Giáo trình Pháp luật đại cương - Phạm Thị Thu Thanh

pdf 82 trang huongle 1990
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Pháp luật đại cương - Phạm Thị Thu Thanh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_phap_luat_dai_cuong_pham_thi_thu_thanh.pdf

Nội dung text: Giáo trình Pháp luật đại cương - Phạm Thị Thu Thanh

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ - 2002 3 4
  2. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 5 Chương I: NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC 6 I. NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC 6 1 Nhận thức cơ bản về nguồn gốc của nhà nước 6 2 Bản chất của nhà nước 6 II. CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC 10 1. Khái niệm chức năng của Nhà nước 10 2. Các chức năng của Nhà nước 11 3. Hình thức và phương pháp thực hiện chức năng Nhà nước 11 III. BỘ MÁY NHÀ NƯỚC - THIẾT CHẾ NHÀ NƯỚC 12 1. Nguyên tắc tổ chức Nhà nước 12 2. Hệ thống các cơ quan Nhà nước 14 3. Những nguyên tắc hoạt động của Nhà nước 15 IV. KIỂU NHÀ NƯỚC 16 V. HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC 17 1 Hình thức chính thể 17 2. Hình thức cấu trúc Nhà nước 18 Chương II : NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT 20 I. KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT 20 1. Pháp luật – một phương tiện để duy trì và củng cố bản chất Nhà nước 20 2. Những thuộc tính của pháp luật 21 II. CHỨC NĂNG CỦA PHÁP LUẬT 24 1. Chức năng điều chỉnh 24 2. Chức năng bảo vệ 24 3. Chức năng giáo dục 24 III. NHỮNG GIÁ TRỊ XÃ HỘI CỦA PHÁP LUẬT 25 IV. QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ CÁC HIỆN TƯỢNG XÃ HỘI KHÁC 26 A. MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ NHÀ NƯỚC 26 B. MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ KINH TẾ 27 1. Sự tác động của kinh tế đối với pháp luật 27 2. Sự tác động trở lại của pháp luật đối với kinh tế 29 C. MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VỚI CHÍNH TRỊ 30 1. Khái niệm về chính trị 30 2. Trong mối quan hệ với chính trị, pháp luật là một biện pháp, một phương tiện phục vụ các mục tiêu chính trị 31 3. Mối quan hệ giữa đường lối chính sách của Đảng cầm quyền và pháp luật của Nhà nước 31 D. MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ TƯ TƯỞNG 32 1. Khái niệm 32 2. Sự tác động của tư tưởng đối với pháp luật 33 3. Sự tác động của pháp luật trở lại tư tưởng xã hội 34 E. MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VỚI ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI 34 1. Khái niệm chung 34 2. Mối quan hệ giữa đạo đức với pháp luật 35 V. KIỂU PHÁP LUẬT- PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 37 1. Sự phát triển các kiểu pháp luật 37 2. Pháp luật xã hội chủ nghĩa 38 VI. Ý THỨC PHÁP LUẬT 40 1. Khái niệm ý thức pháp luật 40 2. Chức năng của ý thức pháp luật 41 3. Cơ cấu của ý thức pháp luật 41 5 6
  3. 4. Mối quan hệ giữa ý thức pháp luật XHCN và pháp luật XHCN 42 Chương III : CÁC LOẠI VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY - QUY PHẠM PHÁP LUẬT 43 I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT 43 1. Tập quán pháp 43 2. Tiền tệ pháp 43 3. Văn bản quy phạm pháp luật 44 II. CÁC LOẠI VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY 45 1. Các văn bản luật 45 2. Các văn bản dưới luật 45 III. HIỆU LỰC CỦA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT 47 1. Hiệu lực theo thời gian 47 2. Hiệu lực theo không gian 48 3. Hiệu lực theo đối tương tác động 49 IV. QUY PHẠM PHÁP LUẬT 49 1. Khái niệm về quy phạm pháp luật 49 2. Cơ cấu của quy phạm pháp luật 50 3. Phân loại các quy phạm pháp luật 52 Chương IV : QUAN HỆ PHÁP LUẬT 54 I. KHÁI NIỆM QUAN HỆ PHÁP LUẬT 54 II. THÀNH PHẦN CỦA QUAN HỆ PHÁP LUẬT 54 1. Chủ thể của quan hệ pháp luật 54 2. Nội dung của quan hệ pháp luật 56 3. Khách thể quan hệ pháp luật 57 III. CÁC CĂN CỨ LÀM PHÁT SINH THAY ĐỔI, CHẤM DỨT QUAN HỆ PHÁP LUẬT 57 1. Phải có quy phạm pháp luật điều chỉnh 57 2. Phải có sự kiện pháp lý phát sinh 57 Chương V : THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VI PHẠM PHÁP LUẬT VÀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ 59 I. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT 59 II. VI PHẠM PHÁP LUẬT 62 1. Khái niệm về hành vi pháp luật 62 2. Hành vi hợp pháp và hành vi không hợp pháp 63 3. Vi phạm pháp luật 64 4. Cấu trúc của vi phạm pháp luật 64 III. TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ 65 1. Bản chất và chức năng của trách nhiệm pháp lý 65 2. Cơ sở truy cứu trách nhiệm pháp lý 66 3. Nguyên tắc áp dụng trách nhiệm pháp lý 68 4. Phân loại trách nhiệm pháp lý 68 Chương VI : CÁC NGÀNH LUẬT TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT NƯỚC TA HIỆN NAY 70 I. KHÁI NIỆM HỆ THỐNG PHÁP LUẬT 70 II. CĂN CỨ XÁC ĐỊNH NGÀNH LUẬT, CHẾ ĐỊNH LUẬT 71 III. CÁC NGÀNH LUẬT TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT NƯỚC TA 73 1. Luật nhà nước 74 2. Luật hành chính 74 3. Luật hình sự 74 4. Luật tố tụng hình sự 74 5. Luật dân sự 74 6. Luật tố tụng dân sự 74 7. Luật kinh tế 74 7 8
  4. 8. Luật lao động 75 9. Luật tài chính 75 10. Luật đất đai 75 11. Luật bảo vệ tài nguyên và môi trường 75 12. Luật hôn nhân gia đình 75 13. Luật quốc tế 75 14. Tư pháp quốc tế 75 Chương VII: PHÁP CHẾ 76 I. KHÁI NIỆM PHÁP CHẾ 76 II. CÁC YÊU CẦU CỦA PHÁP CHẾ 77 1. Tôn trọng tính tối cao của Hiến Pháp và luật 77 2. Bảo đảm tính thống nhất của pháp chế trên qui mô toàn quốc 78 3. Các cơ quan xây dựng pháp luật tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật phải hoạt động một cách tích cực, chủ động và có hiệu quả 78 4. Không tách rời công tác pháp chế với văn hóa 78 III. CÁC BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÁP CHẾ 79 1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế 79 2. Đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa 80 3. Tăng cường tổ chức thực hiện pháp luật 80 4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật 81 9 10
  5. LỜI MỞ ĐẦU Nhà nước và Pháp luật là hai hiện tượng trung tâm của đời sống chính trị xã hội. Hai hiện tượng này có nhiều mặt biểu hiện rất phức tạp và đa dạng nên là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Phạm vi của tài liệu học tập Pháp luật đại cương nhằm cung cấp các kiến thức về những vấn đề cơ bản của pháp luật như khái niệm, bản chất, vai trò, chức năng của pháp luật, các loại văn bản quy phạm pháp luật, quan hệ pháp luật, về việc thực hiện pháp luật, vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý, vấn đề pháp chế và hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam. Trên cơ sở những kiến thức chung về pháp luật, tài liệu chú trọng đến các đặc điểm của pháp luật xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì pháp luật là một hiện tượng có mối quan hệ nội tại với Nhà nước nên để làm sáng tỏ các vấn đề của pháp luật, trong môn học có đề cập đến các vấn đề cơ bản của Nhà nước như về nguồn gốc bản chất, chức năng, các kiểu, hình thức Nhà nước cũng như Bộ máy nhà nước.Từ đó dẫn đến các đặc điểm của Nhà nước ta hiện nay. Tài liệu “Pháp luật đại cương” đặc biệt trình bày, lý giải các khái niệm cơ bản về Nhà nước, Pháp luật để sinh viên có cơ sở lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật từ đó lý giải các vấn đề xã hội có tác động đến Nhà nước và Pháp luật hoặc chịu sự tác động của Nhà nước và Pháp luật, trong quá trình phát triển của xã hội. Tác giả trân trọng giới thiệu tài liệu này với mục đích giúp các bạn sinh viên của các trường Đại học và Cao đẳng hệ thống các kiến thức cần thiết về môn học “Pháp luật đại cương” được cơ cấu trong chương trình đào tạo cử nhân. Chúc các bạn thành công trong học tập và nghiên cứu. TÁC GIẢ 11 12
  6. Chương I NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC I. NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC 1. Nhận thức cơ bản về nguồn gốc của Nhà nước. Nhà nước là đối tượng nghiên cứu của nhiều công trình khoa học trên thế giới, đã được nhiều nhà tư tưởng ở các thời đại tiến hành, nó cũng là đề tài cho nhiều cuộc bút chiến và tranh luận lớn nhằm tìm ra bản chất thực sự của Nhà nước. Nghiên cứu các tác phẩm của các nhà tư tưởng cổ đại chúng ta thấy họ có quan điểm chung rằng: Sự giàu nghèo, sang hèn và mọi đẳng cấp trong xã hội, đều do thượng đế tạo ra. Việc trị vì và duy trì trật tự xã hội được một người do thượng đế cử xuống thay mặt trời bảo vệ trật tự chung – đó là hoàng đế (còn gọi là thiên tử). Nhà nước là do thượng đế sáng tạo, do vậy quyền lực của nhà nước là quyền lực của chúa, là vĩnh cửu. Quan điểm của các học giả trước Mác đều cho rằng Nhà nước là một thiết chế tất yếu phải có của mọi xã hội, một lực lượng cho phép mọi người có thể tồn tại được, một trọng tài công minh từ bên ngoài áp đặt vào xã hội, đứng trên xã hội để giải quyết mọi tranh chấp và mâu thuẫn nhằm duy trì xã hội trong vòng trật tự và phát triển. Theo họ, Nhà nước là của chung mọi người, xã hội dù văn minh đến đâu cũng mãi mãi cần có Nhà nước. Các nhà tư tưởng tư sản lại coi sự ra đời của Nhà nước là kết quả của một khế ước xã hội thể hiện ý chí giữa những nhóm người sống trên một lãnh thổ. Họ không thể nhận thức và khái quát thành lý luận rút ra những yếu tố gì quyết định ý chí đó nghĩa là quyết định sự ra đời của Nhà nước. Với sự ra đời của học thuyết Mác-Lênin, vấn đề Nhà nước chiếm một vị trí quan trọng trong học thuyết này. Nó đã được làm sáng tỏ một cách khoa học. Mác khẳng định : Nhà nước là các quan hệ được xây nên trong cuộc đấu tranh giai cấp. Lênin thì cho rằng : Nhà nước không thể là một thế lực từ bên ngoài gán ghép vào xã hội Nó là sản phẩm của xã hội phát triển đến một giai đoạn nhất định, nó là sự thừa nhận rằng xã hội đó bị hãm trong một sự mâu thuẫn với bản thân nó mà không sao giải quyết được, rằng xã hội đã bị phân chia thành những lực lượng đối lập không thể điều hoà mà xã hội đó không đủ sức để giải thoát ra được. Nhưng muốn cho những đối tượng đó, những giai cấp có quyền lợi kinh tế mâu thuẫn nhau đó không đi đến chỗ tiêu diệt nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội trong một cuộc đấu tranh vô ích thì cần phải có một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội có nhiệm vụ làm cho sự xung đột đó nằm trong vòng “trật tự” và lực lượng đó, cái lực lượng nẩy sinh ra từ xã hội, nhưng lại đứng trên xã hội chính là Nhà nước. 2. Bản chất của Nhà nước Từ sự khẳng định nguồn gốc xuất hiện Nhà nước là khi xã hội đã phát triển ở trình độ nhất định, bị phân chia thành các giai cấp và mâu thuẫn đối kháng là không thể điều hoà được, chủ nghĩa Mác-Lênin cũng đã làm rõ vai trò và bản chất của Nhà nước. Theo Lênin: đó là một vấn đề mấu chốt cơ bản trong mọi thời đại, trong toàn bộ nền chính trị hơn tất cả các vấn đề khác, nó đụng chạm đến lợi ích của giai cấp thống trị. Nhà 13 14
  7. nước xét về bản chất, trước hết là một bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với giai cấp khác, là bộ máy để duy trì sự thống trị giai cấp. Nhờ có Nhà nước giai cấp thống trị bước đầu là thống trị về kinh tế sau đó tiến tới trở thành giai cấp thống trị về chính trị và cả về tư tưởng trong xã hội. Đây là ba nội dung thống trị mà bất kỳ giai cấp cầm quyền nào cũng nắm trọn. (Sự thống trị về kinh tế: Quyền lực kinh tế là cơ sở đảm bảo cho sự thống trị giai cấp. Quyền lực kinh tế thuộc về giai cấp nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Với quyền định đoạt, quản lý và quyết định phương thức phân phối sản phẩm xã hội, chủ sở hữu có quyền bắt những người làm thuê phụ thuộc mình về kinh tế. Nhưng chỉ có quyền lực về kinh tế chưa đủ mạnh để duy trì quan hệvà địa vị bóc lột. Vì vậy giai cấp thống trị về kinh tế thấy cần phải vươn tới nắm Nhà nước để bảo vệ quyền sở hữu, trấn áp sự phản kháng của người bị bóc lột. Chính nhờ có Nhà nước trong tay, giai cấp thống trị về kinh tế đã trở thành giai cấp thống trị về chính trị. (Sự thống trị về chính trị : Do nắm được Nhà nước, giai cấp thống trị về kinh tế đã trở thành chủ thể của quyền lực chính trị, giai cấp thống trị đã được sử dụng Nhà nước để tổ chức và thực hiện quyền lực chính trị của mình. Thông qua Nhà nước, ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện một cách tập trung thống nhất và hợp pháp hoá thành ý chí Nhà nước. Ý chí Nhà nước có sức mạnh bắt buộc các giai cấp khác phải tuân theo cái trật tự do giai cấp thống trị đặt ra. Chủ nghĩa Mác-Lênin xác định quyền lực chính trị là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp giai cấp khác. Nhà nước suy cho cùng chỉ là một bộ máy bạo lực do giai cấp thống trị dùng để trấn áp giai cấp đối kháng, do đó Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, giai cấp thống trị thông qua Nhà nước để thực hiện sự chuyên chính của mình đối với các giai cấp khác. Khác hẳn với quyền lực xã hội trong tổ chức thị tộc bộ lạc, quyền lực chính trị chỉ xuất hiện trong xã hội đã phân chia thành giai cấp. (Sự thống trị về tư tưởng: Khi có quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị trong tay, giai cấp thống trị sử dụng Nhà nước làm phương tiện để bành trướng hệ tư tưởng của giai cấp mình thành hệ tư tưởng thống trị xã hội, buộc các giai cấp khác phải lệ thuộc về mặt tư tưởng. Những tư tưởng đối lập luôn bị thu hẹp do bị giai cấp thống trị dùng mọi thủ đoạn để trấn áp, dùng bộ máy thông tin Nhà nước, các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua hoạt động giáo dục để truyền bá tư tưởng chính thống của giai cấp thống trị cho lớp trẻ, biến đổi tư tưởng của giai cấp trung gian trong xã hội. Giai cấp thống trị luôn chú trọng đào tạo một đội ngũ các học giả, các nhà văn, nhà báo, các lý luận gia trung thành để phục vụ trên lĩnh vực tư tưởng, đồng thời giai cấp thống trị cũng sử dụng quyền lực Nhà nước kiểm duyệt ngặt nghèo các xuất bản phẩm và văn hóa phẩm nhằm loại bỏ các hệ tư tưởng đối lập xuất hiện trong xã hội. Thực tế lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng : Tư tưởng thống trị trong xã hội luôn luôn là tư tưởng của giai cấp đang cầm quyền. Như vậy, việc làm rõ bản chất giai cấp của Nhà nước tức là làm rõ các vấn đề : Nhà nước ấy của ai? Do giai cấp nào tổ chức và lãnh đạo? Phục vụ cho lợi ích của giai cấp nào? Trong các xã hội bóc lột, Nhà nước có đặc điểm chung là một bộ máy đặc biệt nhằm duy trì sự thống trị, kinh tế và tư tưởng của thiểu số người bóc lộc với đông đảo quần chúng lao động thực hiện nền chuyên chính của giai cấp bóc lột, cụ thể: Nhà nước chủ 15 16
