Giáo trình Sáng tác Ca khúc
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Sáng tác Ca khúc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_sang_tac_ca_khuc.pdf
Nội dung text: Giáo trình Sáng tác Ca khúc
- HẢI NGUYỄN
- Kính dâng linh hồn cố Nhạc sĩ Viết Chung. Người Thầy, người cha nuôi kính yêu của con. Hải Nguyễn
- MỞ ĐẦU: ể chuẩn bị cho mình một vốn liếng phong phú về ngôn ngữ dùng trong việc sáng tác ca khúc thì điều đầu tiên là phải Đchịu khó tìm đọc, xem xét, nghiên cứu tất cả các loại văn thơ . . . . từ cổ chí kim, nhất là các văn thơ Việt-Nam như: Truyện Kiều, Lục-Vân-Tiên, Cung Oán Ngâm Khúc, thơ Tiền Chiến, Hậu Chiến, Hòa-Bình . . . nói chung là tất cả các thể loại, để nhờ đó ta có một tư tưởng phóng khoáng, đẹp đẽ, trong sáng, dồi dào về ngữ văn. Vì sáng tác ca khúc rất cần đến lời ca thanh lịch, gọn gàng, trau chuốt, có kiến thức . . . Như thế tư tưởng của ta sẽ tự nhiên cảm nhận được những tinh túy về ngữ văn, nhất là mang theo được cái đặc tính Đông Phương mỏng dòn, thanh lịch . . . Sáng tác ca khúc có giá trị hay không thì tùy thuộc vào 3 yếu tố: tiết tấu, âm điệu và hòa âm (đối với Việt văn thì hòa âm chỉ có tính cách thứ yếu). a. Tiết tấu trong ca khúc: đơn vị nhỏ nhất cần lưu ý là tiết tấu cơ bản. Ở trường hợp thường thì khởi tấu là bước tiến (phách 2 trong nhịp 2/4, phách 2 và 3 trong nhịp 3/4, phách 2, 3, 4 trong nhịp 4/4), có thể là bước lui (phách 1), kết tấu thì thường nên ở bước lui (phách 1). Ngoại trừ các trường hợp bất thường, lời ca luôn phải gắn chặt và hoà quyện với tiết tấu thì mới có thể chuyên chở theo tâm tình trong 1 ca khúc. b. Âm điệu: ca khúc hay rất cần có sự trang điểm, dòng nhạc có lúc hay, lúc thường, lúc êm đềm, lúc sóng gió, mới tạo cho thính giả được những cảm hứng khi ta trình tấu, ca khúc mới có sức cuốn hút, thu phục, hấp dẫn. Cần tránh trường hợp dùng nhiều nét đặc biệt, nhiều nét hay dồn trong 1 bài, vì sẽ dễ làm cho thính giả nhàm chán vì sự trang điểm quá lố, quá dư thừa. Giáo Trình Sáng Tác Ca Khúc * 3
- SỰ PHONG PHÚ CỦA ÂM NHẠC: Âm nhạc là một nghệ thuật rất trừu tượng, vì sự cảm nhận nghệ thuật âm thanh của con người phụ thuộc vào thính giác. Âm nhạc không có hình ảnh, số lượng, hình tượng, kích thước . . . chỉ là những âm thanh mênh mang, chơi vơi, lơ lửng . . . số lượng cảm nhận của mỗi người nghe tùy thuộc vào cảm giác của mỗi người. Tuy chỉ có 12 nốt nhạc: Nhưng tùy vào sở thích và khả năng của mỗi sáng tác gia mà 12 cao độ đó được dùng theo các hệ thống, cách thức . . . khác nhau, sinh ra vô số tác phẩm khác lạ. Âm thanh có tính tương đối, nửa vời, hai chiều . . . (là như vậy mà không phải như vậy). Con người trên thế giới đại đa số đều có sự cảm nhận âm nhạc trong người, bất kể có kiến thức hay không . . . tất cả đều có ít nhiều xúc cảm đối với nghệ thuật âm