tờ báo trực tuyến có bản sắc riêng, mang tính quốc tế hơn so với tờ báo in. Còn tờ Thời báo New York, lại tích hợp các ban biên tập bản in và bản trực tuyến để tạo ra một phiên bản giống hệt tờ báo in trên mạng Internet. Trên website NYTimes.com, bà Vivian Schiller giải thích rằng đây là một cách để làm tăng vị thế của tờ Thời báo New York bởi càng đưa được nhiều thông tin lên mạng thì người đọc sẽ tin tưởng hơn vào một nguồn tin chính thống và đáng tin cậy như Thời báo New York. Bà nói: "Đây là một cơ hội cho chúng tôi". Còn tại tờ Tin tức buổi sáng Dallas, kể từ tháng 1-2006, một nửa số phóng viên ảnh của họ đã chuyển sang làm việc với các máy quay và mỗi ngày tờ báo này đưa ra khoảng sáu bản tin video trực tuyến, ông Chris Wilkins, phó phòng ảnh của tờ báo này cho biết. Bầu không khí trong các phòng biên tập, vốn đã bị thu nhỏ tới hai lần trong hai năm, đã có một sự chuyển biến hoàn toàn. Ông này cũng dự đoán rằng trong 10 năm tới, "các tờ báo in sẽ trở thành một phụ bản của tờ báo trực tuyến, điều đó là không thể tránh khỏi". Với nhiều tờ báo, khả năng thu lợi nhuận vẫn là điều hết sức quan trọng. Ngoại trừ một số báo, hầu hết các tờ còn lại đều cho phép người dùng sử dụng miễn phí hầu hết các dịch vụ Internet của họ và thu lại lợi nhuận từ quảng cáo trực tuyến. Quảng cáo trực tuyến đang phát triển, theo NAA thì lĩnh vực này đã tăng 31,5% trong năm 2006. Mặc dù vậy, nó vẫn chỉ chiếm khoảng 5,4% trong số toàn bộ các quảng cáo trong ngành báo chí. Ông Rosenstiel nói: "Chỉ trông chờ vào quảng cáo trực tuyến thì không đủ. Bởi vậy câu hỏi quan trọng nhất được đặt ra là các tập đoàn báo chí sẽ phải làm thế nào để mạng Internet tăng thêm lợi nhuận cho họ". Ông nhận xét, các nhà báo sẽ tồn tại và phát triển như thế nào phụ thuộc vào việc các khối kinh doanh phải nghiên cứu tìm ra một mô hình kinh tế mới để có thể nuôi sống đội ngũ nhà báo. 34
- Một số người khác, thí dụ như Rosenstiel, thì cho rằng việc chia sẻ lợi nhuận giữa các nhà cung cấp dịch vụ internet và các tờ báo, cũng như với truyền hình cáp, ít nhất cũng sẽ được thực hiện cho tới khi một kiểu kinh doanh mới được đưa ra. 5. Đặc trýng týõng tác của báo trực tuyến 1.3.6. Đặc trưng tương tác (4) Những ngày đầu tháng 11/2006, báo trực tuyến VietnamNet đã đưa lên mạng lời chào mời cho một diễn đàn: “Bây giờ! sau 11 năm đàm phán, cánh cửa WTO đã mở, chào đón Viêt Nam! Đất nước chúng ta đã bước lên con tàu để ra biển lớn! Vận hội rất to lớn, nhưng thách thức cũng hết sức gay gắt! Bạn nghĩ gì lúc này? Sẽ phải làm gì khi bước vào ngôi nhà mới! Mời quý vị bày tỏ ý kiến tại đây ”. Diễn đàn này đã nhanh chóng đón nhận hàng trăm lượt ý kiến từ nhiều nơi trên thế giới sau vài ngày ra thông báo. Cách đó vài tháng, báo Tuổi trẻ online đã nhận được hơn 2000 ý kiến từ diễn đàn “Tuổi trẻ và lễ chào cờ”, Diễn đàn "Nuớc Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ?" Thanh Niên mở ra từ ngày 27/3 - 30/6/2006, thu hút hàng vạn lượt ý kiến trong và ngoài nuớc, thể hiện tâm huyết, sự trăn trở của mọi tầng lớp nguời Việt Nam mong muốn đất nuớc ngày càng hùng mạnh (trong đó, số lượt ý kiến đóng góp qua Thanh niên online là 9276). Đã có 200 ý kiến được đăng báo và Nhà xuất bản Thông tấn in thành sách ( 5). Điều thú vị là những ý kiến đó khởi đi từ khắp nơi trên thế giới để đến với tòa soạn chỉ vài giờ sau khi báo mở ra diễn đàn và đóng góp nhiều ý kiến hết sức sâu sắc đến không ngờ. Chỉ sau khi đi vào hoạt động không lâu, VietnamNet