  8. nô trong xã hội chiếm hữu nô lệ; Nhà nước phong kiến là công cụ chuyên chế của địa chủ, quí tộc và tăng lữ; Nhà nước tư sản là công cụ chuyên chính của giai cấp tư sản. Khác với Nhà nước bóc lột, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là bộ máy củng cố địa vị thống trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Nhà nước là bộ máy bảo đảm sự thống trị của đa số đối với thiểu số. Nhà nước đó thực sự của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng cộng sản lãnh đạo. Nhà nước xã hội chủ nghĩa thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước và của nhân dân. Ngoài vai trò là một bộ máy nhằm duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác, Nhà nước nói chung trong lịch sử còn có vai trò xã hội to lớn, tức là nó thực hiện phương thức tổ chức, bảo đảm lợi ích chung của xã hội. Trong điều kiện hiện nay chúng ta coi trọng bản chất giai cấp của Nhà nứơc nhưng cũng phải thường xuyên nhấn mạnh vai trò xã hội to lớn của nó để sử dụng Nhà nước vào việc giải quyết tất cả các vấn đề khác nảy sinh trong xã hội; Nhà nước phải đảm bảo các giá trị xã hội cho cuộc sống cộng đồng, bảo đảm trật tự, an ninh và phát triển cho xã hội, đồng thời phải thực hiện các chức năng, nhiệm vụ phù hợp với yêu cầu của xã hội. Điều đó nói lên rằng Nhà nước là một hiện tượng phức tạp và đa dạng. Giữa Nhà nước và xã hội vừa có sự thống nhất, vừa có sự khác biệt. Một xã hội có giai cấp không thể tồn tại thiếu Nhà nước, đồng thời Nhà nước chỉ tồn tại và xuất hiện trong xã hội có giai cấp. Xã hội là một khái niệm rộng hơn Nhà nước, xã hội là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của Nhà nước. Những biến đổi trong quá trình vận động của xã hội sớm hay muộn cũng dẫn đến sự thay đổi tương ứng của Nhà nước. Với tư cách là một yếu tố của thượng tầng kiến trúc, Nhà nước cũng có tác động mạnh mẽ trở lại đối với sự phát triển của xã hội, có thể là sự thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển xã hội, điều đó phụ thuộc vào bản chất của Nhà nước trong một hoàn cảnh lịch sử xã hội nhất định. Bản chất của Nhà nước phụ thuộc hình thái kinh tế xã hội. Nhà nước trong hình thái kinh tế-xã hội khác nhau có bản chất khác nhau. Mọi Nhà nước đều có những dấu hiệu chung (đặc trưng chung). Đây là căn cứ để phân biệt Nhà nước với các tổ chức chính trị xã hội khác mà giai cấp thống trị thiết lập và sử dụng để quản lý xã hội. Đồng thời các đặc trưng đó cũng làm cho Nhà nước có một vai trò đặc biệt quan trọng, một vị trí trung tâm trong hệ thống chính trị, có thể tác động một cách toàn diện, mạnh mẽ và có hiệu quả nhất đối với đời sống xã hội, thể hiện lợi ích của giai cấp thống trị một cách tập trung nhất. Học thuyết Mác-Lênin về Nhà nước đã chỉ ra rằng Nhà nước có các đặc trưng cơ bản sau : (Nhà nước thiết lập một quyền lực công cộng đặc biệt không còn hoà nhập với dân cư nữa. Nhà nước xây dựng một hệ thống cơ quan hành chánh, thiết lập tòa án, quân đội, cảnh sát v v nhằm áp bức bằng bạo lực và nô dịch về tinh thần, bắt các giai cấp khác phải phục tùng ý chí của giai cấp thống trị , duy trì địa vị thống trị giai cấp. Các cơ quan chính quyền Nhà nước là đại diện chính thống cho toàn xã hội, có quyền năng quản lý xã hội. Để bảo đảm trật tự và lợi ích của giai cấp thống trị, Nhà nước phải có những cơ quan quản lý chuyên trách, những phương tiện quản lý và những phương tiện cưỡng chế. Nó bảo đảm cho Nhà nước thực hiện được ý chí của mình đối với toàn xã hội. Cưỡng chế nói chung không phải là đặc điểm riêng của Nhà nước trong xã hội có giai cấp. Thực tế trong xã hội cộng sản nguyên thủy đã tồn tại sự cưỡng chế nhưng 17 18
  9. nó được thực hiện bởi quyền lực do toàn dân đề cử trực tiếp tổ chức nên không tách rời với dân cư (sức mạnh cưỡng chế chủ yếu dựa vào uy tín, tập quán và thần quyền). Ngược lại cưỡng chế của Nhà nước do một bộ máy đặc biệt tiến hành, tức là do một cơ quan chức năng chuyên trách của Nhà nước hay những nhóm người được Nhà nước cử ra chuyên thực hiện công cụ này (sức mạnh chủ yếu dựa vào quyền uy). (Nhà nước phân chia dân cư theo lãnh thổ thành các đơn vị hành chính. Trước đây trong các thị tộc, các thành viên đều có quan hệ huyết thống, đến xã hội có giai cấp do sự vận động của dân cư bởi nhiều nguyên nhân khác trên một lãnh thổ hầu như không có sự thuần nhất về huyết thống của dân cư, do vậy việc phân chia dân cư theo lãnh thổ là việc làm cần thiết của Nhà nước. Khác với bất cứ một tổ chức nào, quyền lực của Nhà nước được tác động trên toàn bộ lãnh thổ và dân cư của mình, trên lãnh thổ đó được phân chia thành các đơn vị hành chính như tỉnh (thành), huyện (quận), xã (phường) Kéo theo sự phân chia dân cư theo lãnh thổ trong Nhà nước đã xuất hiện chế định quốc tịch, xác định mối quan hệ bền chặt giữa công dân với Nhà nước bằng việc xác lập các quyền và nghĩa vụ lẫn nhau giữa công dân với Nhà nước. Việc phân chia dân cư theo lãnh thổ thành các đơn vị hành chính cũng dẫn đến sự hình thành các cơ quan trung ương và các cơ quan địa phương của bộ máy Nhà nước. (Nhà nước có chủ quyền quốc gia. Nhà nước là một tổ chức quyền lực có chủ quyền, thể hiện trong đối nội và đối ngoại. Trong đối nội Nhà nước có quyền lực tối cao đối với mọi người, mọi tổ chức trong lãnh thổ quốc gia. Trong đối ngoại, Nhà nước có sự độc lập hoàn toàn trong chính sách và các hoạt động kinh tế, chính trị văn hóa v.v với nước ngoài. Nhà nước có quyền tự do và độc lập quyết định các công việc của mình, tôn trọng chủ quyền của các Nhà nước khác, tôn trọng các quy phạm của luật quốc tế. Chủ quyền là thuộc tính vốn có của Nhà nước. Trong xã hội có giai cấp không một tổ chức hoặc cá nhân nào có chủ quyền như Nhà nước. (Nhà nước có quyền định ra các thứ thuế và thu thuế. Việc thiết lập bộ máy quyền lực công cộng Nhà nước cần một khối lượng tiền của rất lớn để cung ứng và nuôi dưỡng cho bộ máy và con người đó hoạt động thường xuyên. Nhà nước phải quy định và thực hiện việc thu các loại thuế dưới các hình thức bắt buộc, với số lượng và thời hạn ấn định trước. Đây là điều mà xã hội thị tộc hoàn toàn không biết đến. Thuế là khoản đóng thuế bắt buộc của các công dân và các tổ chức kinh tế trên lãnh thổ quốc gia vào ngân sách Nhà nước. Thuế không gắn với mục đích chỉ dùng cụ thể nào, không hoàn trả trực tiếp cho người nộp. Đây là nguồn thu nhập chủ yếu của Nhà nước. Vai trò nguyên thủy của thuế là để phục vụ hoạt động và nuôi sống bộ máy Nhà nước cùng với sự phát triển của xã hội và nền kinh tế. Hiện nay người ta phát hiện ra nhiều vai trò mới của thuế, nó đã trở thành công cụ quản lý vĩ mô trong tay Nhà nước. Thuế còn có vai trò điều tiết thu nhập, phân phối và phân phối lại sản phẩm xã hội, nhằm đảm bảo nguyên tắc công bằng và nhân đạo của xã hội. Thuế còn có vai trò điều tiết hướng phát triển của nền kinh tế quốc gia Thuế là vấn đề quan trọng. Mọi Nhà nước đều coi thuế là quan trọng và giao cho cơ quan quyền lực cao nhất quyền định ra, sửa đổi và bãi bỏ các thứ thuế. (Nhà nước ban hành pháp luật và bảo đảm thực hiện nghiêm minh và thống nhất. Trong xã hội luôn luôn xuất hiện những quan hệ đa dạng và phức tạp. Để giữ gìn trật tự và bảo đảm lợi ích của giai cấp thống trị, Nhà nước phải trực tiếp xây dựng các quy phạm để điều chỉnh những quan hệ xã hội quan trọng, bắt các chủ thể tham gia quan hệ đó phải xử sự theo đúng ý chí của Nhà nước. Nhà nước bảo đảm thực hiện các quy 19 20
  10. phạm pháp luật đó bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Pháp luật trở thành công cụ sắc bén không thể thiếu được trong tay Nhà nước để quản lý xã hội. Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng của xã hội có cùng một bản chất. Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị nhưng pháp luật vẫn có giá trị xã hội to lớn trong xã hội văn minh, đó là gía trị công bằng, giá trị quy phạm phổ biến, giá trị thông tin chính thống về trình độ phát triển của các giai đoạn trong một xã hội cụ thể, pháp luật là khuôn mẫu xử sự chung, điều chỉnh hành vi của con người, bảo vệ quyền con người, đồng thời pháp luật cơ sở quan trọng cho tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Trong xã hội có giai cấp, pháp luật là đặc trưng của Nhà nước. Chỉ có Nhà nước mới có quyền ban hành pháp luật và bảo đảm sự thực hiện pháp luật bằng sức mạnh cưỡng chế Nhà nước. Từ sự phân tích trên, ta có thể khẳng định: (Nhà nước là một hiện tượng xã hội lịch sử, do cơ sở kinh tế qui định. (Nhà nước là công cụ quyền lực của giai cấp thống trị. (Nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội, nó bảo vệ lợi ích chung của giai cấp thống trị về kinh tế. (Nhà nước là một tổ chức chính trị có chủ quyền Từ những kết luận trên có thể định nghĩa nhà nước như sau: Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện chức năng quản lý xã hội đặc biệt, nhằm thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội, đối với Nhà nước xã hội chủ nghĩa thì thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. II. CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC 1. Khái niệm chức năng của Nhà nước Chức năng của Nhà nước là một trong những phạm trù cơ bản nằm trong toàn bộ khoa học nghiên cứu về Nhà nước. Chưa có một khái niệm chính thống nào của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin về chức năng của Nhà nước, do đó nó trở thành đề tài tranh luận giữa nhiều trường phái khoa học cùng nghiên cứu về Nhà nước. Để tổng hợp thành một khái niệm khoa học về chức năng của Nhà nước trước hết cần xác định những đặc điểm trong chức năng của Nhà nước bao gồm: 1. Chức năng của Nhà nước phản ánh tập trung và đầy đủ bản chất của Nhà nước bởi giữa chúng có mối quan hệ biện chứng giữa bản chất với hiện tượng; 2. Chức năng Nhà nước chi phối nhiệm vụ cụ thể của Nhà nước bởi chính nhiệm vụ của Nhà nước là bước cụ thể hóa chức năng của Nhà nước, thể hiện cụ thể bản chất của Nhà nước; 3. Chức năng Nhà nước luôn luôn phụ thuộc vào mục đích và yêu cầu của hoạt độngNhà nước trong từng giai đoạn phát triển của xã hội; 4. Chức năng của Nhà nước gắn liền với từng giai đoạn phát triển của chính bản thân Nhà nước. Như vậy, chức năng của Nhà nước là những phương diện hoạt động cơ bản của Nhà nước nhằm thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước Nhà nước. Với khái niệm như trên, chúng ta thấy chức năng của Nhà nước được xác định xuất phát từ bản chất của Nhà nước, do cơ sở kinh tế và cơ cấu giai cấp xã hội quyết định. Chẳng hạn: Các kiểu 21 22