thanh. Tùy theo từng sắc tộc, địa phương . . . mà phát sinh ra các loại dân ca, trường phái . . . khác nhau. Thế nhưng nền nghệ thuật âm thanh toàn thế giới đều gặp nhau ở 12 nốt nhạc. Sự khác biệt là do tùy theo hệ thống sử dụng số âm thanh nhất định của từng loại dân ca, hình thái nhạc mà thôi. Nhờ tính chất quy đồng hợp nhất đó mà toàn thế giới đều dễ thông cảm với nhau dù rằng khác ngôn ngữ, phong tục . . Đó là tính chất ưu việt, phong phú của âm nhạc so với các hình nghệ thuật khác. Sáng tác âm nhạc là ghi chép lại các cảm hứng âm nhạc của mình bằng cách ký âm. Nếu ta ghi đúng, diễn đúng thì ta đã hoàn thành công việc bắt giữ cảm hứng của Thượng-Đế đã trao ban cho mỗi con người. Sáng tác đó mãi mãi sẽ là của ta, mãi mãi thuộc về ta. 4 * Giáo Trình Sáng Tác Ca Khúc
- ĐIỀU KIỆN CĂN BẢN CỦA SÁNG TÁC: - Có giấy bút sẵn sàng để bất cứ lúc nào cũng có thể ghi chép được. - Phải rành xướng âm và ký âm, sao cho có thể ghi chép đúng cao độ, trường độ . . . - Tập nghe, tập nhìn, tập suy đoán . . . nên sinh hoạt thường xuyên với ca đoàn để tạo ra các điều kiện này, vì lý do đơn giản là âm thanh được phát sinh căn bản là giọng người. Tay cầm nhạc, mắt nhìn nhạc, tai nghe nhạc, óc suy nghĩ, đoán xét . . . Dần dần con tim của ta sẽ cảm nhận được âm thanh thật rõ rệt về cao độ, trường độ, thứ bậc . . . - Các cảm hứng nhạc thường chỉ là một đoạn nhạc ngắn, nhiều khi phát sinh ngẫu nhiên vào bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào, ta cứ kịp thời ghi chép lại rõ ràng để dành sẵn, sự gom góp đó sẽ được chọn lựa vào trong tác phẩm của ta sau này. Các cảm hứng cần phải khác nhau về mọi mặt để cho các tác phẩm của ta được đa dạng và phong phú, vì thế nên tránh sự liên kết giữa các cảm hứng với nhau, vì chúng sẽ rập khuôn, mất đi tính chất dồi dào, phong phú . . .về nhịp điệu, âm điệu, âm bậc, tình tứ . . . của cảm hứng. Các bài hát nên viết cách xa nhau, để cho cảm hứng bài trước phôi phai hẳn trong ta, cảm hứng của bài sau mới có được sự khác biệt và riêng tư của riêng nó. CÁCH GHI CHÉP CẢM HỨNG NHẠC: Cách ghi chép đơn giản và rõ ràng nhất là bằng giấy bút, thật nhanh và thật chính xác, vì các cảm hứng sẽ chỉ thoáng qua rồi bay mất, vào bất cứ lúc nào, giờ nào, môi trường nào . . . Vì thế sự ghi chép đòi hỏi rất cao sự nhanh gọn, chính xác, kịp thời . . . Nên tập có thói quen mang theo viết, giấy . . sẵn trong người, trong hành lý, Giáo Trình Sáng Tác Ca Khúc * 5
- nhất là trong các dịp đi chơi xa, du lịch, phong cảnh hữu tình, trạng thái tinh thần thoải mái rất dễ nảy sinh cảm hứng. Trong khi sinh hoạt, giao tiếp với các môi trường bên ngoài như: đi chung xe, chung đò, chung tàu . . . . ta nên dùng cách ghi âm bằng các con số để tránh phiền toái, tránh sự hiểu lầm của nhiều người cho rằng ta khoe khoang. Ta mặc nhiên công nhận các con số thay cho các bậc âm: • Về cao độ: Thông thường giọng hát của con người chỉ có giới hạn từ Sol bát độ 1 lên Sol bát độ 2 mà thôi. Ở bát độ giữa thì ta mặc nhiên giao kết là các âm thanh được ghi theo số tự nhiên. Do cao là số 8, các nốt cao nữa là: Ré, Mi, Fa, Sol, La . . . thì chấm trên số đó một chấm nhỏ, các nốt bát độ 1 thì chấm dưới con số một chấm nhỏ. • Về trường độ: Ta đồng ý là viết một số trống không thì có giá trị bằng một nốt đen. - Nốt móc một thì gạch dưới con số một gạch. - Nốt móc hai thì gạch dưới con số 2 gạch, móc ba thì gạch dưới con số 3 gạch, móc bốn thì gạch dưới 4 gạch. - Nốt trắng thì gạch ngang bên phải (sau) con số 1 gạch. - Nốt tròn thì gạch ngang bên trái (trước) con số 1 gạch. - Nếu có thêm 1/2 trường độ nữa (dấu chấm dôi) thì chấm thêm bên phải 1 chấm nhỏ, 1/4 trường độ thì chấm thêm 1 chấm nhỏ nữa. - Dấu lặng thì ghi bằng hình thức nguyên vẹn của nó. 6 * Giáo Trình Sáng Tác Ca Khúc
- - Dấu thăng & dấu giáng ghi ngay cạnh bên trái của con số . Ví dụ: Sol trắng: ( 5 - ), Sol đen chấm(nhịp rưỡi): ( 5 . ), Sol móc 1: ( 5 ), Sol trắng chấm:( 5 - . ), Sol trắng hai chấm, ( 5 - ) . . . Ta cứ ghi chép các nhạc hứng của mình trước với đầy đủ giá trị về trường độ, cao độ . . . sau đó, khi muốn viết tiếp để hoàn thành 1 ca khúc thì ta sẽ hát đi hát lại nhạc đề đó để tìm cảm giác phân nhịp điệu, phân nhịp điệu còn liên hệ rất mật thiết theo giọng âm điệu đó nữa. Thông thường thì nhịp 2 thường khởi ở bước tiến, kết ở bước lui. Nhịp 3 khởi ở bước tiến và bước lui, kết ở bước lui . . . Khi ghi chép cảm hứng ta nên tránh cho nốt kết của đoạn nhạc hứng dừng vào nốt bậc 1, vì dòng nhạc sẽ khó khai triển sau này để trở thành một bản nhạc (cách dùng giải kết). Đơn điệu rất dễ dàng và thoải mái, không có những quy luật chuyển động như hòa âm . . . . chỉ cần dễ hát và xuôi tai là được. Chú ý: ở các âm giai thì nốt bậc IV thích hợp cho chuyển động xuống hơn là chuyển động lên. Nốt bậc VII thích hợp cho chuyển động lên hơn là chuyển động xuống. Vì tích chất quãng của các nốt bậc đó (nửa cung). CÁCH TẬP NGHE BẬC ÂM: Trong các sinh hoạt ca đoàn nên tập nghe bằng tai trong khi mắt nhìn nhạc để quen dần với sự nhận biết chuyển động của âm điệu, rất cần cho những lúc thiếu điều kiện để hát hoặc đàn. Tập cảm nhận sự khác nhau của từng bậc âm đối với bậc âm chủ: bậc I đối với các bậc II, bậc III, bậc IV, bậc V, bậc VI, bậc VII. Tập nghe các giọng Basso trong băng máy, radio, tivi . . . để nhận ra được các bậc âm, bậc hợp âm. Giáo Trình Sáng Tác Ca Khúc * 7