đã mở ra chuyên mục phỏng vấn trực tuyến, rồi bàn tròn trực tuyến; Tuổi trẻ online hiện nay có trang giao lưu trực truyến VietnamNet từ đầu năm 2006 đến nay được tạo ấn tuợng với độc giả của mình qua các bàn tròn trực tuyến với các nhân vật nổi tiếng (6) hoặc các bàn tròn "Góp ý cho văn kiện Đại hội Đảng X": Tận dụng (4) Có người gọi đây là đặc thù “hồi âm độc giả” – chúng tôi cho rằng cụm từ này không diễn giải được hết bản chất của đặc trưng này của báo trực tuyến, Khái niệm tương tác (interactivity) diễn đạt sự tác động, ảnh hưởng qua lại với nhau, khái niệm “hồi âm độc giả” (feedback) diễn tả một chiều và không nêu được vai trò tích cực của công chúng truyền thông trong báo chí trực tuyến. (5) Số liệu do nhà báo Nguyễn Quang Thông – Phó Tổng biên tập báo Thanh niên cung cấp. (6) Như phỏng vấn trực tuyến nguyên Phó Thủ tuớng Vũ Khoan với chủ đề “Hội nhập WTO và APEC”; Phó Hiệu truởng Truờng Kinh doanh Harvard với chủ đề “Xây dựng 35
- thời cơ vàng để đột phá Điều đáng nói là nhiều “bàn tròn trực tuyến” của VietnamNet đã thực hiện bằng cả phát thanh, truyền hình và văn bản trên mạng. Người khai thác Internet có thể nghe (như nghe phát thanh), xem như xem truyền hình trực tiếp và đọc văn bản cuộc trò chuyện. Mỗi cuộc bàn tròn của VietnamNet thu hút hàng trăm lượt ý kiến. Các bài tổng thuật sau đó phải chia thành nhiều kỳ để đăng tải lại. Nhân mùa 20/11/2006, đầu tháng, Tuổi trẻ online phát động viết bài về chủ đề biết ơn thầy cô mang tên “Người đưa đò thầm lặng”. Chỉ trong một tuần đầu phát động, báo đã nhận được hàng 215 bài gửi tới tòa soạn (7). Công nghệ còn giúp báo trực tuyến hỗ trợ khả năng giao tiếp hai chiều với công chúng trở nên cực kỳ thuận lợi mà không một loại hình truyền thông nào có được. Người sử dụng có thể gửi ngay ý kiến bình luận hay nhận xét cá nhân vào bất cứ một vấn đề, một bản tin, một bài viết nào đã được đăng tải. Tin tức được phát hành trên báo trực tuyến có thể nhanh chóng nhận ngay phản hồi của rất nhiều người về nội dung thông tin, chia sẻ tình cảm với người trong cuộc hoặc thậm chí phản ứng ngay về cách đưa tin của báo (8). Hiểu theo nghĩa rộng, báo in cũng có khả năng tương tác qua việc xây dựng các hình thức trả lời thư bạn đọc, ý kiến độc giả v.v Phát thanh, truyền hình với công nghệ trực tiếp ( 9) cũng tạo được khả năng tương tác cao đặc biệt trong các chương trình giao lưu, tọa đàm (talkshow). Thính giả, khán giả được mời gọi điện thoại trực tiếp đến phòng thu, trường quay để trao đổi với “nhà Đài” và khách mời. Hoặc hình thức phỏng vấn dư luận (vox-pop) trên phát thanh, truyền hình trong chừng mực nào đó cũng có ý nghĩa tương tác. Tuy nhiên, so với báo trực tuyến, khả năng tương tác của báo in, phát thanh, truyền hình đều có giới hạn. Đó là sự giới hạn về dung lượng, giới hạn về không gian giao tiếp, giới hạn về tần suất và mức độ dân chủ trong giao tiếp. Với 1 đến 2 line điện thoại, phát thanh - truyền hình không thể cùng một lúc đón thuong hiệu Việt theo cách nào?”; Đại sứ Israel tại VN và nguyên Đại sứ VN tại Trung Đông với chủ đề “Khủng hoảng Trung Đông: Một góc nhìn từ nguời trong cuộc”; Đại sứ Anh, ông Robert Gordon với chủ đề "Chống tham nhung cần kiểm soát và cân bằng"; Nhà tỉ phú Patrick McGovern, Chủ tịch tập đoàn truyền thông và công nghệ cao IDG (Hoa Kỳ); Đại sứ Thụy Sĩ, ngài Bénédict de Cerjat; Đại sứ Trung Quốc Tề Kiến Quốc (7) Tuổi trẻ online đã phát hành ngay loạt bài đầu tiên: Mắt ếch của thầy; Nhờ thầy, em đã đủ niềm tin; "Ông ngoại"; Thầy cô là sinh viên tình nguyện!; Cô giáo tôi!; Không có cô, em không thể có ngày hôm nay; Bài học từ những chiếc bánh mì; Mẹ là cô giáo vĩ đại nhất; Ông giáo già và lớp học tình thương; Lời phê cuối cùng v.v (8) Ví dụ việc đưa tin về vụ sóng thần hồi cuối năm 2004 rất được quan tâm nhưng không ít người phàn nàn về việc đăng tải các hình ảnh quá thương tâm (9) Live broadcacsting: Có người đề xuất cách gọi là “phát thẳng”, không gọi là “trực tiếp”. Ở Trung Quốc, “live broadcacsting” được dịch là “trực tuyến”. Công nghệ phát thanh – truyền hình trực tiếp không phải nhìn ở góc độ kỹ thuật mà nhìn ở góc độ phương thức làm phát thanh truyền hình mới, có tính tương tác. Trong thực tiễn phát thanh – truyền hình Việt Nam, ngay từ buổi sơ khai, khi không đủ băng từ lưu trữ, phát thanh – truyền hình đều làm “trực tiếp”: cụ thể là đọc trực tiếp đưa lên sóng. 36
- nhận nhiều ý kiến vào chương trình (vốn bị giới hạn về thời lượng của mình). Hàng trăm, thậm chí hàng ngàn khán thính giả khác trong cả nước sẽ không có cơ hội tham gia chương trình khi “đường dây đã bận” do một khán thính giả nào đó đang sử dụng. Trong thực tế vì an toàn trên sóng, nhiều biên tập viên đã “giả lập” các cuộc điện thoại gọi đến để tạo sắc thái giao lưu cho chương trình. Cuộc điện thoại đó không thực sự đại diện cho ý kiến khán thính giả, mà là ý chí chủ quan của những người làm chương trình. Loại hình phỏng vấn trực tuyến thể hiện rõ nét nhất tính ưu việt của báo mạng: không giới hạn số người tham gia, số lượng câu hỏi phỏng vấn và nhất là giới hạn khoảng cách địa lý cũng bị loại bỏ. Hiện nay trên thế giới, nhiều báo trực tuyến đã nhận cả câu hỏi, lời bình luận của công chúng qua webcam, hoặc video clip (ghi hình ảnh và tiếng nói của họ). Đứng ở góc độ quản lý, đặc trưng này giúp báo trực tuyến dễ dàng thăm dò dư luận (và thống kê, xử lý kết quả thăm dò) ngay trên “mặt báo” của mình - điều mà các loại hình báo chí cũ khó có thể làm: Người đọc có thể điền thông tin và hồi âm lại chỉ bằng vài động tác click chuột. Với báo trực tuyến, có thể đếm chính xác số lượt người truy cập đối với từng trang báo, từng bài báo một cách cụ thể và khách quan. Chỉ cần những thống kê đó, Ban biên tập có thể kịp thời chấn chỉnh cho phù hợp đối với từng trang báo. Việc điều tra này diễn ra hết sức khách quan, chính xác mà không mất nhiều thời gian, công sức. Với thế mạnh này, báo trực tuyến thực sự tạo ra một cách “đọc” mới của công chúng truyền thông. Tác phẩm báo chí giờ đây không còn ý nghĩa là một sáng tạo của một nhà báo cụ thể mà là sản phẩm tập thể, trong đó, công chúng báo trực tuyến là đồng chủ thể sáng tạo. Khả năng tương tác cao của báo trực tuyến không chỉ tạo cảm giác gần gũi hơn giữa công chúng báo chí và tòa soạn mà nó có ý nghĩa dân chủ trong thông tin và tiếp nhận thông tin. 1.3.7. Đặc trưng chi phí thấp: Một trong những lợi thế của báo trực tuyến so với báo in là không mất chi phí và thời gian cho công việc in ấn. Đối với báo trực tuyến, chi phí sản xuất không tỷ lệ thuận với số lượng phát hành (không có chi phí về giấy, in ấn, chi phí phát hành ) như báo in, cũng không tỷ lệ thuận với vùng phủ sóng như truyền hình analog (tương tự), truyền hình số vệ tinh và truyền hình cáp (10). Một tòa soạn báo in hằng ngày phải đối mặt với chuyện chi phí như số lượng trang in màu, đơn sắc, cách thức chế bản, số lượng in, loại giấy, vận chuyển báo Bên cạnh đó, với đặc trưng phát hành toàn cầu, báo