  11. Nhà nước bóc lột được xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu và bóc lột lao động, cho nên chúng có những chức năng cơ bản như bảo vệ chế độ tư hữu, đàn áp sự phản kháng của người lao động, tiến hành chiến tranh xâm lược để gây thanh chế và nô địch các quốc gia khác Còn Nhà nước xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế là chế độ sở hữu công cộng và bảo vệ lợi ích của đông đảo nhân dân lao động, vì vậy chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa khác hẳn về bản chất và phương pháp tổ chức thực hiện so với các Nhà nước bóc lột. 2. Các chức năng của Nhà nước: Căn cứ và phạm vi hoạt động của Nhà nước, các chức năng được phân biệt thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Chức năng đối nội: Tập trung chủ yếu vào việc thực hiện quyền lực chính trị trong nước, đây là mặt hoạt động cơ bản của Nhà nước trong nội bộ đất nước thường giới hạn trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Nhìn khái quát tất cả Nhà nước đều có chức năng đối nội với hai nội dung chủ yếu là: trấn áp các giai cấp đối kháng; tổ chức và duy trì trật tự trong nội bộ đất nước, quản lý kinh tế văn hóa, giáo dục Chức năng đối ngoại: Thể hiện vị trí, vai trò và quan điểm của Nhà nước trong quan hệ với các nước khác và các tổ chức quốc tế. Nội dung cơ bản trong chức năng đối ngoại của Nhà nước là: bảo vệ đất nước trước khả năng tấn công xâm lược của kẻ thù bên ngoài; thực hiện sự hợp tác với các quốc gia khác trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và quốc phòng. Mặc dù mỗi một chức năng Nhà nước có đối tượng tác động khác nhau, nhưng các chức năng của Nhà nước đều có mối quan hệ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau và tạo thành một thể thống nhất thể hiện bản chất của Nhà nước. Các loại chức năng của Nhà nước luôn luôn thống nhất với nhau, bổ sung cho nhau, ảnh hưởng lẫn nhau rất lớn, đối nội yếu thì không thể đối ngoại mạnh được và ngược lại. Trong mỗi chức năng Nhà nước mặc dù được tổ chức theo nhiều cấp, nhiều ngành như quá trình thực hiện luôn có tương tác và hỗ trợ lẫn nhau tạo thành một hệ thống vận động thống nhất và đồng bộ trên mỗi phương diện đối nội hoặc đối ngoại của Nhà nước. Chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước là hai khái niệm gần nhau, nhưng thực chất chúng không thể đồng nhất với nhau. Chức năng là phương diện hoạt động mang tính định hướng. Để thực hiện chức năng, Nhà nước có thể xác định nhiều nhiệm vụ cả chiến lược lâu dài, cả nhiệm vụ cụ thể trước mắt trong mỗi giai đoạn và hoàn cảnh cụ thể. Đối với mỗi Nhà nước cụ thể, chức năng của nó còn phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế và cơ cấu giai cấp trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Chẳng hạn trong Nhà nước tư sản, chức năng Nhà nước trong giai đoạn tư bản lũng đoạn thể hiện ở nội dung bảo vệ quyền lợi cho giai cấp tư sản, lúc đầu là bảo vệ quyền lợi tất cả giai cấp tư sản, sau đó bị thu hẹp. Trong giai đoạn tư sản lũng đoạn, chức năng Nhà nước tư sản chỉ bảo vệ lợi ích cho nhóm tư bản độc quyền mà thôi. 3. Hình thức và phương pháp thực hiện chức năng Nhà nước Để thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước, Nhà nước đã sử dụng nhiều hình thức hoạt động khác nhau, nhưng chủ yếu nhất là ba hình thức : xây dựng pháp luật; tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Nội dung của các hình thức chủ yếu đó cũng khác nhau tùy thuộc vào bản chất của Nhà nước, trình độ phát triển 23 24
  12. của kinh tế xã hội và sự so sánh lực lượng trong từng giai đoạn phát triển của Nhà nước. Các phương pháp sử dụng để thực hiện chức năng Nhà nước ở mỗi một kiểu nhà nước cũng khác nhau, nhưng chung qui lại chỉ có hai phương pháp chủ yếu là thuyết phục và cưỡng chế. Mức độ và phạm vi áp dụng các phương pháp trên ở mỗi Nhà nước khác nhau cũng rất khác nhau, nó phụ thuộc chủ yếu vào bản chất giai cấp của các kiểu Nhà nước. Nhà nước bóc lột sử dụng phương pháp cưỡng chế là chủ yếu, còn Nhà nước xã hội chủ nghĩa thì chủ yếu dùng phương pháp giáo dục và thuyết phục. III. BỘ MÁY NHÀ NƯỚC - THIẾT CHẾ NHÀ NƯỚC Trong đời sống chính trị xã hội có ba loại quyền lực tồn tại có mối liên hệ mật thiết với nhau đó là : quyền lực chính trị, quyền lực nhân dân và quyền lực Nhà nước trong đó : (Quyền lực chính trị là quyền lực của giai cấp cầm quyền trong mối liên hệ với các giai cấp và tầng lớp xã hội khác. Bất kỳ vấn đề gì cũng có thể trở thành vấn đề chính trị nếu giải quyết vấn đề đó đụng chạm đến lợi ích giai cấp, đụng chạm đến chính quyền Nhà nước. (Quyền lực nhân dân được thực hiện thông qua hệ thống chính trị của xã hội. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, quyền lực nhân dân là nhân tố quyết định tính chất của hệ thống chính trị, là điều kiện cho sự tồn tại và hoạt động của mọi yếu tố, mọi quá trình trong hệ thống chính trị. (Quyền lực Nhà nước, đây là hình thức thể hiện của quyền lực chính trị và quyền lực nhân dân, bởi vì muốn thực hiện hai loại quyền lực trên nhất thiết phải thông qua thiết chế Nhà nước (hay cơ chế Nhà nước). Quyền lực Nhà nước là khả năng sử dụng Nhà nước để thực hiện ý chí của giai cấp thống trị, buộc toàn bộ xã hội phải phục tùng ý chí của giai cấp đó. Do đó có thể nói quyền lực Nhà nước là quyền lực chính trị được thực hiện bằng Nhà nước. Nhà nước là công cụ thực hiện quyền lực chính trị, đồng thời là hình thức biểu hiện về mặt tổ chức quyền lực đó. Từ lý giải trên có thể khái niệm : Thiết chế Nhà nước là tổng thể các yếu tố cấu thành, các hình thức thực hiện, các quá trình tác động có định hướng của quyền lực Nhà nước đối với các quan hệ xã hội. Những nội dung cơ bản của thiết chế Nhà nước bao gồm: nguyên tắc tổ chức Nhà nước; hệ thống các cơ quan Nhà nước và nguyên tắc hoạt động của Nhà nước. Ở các nước có chế độ xã hội khác nhau thì có thiết chế Nhà nước khác nhau. Ngoài ra, thiết chế Nhà nước còn phụ thuộc vào tình hình đặc điểm của phát triển kinh tế, xã hội, truyền thống dân tộc, tương quan lực lượng giai cấp bên trong mỗi Nhà nước. 1. Nguyên tắc tổ chức Nhà nước Trong lịch sử của các kiểu Nhà nước thường tồn tại hai nguyên tắc tổ chức Nhà nước khác nhau là: nguyên tắc phân quyền và nguyên tắc tập quyền. a. Nguyên tắc phân quyền Tư tưởng tổ chức quyền lực Nhà nước theo hình thức phân quyền đã có từ lâu: Thời cổ đại Aristote (nhà tư tưởng cổ Hy Lạp) đã đề xướng và thuyết phục triều đình ứng dụng thuyết phân quyền. Thời cận đại các nhà tư tưởng Anh là J.Locke và nhà tư tưởng pháp S.Montesquieu (1689 – 1775) đã tuyên truyền nguyên tắc phân quyền trong các tác phẩm của mình. Thuyết phân quyền được hoàn chỉnh trong cuộc chiến tranh 25 26
  13. của giai cấp tư sản đang thắng thế trước chế độ quân chủ chuyên quyền. Đó là chế độ mà người dân hầu như không có quyền gì, mọi quyền lực tập trung hết vào tay nhà vua và quyền lực còn được chuyển giao theo nguyên tắc cha truyền con nối, xã hội phong kiến phải chịu đựng sự độc tài, chuyên chế của vua chúa phong kiến từ thế kỷ này sang thế kỷ khác trong “những đêm trường trung cổ”. Theo nguyên tắc phân quyền thì quyền lực được phân chia thành : quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, các quyền này độc lập và chế ước lẫn nhau (còn gọi là tam quyền phân lập). Trong đó quyền lập pháp thuộc về nghị viện (Quốc hội) tức là thuộc về cơ quan đại diện của nhân dân được lập ra qua phổ thông đầu phiếu. Quyền hành pháp thuộc về chính phủ và quyền tư pháp thuộc về tòa án. Nguyên tắc phân quyền là một tiến bộ lớn của lịch sử so với chế độ quân chủ chuyên chế, nhờ đó đã hình thành thiết chế dân chủ tư sản. Tuy vậy nguyên tắc phân quyền cũng bộc lộ nhiều nhược điểm như: nó chỉ hạn chế cơ quan dân cử trong phạm vi thẩm quyền lập pháp, không cho phép cơ quan dân cử tác động tích cực và chủ động đối với cơ quan hành pháp. Trên thực tế vẫn còn sự lấn át của cơ quan hành pháp vào hoạt động của cơ quan lập pháp và tư pháp, cụ thể tình hình này đang diễn ra rất rõ nét ở Mỹ, Pháp và Nhật. b. Nguyên tắc tập quyền Nguyên tắc này gắn liền với tư tưởng cho rằng quyền lực Nhà nước gắn bó với một chủ thể không phân chia. Bởi vậy theo nguyên tắc này quyền lực Nhà nước không bị phân chia thành các quyền khác độc lập với nhau. Quyền lực nhân dân được thể hiện và thực hiện tập trung thống nhất vào một cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân, đó là Quốc hội (nghị viện). Mọi cơ quan Nhà nước khác đều do cơ quan quyền lực Nhà nước này thành lập, giao nhiệm vụ và phải chịu sự giám sát của nó. Hầu hết tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đều theo nguyên tắc này. Thực tiễn của công cuộc xây dựng chính quyền nhân dân ở nước ta từ năm 1945 đến nay đều quán triệt nguyên tắc tập quyền. Bảo đảm sự thống nhất và không thể chia sẽ quyền lực Nhà nước. Nghĩa là quyền lập pháp và quyền giám sát tối cao tập trung trong tay quốc hội là cơ quan dân cử có quyền lực cao nhất, đồng thời là cơ quan duy nhất thể hiện chủ quyền Nhà nước của nhân dân: cơ quan chấp hành và điều hành tức chính phủ do cơ quan quyền lực cao nhất (quốc hội) lập ra, Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước quốc hội, hoạt động trên cơ sở, trong khuôn khổ và nhằm thi hành pháp luật; các cơ quan xét xử cũng do Quốc hội lập ra có vị trí độc lập, hoạt động trên cơ sở pháp luật và chỉ tuân theo pháp luật. Như vậy với việc tổ chức quyền lực Nhà nước theo nguyên tắc tập quyền, quyền lực tuyệt đối của nhân dân được bảo đảm. Trong bản thân nguyên tắc tập quyền cũng đã chứa đựng trong đó sự tiếp thu những hạt nhân chủ yếu của nguyên tắc phân quyền, đó là: đề cao quyền lực của cơ quan dân cử; thừa nhận sự tồn tại khách quan của các loại cơ quan giữ chức năng khác nhau như lập pháp, hành pháp, kiểm tra và xét xử; thừa nhận sự cần thiết phải có sự độc lập của tòa án trong xét xử. Chính việc tổ chức theo nguyên tắc tập quyền cũng đã loại bỏ được nhược điểm của cách tổ chức Nhà nước theo nguyên tắc phân quyền ở chỗ nó hạn chế cơ quan dân cử trong phạm vi thẩm quyền lập pháp và không cho phép cơ quan dân cử tác động tích cực và chủ động đối với cơ quan Nhà nước khác. Nhưng một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho bộ máy Nhà nước ở các nước xã hội chủ nghĩa tổ chức theo nguyên tắc tập quyền cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả là do cơ cấu tổ chức chưa hợp lý, chức năng nhiệm vụ của các cơ quan Nhà 27 28
  14. nước chưa được phân định rõ ràng. Từ đó yêu cầu đặt ra đối với Nhà nước vận dụng nguyên tắc tập quyền cần phải có sự phân định quyền một cách rõ ràng, hợp lý. Nhất là giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, đó là yếu tố thể hiện sự tiếp thu những ưu điểm của nguyên tắc phân quyền để giải quyết những vấn đề đặt ra, cần khắc phục của nguyên tắc tập quyền. Để khẳng định mạnh mẽ quyền lực nhân dân yêu cầu phải khắc phục những hoạt động lệch lạc trái với lợi ích của nhân dân, cần chống quan liêu, lạm quyền, tham nhũng trong bộ máy Nhà nước. Bộ máy Nhà nước ta hiện nay được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc tập quyền, nhằm đảm bảo “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”. Để khắc phục những khiếm khuyết của nguyên tắc tập quyền với mục đích thể hiện và thực hiện một cách đầy đủ hơn quyền lực nhân dân, có thể sử dụng những hạt nhân hợp lý của nguyên tắc phân quyền. Việc vận dụng đó phải có nguyên tắc để không làm cho bộ máy Nhà nước ta hoạt động lệch khỏi quỹ đạo của nguyên tắc tập quyền. 2. Hệ thống các cơ quan Nhà nước Để thể hiện những chức năng đối nội và đối ngoại, nhằm duy trì xã hội trong trật tự ổn định và phát triển, bất kỳ Nhà nước nào cũng phải thành lập một hệ thống cơ quan Nhà nước. Tùy thuộc vào tính chất và nội dung nhiệm vụ và các cơ quan Nhà nước có các hình thức tổ chức và hoạt động khác nhau. Tuy vậy so với các tổ chức xã hội, các cơ quan Nhà nước vẫn có những đặt điểm chung như sau: (Các cơ quan Nhà nước thay mặt cho Nhà nước và nhân danh Nhà nước để tiến hành các hoạt động trên nhiều lĩnh vực và ngành nghề khác nhau. Bởi vậy mọi hoạt động đúng sai của các cơ quan này, trách nhiệm trước hết thuộc về Nhà nước, sau đó Nhà nước mới truy cứu trách nhiệm tới những cơ quan hoặc viên chức đã trực tiếp gây ra những hành vi trái pháp luật và hậu quả tác hại. Nếu phải bồi thường vật chất cho các chủ thể bị hại thì Nhà nước đứng ra thực hiện hoặc giao trách nhiệm trực tiếp cho cơ quan có hoạt động vi phạm phải thực hiện sự bồi thường. (Các cơ quan Nhà nước bao giờ cũng có quyền lực Nhà nước, thể hiện trong việc ban hành các quyết định trên cơ sở ý chí của Nhà nước, thể hiện trong các văn bản pháp luật hiện hành mà không bị phụ thuộc vào sự nhất trí hay không nhất trí của các đương sự: những người có liên quan phải có trách nhiệm thực hiện những quyết định của cơ quan Nhà nước cụ thể. Đồng thời quyết định đó được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. (Các cơ quan Nhà nước thực hiện hoạt động của mình trên cơ sở pháp luật và trong phạm vi thẩm quyền do luật định. Thẩm quyền được hiểu là tổng thể các quyền và nghĩa vụ do Nhà nước trao, được ghi nhận trong các văn bản pháp luật phù hợp với chức năng, vị trí và vai trò của từng loại cơ quan trong bộ máy Nhà nước, sự phân định rõ ràng thẩm quyền của các cơ quan Nhà nước bảo đảm cho sự ổn định của cơ chế Nhà nước và sự phối hợp đồng bộ trong hoạt động giữa các cơ quan của bộ máy Nhà nước. Trong việc quy định thẩm quyền của các cơ quan Nhà nước không thể áp dụng nguyên tắc “cho phép làm tất cả những gì pháp luật không cấm”. Bởi vì việc thực hiện nguyên tắc này sẽ dẫn đến hậu quả là các viên chức nhà nước sẽ lợi dụng danh nghĩa, chức năng thẩm quyền của cơ quan Nhà nước để mưu cầu trục lợi cá nhân, để lạm dụng quyền cưỡng quyền và chiếm quyền. Thực tế chứng minh rằng cho phép vận dụng nguyên tắc trên hầu như không đưa lại hiệu quả trong hoạt động của Nhà nước mà chỉ làm cho Nhà nước mất uy tín trước nhân dân gây bất bình trong xã hội và làm chồng chéo trong thẩm quyền hoạt động giữa các cơ quan trên một lĩnh vực hoặc một ngành nghề nhất định. 29 30