- Tập nghe các quãng của chuyển động cho thật chính xác. Điều kiện để tập lý tưởng là ca đoàn. Các cảm nhận này giúp cho ta nâng cao khả năng ký xướng âm. CẢM GIÁC CỦA CÁC BẬC ÂM: • Các hợp âm bậc tốt nghe mạnh mẽ, vui tươi: Bậc I: vững chắc, mạnh mẽ. Bậc IV: trong sáng, tươi trẻ. Bậc V: đòi hỏi, mạnh (át âm), cần phát triển (trở về bậc I). • Các hợp âm bậc thường nghe nhẹ nhàng hơn: bậc II: mềm yếu , mảnh dẻ. Bậc III: mang cảm giác của hợp âm, trưởng: vui, thứ: buồn. Riêng bậc VI vì tính cách chơi vơi của nó nên xếp đặt cho được dẫn tới bởi chuyển động quãng 3 thứ: I xuống VI, III lên VI . . . cảm giác sẽ được tạo rõ ràng. CÁCH TẬP GHI TRÊN ÂM GIAI: Mỗi tác giả đều sẽ có thói quen thích hợp với một vài âm giai nhất định, biểu lộ cá tính nghệ thuật của mỗi người. Tuy nhiên ta cần phải tập ghi trên nhiều âm giai để có sự thoáng khoát, rộng rãi trong tâm hồn của mình, tránh sự gò bó, đóng khuôn . . . Ta nên tập ghi với các loại nhịp điệu. Đơn giản nhất là nhịp 2 và nhịp 3. Đến khi viết nhiều rồi thì nên phát triển thêm ở các nhịp khác: nhịp 6/8, nhịp 4/4 . . . . 8 * Giáo Trình Sáng Tác Ca Khúc
- MẤY ĐIỀU CẦN THIẾT KHI MỚI TẬP SÁNG TÁC: - Xếp cho câu nhạc dừng trên phách 1. - Giới thiệu cung và thể của ca khúc rõ ràng ngay từ câu đầu. - Giới thiệu được tiết tấu của toàn bài. - Kết câu 1 cố gắng được xếp đặt thuộc hợp âm bậc I. - Hình nốt của mỗi ô nhịp không xếp đặt giống nhau để câu nhạc được phong phú (tiết tấu và âm điệu). Đổi hình nốt và giọng nhạc ở mỗi ô nhịp. Tránh dậm chân tại chỗ ở trong 1 câu, ở những nốt nhạc gần nhau . . . MỘT VÀI QUAN NIỆM VỀ CUNG, THỂ CỦA TÂY PHƯƠNG: - Cung Do: Bình dị, chất phác, dễ nghe, dễ hát, nhưng có vẻ khô khan. - Cung Am: nghe mênh mông, buồn vời vợi, thường dùng để nhắc đến tình mẫu tử. - Cung G: thích hợp với hành khúc, vì có đủ 16 âm vực cho các loại kèn. Cảm giác hơi cứng cỏi, hợp với quân nhạc. - Cung F và Dm: có tính cách đồng quê, mộc mạc, gần với hệ thống Ngũ Cung Việt-Nam và Trung-Hoa. - Cung D: nghe rất bay bướm, hợp với tâm tình nghệ sĩ (ưa dùng cho nhịp Tango). - Cung Bm và Em: nghe trầm hùng, lý tưởng, chắc chắn. Nói chung: Thể trưởng: nghe vui vẻ, vững chãi. Thể thứ: mềm yếu, dễ biến đổi, có thể tạo nhiều màu sắc do sử dụng các loại thứ khác nhau (âm giai thứ tự nhiên, âm giai thứ hòa âm, âm giai thứ đơn điệu). Giáo Trình Sáng Tác Ca Khúc * 9
- - Hệ thống càng nhiều dấu thăng: ý nhạc càng sáng, thích hợp với sự kêu gọi, ánh bình minh . . . - Hệ thống càng nhiều dấu giáng: ý nhạc càng thâm trầm, có chiều sâu. Hợp với triết học, đạo học . . . Các tính chất và quan niệm trên chỉ tương đối. Cảm giác của câu nhạc còn phụ thuộc vào tính chất của quãng chuyển động: quãng trưởng: vui, khỏe . . . , quãng thứ: buồn, u tối, ảm đạm . . . QUAN NIỆM CHUNG VỀ TIẾT TẤU: Thường nốt tận của câu nhạc hay dừng ở phách đầu của ô nhịp đó. Nhịp đơn nghe rõ ràng, dứt khoát . . . Nhịp kép nghe uyển chuyển, bồng bềnh . . . Nhịp 4 có tính cách trầm hùng, chậm rãi . . . Nhịp 2 đều đặn, giống như bước đi . . . thích hợp với nhạc sinh hoạt, thiếu nhi . . . Nhịp 3 thích