trực tuyến đã khắc phục được cơ bản những trở ngại đối với báo in khi đưa ra nước ngoài. Khi phóng viên báo trực tuyến tác nghiệp ở bất cứ nơi đâu trên thế giới, việc truyền dữ liệu (văn bản, hình ảnh, video, âm thanh ) về tòa soạn chỉ cần những cú click chuột. Trong khi đó, truyền hình phải thuê bao vệ tinh hoặc đường truyền cáp quang để có thể đưa một bản tin ngắn với chi phí cao ( 11). Dây (10) Chi phí tiền điện, chi phí cho truyền dẫn, hạ tầng kỹ thuật, chi phí thuê bao đường truyền, chi phí khấu hao máy móc phát sóng v.v (11) Có thể đưa ra một con số: truyền dữ liệu video qua cáp quang từ thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội phải chi phí 750.000 đồng / phút (giá của Công ty Viễn thông liên tỉnh – 37
- chuyền sản xuất báo trực tuyến rất đơn giản, chỉ cần một máy vi tính nối mạng, là có thể xuất bản một tờ báo. Với báo trực tuyến, khái niệm trụ sở tòa soạn cụ thể chỉ còn có ý nghĩa pháp lý và giao dịch (Đây cũng là mặt trái của loại hình truyền thông này nhìn từ góc độ quản lý). Quân đội Mỹ đã không thể tìm được “tòa soạn” nhiều báo trực tuyến của Al Qaeda khi họ tung lên Internet hình ảnh những con tin để đòi các yêu sách. Đặc trưng thông tin “đa nguồn – đa tiếp nhận” ( 12) của Internet cho phép báo trực tuyến xây dựng mô hình sản xuất online trên phạm vi toàn cầu với chi phí rẻ. Cả hệ thống nhân viên của một tòa soạn trực tuyến trên toàn thế giới có thể “giao ban”, trao đổi, biên tập, làm việc với nhau dễ dàng trên không gian mạng. Báo trực tuyến có chi phí rẻ vì nó phát triển dựa trên tài nguyên chung của hạ tầng kỹ thuật Internet. Việc ứng dụng công nghệ truyền hình trực tuyến băng thông rộng và việc phải tạo ra nhiều khoảng trống hơn cho quảng cáo cũng như nội dung có đẩy chi phí sản xuất báo trực tuyến tăng lên, nhưng nó cũng không đáng kể so với chi phí in ấn và phát hành báo in, càng không đáng kể so với truyền hình. Trong khi đó, nguồn thu từ quảng cáo của báo trực tuyến ngày càng tăng lên. (13) Ngày nay, với một vài phút tìm kiếm, nhà báo có thể có được thông tin mà nếu cách đây một thập kỷ phải mất hàng giờ gọi điện đường dài đắt đỏ, có thể phỏng vấn một người mà không cần phải tiến hành trò chuyện nếu không thể liên lạc bằng điện thoại, điện tín hay thư từ. Nhưng bên cạnh mặt tích cực, chi phí thấp trong việc sản xuất của loại hình báo trực tuyến này cũng có mặt trái. Vì thế, càng tiện lợi trong sản xuất, phân phối và thu thập thông tin, vai trò của người làm báo trực tuyến càng phải nâng cao hơn nhiều để đáp ứng thực sự yêu cầu chân chính của truyền thông. VTN), nhưng chỉ có một chiều. Trong trường hợp làm cầu truyền hình, tín hiệu thuận nghịch, giá sẽ gấp đôi. Truyền dữ liệu qua vệ tinh rẻ hơn nhưng cần có thiết bị đầu – cuối và chất lượng hình ảnh, độ an toàn thấp hơn so với truyền cáp quang nên truyền cáp quang được ưu tiên hơn khi làm các cầu truyền hình trực tiếp. Vệ tinh là phương cách khai thác khi truyền dữ liệu từ nước ngoài về Việt Nam và ngược lại (12) Chữ dịch của Đỗ Anh Đức (sđd) (13) Có thể tham khảo một phép tính dự báo sau đây của Rick Edmonds thuộc Viện Poynter: Tổng kết từ các tờ báo của Mỹ cho thấy doanh thu quảng cáo báo trực tuyến vào thời điểm giữa năm 2004 chỉ chiếm khoảng 3 - 4%, mức tăng trưởng này của báo in truyền thống là khoảng 4%. Vậy một cơ quan báo có nguồn thu 3 triệu USD từ quảng cáo trên bản trực tuyến và 97 triệu USD từ quảng cáo trên báo in thì phải mất bao lâu hai con số này mới bằng nhau? Câu trả lời – theo Rick Edmonds - là 10 năm - vào năm 2014. 