  15. (Các cơ quan Nhà nước thực hiện sự quản lý đối với con người, tổ chức hoạt động vật chất và tinh thần cho con người. Các cơ quan Nhà nước có vai trò quản lý con người từ lúc sinh ra, tổ chức cho con người được học tập, được giáo dục theo ý của Nhà nước, quản lý con người trong việc cư trú, đi lại, trong làm ăn sinh sống, đặc biệt là khi con người ra khỏi lãnh thổ phải tuân theo những qui định chặt chẽ về xuất nhập cảnh của Nhà nước. Đối với người nước ngoài khi vào lãnh thổ của Nhà nước phải chấp hành những quy định của Nhà nước về cư trú đi lại và hoạt động nghiêm ngặt hơn công dân sở tại. Các cơ quan Nhà nước không trực tiếp sản xuất mà chỉ thông qua các quyết định của mình, tác động đến con người, tổ chức các hoạt động của con người và qua đó bảo đảm thực hiện các chức năng của Nhà nước. Hiện nay trên thế giới còn tồn tại nhiều hình thức Nhà nước khác nhau, có cấu tạo bộ máy Nhà nước cũng rất khác nhau nhưng nhìn chung có các loại cơ quan Nhà nước sau đây: a. Các cơ quan quyền lực Nhà nước (các nước tư bản chủ nghĩa gọi là cơ quan lập pháp) như: (Nghị viện (có nước gọi là Quốc hội), ở nước ta là Quốc Hội (Các cơ quan dân cử địa phương (một số nước không thiết lập các cơ quan này). Ở nước ta là Hội đồng nhân dân các cấp b. Các cơ quan quản lý Nhà nước (cơ quan hành pháp), gồm: (Chính phủ; (Các bộ quản lý chuyên ngành; (Các Ủy ban Nhà nước; (Các cơ quan khác trực thuộc chính phủ (văn phòng chính phủ, ban tổ chức Chính phủ ) (Hệ thống các cơ quan hành chánh ở địa phương : các cấp Ủy ban Nhân dân c. Hệ thống các cơ quan tư pháp (Tòa án tối cao; (ở nước ta là Tòa án nhân dân tối cao) (Tòa án các tỉnh, thành phố; (Tòa án nhân dân Tỉnh) (Tòa án các quận, huyện; (Tòa án nhân dân Huyện) d. Hệ thống các cơ quan kiểm sát (công tố) ( Viện kiểm sát (công tố) tối cao; (Viện kiểm sát nhân dân tối cao) ( Viện kiểm sát các tỉnh (công tố các tỉnh), thành phố; (Viện kiểm sát nhân dân Tỉnh, Thành phố) ( Viện kiểm sát (công tố) các quận, huyện. (Viện kiểm sát nhân dân quận huyện) e. Các lực lượng vũ trang như quân đội , cảnh sát : ( Có Nhà nước thì giao lực lượng này cho Chính phủ quản lý. ( Có Nhà nước thì Tổng thống trực tiếp quản lý và chỉ huy các lực lượng vũ trang. Toàn bộ các cơ quan này tạo thành bộ máy Nhà nước. Hoạt động của chúng nhằm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước. 3. Những nguyên tắc hoạt động của Nhà nước Nguyên tắc hoạt động là những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt mọi hoạt động của Nhà nước trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, mà trong hoạt động đối nội và đối ngoại đều phải quán triệt. Mỗi một Nhà nước phụ thuộc vào bản chất giai cấp, vào 31 32
  16. so sánh lực lượng giai cấp trong xã hội đồng thời căn cứ vào truyền thống dân tộc mà mỗi Nhà nước có những nguyên tắc hoạt động khác nhau. Đối với các Nhà nước bóc lột thì nguyên tắc hoạt động của Nhà nước bao giờ cũng phải tuân theo các nội dung và yêu cầu: (Bảo đảm địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền; (Bảo đảm duy trì chế độ bóc lột; (Trấn áp sự phản kháng của các giai cấp đối kháng và quần chúng lao động. Đối với các Nhà nước xã hội chủ nghĩa thì nguyên tắc hoạt động của bộ máy Nhà nước hoàn toàn đối lập, thể hiện bản chất dân chủ và nhân đạo, đó là nguyên tắc: (Bảo đảm sự lãnh đạo của giai cấp công nhân mà đại diện của nó là Đảng cộng sản trong mọi hoạt động của các cơ quan Nhà nước; (Nguyên tắc tập trung dân chủ; (Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý Nhà nước. IV. KIỂU NHÀ NƯỚC Kiểu Nhà nước là một khái niệm cơ bản có ý nghĩa quan trọng trong lý luận chung về Nhà nước và pháp luật. Để giúp chúng ta nhận thức một cách đầy đủ ý nghĩa về bản chất của Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử nhất định, lý luận Mác-Lênin về Nhà nước và pháp luật đã đưa ra khái niệm kiểu Nhà nước như sau: Kiểu Nhà nước là tổng thể những nét đặc thù cơ bản của Nhà nước, thể hiện bản chất giai cấp và những điều kiện tồn tại, phát triển của Nhà nước trong khuôn khổ một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Cơ sở để xác định kiểu Nhà nước là học thuyết Mác-Lênin về các hình thái kinh tế nhất định của xã hội có giai cấp. Tính chất của mỗi một hình thái kinh tế xã hội quy định những nét đặc thù cơ bản của một kiểu Nhà nước tương ứng. Trong lịch sử của xã hội có giai cấp đã từng tồn tại bốn hình thái kinh tế - xã hội gắn liền với bốn kiểu Nhà nước tương ứng là: (Hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ, có kiểu Nhà nước chủ nô; (Hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, có kiểu Nhà nước phong kiến; (Hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, có Nhà nước tư sản; (Trong hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, có Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Mỗi kiểu Nhà nước trên có những nét đặc thù riêng của nó. Những nét đặc thù đó được biểu hiện ở chỗ Nhà nước nằm trong tay giai cấp nào, phục vụ lợi ích của giai cấp nào? Mặc dù Nhà nước chủ nô, phong kiến và tư sản có những nét đặc thù khác nhau, nhưng chúng đều là kiểu Nhà nước bóc lột, được xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Nhà nước bao giờ cũng nằm trong tay giai cấp nắm hầu hết các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, các giai cấp này sử dụng Nhà nước làm công cụ để bảo vệ chế độ tư hữu và mọi tài sản khác của chúng, đồng thời đàn áp không khoan nhượng các giai cấp khác đối kháng với chúng. Nhà nước xã hội chủ nghĩa nằm trong tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đó là kiểu Nhà nước có bản chất hoàn toàn khác với các kiểu Nhà nước bóc lột và là kiểu Nhà nước cao nhất trong lịch sử. Sứ mệnh lịch sử của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là xây dựng một xã hội không có giai cấp, xoá bỏ mọi hình thức bóc lột. Sau khi hoàn thành sứ mệnh đó, Nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ tự tiêu vong cùng với sự biến mất của các điều kiện làm cho Nhà nước xuất hiện. 33 34
  17. Sự thay thế kiểu Nhà nước này bằng một kiểu Nhà nước khác tiến bộ hơn là một quy luật tất yếu. Quy luật về sự thay thế các kiểu Nhà nước phù hợp với quy luật về sự phát triển và thay thế của hình thái phát triển kinh tế - xã hội. Cách mạng xã hội là con đường dẫn đến sự thay thế đó. Nhà nước mới sẽ xuất hiện trong quá trình cách mạng khi giai cấp cầm quyền cũ đã bị lật đổ và giai cấp thống trị mới đã giành được chính quyền. Các cuộc cách mạng khác nhau diễn ra trong lịch sử điều tuân theo quy luật đó: Nhà nước phong kiến thay thế Nhà nước chủ nô, Nhà nước tư sản thay thế Nhà nước phong kiến, Nhà nước xã hội chủ nghĩa thay thế Nhà nước tư sản. V. HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC Hình thức Nhà nước là một vấn đề mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng. Kết quả của việc tiến hành thống trị vế chính trị phụ thuộc phần lớn vào việc giai cấp thống trị tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nước theo hình thức nào? Hình thức Nhà nước là cách thức tổ chức Nhà nước và những phương pháp hoạt động của Nhà nước trong việc quản lý xã hội. Nó có vai trò quan trọng trong việc thực hiện sự thống trị giai cấp và chức năng xã hội của Nhà nước. Các Nhà nước khác nhau có hình thức khác nhau, hình thức Nhà nước chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Yếu tố quan trọng nhất là tương quan lực lượng giữa các giai cấp trong xã hội. Đấu tranh giai cấp trong xã hội có vai trò quyết định trong việc hình thành và xác lập hình thức Nhà nước. Ngoài ra các yếu tố như truyền thống dân tộc, tập quán lịch sử, tình hình quốc tế, cũng có ảnh hưởng quan trọng đến việc hình thành hình thức của một Nhà nước cụ thể. Hình thức Nhà nước là một khái niệm chung được hình thành từ hai yếu tố cụ thể sau: hình thức chính thể, hình thức cấu trúc Nhà nước. 1. Hình thức chính thể Là cách thức và trình tự lập ra các cơ quan tối cao của Nhà nước, mối quan hệ qua lại của chúng với nhau và mức độ tham gia của nhân dân vào quá trình hình thành những cơ quan đó. Hình thức chính thể nói lên sự tổ chức quyền lực Nhà nước tối cao. Trong lịch sử phát triển của xã hội, đã xuất hiện hai hình thức chính thể cơ bản là: chính thể quân chủ và chính thể cộng hòa. a. Chính thể quân chủ: Là hình thức mà trong đó quyền lực tối cao của Nhà nước tập trung trong tay một người theo nguyên tắc thừa kế kiểu cha truyền con nối. (Hình thức chính thể quân chủ cũng có nhiều loại như: hình thức quân chủ tuyệt đối và hình thức quân chủ lập hiến (quân chủ hạn chế) (Hình thức quân chủ tuyệt đối là hình thức chính thể mà trong đó toàn bộ quyền lực thuộc về nhà vua, không có hiến pháp. Các Nhà nước phong kiến đều có hình thức chính thể này. (Hình thức quân chủ lập hiến là chính thể mà trong đó vẫn tồn tại ngôi vua, nhưng đồng thời có hiến pháp do nghị viện lập ra nhằm hạn chế quyền lực của nhà vua và giai cấp phong kiến. Tùy thuộc vào mức độ hạn chế quyền lực của nhà vua và sự phân quyền cho nghị viện mà có thể chia chính thể này thành hai loại: chính thể quân chủ nhị nguyên và chính phủ quân chủ đại nghị. - Chính thể quân chủ nhị nguyên là chính thể phần chia song phương quyền lực giữa nhà vua và nghị viện. Trong đó nghị viện nắm quyền lập pháp, nhà vua nắm quyền hành 35 36
  18. pháp. Chính thể này đã từng xuất hiện ở Nhật và Đức vào cuối thế kỷ XIX. Hiện nay chính thể quân chủ nhị nguyên không còn tồn tại nữa. - Chính thể quân chủ đại nghị là chính thể trong đó quyền lực nhà vua thực tế không tác động tới hoạt động lập pháp và rất hạn chế trong lĩnh vực hành pháp. Chính thể này tồn tại ở nhiều nước tư bản như : Anh, Bỉ, Hà Lan, Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy, Nhật Bản ở các nước đó, hầu như vai trò của nhà vua không có quyền lực, cũng như trách nhiệm gì đáng kể trong hệ thống chính trị. b. Chính thể cộng hòa : Là chính thể trong đó quyền lực tối cao của Nhà nước thuộc về một cơ quan được bầu ra trong thời gian nhất định, hoạt động mang tính tập thể. Chính thể cộng hòa cũng có hai hình thức chính là: cộng hòa dân chủ và cộng hòa quý tộc. Trong chính thể cộng hòa dân chủ, pháp luật quy định cho các tầng lớp nhân dân lao động được tham gia bầu cử để lập ra cơ quan đại diện cho Nhà nước như quốc hội hoặc nghị viện. Chính thể cộng hòa ở các nước tư bản chủ nghĩa còn có hai biến dạng là: Cộng hòa tổng thống và cộng hòa đại nghị (Vấn đề này được nêu rõ hơn ở chương Nhà nước và pháp luật tư sản). Trong chính thể cộng hòa quý tộc, pháp luật chỉ ghi nhận quyền bầu cử ra các cơ quan tối cao của Nhà nước là của riêng tầng lớp quý tộc giàu có đông đảo nhân dân lao động không được coi là công dân và không được quyền tham gia các sinh hoạt chính trị. Chính thể cộng hòa quý tộc tồn tại trong các kiểu Nhà nước chủ nô và phong kiến. 2. Hình thức cấu trúc Nhà nước Hình thức cấu trúc Nhà nước là sự cấu tạo Nhà nước thành nhiều đơn vị hành chính lãnh thổ và xác lập những mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan Nhà nước, giữa trung ương với địa phương. Trên thế giới có hai hình thức cấu trúc Nhà nước chủ yếu là hình thức Nhà nước đơn nhất và hình thức Nhà nước liên bang. a. Nhà nước đơn nhất (đơn bang) Là Nhà nước có chủ quyền chung, có hệ thống cơ quan quyền lực và quản lý thống nhất từ Trung ương xuống địa phương và các đơn vị hành chính lãnh thổ gồm: tỉnh (thành phố), huyện (quận), xã (phường) Trong Nhà nước đơn nhất chỉ có một hiến pháp và một hệ thống pháp luật thống nhất, các cơ quan quản lý của các đơn vị hành chính lãnh thổ hoạt động theo một hệ thống pháp luật chung của Nhà nước, trực thuộc và chịu trách nhiệm trước cơ quan quyền lực và cơ quan quản lý Nhà nước ở trung ương. b. Nhà nước liên bang: Là Nhà nước có hai hay nhiều nước thành viên họp lại với nhau. Trong Nhà nước liên bang có hai hệ thống cơ quan quyền lực và cơ quan quản lý Nhà nước: một hệ thống chung cho toàn liên bang và một hệ thống riêng trong mỗi nước thành viên. Có chủ quyền quôc gia chung của liên bang, đồng thời mỗi nước thành viên lại có chủ quyền riêng. Cùng tồn tại với hiến pháp và hệ thống pháp luật chung của Nhà nước liên bang còn có hiến pháp và hệ thống pháp luật riêng của mỗi nước thành viên, trong đó hiến pháp và hệ thống pháp luật của Nhà nước liên bang có tính nguyên tắc và có hiệu lực tối cao. Nhà nước Mỹ, Ấn Độ, liên bang Nga, Cộng hòa liên bang Đức, Malaixia, Úc là các Nhà nước liên bang đang tồn tại. 37 38
  19. Trong lịch sử đã từng xuất hiện một loại hình đặc biệt về Nhà nước, đó là Nhà nước liên minh, đây là sự liên kết tạm thời của nhiều Nhà nước nhằm thực hiện một số mục đích nhất định của lịch sử đặt ra, các nước cùng thống nhất lập ra một số cơ quan đặc biệt để giải quyết các mục tiêu và lợi ích chung, sau khi đã đạt được một số kết quả và mục đích đặt ra, Nhà nước liên minh có thể giải tán hoặc chuyển thành Nhà nước liên bang. Chẳng hạn: Hoa Kỳ từ năm 1776 cho đến 1787 là hình thức Nhà nước liên minh, sau đó chuyển thành Nhà nước liên bang có cấu trúc bền vững hơn, các mối quan hệ về hành chính, chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quân sự v v bền chặt hơn giai đoạn Nhà nước liên minh. 39 40