hợp với vũ điệu, nước chảy . . . Nhịp 6/8 không dứt khoát, thích hợp với thánh ca và hành khúc chậm . . . . Dùng để diễn tả sự bồng bềnh, du dương . . . thì nên dùng nhịp kép nhờ tính chất tương đối, sự chơi vơi, nửa vời của nó, bởi nhịp kép bị chia 3 nên không có tính cách tuyệt đối. Nhịp 2 là loại nhịp tự nhiên của sinh hoạt thiên nhiên nên có tính cách vững chãi, nhất định. Về phách: Phách sau (bước tiến) dùng để khởi tấu, phách một (bước lui) dùng để kết. Dấu lặng dùng để lấy hơi. Tính số ô nhịp: thường thì chỉ tính số ô nhịp khi có nhạc bằng hoặc hơn nửa ô nhịp, nốt ngân của câu kéo dài qua ô nhịp khác, nếu bằng hoặc hơn nửa ô nhịp thì vẫn tính cho câu nhạc đó. Nếu muốn tính ô nhịp đó sang câu khác thì ta dùng dấu lặng để ngăn cách với câu trước. 10 * Giáo Trình Sáng Tác Ca Khúc
- NHỮNG ĐIỀU QUAN TRỌNG KHI SÁNG TÁC: Trong sáng tác âm nhạc thì nhạc tính được coi là quan trọng hơn lời ca, vì nhạc tính là tổng hợp (dùng chung) cho tất cả các loại nhạc cụ, nhạc khí . . . đều có thể diễn tả được, còn lời ca thì chỉ ca viên diễn tả mà thôi. Vì tính chất phổ biến rộng rãi ấy mà nhạc tính được coi là quan trọng hơn. Vì thế khi sáng tác, nhạc tính của một bản nhạc được cần là 75%, lời ca là 25%. Nếu phổ nhạc theo lời có sẵn như: thơ, văn . . . thì chỉ nên xếp đặt lời ca theo ý tổng hợp của đoạn văn, đoạn thơ đó. Tránh xếp đặt nhạc tính theo từng câu, từng đoạn . . . sẽ làm nát ý của một bản nhạc, vì đó là những cái hay nhỏ nhoi, đứt đoạn. Ta nên chú trọng đến cái chung lớn hơn là cái tiểu tiết. Tuy nhiên, có trường hợp ngoại lệ là Bình Ca: một thể loại âm nhạc Gregorian hay dùng trong Thánh Ca truyền thống, Bình Ca là một thể loại âm nhạc mà nhạc tính được coi là thứ yếu, là bổ túc của lời ca, khi sáng tác thể loại này cần phải coi trọng lời ca, giai điệu phát triển kèm theo lời ca, dùng để diễn tả lời ca, vì thế giai điệu cần chú ý quan trọng là sao cho tự nhiên, lên xuống, trầm bổng, diễn tả theo ý tứ của lời ca, theo dấu giọng của ngôn ngữ Việt Nam, vì với tính chất 5 dấu 6 giọng thì tiếng Việt Nam chúng ta đã được người ngoại quốc coi như là vừa nói vừa hát, sao cho giai điệu thật dễ hát như tự nhiên vốn là như thế. Thời gian suy nghĩ để sáng tác thì có thể kéo dài bao lâu cũng được, đến khi đặt bút viết ra thì nên viết liền một mạch cho tới khi hết bài thì mới thôi, để cho ý tưởng được nối kết một cách liền lạc, chặt chẽ, ý nhạc được tuôn ra cho tới khi hết mới nên ngừng, tránh sự ghi chép ngắt quãng vì ý nhạc sẽ trở thành rời rạc, chắp vá . . . Khi sáng tác xong thì coi kỹ lại bài và sửa ngay những chỗ cảm thấy thiếu sót, đừng để một thời gian sau mới sửa, vì những cảm hứng ban đầu không còn nữa, sự sửa đổi lúc đó sẽ làm mất giá trị của bản nhạc. Ta luôn luôn phải nhớ tôn trọng cảm giác ban đầu của tác phẩm. Giáo Trình Sáng Tác Ca Khúc * 11