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Báo trực tuyến 3% 8% 12% 18,6% 26,8% 31,8% 42,3% Báo in 97% 100,9% 104,9% 109,1% 113,5% 118% 122% Bảng so sánh ước tính về doanh thu quảng cáo giữa báo trực tuyến và báo in ở Mỹ Nhìn vào bàng trên, có thể thấy đến năm 2008, doanh thu quảng cáo trên mạng mới chỉ khoảng 30% so với báo in nhưng chỉ 2 năm sau đã đạt tới con số đáng kể. Những dự đoán sáng sủa hơn thậm chí còn cho rằng khoảng năm 2011-2012 là doanh thu quảng cáo trên báo trực tuyến ngang bằng hoặc hơn với doanh thu quảng cáo từ báo in. 38
- 6. Đặc trýng cá nhân hóa thông tin của báo trực tuyến 1.3.8. Đặc trưng cá nhân hóa thông tin: Có thể nói, khả năng cá nhân hóa ( 14) thông tin là một trong những ưu điểm mạnh nhất, đặc biệt nhất của truyền thông trực tuyến. Với đặc trưng này, báo trực tuyến được coi là phương tiện truyền thông lý tưởng nhất. Bởi tính chất nổi bật trong mối quan hệ với người sử dụng của cả ba phương tiện báo chí cũ là “tính một chiều” trong quy trình tiếp nhận thông tin. Vấn đề ở đây không phải là đặc trưng tương tác (interactivity) - như chúng ta đã nói ở phần trên mà là yếu tố tuyến tính (linerity) của báo in, phát thanh và truyền hình. Đối với phát thanh và truyền hình, chương trình phát sóng luôn được sắp đặt một cách tuần tự, khán thính giả không thể đảo lộn thứ tự này. Ví dụ, chương trình thời sự trên truyền hình Việt Nam được phát lúc 19 giờ, chương trình ca nhạc thiếu nhi được phát lúc 18 giờ 30. Điều đó có nghĩa là để xem được thời sự, khán giả phải đợi hết chương trình ca nhạc thiếu nhi. Họ không thể vượt qua được thứ tự đó. Trong quá khứ, trước khi báo trực tuyến ra đời, ở châu Âu và một số nước châu Á đã thực hiện hình thức truyền thông teletext (15) thông qua việc lợi dụng một dãi tần trong truyền hình để phát qua máy thu hình. Teletext sau này được thử nghiệm ở Việt Nam và Đài phát thanh – truyền hình Đồng Nai là đơn vị đầu tiên trong cả nước thực hiện công nghệ truyền teletext tiếng Việt. Teletext thông qua hạ tầng truyền sóng analog của truyền hình biến các máy thu hình gần giống mạng máy tính cục bộ. Dịch vụ này cũng cho phép công chúng lựa chọn thông tin theo thư mục sắp xếp. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là khả năng thô thiển nếu so với Internet. Đối với báo in, việc lựa chọn thông tin dễ dàng hơn vì bản chất "mang thông tin một lần" của tờ báo. Độc giả có thể lựa chọn đọc thông tin mà họ thích. Tuy nhiên, giấy in là vật chuyển tải "chết", độc giả không thể có được tờ báo chỉ đăng những thông tin mình thích. Nói cách khác, độc giả của báo yêu thích tin thể thao thì vẫn phải mua một tờ báo đăng kèm cả thơ, truyện cười, bình luận chính trị v.v Như vậy có thể thấy những đặc điểm (đúng hơn là hạn chế) trên là do đặc thù của phương tiện chuyển tải trong truyền thông quy định. (14) Customize: nghĩa đen là “làm theo yêu cầu của khách hàng”. Trong thuật ngữ tin học, thường được dịch là “tùy biến” (15) Đó là hình thức truyền dẫn thông tin dưới dạng văn bản (text) thông qua kênh truyền hình thông thường. Phát minh teletext bắt đầu từ ý tưởng khai thác “phần lãng phí” của sóng truyền hình để chuyển tải thông tin: Các trang dữ liệu teletext được gửi đi bằng cách “lợi dụng” quãng xung đồng bộ dọc để đưa thông tin vào bằng các chuỗi xung nối tiếp. Đây là những vùng xung đồng bộ chưa sử dụng, được tận dụng để truyền dẫn thông tin. Do tốc độ truyền rất cao (khoảng 7 Mbps) nên có thể truyền 2.000 trang thông tin trong 8 giây. Thông thường hiện nay, người ta chỉ xây dựng khoảng teletext với 800 trang thông tin có cấu trúc của một hệ cơ sở dữ liệu. Như vậy, từ bất cứ máy thu hình nào có chức năng thu teletext, người xem đều có thể vừa xem chương trình truyền hình trên tivi vừa truy cập vào teletext để xem các thông tin cần thiết khác dưới dạng văn bản từ một Đài truyền hình nào đó có phát teletext. 39