  20. Chương II NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT I. KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT 1. Nguồn gốc và bản chất của pháp luật. Nhiệm vụ của bất kỳ Nhà nước nào cũng là xác lập và bảo đảm thực hiện những qui tắc xử sự để phục vụ yêu cầu và lợi ích của giai cấp cầm quyền, do đó nội dung của pháp luật do Nhà nước xác lập suy cho cùng là những quan hệ giai cấp quyết định chứ không phải là do Nhà nước quyết định một cách tùy tiện. Trong đời sống xã hội, pháp luật luôn luôn là qui tắc xử sự chung cho mọi người, do Nhà nước xác lập và bảo đảm thực hiện nhằm bảo vệ lợi ích của một giai cấp nhất định. Cũng giống như Nhà nước pháp luật là một bộ phận quan trọng của thượng tầng kiến trúc trong xã hội có giai cấp. Pháp luật luôn thể hiện ý chí của giai cấp thống trị. Trong tuyên ngôn của Đảng cộng sản Mác và Ăngghen đã chỉ rõ: Pháp luật tư sản là ý chí của giai cấp tư sản được đề lên thành luật. Nội dung của ý chí đó là do điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp tư sản quyết định. Luận điểm đó đã được thực tiễn chứng minh là chính xác. Như vậy những nguyên nhân kinh tế, chính trị của xã hội làm nhà nước ra đời; cũng chính là những nguyên nhân làm cho pháp luật ra đời khi có nhà nước thì có pháp luật. Trong khi phân tích bản chất và cơ sở vật chất của pháp luật, Mác và Ăngghen đã chứng minh rằng pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp. Bản chất của pháp luật thể hiện ở tính giai cấp của nó, không có pháp luật tự nhiên hay pháp luật phi giai cấp theo như quan điểm của các học giả tư sản. Tính giai cấp của pháp luật chủ nô và pháp luật phong kiến được biểu hiện một cách công khai, rõ rệt. Quyền hành vô hạn của các chủ nô, tình trạng vô quyền của người nô lệ và những đặc quyền đặc lợi của quí tộc phong kiến được pháp luật tuyên bố công khai và bảo đảm thực hiện trọn vẹn. Ngược lại giai cấp tư sản khi nắm quyền thống trị luôn luôn tìm cách che dấu bản chất giai cấp trong pháp luật tư sản. Họ dùng chiêu bài “tự do, bình đẳng, bác ái” để tuyên truyền rằng pháp luật tư sản thể hiện và bảo vệ lợi ích của mọi người trong xã hội nhưng thực tế trong xã hội tư bản còn đầy rẫy những bất công và hiện tượng người bóc lột người tinh vi, nham hiểm. Lợi ích của các tập đoàn tư bản và toàn thể giai cấp tư sản không thể chấp nhận sự hòa hợp về quyền lợi và hoàn cảnh với những người làm thuê được, tất yếu họ phải dùng thế và lực đặc biệt là sử dụng công cụ Nhà nước và những qui định trong hệ thống pháp luật để bảo vệ cho địa vị thống trị và tất cả những lợi ích khác của các tập đoàn tư bản và toàn thể giai cấp tư sản đồng thời sử dụng các công cụ và phương tiện đó làm vũ khí đầy hiệu lực để trấn áp sự phản kháng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là công cụ để xây dựng một xã hội mới không có áp bức bóc lột, không có sự thống trị giai cấp. Từ những luận điểm trên có thể nêu khái niệm pháp luật như sau: pháp luật là hệ thống các qui tắc xử sự do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội. 41 42
  21. Thực vậy pháp luật của bất kỳ Nhà nước nào cũng có nhiệm vụ điều chỉnh các quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy pháp luật là nhân tố để điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xã hội nhằm hướng các quan hệ xã hội phát triển theo một trật tự phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị nhằm bảo vệ và củng cố địa vị của giai cấp thống trị, vì vậy có thể nói pháp luật là công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp. Nhưng ta không phủ nhận tính xã hội của pháp luật. Bởi vì ở mức độ nhất định pháp luật vẫn thể hiện ý chí và lợi ích của đông đảo quần chúng trong xã hội nhằm phát triển những công trình phúc lợi chung, duy trì những tinh hoa văn hóa của quốc gia, dân tộc, để phục vụ mục đích chống ngoại xâm, để khắc phục những hậu quả do thiên nhiên bất ngờ gây ra cho xã hội Trong những hoàn cảnh đó pháp luật do Nhà nước đại diện chính thức của toàn xã hội ban hành để trước hết bảo vệ những lợi ích chung của xã hội nên pháp luật cũng mang tính chất xã hội rõ rệt. Đặc biệt đối với pháp luật xã hội chủ nghĩa nó thể hiện ý chí và lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động phù hợp với lợi ích của nhiều tầng lớp nhân dân lao động và lợi ích chung của xã hội . Do vậy pháp luật xã hội chủ nghĩa mang tính chất xã hội rõ nét hơn. Trong quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật các giai cấp cầm quyền luôn tạo cho pháp luật một khả năng thích ứng, làm cho nó tựa hồ như thể hiện ý chí và lợi ích của đông đảo quần chúng trong xã hội. Bất cứ giai cấp thống trị nào cũng dùng pháp luật làm phương tiện để thực hiện đường lối chính trị và mục tiêu lý tưởng của giai cấp mình. Nhưng pháp luật không phải là phương tiện duy nhất. Cùng với pháp luật giai cấp thống trị còn sử dụng nhiều phương tiện khác, như văn học nghệ thuật, quy phạm chính trị xã hội, các tín điều tôn giáo Nhưng pháp luật luôn là phương tiện quan trọng và có hiệu lực nhất bởi vì pháp luật có những đặc điểm đặc biệt, mà các quy phạm xã hội khác không có, đó là : (Pháp luật do Nhà nước ban hành cho nên pháp luật có phạm vi tác động rộng lớn nhất, ảnh hưởng đến tất cả mọi người và tổ chức trong xã hội. (Pháp luật được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế nghiêm ngặt, với hệ thống tổ chức và những cơ sở vật chất đầy hiệu lực, bắt buộc mọi chủ thể phải thực hiện. 2. Những thuộc tính của pháp luật Thông qua việc nghiên cứu bản chất của pháp luật, chúng ta có thể rút ra những thuộc tính cơ bản sau đây: a. Pháp luật có tính quy phạm Trong hoạt động quản lý xã hội bất kỳ giai cấp nào ở địa vị thống trị cũng mong muốn bảo đảm cho xã hội có sự trật tự và ổn định. Nhưng trong xã hội, những người thuộc các giai cấp khác nhau lại có những cách xử sự không giống nhau trong các quan hệ xã hội nhất định. Giai cấp thống trị tìm mọi cách hướng dẫn hành vi xử sự của con người trong từng quan hệ cụ thể sao cho phù hợp với lợi ích của họ. Thông qua pháp luật, giai cấp thống trị biến ý chí của mình thành các quy tắc có tác dụng như những khuôn mẫu để giới hạn và uốn nắn hành vi của mọi người trong xã hội. Pháp luật qui định cho mỗi người trong những trường hợp cụ thể, phải xử sự theo những yêu cầu nhất định. Con người trong xã hội có pháp luật luôn phải định hướng xem trọng từng quan hệ xã hội mình được làm gì và không được làm gì, nhà nước bắt buộc mình phải làm như thế nào, nếu làm trái sẽ chịu những hậu quả bất lợi nào? Bằng những yêu cầu trên, pháp luật ràng buộc từng người trong xã hội phải xử sự theo những khuôn mẫu nhất định, đưa toàn bộ hoạt động của xã hội vào một trật tự mà giai cấp thống trị yêu 43 44
  22. cầu mọi người phải phục tùng. Bất cứ nhà nước nào muốn tồn tại cũng phải đề ra những qui tắc xử sự chung để điều chỉnh những quan hệ xã hội phát triển theo hướng có lợi cho giai cấp thống trị. Tính quy phạm của pháp luật, tức là thể chế hoá những yếu tố mang tính điển hình, có khả năng làm mô hình để hướng dẫn hành vi theo những “hành lang” được Nhà nước giới hạn. Vì vậy cái tất yếu đã được hình thành, vô số sự ngẫu nhiên đã trở nên ổn định. Nhờ có tính quy phạm - điển hình mà pháp luật trở nên có giá trị to lớn với tư cách là cơ sở về mặt hình thức tồn tại của các thiết chế xã hội. Bởi thế mà ngày nay chúng ta đang khẩn cấp xây dựng một xã hội Pháp chế, một nhà nước pháp quyền, trong đó mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội được bảo đảm bằng pháp luật và trên cơ sở pháp luật, làm cho xã hội tránh được những nhân tố ngẫu nhiên, tự phát. Vì vậy cần tăng cường pháp luật, sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội. b. Pháp luật có tính cưỡng chế Cưỡng chế là một tính chất cơ bản của pháp luật nói chung. Nhờ có tính cưỡng chế bắt buộc, làm cho pháp luật nhà nước trở nên có sức mạnh và đây cũng là điểm khác cơ bản với đạo đức và phong tục, các quy phạm này được con người tuân theo chủ yếu nhờ sự tự giác, nhờ lòng tin xuất phát từ khả năng hiểu biết và sự lên án của dư luận xã hội. Còn quy phạm pháp luật được nhà nước bảo đảm thi hành nếu ai không chấp hành những nghĩa vụ pháp luật thì nhà nước sẽ cưỡng chế thị hành bằng các biện pháp hữu hiệu từ thuyết phục, răn đe, ngăn chặn cho tới những biện pháp kinh tế và bạo lực. Mọi sự cưỡng chế ở dây được thực hiện trên cơ sở pháp luật, trong khuôn khổ pháp luật qui định và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành. Tính cưỡng chế của pháp luật không chỉ nhằm răn đe, trừng trị mà còn có tác dụng giáo dục rất sâu rộng đối với các chủ thể pháp luật và những người khác trong xã hội. Bản thân quy phạm pháp luật là những chuẩn mực để con người rèn luyện ý chí công dân, hình thành ý thức pháp luật, tạo cho mỗi công dân một khả năng tư duy pháp lý, tránh được những ngẫu nhiên tùy tiện, coi thường pháp luật Nhà nước. c. Pháp luật có tính khách quan Đây là đặc tính nổi bật nhất của pháp luật. Tính khách quan bắt nguồn từ tính chất xã hội của pháp luật. Khi lịch sử xã hội đã hình thành các quan hệ nhân thân, quan hệ dân sự, quan hệ tư hữu, thì nhu cầu về bình đẳng, bình quyền trở nên bức xúc, đòi hỏi phải có những hình thức pháp luật tương ứng để duy trì những quan hệ văn minh ấy. Tuy nhiên phải xét đến cùng để thấy được rằng chính những đạo luật và những quy định khác ra đời và tác động vào cuộc sống xã hội không phải phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của giai cấp cầm quyền mà bởi các mối quan hệ khách quan đã tạo nên các quan niệm, quan điểm của giai cấp thống trị. Chẳng hạn trong xã hội tư bản pháp luật đã trở thành đại lượng phản ánhsự bình đẳng về sở hữu đã tạo điều kiện cho các quan hệ có liên quan phát triển trong đó bản thân các quan hệ xã hội về sở hữu tự chúng đã vạch lối đi của mình theo qui luật nội tại. Trên thực tế nếu nhu cầu và tính chất của các quan hệ xã hội trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể không được các quy phạm pháp luật phản ánh đúng đắn thì bản thân cuộc sống sẽ không cần đến những văn bản pháp luật ấy. Chúng ta đã chứng kiến nhiều qui định đã được ban hành rồi mà vẫn không thể thực thi, thậm chí không ai biết đến bởi vì những nhu cầu khách quan của xã hội chưa đòi hỏi việc hình thành pháp luật thì pháp luật không thể sáng tạo ra các quan hệ xã hội. Chỉ có trên cơ sở sự chín muồi 45 46
  23. về nhu cầu khách quan trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội v.v đã tạo ra khuôn mẫu, mô hình, đòi hỏi sự ra đời của pháp luật, đó là chân lý khách quan. Thông qua việc xác lập trình tự và phương pháp điều chỉnh, pháp luật tạo điều kiện cho các quan hệ xã hội đó phát triển và bảo đảm cho các quan hệ hoạt động đúng pháp luật, phù hợp với lợi ích, tiến bộ là thiên chức của pháp luật. Nếu không kịp thời thể chế hóa những nhu cầu phát sinh theo hướng tiến bộ đó của các quan hệ xã hội thì nó có thể bị thui thột, bị kìm hãm. Do đó nếu hiểu khả năng tác động của pháp luật vào xã hội thì có thể hiểu trong khuôn khổ của qui luật khách quan. Kinh nghiệm của thực tiễn xây dựng pháp luật ở nước ta và nhiều nước trên thế giới cho thấy rằng : khi nào một đạo luật mang tính khách quan, tính hợp pháp và tính công bằng, đó cũng chính là sự thể hiện các tinh thần cơ bản của pháp luật, thì sẽ có những văn bản pháp luật tốt, điều chỉnh một cách có hiệu quả sự phát triển của các quan hệ xã hội. Ngược lại, sự chủ quan, duy ý chí hoặc chậm trễ trong việc thể chế hóa sẽ làm cho pháp luật kém hiệu quả, thậm chí làm phát sinh các hiện tượng tiêu cực. d. Tính chất Nhà nước của pháp luật Tính chất này thể hiện rõ nét nhất tính chất giai cấp của pháp luật. Tính giai cấp phải được thể hiện thông qua pháp luật, nhằm phản ánh các lợi ích giai cấp thống trị và nó còn được thể hiện qua khả năng của Nhà nước trong việc phản ánh kịp thời và đầy đủ các lợi ích đó, nhưng pháp luật và Nhà nước luôn thống nhất với nhau : Nhà nước nào có pháp luật ấy. Pháp luật là cơ sở để duy trì bản chất của Nhà nước. Bản chất Nhà nước vừa là công cụ tổ chức của giai cấp, vừa là hình thức thực hiện quyền lợi xã hội công khai. Tính chất đó của Nhà nước tất yếu chỉ có thể được biểu hiện bằng những đại lượng có khả năng thể hiện sự phổ biến và công khai - đó là pháp luật. Nhà nước chỉ có thể thể hiện được ý chí, phổ biến và uy quyền công khai của mình qua một loại đại lượng có tính phổ biến, có tính bắt buộc chung. Do đó không thể tách rời yếu tố pháp luật ra yếu tố Nhà nước. Mục đích của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền là nhằm tránh những sai lầm đó. e. Tính hệ thống và ổn định Pháp luật trong một Nhà nước cụ thể bao giờ cũng do cơ sở kinh tế quyết định, có sự tác động, ảnh hưởng trực tiếp của hệ tư tưởng chủ đạo của giai cấp đang nắm quyền thống trị cũng như chế độ chính trị trong Nhà nước đó. Hệ thống pháp luật thống nhất trong một Nhà nước thể hiện ở trật tự thứ bậc của các văn bản pháp luật. Căn cứ vào hiệu lực của chúng từ Hiến pháp, đến các đạo luật, đến các văn bản pháp qui dưới luật. Nhà nước nào cũng lấy Hiến pháp và các đạo luật làm căn cứ để ban hành các văn bản pháp qui của các lĩnh vực, các ngành và các cấp địa phương, Nhà nước không có phép các lãnh thổ địa phương của mình ban hành những văn bản pháp qui trái với các đạo luật ở trung ương. Các Nhà nước, trong quá trình thực hiện sứ mạng của mình bao giờ cũng muốn xây dựng được hệ thống pháp luật phản ánh kịp thời những gì đã chín muồi đối với xã hội, không để xảy ra tình trạng lạc hậu bảo thủ của pháp luật, và cũng không muốn tạo ra sự thay đổi quá thường xuyên của pháp luật sẽ làm mất ổn định cho sự vận hành theo qui luật của các sự vật hiện tượng mà Nhà nước xét thấy phải duy trì để bảo đảm sự tồn tại của Nhà nước. Mặt khác do có sự bảo thủ của hệ tư tưởng thống trị và nhất là sự ổn định của cơ sở kinh tế - xã hội trong một Nhà nước và các mối quan hệ đa dạng trong xã hội cụ thể đó mang tính ổn định phù hợp với chế độ chính trị trong Nhà nước đã tác động tới hệ thống pháp luật cũng ổn định theo một cách tương đối. Chỉ khi nào lợi ích 47 48