- Trong nghệ thuật phải tránh sự cân đo bằng lý trí, bằng khối óc . . . bởi vì nghệ thuật là sức sống của con tim, nghệ thuật rất lai láng và vô khuôn vóc. Sự sáng tác không bao giờ để gò khuôn trong lý thuyết. Luôn cố gắng cho có sự sáng tạo, có suy nghĩ đúng đắn, có một tư cách nghệ thuật là đủ, còn cảm hứng thì cứ để tự do tung bay, miễn là đừng có quá đáng. Tất cả những cái đó sẽ tạo ra những trường hợp nghệ thuật bất ngờ rất hay ho và lý thú. Chấp nhận vui vẻ những khuyết điểm trong tác phẩm của mình, coi đó là những cái duyên nghệ thuật của mình, chỉ nên sửa lại đôi chút nếu đó là cái khuyết điểm quá lớn hoặc quá thô lệch so với bản chất của nghệ thuật. Vì vật thể tự nhiên bao giờ cũng cần phải có những khuyết điểm đứng bên cạnh những ưu điểm, để khuyết điểm tôn thêm vẻ đẹp của ưu điểm, để ưu điểm che bớt cái xấu của khuyết điểm. Đó mới đúng là một tác phẩm tự nhiên, vì chỉ có những bức tượng mới có được tất cả mọi nét hoàn mỹ, nhưng nó sẽ chỉ mãi là một bức tượng mà thôi. Trong âm nhạc có 3 yếu tố căn bản: âm điệu, tiết điệu và hòa âm. Ta cố gắng dung hòa cả 3 yếu tố đó trong tác phẩm của mình, sử dụng từng yếu tố một cách có suy nghĩ chín chắn, yếu tố nào thích hợp với đoạn nào? Chỗ nào? . . . Nếu kết hợp được một cách hài hòa, có pha trộn để tạo sự mới lạ, bất ngờ, hấp dẫn . . . Vì tính chất của nghệ thuật âm nhạc là như vậy. Tránh việc dùng đơn thuần một yếu tố, lạm dụng 1 nét đẹp, vì sẽ làm cho bài nhạc trở thành nhàm chán, nghèo nàn. Ví dụ: có 1 câu nhạc hay, ta yêu quí nó, ta dùng nó vài lần, nhưng phải kiên quyết chỉ dùng bất quá tam (không quá 3 lần). Trong câu nhạc mở đầu không nên dừng ở nốt I vì khó có thể gợi ý để đi tiếp, vì thế nên cho dừng trên nốt III hoặc V, đôi khi có thể dừng trên nốt II hoặc VI, ít khi dừng trên nốt IV, hiếm khi dừng trên nốt VII. 12 * Giáo Trình Sáng Tác Ca Khúc
- TÌM HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÂU NHẠC HỨNG: Sau khi đã có một ý nhạc hay ta cần phải đắn đo suy nghĩ xem câu đó thuộc loại nhạc nào? Thiếu nhi, sinh hoạt, tình cảm . . . từ đó tạm lập một dàn bài. Xét tính chất của câu nhạc: - Thích hợp với đơn ca hay cộng đồng? - Có thể thực hiện cho ca đoàn, đơn ca, song ca, tốp ca? - Cần duy trì tốc độ đó hay đổi khác? Hay muốn chỉ thay đổi ở một đoạn nào đó thôi? - Là tiểu khúc hay điệp khúc? Tiểu khúc: dùng kỹ thuật cao dễ nói hết ý định của tác giả. Điệp khúc: kỹ thuật vừa phải sẽ dễ nghe, dễ hát . . . Nói lên được các ý tưởng chung chung. - Nếu mở đầu là thể thứ, nhịp điệu sẽ chậm rãi, chờ được kết ở thể trưởng và nhịp độ sẽ nhanh hơn. - Mở đầu trầm tĩnh dễ dẫn đến sống động, nên chọn làm tiểu khúc. - Mở đầu sống động thì nên chọn làm điệp khúc vì có thể trở về để kết thúc. - Một tác phẩm cũng có bố cục như một bài luận văn: có mở (mở bài), luận (thân bài) và kết (kết luận). Mở: để giới thiệu ý nhạc. Luận: khai triển ý nhạc cho đậm đà phong phú hơn. Kết: tổng hợp ý nhạc lại. - Nếu câu nhạc chỉ có giá trị kỹ thuật thì nên dùng làm bài tập mà thôi. Câu nhạc hay thì cần phải có những nét đặc sắc, sáng tạo . . . nên dùng để làm nên tác phẩm của mình, xét xem nó thuộc loại nào: Lắt léo, khó hát . . . nên dùng cho solo. Đơn sơ, mộc mạc, sáng tạo . . . nên dùng cho hợp ca, những câu nào đắc ý nên được nhắc lại nhiều lần trong tác phẩm để thính giả chú ý đến nét nhạc đó. - Ngoài ra nên suy nghĩ kỹ đến đối tượng của câu nhạc, nên viết ở cung thể nào cho hợp với tính chất của nó? Hợp ca: ưa vui vẻ, đơn sơ, hợp đoàn . . . Đơn ca: ưa trầm lắng, cô đơn, cầu kỳ. Giáo Trình Sáng Tác Ca Khúc * 13
- Xây dựng dòng ca: Một dòng ca được xây dựng trên 2 yếu tố chính là: âm điệu và tiết tấu, hai tính chất này luôn phải đi đôi với nhau, thiếu 1 trong 2 tính chất đó sẽ làm dòng ca mất hay, mất sức quyến rũ. Mặc dù 1 yếu tố cũng có thể đủ để diễn tả một sự kiện nào đó, nhưng vẫn không thể kéo dài, vì dễ nhàm chán, nhức tai . . . CÁCH SỬ DỤNG ÂM ĐIỆU: Là sự liên kết giữa các quãng âm cao thấp, tạo thành chuyển động dựa trên âm giai, âm thể và bậc âm. 1. Việc sử dụng quãng âm: Dòng ca có thể sử dụng mọi hình thức quãng thuận, trưởng, thứ, liền, cách, đơn, kép . . . Hạn chế dùng các quãng nghịch và các quãng tạo bởi các dấu hóa bất thường ngay ở ý nhạc mở đầu, vì sẽ làm cho chủ thể bị loãng ra. Ngoại trừ giữa câu nhạc và các trường hợp cố ý. Các sự sáng tạo sao cho phải hoàn bị và đơn sơ. a. Với quãng đúng: nghe chắc chắn , mạnh bạo . . . đôi khi rất hoang vu: quãng 5 đúng, quãng 4 đúng, quãng 8 đúng . . . b. Với quãng trưởng: nghe phấn khởi, hùng dũng. c)-Với quãng thứ: nghe mềm yếu, mơ mộng . . . 14 * Giáo Trình Sáng Tác Ca Khúc
- d)-Với những quãng nhỏ: gần và liền: rất thích hợp cho nhạc cụ, quãng nhỏ gần và liền nghe giai điệu uyển chuyển, lưu loát . . . e)-Với quãng lớn: xa và cách: nghe mạnh bạo, hùng dũng . . .diễn tả ý lớn và mạnh bạo. 2. Việc sử dụng âm giai, âm thể và hợp âm: a. Với chuyển động liền: ta có thể dùng liên tiếp một chuỗi âm giai. b. Với chuyển động cách: ta có thể dùng ngay những nốt của hợp âm bậc I. Sự xếp đặt hợp âm và âm giai phải căn cho đúng với tiết tấu thì mới xác định được hợp âm cho dòng ca. Hợp âm của ca khúc thường được tính vào đầu mỗi phách, có khi là mỗi ô nhịp. Trong môn hoà âm thì hợp âm được tính theo hàng dọc, mỗi nốt là 1 hợp âm, nhưng trên thực tế tai người nghe bình thường thì nghe và cảm nhận không kịp nếu bài hát được viết ở nhịp độ bình thường θ = 60 trở lên đến Giáo Trình Sáng Tác Ca Khúc * 15