- Báo trực tuyến với đặc thù Internet đã giải quyết từng bước bài toán “đa tiếp nhận” của công chúng truyền thông. Nói một cách cụ thể: khả năng cá nhân hóa thông tin của báo trực tuyến là khả năng mang tính tiện ích (vì khai thác đặc trưng này để cung cấp cho công chúng hay không phụ thuộc vào nhà truyền thông) cho phép người sử dụng lựa chọn những "thứ" họ thích. Đó có thể là thông tin, dịch vụ, màu sắc, giao diện, bố cục (tùy thuộc khả năng tòa soạn). Một ví dụ khác: Khi xem một trận bóng đá trực tiếp trên truyền hình, khán giả đều tiếp nhận thông tin đồng bộ (linearity), theo một trật tự tuyến tính. Khán giả phải có mặt tại thời điểm phát sóng. Nếu phải làm một việc khác trong lúc xem đá bóng (ví dụ tiếp khách đột ngột) nhưng trong thời gian đó đã có một bàn thắng đẹp diễn ra. Làm sao xem lại pha bóng đã bị bỏ lỡ? Báo trực tuyến giải quyết được bài toán đó bằng đặc trưng cá nhân hóa thông tin, hay nói đúng hơn, bằng công cụ cho phép tiếp nhận thông tin không đồng bộ, phi tuyến tính (non-linearity). Phát nhận thông tin không đồng bộ đem đến tiện lợi hơn cho người sử dụng bởi “bản chất con người là vươn đến thông tin không đồng bộ” (16). Một trong những ứng dụng khả năng cá nhân hóa thông tin của báo trực tuyến đã được các báo lớn trên thế giới khai thác là tạo ra phiên bản địa phương hóa (locality) ( 17). Các tờ báo trực tuyến lớn trên thế giới như www.bbc.co.uk (của tập đoàn BBC) hoặc www.voanews.com (của Đài Tiếng nói Hoa kỳ) đã xây dựng nhiều phiên bản cho các quốc gia khác nhau với nội dung phù hợp cho các quốc gia đó, tất nhiên, bằng ngôn ngữ chính của quốc gia đó. BBC online và VOAnews online đều có phiên bản tiếng Việt bên cạnh nhiều phiên bản các ngôn ngữ lớn trên thế giới. VOAnews trực tuyến phát hành 62 phiên bản địa hương hóa với 62 ngôn ngữ, con số này với BBC là 33. Chưa hết, đặc trưng cá nhân hóa thông tin của báo trực tuyến, còn là khả năng cung cấp cho người sử dụng tự trình bày hình thức site báo. Về lý thuyết, đó là khả năng cho phép người sử dụng tự thay đổi các module của báo thông qua một phần mềm có nhiều tùy chọn. Người sử dụng thích đọc tin thể thao, họ có thể sắp xếp lại trang chủ để đưa mục tin thể thao vào vị trí họ thích trên trang chủ, hoặc có thể tự thiết kế lại website của một tờ báo trực tuyến nào đó sao cho vừa ý họ: thay đổi kiểu chữ, cỡ chữ, màu nền của trang báo trực tuyến, màu của manchette Tất cả không chỉ là lý thuyết. Nhưng hiện nay báo trực tuyến Việt Nam chưa khai thác khả năng này ra cho người sử dụng vì lý do an toàn thông tin (18). Hiện nay, lý luận báo chí hầu như chưa có những tổng kết rõ ràng hoặc dự báo đầy đủ về đặc trưng này của báo trực tuyến do Internet ngày càng hoàn thiện và phát triển. Nhưng từ góc độ phân tích lý thuyết, có thể thấy, những yếu tố thể hiện khả năng cá nhân hóa thông tin của một báo trực tuyến phụ thuộc vào: 1. Khả năng sáng tạo của báo; 2. Khả năng công nghệ cho phép. (16) Bill Gates (17) Ở Việt Nam chưa có báo trực tuyến nào ứng dụng khả năng này (18) Ở Việt Nam, có trang của NetNam đã thể nghiệm cung cấp tiện ích thay đổi màu sắc giao diện. Tuy nhiên, đặc trưng cá nhân hóa không chỉ dừng ở mức độ đó 40