  24. của giai cấp thống trị bị đụng chạm, hệ thống pháp luật mới có sự điều chỉnh cần thiết để bảo đảm duy trì các lợi ích đó trong một trạng thái ổn định mới. II. CHỨC NĂNG CỦA PHÁP LUẬT Bản chất giai cấp và giá trị xã hội của pháp luật được biểu hiện qua chức năng của pháp luật. Chức năng của pháp luật là những phương diện, mặt tác động chủ yếu của pháp luật. Với tư cách là công cụ chủ yếu của giai cấp thống trị để quản lý xã hội, pháp luật của bất kỳ Nhà nước nào cũng có ba chức năng cơ bản là: chức năng điều chỉnh, chức năng bảo vệ và chức năng giáo dục. 1. Chức năng điều chỉnh Pháp luật điều chỉnh, tức là sự tác động của các quy phạm pháp luật của một Nhà nước cụ thể vào các quan hệ xã hội đương thời để hướng cho các chủ thể tham gia các quan hệ đó phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo ý chí và lợi ích của giai cấp thống trị, nếu làm trái với yêu cầu và mệnh lệnh của Nhà nước chủ thể đó phải gánh chịu những hậu quả pháp lý nhất định. Nhưng không phải mọi quan hệ xảy ra trong xã hội đều bị pháp luật điều chỉnh mà chỉ những quan hệ xã hội quan trọng Nhà nước xét thấy cần tác động, điều chỉnh cho nó phát triển theo hướng có lợi cho giai cấp thống trị. Các đối tượng điều chỉnh thường được Nhà nước xắp xếp, tổ chức theo những qui tắc và trật tự nhất định. Nhờ vào chức năng điều chỉnh của pháp luật mà quyền lực Nhà nước được thực hiện, giai cấp thống trị thực hiện được mục tiêu, lý tưởng và bảo vệ được lợi ích của giai cấp mình trước sự đối kháng giai cấp xảy ra phổ biến trong các kiểu Nhà nước. 2. Chức năng bảo vệ Pháp luật bảo vệ, tức là sự răn đe, ngăn chặn và xử lý mọi khả năng vi phạm hoặc hành vi vi phạm tới các quan hệ mà giai cấp thống trị đã xác lập hoặc duy trì trong xã hội. Nó đảm bảo cho các quan hệ xã hội không bị xâm hại bất luận từ hướng nào, bảo đảm cho sự phát triển bình thường và khả năng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia các quan hệ đó được thuận lợi không bị cản trở. Trung tâm của chức năng bảo vệ là vấn đề ngăn chặn và xử lý những hiện tượng vi phạm pháp luật. Để đảm bảo chức năng này Nhà nước nào cũng phải ban hành một hệ thống pháp luật có chế tài nghiêm khắc và qui định đối tượng áp dụng của chế tài là những vi phạm cụ thể có thể qui định rõ mức độ hậu quả tác hại của vi phạm phải chịu cưỡng chế theo chế tài. Ngoài ra pháp luật còn qui định rõ các loại phạt vi phạm, mức độ nào cần xử phạt, trật tự xét và quyết định cưỡng chế, biện pháp xử phạt và cách thức thi hành các quyết định cưỡng chế trong đó pháp luật qui định cụ thể thẩm quyền của các cơ quan thực hiện các biện pháp ngăn chặn và xử phạt đó là các cơ quan chuyên trách bảo vệ pháp luật như : Cảnh sát, Tòa án, công bố và thanh tra. Trong pháp luật nước ta có qui định cho các cơ quan hành chính Nhà nước các cấp, các cơ quan chuyên môn của một số bộ, ngành cũng có chức năng xử phạt hành chính. Thủ trưởng các cơ quan Nhà nước, giám đốc các cơ quan xí nghiệp và người đứng đầu các cơ quan sự nghiệp có thẩm quyền xử lý kỷ luật lao động, kỷ luật Nhà nước theo qui định của pháp luật chính là thực hiện chức năng bảo vệ của pháp luật. 3. Chức năng giáo dục Trong các văn bản pháp luật Nhà nước có chứa đựng các thông tin quy phạm thể hiện yêu cầu và mệnh lệnh của Nhà nước các biện pháp cưỡng chế đối với hành vi phạm pháp. Khi pháp luật ban hành bằng các biện pháp tuyên truyền qua các phương 49 50
  25. tiện thông tin, qua truyền miệng giữa các cá nhân hoặc qua hoạt hoạt động thực tiễn của các cơ quan thi hành và áp dụng pháp luật đã tác động vào ý thức của con người. Trong xã hội, đa số quần chúng đều muốn sống ổn định, trật tự theo yêu cầu của Nhà nước, họ hành động phù hợp với các qui định của pháp luật. Ngay cả những trường hợp của Nhà nước xử lý các hành vi vi phạm pháp luật cũng có ý nghĩa giáo dục phòng ngừa: những con người trực tiếp bị cưỡng chế theo chế tài pháp luật qua áp dụng các biện pháp phạt, chính pháp luật đã buộc họ phải tiếp nhận một bài học sâu sắc khi buộc họ phải chịu những thiệt hại về vật chất, về tự do và danh dự, việc xử lý này cũng có tác dụng trong giáo dục những người khác ở xung quanh thái độ tôn trọng pháp luật, hiểu được tính nghiêm khắc và những yêu cầu của pháp luật Nhà nước. III. NHỮNG GIÁ TRỊ XÃ HỘI CỦA PHÁP LUẬT Pháp luật được hình thành trong những điều hiện lịch sử nhất định, do cơ sở kinh tế quyết định, nhưng chính sự xuất hiện của pháp luật đã tạo điều kiện cho loài người tổ chức đời sống xã hội ngày càng ổn định, trật tự hơn, các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ngày càng khoa học hơn tạo điều kiện cho con người ngày càng phát triển tự do và toàn diện hơn. Chính sự hiện diện của pháp luật trong lịch sử xã hội cũng như các văn bản pháp luật cụ thể trong từng quốc gia là kết quả sự lựa chọn “lựa chọn tự nhiên” của các hành vi trong xã hội, bởi vì pháp luật có tính khách quan, tính điển hình từ đó giúp ta thông qua nghiên cứu pháp luật và quá trình thực hiện pháp luật mà kiểm nghiệm các quá trình xã hội từ đó có những điều chỉnh cần thiết. Pháp luật là yếu tố điều chỉnh có hiệu quả nhất, thông qua đó nó bảo đảm cho các chủ thể pháp luật được ngang quyền với nhau trong việc thực hiện hành vi và trách nhiệm trong các quan hệ xã hội. Chẳng hạn việc quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong các quan hệ dân sự, quan hệ kinh tế, xác định năng lực pháp lý, năng lực hành vi và nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Chính pháp luật là đại lượng, là tiêu chuẩn xác định cho mọi cá nhân trong xã hội đều bình đẳng; trong hoạt động kinh tế pháp luật cũng đảm bảo cho các thành phần kinh tế được bình đẳng với nhau. Pháp luật còn là thước đo quyền bình đẳng trong mối quan hệ giữa các bộ phận của hệ thống chính trị trong xã hội; tức là các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng đều phải tuân theo pháp luật về thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật để thiết lập các mối quan hệ giữa đảng chính trị với Nhà nước, giữa Nhà nước với các tổ chức xã hội, giữa các cấp trên với cơ quan cấp dưới v.v pháp luật còn tạo ra mối quan hệ bình đẳng giữa công dân với chính quyền của mình. Nhờ có pháp luật mà Nhà nước mới thực sự là “của dân, do dân và vì dân”, tạo nên các nguyên tắc dân chủ, công khai, bình đẳng để nhân dân sử dụng quyền lực của mình, thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ pháp lý trong các mối quan hệ với Nhà nước, xã hội và gia đình. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay Nhà nước đang chuyển nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường với nhiều thành phần, với cơ chế đó đòi hỏi sự công bằng, sự bình đẳng, khả năng tự quản và tính tổ chức rất cao, chỉ có cơ chế Nhà nước pháp quyền mới có thể đáp ứng được những đòi hỏi khách quan đó. Pháp luật không chỉ là yếu tố điều chỉnh xã hội mà còn là căn cứ để nhn thức và đánh giá xã hội bởi vì pháp luật có tính mô hình, ổn định thông qua nội dung của các đạo luật của các thời đại trước còn lưu lại mà chúng ta có thể hình dung được những đặc trưng của từng giai đoạn trong lịch sử nhân loại. Trên cơ sở tính quy phạm, tính hệ thống ổn định ta có thể căn cứ vào pháp luật để đánh giá được sự phát triển của các quan hệ xã hội trong quá khứ, nhận xét được ưu, khuyết điểm của phương thức tổ 51 52
  26. chức Nhà nước, tổ chức nền kinh tế và thiết chế xã hội của các Nhà nước cụ thể đã xuất hiện trong lịch sử. Bởi vì mỗi xã hội đều có những giai cấp cơ bản đặc trưng và những quy phạm xã hội về đạo đức, tôn giáo và pháp luật, trong đó có các chuẩn mực cho hành vi pháp lý. Từ pháp luật để nghiên cứu xã hội, nghiên cứu lịch sử Nhà nước thực tế đã cho chúng ta nhiều tri thức quí báu, có giá trị khoa học rất cao. Chẳng hạn: qua các quy phạm hình sự trong luật 12 bảng của La mã cổ đại chúng ta có thể hình dung ra khuôn mẫu hành vi của xã hội đương thời, qua đó thấy được những điều mà Nhà nước cấm đoán, những hành vi cho phép là những điều cần cho xã hội khác với tội phạm, mức độ tàn bạo của hình phạt từ đó có nhận định chính xác về mức độ đối kháng giai cấp, địa vị pháp lý của các giai cấp trong xã hội đương thời, có kết luật khoa học, đó là Nhà nước chủ nô, hay người nô lệ không có quyền con người họ chỉ là công cụ lao động biết nói. Cơ sở chứng minh cho nhận định trên có giá trị thuyết phục cao nhất là nội dung các điều luật qui định về việc mua bán nô lệ, trừng phạt nô lệ khi cải lại chủ. Giá trị xã hội và điều có ý nghĩa trực tiếp nhất của pháp luật là khả năng truyền thụ thông tin quy phạm và định hướng hành vi cho mọi người trong xã hội. Thông qua các văn bản pháp luật Nhà nước thông báo những quan điểm chính thức của mình và khuôn mẫu hành vi, về tiêu chuẩn và mô hình giải quyết các vấn đề đặt ra trong xã hội về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Thông qua pháp luật con người biết được yêu cầu và giới hạn của hành vi trong khi tham gia một quan hệ xã hội cụ thể, pháp luật của xác định rõ hậu quả pháp luật có thể xảy ra trong chế tài pháp luật. Khi một văn bản pháp luật được chính thức ban hành nó đã truyền đạt cho con người một lượng thông tin về những khả năng khác nhau của hành vi, tác động vào ý thức con người, từ đó con người tự định hướng hành vi, điều chỉnh và kiểm tra hành vi. Nhưng mỗi con người có hành vi không giống nhau bởi vì hành vi con người ngoài yêu cầu của pháp luật nó còn bị ảnh hưởng bởi kinh nghiệm sống, tình cảm cá nhân, nhu cầu bản thân, khả năng trí tuệ và mức độ nghiêm khắc của ý chí từng con người cụ thể rất khác nhau. Nhưng dù sao thì vai trò và giá trị của những lượng thông tin pháp luật ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật của xã hội cũng không nhỏ, trong đó phải kể đến thông tin pháp luật thông qua quá trình áp dụng pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền như công an, tòa án, kiểm soát, thanh tra, hải quan, thuế vụ Nhiều người dân hiểu pháp luật thông qua sự giải thích của công chức ở các cơ quan này, nhưng có người còn ngộ nhận mọi hoạt động của các cơ quan này là pháp luật, họ chấp hành cả các quyết định đúng đắn và cả các quyết định rõ ràng và áp dụng sai. Việc tăng cường đổi mới và hoàn thiện các chủ thể áp dụng và các hoạt động áp dụng pháp luật cũng là những vấn đề bức thiết đặt ra để việc bảo đảm cho pháp luật thực hiện đúng đắn và đầy đủ. IV. QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ CÁC HIỆN TƯỢNG XÃ HỘI KHÁC A- MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ NHÀ NƯỚC Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng xuất hiện đồng thời và do những nguyên nhân kinh tế xã hội giống nhau đó là sự phát sinh chế độä tư hữu và sự phân chia xã hội thành giai cấp. Trong những giai đoạn phát triển lịch sử của xã hội có giai cấp. Nhà nước và pháp luật luôn luôn thuộc cùng một kiểu nhất định và đều là những hiện tượng thuộc tầng kiến trúc của xã hội ấy. Khi cơ sở kinh tế thay đổi thì kiểu Nhà nước và pháp luật cũng thay đổi theo. Nhà nước làm ra pháp luật và đảm bảo cho pháp luật được thực hiện đầy đủ. Bên cạnh những biện pháp giáo dục thuyết phục, Nhà nước còn dùng cả biện pháp cưỡng 53 54