- Tóm lại, đặc trưng cá nhân hóa thông tin của báo trực tuyến có thể hiểu là nhóm khả năng đặc biệt của loại hình báo chí này trong việc cho phép người sử dụng có thể tự do lựa chọn thông tin mình cần, vào đúng lúc mình cần (tiếp nhận thông tin không đồng bộ), theo cách thức mình mong muốn (khả năng tự trình bày) Đặc trưng này thể hiện sự khác biệt về chất của mô hình truyền thông trực tuyến khi so sánh với các loại hình báo chí khác. Cùng với đặc trưng tương tác, khả năng cá nhân hóa thông tin của báo trực tuyến cho phép người sử dụng trở thành đồng chủ thể trong quy trình truyền thông. Thế mạnh của nó chính là vấn đề dân chủ trong thông tin và tiếp nhận thông tin. Tuy nhiên, với thông tin đồng bộ, cả cộng đồng có thể xem cùng một hình ảnh, nghe cùng một bản tin, chịu sự tác động của cùng một cách nhìn, và do đó, có cùng một phản ứng, báo chí truyền thống có thể phát huy sức mạnh của truyền thông đại chúng. Cá nhân hóa thông tin - vì thế - vừa mang ý nghĩa tích cực, vừa mang đến những hệ lụy khó lường khi quyền lực được trao quá nhiều cho người sử dụng. Khi truyền hình ra đời, nhiều người tưởng rằng thời của phát thanh đã hết. Khi báo trực tuyến xuất hiện, nhiều ý kiến nói rằng báo in đã đến lúc cáo chung, nhưng thực tế sẽ không phải như vậy. Tuy nhiên, giới truyền thông cũng đang nhìn thấy ở báo trực tuyến những tiềm năng to lớn cả về truyền tải nội dung cũng như những lợi ích thương mại mà phương tiện này có thể mang lại trong những năm tới. Thời đại số đã tạo ra một phương tiện mới, tạo ra phương pháp tác nghiệp mới cho các nhà báo. Giữa một biển thông tin không giới hạn, vai trò và kỹ năng của nhà báo lại được đặt lên hàng đầu: phải biết tận dụng các đặc trưng của báo trực tuyến để làm tốt hơn nữa thiên chức nhà báo nhưng cũng không nên xem công nghệ như “chiếc đũa thần”. Hơn ở đâu hết, báo trực tuyến đòi hỏi khắt khe các kỹ năng của nghề báo - kiểm tra sự việc, xác định và đánh giá chất lượng các nguồn tin. Internet đưa nhân loại đi từ thái cực quá thiếu thông tin đến thái cực quá tải thông tin. Khi thông tin tràn ngập, sự trung thực của thông tin mới có vai trò quyết định. Người xem/nghe/đọc cần chọn sự thật từ kho thông tin đồ sộ. Báo trực tuyến là một loại hình báo chí mạnh và mới, tạo cho nhà báo nhiều cơ hội, công cụ để tiếp cận, xử lý, phát hành nguồn tin. Nhưng nó cũng trao quyền lực đó vào tay công chúng truyền thông. Ngày nay với mọi thông tin sẵn sàng trên đầu ngón tay người sử dụng, người làm báo trực tuyến bên cạnh việc nắm bắt công nghệ, càng cần phải rèn luyện tốt hơn nữa về các kỹ năng báo chí kinh điển. 7. Đóng góp của báo trực tuyến trong đời sống truyền thông của Việt Nam hiện nay 2.3. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA HỆ THỐNG BÁO TRỰC TUYẾN VIỆT NAM: 2.3.1. Thành tựu: Báo trực tuyến mới phát triển ở nước ta trong những năm qua nhưng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Với ưu thế mà báo in không có được, báo trực tuyến đã đề cập một cách nhanh nhất các sự kiện, sự việc diễn ra trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Số lượng người truy cập ngày càng đông vì 41
- loại hình này có thể đáp ứng nhiều yêu cầu và cung cấp nhiều thông tin mà mọi người quan tâm. So với báo in, phát thanh, truyền hình, báo trực tuyến còn có khả năng lưu trữ, bảo quản thông tin hiệu quả, gọn nhẹ, đỡ tốn kém và phục vụ kịp thời cho việc tra cứu theo yêu cầu. Bên cạnh đó, so với các loại hình báo chí khác, nó đã khắc phục được cơ bản những trở ngại đối với báo in khi đưa ra nước ngoài. Nhờ đó, báo trực tuyến Việt Nam còn là phương tiện để tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, giúp cho bạn bè trên thế giới, Việt kiều đang sống ở nước ngoài hiểu về công cuộc đổi mới, tình hình phát triển của đất nước. Báo trực tuyến cũng góp phần đắc lực trong việc cung cấp thông tin phục vụ các hoạt động phát triển kinh tế xã hội cho một phần không nhỏ các bộ phận dân cư. Những dịp Tết Nguyên đán cổ truyền, số truy cập từ nước ngoài chiếm tới 90% tổng số lượt truy cập của nhiều báo trực tuyến lớn ở Việt Nam như VietnamNet, Tuổi trẻ online, VnExpress Cũng theo thống kê tại tòa soạn VietNamNet, tới 40% thư gửi về tòa soạn bày tỏ quan điểm, suy nghĩ của mình đối với những sự kiện đáng chú ý hay với các chủ trương chính sách mới của Đảng và Nhà nước mà báo trực tuyến đã đăng tải, là từ người Việt Nam ở nước ngoài. Trong báo cáo về công tác tuyên truyền đối ngoại được thảo luận trong kỳ họp Quốc hội tháng 4/2004, vai trò của báo trực tuyến trong thông tin tuyên truyền đối ngoại đã được thừa nhận. Đến nay, các báo trực tuyến lớn ở Việt Nam hoạt động khá hiệu quả, phần lớn thể hiện trên cả hai thứ tiếng Việt và Anh và rất hấp dẫn các độc giả vì sự đa dạng và tính cập nhật thông tin, như báo Quê Hương điện tử, Nhân dân điện tử, Lao động điện tử, Du lịch điện tử, Tuổi trẻ online, Thanh niên online, Thời báo kinh tế Sài Gòn online v.v Ngoài ra, còn hàng trăm các website của các Bộ, ngành và doanh nghiệp – dù có thể không phải là báo trực tuyến - cũng là những nguồn thông tin vô cùng phong phú, góp phần quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế - xã hội và cuộc sống văn hóa, tinh thần của nhân dân. Nội dung thông tin thời sự - chính trị của báo trực tuyến giúp cho công chúng truyền thông có cơ hội nắm bắt một cách tổng hợp và nhanh chóng tình hình, chủ trương, đường lối chính sách của Đảng. Sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, sự kiện APEC hay kỳ họp lần thứ 10 của Quốc hội khóa XI với hàng loạt thông tin (từ chủ trương của Đảng, từ những văn bản pháp quy đến những chuyện bên lề các sự kiện) đều có thể tìm kiếm khá dễ dàng và phong phú trên báo trực tuyến. Mà những thông tin này giờ đây không chỉ là văn bản. Một phát biểu của Tổng thống G. Bush tại Hà Nội cũng có thể được người nghe/xem/đọc báo trực tuyến khắp nơi trên thế giới theo dõi từ các báo trực tuyến trong nước. Diễn đàn góp ý cho Đảng trước Đại hội X là một minh chứng hùng hồn cả về sức mạnh, hiệu quả truyền thông của báo trực tuyến lẫn đường lối báo chí của Đảng ta trong việc khai thác thế mạnh của báo chí trực tuyến. Trong những năm qua, Chính phủ đã có nhiều sự quan tâm đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, trong đó có việc tạo điều kiện để bà con Việt kiều được tiếp cận với các nguồn thông tin phong phú từ trong nước, đáp ứng mong mỏi được biết tình hình quê nhà, các chủ trương chính sách của Nhà nước trên mọi lĩnh vực, nhất là cải cách kinh tế, chính trị. Cùng với việc các ấn phẩm báo chí trong nước được phát hành ở nước ngoài với số lượng tăng nhanh hàng năm và việc Đài Tiếng Nói Việt Nam mở rộng phạm vi phủ sóng, sự đón nhận nồng nhiệt của Việt kiều với chương trình VTV4 của Đài Truyền hình Việt Nam là những ví dụ cụ thể cho thấy 42