  27. chế để bắt buộc mọi người tuân theo pháp luật. Như vậy đối với pháp luật Nhà nước đã hoạt động trong lãnh vực làm luật, tổ chức thực hiện luật và bảo vệ luật, qua đó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa Nhà nước và pháp luật. Có Nhà nước mới có pháp luật. Nhà nước có bảo đảm cho pháp được tuân theo và thực hiện nghiêm minh đầy đủ thì pháp luật mới phát huy được đầy đủ tác dụng của nó. Khẳng định vai trò của Nhà nước đối với pháp luật nhưng đồng thời cũng cần thấy rằng Nhà nước không thể tồn tại nếu không có pháp luật. Bởi vì sự tồn tại của Nhà nước đòi hỏi phải có sự hoạt động nhịp nhàng, đồng bộ của tất cả các cơ quan, các viên chức trong bộ máy Nhà nước. Nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ của các cơ quan Nhà nước và những viên chức Nhà nước phải được qui định cụ thể trong pháp luật. Việc tổ chức bộ máy Nhà nước, mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân cũng đều phải được thể hiện bằng pháp luật. Pháp luật thể hiện những yêu cầu của Nhà nước đối với công dân. Không có pháp luật, Nhà nước không thể thiết lập và duy trì trật tự xã hội theo lợi ích của giai cấp thống trị dù chỉ trong một thời gian ngắn. Nói cách khác, pháp luật là phương tiện tốt nhất để Nhà nước quản lý xã hội. Điều này càng đúng đắn đối với Nhà nước xã hội chủ nghĩa bởi vì trong xã hội yêu cầu tính tự giác tuân theo pháp luật của các cơ quan đoàn thể của công dân rất cao. Mặt khác pháp luật cũng là phương tiện để thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng cộng sản, có tác dụng và hiệu quả cao trong việc tổ chức thực hiện đường lối chính sách của Đảng cộng sản trong quá trình lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội. Mối quan hệ giữa Nhà nước và pháp luật còn được thể hiện trong quá trình đấu tranh cách mạng, trong cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới. Trong suốt quá trình phát sinh, phát triển và tồn tại của mình, Nhà nước và pháp luật có quan hệ chặt chẽ với nhau, có sự tác động qua lại lẫn nhau. Sau này khi giai cấp mất đi thì theo Ăngghen: người ta có thể đem toàn thể bộ máy Nhà nước xếp vào các vị trí thực sự của nó lúc bấy giờ tức là viện bảo tàng đồ cổ bên cạnh cái xa kéo sợi và cái rìu bằng đồng, còn pháp luật XHCN sẽ trở thành những qui tắc tự quản trong chủ nghĩa cộng sản. Những qui tắc này sẽ được mọi người tuân theo một cách triệt để và hoàn toàn tự giác mà không cần đến bất cứ một biện pháp cưỡng chế nào nữa. B- MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ KINH TẾ 1. Sự tác động của kinh tế đối với pháp luật Pháp luật là một yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng ra đời trên cơ sở kinh tế nhất định và sự tồn tại và phát triển của pháp luật được qui định bởi kinh tế. Mác đã từng khẳng định: “trong thời đại nào cũng thế, chính là vua chúa phải phục tùng những điều kiện kinh tế, chứ không bao giờ vua chúa lại ra lệnh cho điều kiện kinh tế được. Chẳng qua, chế độ pháp luật về chính trị cũng như về dân sự chỉ làm cái việc nói lên, ghi chép lại quyền lực của những quan hệ kinh tế” Pháp luật nói chung không thể cao hơn chế độ kinh tế. Pháp luật nói chung và pháp luật kinh tế nói riêng luôn luôn được sinh ra từ những tiền đề và điều kiện kinh tế và bị lệ thuộc váo những điều kiện và tiền đề kinh tế trong suốt quá trình tồn tại và phát triển. Sự lệ thuộc đó được thể hiện ở các nội dung sau: a. Cơ cấu kinh tế, hệ thống kinh tế quyết định cơ cấu và hệ thống pháp luật Mỗi loại cơ cấu và hệ thống kinh tế đều tạo ra những loại quan hệ xã hội phù hợp, đó là những quan hệ có nhu cầu được điều chỉnh bằng pháp luật của Nhà nước. Pháp luật bao giờ cũng được coi là một bộ phận cấu thành của cơ chế kinh tế. Suy cho cùng pháp luật chỉ là sự biểu hiện về mặt hình thức quy phạm thiết lập từ nội dung kinh tế mà thôi. 55 56
  28. Pháp luật tồn tại trong khuôn khổ cơ chế kinh tế và có nhiệm vụ điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh từ cơ chế kinh tế và bảo đảm cho sự tồn tại của cơ cấu kinh tế đó. Chẳng hạn trong điều kiện cơ chế kinh tế kế hoạch hóa, trong đó nền kinh tế quốc dân là một nền kinh tế thuần nhất với sỡ hữu Nhà nước là nền tảng. Cá nhân không được thừa nhận là chủ thể kinh doanh xã hội chủ nghĩa, xã hội công dân không được hình thành và phát triển, quan hệ sản xuất hàng hóa và qui luật giá trị bị lãng quên v.v kéo theo đó bộ phận pháp luật liên quan đến sở hữu cá nhân không được phát triển như: Luật dân sự, luật doanh nghiệp tư nhân Pháp luật chủ yếu tập trung điều chỉnh các quan hệ kế hoạch hóa, luật hình sự dành sự quan tâm lớn đến các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và chế độ quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa, luật lao động thì chỉ điều chỉnh các quan hệ lao động của cán bộ công nhân viên chức Nhà nước Khi chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, với những tiền đề và điều kiện mới, cơ cấu pháp luật mới cũng xuất hiện. Sự thể hiện đó được thể hiện rõ nét trong hiến pháp 1992 với chế độ kinh tế phù hợp sẽ là cơ sở để xác định cơ cấu của hệ thống pháp luật. Để điều chỉnh kịp thời các quan hệ kinh tế mới, pháp luật kinh tế cũng xuất hiện nhiều nội dung và cơ cấu mới so với nền kinh tế kế hoạch bao cấp như : Hệ thống các quy phạm về các loại hình doanh nghiệp (công ty, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp Nhà nước), về cạnh tranh, phá sản, chống độc quyền, về thị trường vốn, thị trường sức lao động v.v b. Tính chất của các quan hệ kinh tế quyết định tính chất của các quan hệ pháp luật và quyết định cả nội dung và phương pháp điều chỉnh của pháp luật Mỗi một cơ chế kinh tế tạo các quan hệ kinh tế có tính chất khác nhau từ đó ảnh hưởng tới quan hệ pháp luật, tính chất các quan hệ kinh tế còn quyết định cả nội dung và phương pháp điều chỉnh của pháp luật. Chẳng hạn qua so sánh pháp luật trong các cơ chế kinh tế khác nhau sẽ thấy rõ điều đó. Trong điều kiện kinh tế tự cung, tự cấp pháp luật điều chỉnh bằng phương pháp bình quân chủ nghĩa. Cơ chế kinh tế kế hoạch mệnh lệnh hình thành nên các quan hệ kinh tế theo kiểu chỉ huy và chấp hành, vì vậy pháp luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế cũng theo tính quyền lực áp đặt và mệnh lệnh hành chính. Trong từng mối quan hệ kinh tế đều có sự kết hợp hai yếu tố mệnh lệnh và thỏa thuận. Ngay trong quan hệ hợp đồng kinh tế cũng được xác định là hợp đồng kế hoạch. Các chủ thể hợp đồng luôn phải quán triệt một nghĩa vụ đặt biệt đó là: Nghĩa vụ ký kết hợp đồng kinh tế trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Pháp luật phải liệt kê tất cả các quyền và nghĩa vụ của các đơn vị kinh tế theo nguyên tắc “Xí nghiệp chỉ được làm những gì mà pháp luật qui định”. Chứ không được kinh doanh theo nguyên tắc “được làm những gì mà pháp luật không cấm”. Trong cơ chế kinh tế thị trường do sự đa dạng hóa của các quan hệ kinh doanh nên pháp luật được mang tính toàn diện hơn, được xác định đúng vị trí đích thực của nó. Pháp luật không can thiệp sâu vào việc tổ chức và thực hiện các hoạt động kinh doanh, quyền quản lý kinh doanh thuộc về chức năng cơ bản của các doanh nghiệp. Thay vì liệt kê các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp, pháp luật định ra giới hạn, xác định hành lang pháp lý cho các hoạt động kinh doanh. Về cơ bản trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp được chủ động hoàn toàn trong kinh doanh bằng các phương pháp thỏa thuận, bình đẳng, dân chủ, tự do với các doanh nghiệp khác. Trong quan hệ giữa doanh nghiệp với các cơ quan hành chánh nhà nước, pháp luật cũng xác định và phân biệt ranh giới giữa quản lý nhà nước về kinh tế với quản lý sản xuất kinh doanh. 57 58
  29. c. Mỗi cơ chế kinh tế đều quyết định một hệ thống các cơ quan pháp luật và thủ tục pháp lý tương ứng Cơ chế kinh tế thay đổi thì tất yếu sẽ kéo theo sự tự điều chỉnh cho phù hợp của cả hệ thống các cơ quan pháp luật, theo đó tất cả các thủ tục pháp lý cũng thay đổi theo. Trong cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung bao cấp, các cơ quan quản lý hành chính kinh tế được tổ chức phức tạp và biên chế cồng kềnh, cơ quan xử lý các tranh chấp kinh tế vừa là cơ quan hành chánh vừa có chức năng của một cơ quan tư pháp về kinh tế. Đặc biệt là các cơ quan chuyên môn quản lý và hướng dẫn kế hoạch hóa phát triển mạnh. Nhưng trong cơ chế kinh tế thị trường, tự nó đòi hỏi phải tăng cường hệ thống các cơ quan có chức năng trợ giúp sự phát triển kinh doanh và bảo đảm kinh doanh theo trật tự pháp luật chặt chẽ như: Cơ quan công chứng Nhà nước, sở chứng khoán, cơ quan đăng ký kinh doanh, tòa án thương mại v.v Từ những nhu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường đã làm cho hệ thống cơ quan quản lý và hướng dẫn kế hoạch được thu hẹp và giảm nhẹ, tổ chức chứng khoán và công chứng phát triển xuống cấp quận, huyện, tòa án thương mại trong quá trình hình thành cơ cấu, các thủ tục hình thành các doanh nghiệp được thay đổi rõ nét. Đặc biệt là thủ tục thành lập doanh nghiệp nhà nước phải có đủ điều kiện và thủ tục theo qui định của pháp luật mới được hình thành và hoạt động chứ không tổ chức đơn giản bằng các quyết định thành lập của cơ quan quản lý cấp trên mà không cần điều kiện thủ tục cơ bản của một doanh nghiệp mà vẫn được hình thành và hoạt động. Cơ chế kinh tế thay đổi nó không chỉ kéo theo sự thay đối của các cơ quan pháp luật mà hầu hết cả tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy Nhà nước cũng phải thay đổi theo bởi cơ sở kinh tế quyết định thượng tầng kiến trúc trong đó bộ máy nhà nước là yếu tố quan trọng nhất 2. Sự tác động trở lại của pháp luật đối với kinh tế Pháp luật được hình thành từ các tiền đề kinh tế nhưng thực tế pháp luật không phản ánh thụ động các quan hệ kinh tế mà nó có tác động trở lại nền kinh tế rất mạnh mẽ, bởi đặc tính cơ bản của pháp luật là mô hình hóa các quan hệ xã hội trước hết là quan trọng hàng đầu là kinh tế, phản ánh các quan hệ đặc trưng, phổ biến và ổn định nhất. Vì thế pháp luật là một trong những yếu tố ảnh hưởng rất quan trọng, rất rõ nét đến sự phát triển kinh tế. Trong một nhà nước pháp quyền, pháp luật có vai trò tổ chức và quản lý kinh tế - xã hội, mọi sự điều chỉnh pháp luật đúng đắn hay sai lầm, chậm trễ điều có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến các hoạt động kinh tế. Sự tác động của pháp luật đến kinh tế còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan duy ý chí trong việc làm luật sẽ dẫn đến một nội dung pháp luật sai lạc, một chế độ điều chỉnh kinh tế thiếu khoa học, bất chấp qui luật sẽ kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế và kìm hãm tiến bộ xã hội. Các phương thức tồn tại cơ bản của pháp luật là những kênh cơ bản để pháp luật thể hiện vai trò phương tiện trọng yếu trong điều chỉnh kinh tế. Pháp luật qui định, cho phép hay ngăn cấm, khuyến khích hay hạn chế các quan hệ kinh tế là tạo điều kiện cho những quan hệ kinh tế nào phù hợp với tính chất nhà nước, phù hợp với từng giai đoạn lịch sử nhất định được phát triển. Sự tác động của pháp luật trở lại kinh tế có thể diễn biến theo các khả năng sau đây: (Sự điều chỉnh và tác động của pháp luật hợp với cơ chế kinh tế phản ánh đúng qui luật khách quan sẽ thúc đẩy nhanh các quá trình kinh tế, góp phần hoàn thiện cơ chế kinh tế và hệ thống kinh tế. (Với tính chất năng động, sáng tạo pháp luật không chỉ điều chỉnh các quan hệ kinh tế đã định hình rõ, mà còn có khả năng đón bắt và điều chỉnh những quan hệ kinh tế sẽ 59 60
  30. xuất hiện trong hệ thống kinh tế đó. Chẳng hạn: Luật hình sự quy định và dự kiến một số tội phạm kinh tế, dự kiến trong nền kinh tế thị trường có cạnh tranh sẽ có một số doanh nghiệp bị phá sản, nhà nước cho ban hành luật phá sản. (Pháp luật có thể kìm hãm sự phát triển của toàn nền kinh tế hoặc một trong các yếu tố hợp thành của hệ thống kinh tế nếu sự điều chỉnh pháp luật mâu thuẫn với nội dung, tính chất, qui luật của các quan hệ kinh tế. (Pháp luật có thể tác động lên quá trình kinh tế làm rối loạn các quá trình kinh tế, làm cho các hoạt động kinh tế và sự phát triển kinh tế vượt ra ngoài quỹ đạo của mình. (Pháp luật có thể khuyết khích phát triển những yếu tố tích cực và hạn chế hoặc loại trừ những nhân tố tiêu cực trong quá trình vận hành của cơ chế kinh tế. Chẳng hạn khai thác triệt để tài nguyên phải bảo vệ môi trường thiên nhiên, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh phải đi đôi với chống độc quyền, phát triển kinh doanh phải gắn liền với nhiệm vụ bảo vệ người tiêu dùng; khuyết khích tự do, dân chủ phải đi đôi với việc chống các tội phạm về kinh tế. C- MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VỚI CHÍNH TRỊ So với quan hệ giữa pháp luật và kinh tế, mối quan hệ giữa pháp luật và chính trị là quan hệ mang tính “bình đẳng, ngang hàng”. Trong đó không phải là chính trị quyết định pháp luật, hay ngược lại mà đặc tính của mối quan hệ này là quan hệ qua lại, ảnh hưởng và hỗ trợ lẫn nhau. Bởi vì, chính trị và pháp luật là hai hiện tượng thuộc thượng kiến trúc, đều có chung nguồn gốc và cơ sở tồn tại là chế độ kinh tế, theo C.Mars “trên cơ sở hạ tầng là thượng tầng chính trị và pháp lý”. 1. Khái niệm về chính trị Chính trị là một phạm trù phản ánh các mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các sắc tộc, là thái độ của giai cấp thống trị đối với các giai cấp và các tầng lớp khác, là sự thống trị của giai cấp cầm quyền. Chính trị cũng biểu hiện thái độ của nhân dân đối với chính quyền, là sự tham gia của họ vào các công việc của nhà nước; biểu hiện qui định chức năng, nhiệm vụ và nội dung hoạt động của Nhà nước. Chính trị của giai cấp cầm quyền được thể hiện tập trung trong đường lối chính trị mà nó đặc ra đối với tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Theo Lênin thì : Chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, các nhóm xã hội đó là lĩnh vực những mối quan hệ giữa tất cả các giai cấp, các tầng lớp với nhà nước và Chính phủ, lĩnh vực những mối quan hệ giữa tất cả các giai cấp với nhau. Theo khái niệm này thì quan hệ chính trị là quan hệ giữa các tầng lớp với nhà nước và chính phủ, lĩnh vực những mối quan hệ giữa tất cả các giai cấp với nhau. Theo khái niệm này thì quan hệ chính trị là quan hệ giữa các tầng lớp, các giai cấp trong một chế độ xã hội. Nó chỉ quan hệ của các giai cấp trong việc giành, giữ và sử dụng chính quyền Nhà nước theo lợi ích của một giai cấp nhất định. Theo nghĩa đó, quan hệ chính trị trở thành quan hệ quyền lực nhà nước. Nhà nước có thể được coi là chỗ giao điểm của các quan hệ chính trị, nó là tổ chức quyền lực thống trị giai cấp đồng thời là tổ chức công quyền của xã hội, của dân tộc, quản lý toàn bộ xã hội. Nhà nước - tổ chức chính trị, vừa là công cụ thể hiện pháp luật như các yếu tố chính trị khác, lại vừa là công cụ điều hòa quan hệ xã hội, thực hiện quyền lực công cộng. Từ tính chất ta thấy rõ: Chỉ có Nhà nước mới là tổ chức chính trị có khả năng và điều kiện sử dụng công cụ pháp luật. Khi nghiên cứu về nhà nước pháp quyền, không thể đặt vấn đề là nhà nước phải sinh ra pháp luật hay ngược lại. Pháp luật với tư cách là những mô thức của các quan 61 62
  31. hệ xã hội mang tính khách quan, độc lập; là một công cụ có sẵn để nhà nước sử dụng. Bởi vì nguồn gốc, cơ sở kinh tế, xã hội của pháp luật cũng đồng thời là nguồn gốc và cơ sở tồn tại của Nhà nước. Điều khác nhau ở đây chính là phương thức xuất hiện, tồn tại và chức năng của hai hiện tượng này không đồng nhất. Hơn nữa trong mối quan hệ giữa quyền lực nhà nước (một dạng đặc biệt của quyền lực chính trị) với pháp luật chúng ta thấy vai trò và giá trị của pháp luật càng ngày càng quan trọng. Quyền lực nhà nước tồn tại trong khuôn khổ của pháp luật, nó được pháp luật bảo đảm đồng thời cũng bị hạn chế bởi pháp luật. Nói cách khác, pháp luật vừa là biện pháp và phương tiện để thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp thống trị, vừa là biểu hiện của chính trị, nó ghi nhận yêu cầu, nội dung chính trị của giai cấp thống trị. 2. Trong mối quan hệ với chính trị, pháp luật là một biện pháp, một phương tiện phục vụ các mục tiêu chính trị Trong lịch sử xã hội, bất kỳ giai cấp thống trị nào cũng dựa vào nhà nước và bằng các hình thức pháp luật để thể hiện quyền lực thống trị của giai cấp mình. Pháp luật trở thành hình thức thể hiện tập trung, trực tiếp, là biện pháp sắc bén nhất, hiệu quả nhất để thực hiện những yêu cầu, mục tiêu và nội dung chính trị của giai cấp cầm quyền. Sự điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ xã hội cũng có nghĩa là sự điều chỉnh quan hệ giữa các giai cấp phục vụ cho một giai cấp hoặc một lợi ích liên minh giai cấp thống trị. Sự ổn định và trật tự kỷ cương được thiết lập bởi pháp luật trước hết là sự ổn định chính trị, là trật tự kỷ cương phục vụ cho sự thống trị của giai cấp cầm quyền. Tuy nhiên, trong xã hội, pháp luật còn chịu ảnh hưởng của các giai cấp, các tầng lớp khác. Mức độ ảnh hưởng tùy thuộc vào kết quả tương quan đấu tranh giai cấp. Tuy nhiên không vì thế mà làm cho đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền biến dạng dẫn đến phá vỡ trật tự và sự ổn định chính trị mà nó đã thiết lập. Mặt khác, xét trên góc độ kiến trúc thượng tầng, pháp luật là công cụ chủ yếu nhưng không phải là duy nhất để giai cấp thống trị thực hiện các mục tiêu chính trị. Ngoài pháp luật, giai cấp thống trị còn sử dụng nhiều phương tiện sắc bén khác như đạo đức, tôn giáo, văn học nghệ thuật, v.v để duy trì chế độ chính trị của giai cấp mình. 3. Mối quan hệ giữa đường lối chính sách của Đảng cầm quyền và pháp luật của Nhà nước Khi nói tới quan hệ giữa pháp luật và chính trị, cần làm rõ mối quan hệ giữa đường lối chính sách của Đảng cầm quyền và pháp luật của Nhà nước để thấy rõ hơn mối liên kết giữa chính trị và pháp luật trong các xã hội có nhà nước. Đường lối chính trị của Đảng cầm quyền được thể hiện chủ yếu trong các cương lĩnh, nghị quyết của Đảng trong từng thời kỳ khác nhau. Nó có ý nghĩa chỉ đạo trong việc xây dựng pháp luật. Pháp luật là phương tiện chủ yếu để chuyển hóa đường lối chính sách của Đảng cầm quyền thành ý chí chung của Nhà nước và xã hội. Tuy nhiên khi thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, pháp luật cũng chịu ảnh hưởng nhất định của các xu hướng chính trị của các giai tầng khác trong xã hội nếu đó là những nguyện vọng chính đáng phù hợp với lợi ích của đông đảo nhân dân, phù hợp với lợi ích lâu dài của dân tộc. Bởi vì nhà nước là sản phẩm của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì trong xã hội không thể có ý chí chung và lợi ích chung nhất cho toàn xã hội kể cả trong một xã hội nhất nguyên chính trị. Trong khi đó lý tưởng của pháp luật là phải cố gắng pháp luật hóa những ý chí chung của xã hội và kể cả những ý chí khác nhau của những lực lượng chính trị khác nhau. Trong thực tế, không phải bất kỳ nghị quyết nào của Đảng cầm quyền cũng có nhu cầu hoặc khả năng chuyển hóa thành pháp luật nhà nước. 63 64
  32. Trong giai đoạn hiện nay, luận đề quen thuộc: “Nghị quyết của Đảng là linh hồn của pháp luật” cần phải xem xét lại và bổ sung cho phù hợp với nguyên tắc nhà nước pháp quyền. Hơn thế nữa, sự tồn tại và hoạt động của nhiều trường phái, kể cả đảng cầm quyền cũng như như mối quan hệ giữa các lực lượng chính trị đó về nguyên tắc cần phải được pháp luật hóa. Ở nước ta, dù cơ chế chính trị rất đặc thù, Đảng cầm quyền có thể có uy tín tuyệt đối so với các lực lượng chính trị khác, song vấn đề về sự cần thiết có một đạo lực luật về Đảng cầm quyền, về các Đảng phái và tổ chức xã hội sớm muộn tất yếu phải có. Xa hơn nữa, toàn bộ những mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị cần phải được pháp luật hóa. Với những qui định của hiến pháp về chế độ chính trị của các văn bản pháp luật chuyên ngành đề cập đến vai trò của Đảng, công đoàn, mật trận, v.v chưa đủ sức điều chỉnh các hoạt động của các chủ thể của hệ thống chính trị của nước ta hiện nay tức là cơ sở pháp lý của xã hội và đoàn thể quần chúng chưa được pháp luật hóa toàn diện. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ chính trị ở những mức độ rất khác nhau, nhìn chung là ít cụ thể hơn so với hệ điều chỉnh các hệ kinh tế xã hội và quan hệ sinh hoạt đời sống. Sở dĩ như vậy là vì chính trị được biểu hiện thông qua rất nhiều các dạng hoạt động của cá nhân, tổ chức đại diện cho các lực lượng chính trị khác nhau trong xã hội. Một sự điều chỉnh ở mức chung nhất sẽ cho phép tạo thành những “qui tắc xử sự” của các tổ chức, đoàn thể và các lực lượng chính trị. Đó là cơ sở pháp lý mang tính định hướng tích cực chính trị, khắc phục tình trạng dùng giải pháp chính trị thuyết phục trong xã hội hiện nay. Do vậy, trong lĩnh vực chính trị, nhiều mối quan hệ chưa được pháp luật hóa hoặc chưa được pháp luật điều chỉnh trọn vẹn trong giai đoạn hiện nay. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và các tổ chức đoàn thể khác đã trở thành nguyên tắc. Nhưng nguyên tắc đó được thể hiện và triển khai trên thực tế như thế nào thì pháp luật chưa quan tâm điều chỉnh. Ở lĩnh vực khác, pháp luật điền chỉnh các quan hệ chính trị còn phiến diện hoặc thiếu khả năng thực thi. Chẳng hạn pháp luật phải qui định cách thức vận động bầu cử, tranh cử hoặc quyền của các ứng cử viên tự do. Quyền và trách nhiệm của các đại biểu dân cử đã được qui định như : Tiếp xúc với cử tri, thực hiện các hoạt động giám sát đối với các cơ quan hành pháp và tư pháp. Song, thủ tục và những nội dung của các hoạt động này là gì? Vấn đề còn bỏ ngỏ. Tương tự như vậy là vấn đề bãi miễn các đại biểu dân cử hoặc có hay không có vấn đề cơ cấu trước trong tổ chức các cơ quan dân cử v.v với cơ chế pháp luật như vậy sẽ hạn chế tính chủ động và sáng tạo trong thực tiễn hoạt động chính trị, trong phong trào dân chủ hóa, công khai hóa mọi hoạt động chính trị, trong phong trào dân chủ hóa, công khai hóa mọi hoạt động chính trị - Kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay. D- MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ TƯ TƯỞNG 1. Khái niệm Tư tưởng là một yếu tố của ý thức xã hội, nó tồn tại chủ yếu dưới dạng học thuyết và lý luận. Hệ tư tưởng là hệ thống những quan niệm về tư tưởng có cơ sở lý luật nhất định. Là một bộ phận của ý thức xã hội, vì vậy tư tưởng luôn phản ánh thực tại xã hội. Cái thực tại mà pháp luật phải điều chỉnh và phản ánh theo phương thức của mình. Do đó, trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật sẽ chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng chính thống - hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa pháp luật và tư tưởng, những người theo chủ nghĩa thực chứng mới đã phủ nhận tính tư tưởng của pháp luật. Họ cho rằng chỉ có pháp luật mới phản ánh cái phổ biến, cái khách quan, cái bắt buộc còn tư tưởng thì uyển chuyển mềm dẻo, dễ bị lạm dụng. Thực ra, khi đánh giá về bản chất tư tưởng, 65 66
  33. điều đó cũng đã không mang tính khoa học. Bởi khi tư tưởng trở thành ý thức và đặc biệt là ý thức hệ của giai cấp thống trị xã hội thì không thể nói rằng nó uyển chuyển và dễ bị lợi dụng. 2. Sự tác động của tư tưởng đối với pháp luật Trong mối quan hệ giữa tư tưởng và pháp luật thì pháp luật nào cũng chịu ảnh hưởng của tư tưởng và hệ tư tưởng. Pháp luật ở các quốc gia mà ở đó Thiên chúa giáo là quốc giáo chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng và chi phối bởi nhà thờ. Các pháp luật ở các quốc gia Hồi giáo sẽ không giống pháp luật ở Châu Âu và tất nhiên cũng chịu sự tác động và phản ánh tư tưởng của đạo Hồi. Ở Á Đông pháp luật của Nhật Bản, Trung Quốc đã từng chịu ảnh hưởnh nặng nề của Nho giáo. Ở Việt Nam chúng ta, lịch sử của pháp luật và tư tưởng pháp lý đã chứng minh sự ảnh hưởng lớn lao của tư tưởng đối với pháp luật, pháp luật phong kiến Việt Nam chịu ảnh hưởng tư tưởng nho giáo. Trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, pháp luật của ta được xây dựng trên cơ sở hệ tư tưởng Mác-Lênin và gần đây được tiếp cận với các tư tưởng pháp lý được xác định là tinh hoa của văn minh nhân loại. Ngay trong hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa do có sự biến thiên về hệ tư tưởng mà tính chất và nội dung của pháp luật cũng bị biến thiên theo niên đại. Vào buổi bình minh của lịch sử, pháp luật tư bản được hình thành trên cơ sở của những tư tưởng nhân văn và tiến bộ của nhiều trường phái tư tưởng của những thế ký trung đại, cận đại. Nhưng khi hệ tư tưởng đế quốc phát xít hình thành thì pháp luật của thời kỳ đó trở thành pháp luật phản động, phản dân chủ, chống lại loài người. Bên cạnh tư tưởng lý luận và khoa học cũng góp phần vào quá trình hình thành nội dung và tính chất của sự điều chỉnh pháp đối với các quan hệ xã hội. Điều đó sẽ góp phần lý giải một vấn đề sau đây: Tại sao cùng xuất phát từ một hệ tư tưởng nhưng bên cạnh những hiện trạng lý luận và khoa học khác nhau sẽ có những hệ thống pháp luật có cơ cấu và nội dung khác nhau. Thực tế đó sẽ tồn tại trong kiểu pháp luật của chúng ta - kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa được xây dựng theo tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin. Như vậy tư tưởng luôn luôn tác động đến pháp luật, nhưng sự tác động đó chỉ thể hiện rõ nét nhất vào những thời kỳ có các cuộc xung đột xã hội như: Cách mạng xã hội, cải cách pháp luật, cải cách thể chế chính trị, kinh tế, xã hội. Bởi vì bất kỳ một cuộc cách mạng hay cải cách nào cũng đều được chuẩn bị về mặt tư tưởng, về lý luận và khoa học. Tuy nhiên, khả năng tác động của tư tưởng lên pháp luật không phải là khả năng tuyệt đối. Chúng ta thường thấy bên cạnh sự tồn tại của một hệ tư tưởng mới vẫn có thể tồn tại pháp luật đã từng là “bạn đồng hành” của hệ tư tưởng cũ. Điều đó đòi hỏi phải giữ lại “những chân trời chật hẹp” của pháp luật tư sản trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Một vấn đề khác cũng rất phong phú là có sự tồn tại của các học thuyết pháp lý ở tất cả các quốc gia với những hệ tư tưởng khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Trong những trường hợp như vậy có thể lý giải như sau: Thứ nhất: Nội dung tư tưởng thể hiện không phải ở hình thức mà ở mục đích sử dụng các chế định pháp luật đó. Thứ hai: Đối với những chế định pháp luật khác nhau thì sự tác động của hệ tư tưởng cũng được thể ở mức độ khác nhau. Mặt khác mỗi chế định pháp luật đều có thể chi phối bởi nhiều hệ tư tưởng khác nhau. 67 68