- nhanh hơn, chỉ trong trường hợp bài viết Choral (thể loại này hay hát với tốc độ chậm) thì ta có thể tính theo từng nốt. Nhận xét: Với chuyển động cách nghe cứng cỏi, vì chuyển động với các quãng âm xa, khó hòa âm, khó đặt lời, gây khó cho các bè đồng chuyển. Bởi thế ta nên phối hợp cả hai chuyển động liền và cách để dòng ca được mới lạ, dễ hát, dễ nghe. Khi phối hợp ta nên sử dụng các nốt qua, nốt thêu . . . sẽ giúp cho dòng ca uyển chuyển, tốt đẹp hơn. (+) : Nốt ngoại hợp âm. Những nốt qua, nốt thêu . . . là nốt ngoại hợp âm, rất thích hợp với những từ ngữ có dấu hỏi, ngã, nặng . . . + Dấu hỏi: kép lên hay hơn. + Dấu ngã: kép xuống hay hơn. + Dấu nặng: láy qua láy lại (nốt thêu). Với tiết tấu nhanh không nên dùng các từ có dấu hỏi , ngã, nặng liền nhau, vì sẽ bị bán dấu, á thanh. 3. Định vị trí sử dụng hợp âm: a. Trong ý nhạc mở đầu phải cho thấy rõ vai trò chủ âm và hợp âm của bài, tuy nhiên cũng có thể xen kẽ những hợp âm bậc tốt, riêng với các nốt hợp âm bậc V nên xếp đặt ở các phách yếu và với tiết tấu nhanh. Hợp âm bậv IV thì có thể xếp đặt rõ hơn. 16 * Giáo Trình Sáng Tác Ca Khúc
- b. Đồng thời cũng nên định hợp âm cho dòng ca phát triển tiếp, thông thường thì dòng ca được dẫn qua hợp âm bậc IV hoặc bậc V (bậc tốt chắc hơn bậc thường). c. Không nên chuyển thể hoặc chuyển cung ngay ở câu nhạc mở đầu, dù chỉ là thoáng qua. Nếu khi có ý tưởng đúng đắn cố ý thì sự chuyển biến rất có ý nghĩa. Sự chuyển biến ngay ở câu nhạc đầu nghe có vẻ mới lạ nhưng lại sẽ làm cho cung thể chính bị lu mờ. d. Có thể dùng hình thức trải hợp âm với 3 hình thức: lên, xuống, đảo lộn. Sử dụng trải hợp âm không thích hợp cho các ca khúc vì giọng hát dễ bị sai lạc. Đối với nhạc cụ thì rất tốt, nhất là dùng để diễn tả những sự lưu loát, thánh thót, vang dội . . . như: nước chảy, thủy tinh vỡ, gió lay, nét Á của đàn tranh. Việc sử dụng âm điệu đòi hỏi nhiều kinh nghiệm bằng cách quan sát, tìm hiểu các loại hệ thống âm nhạc và thói quen của chúng. Giáo Trình Sáng Tác Ca Khúc * 17
- Ngoài ra cũng cần tìm hiểu các loại âm giai, các tác giả tiêu biểu, các tác phẩm nổi tiếng. Khi sử dụng âm điệu cần chú ý những điểm sau: - Nốt IV của âm giai trưởng nên cho chuyển động xuống. - Nốt VII của các âm giai đều cho chuyển động lên chủ âm. - Nốt IV của âm giai thứ có thể cho chuyển động lên. - Nốt VI của âm giai thứ nên cho chuyển động xuống liền bậc. - Nốt VI của âm giai trưởng cho chuyển động tùy ý. VÀI CÁCH LÀM MỘT ĐOẠN NHẠC: Để có thể làm một bản nhạc ta phải có nhạc đề, nhạc đề sẽ là những câu nhạc hứng nho nhỏ mà bất cứ lúc nào, nơi nào . . . ta cảm hứng được thì ghi chép lại bằng giấy bút hoặc chữ số để dành cho sau này, khi cần làm một bản nhạc ta cứ việc lựa chọn trong số câu nhạc hứng có sẵn lấy một câu có tâm tình, ý hướng như bản nhạc ta cần làm. Để có một bản nhạc đầy đủ thì ta phải làm từng đoạn, từng câu. CẤU TRÚC MỘT ĐOẠN NHẠC TRUNG BÌNH: Nếu ta có một câu nhạc vào loại trung bình ta sẽ làm theo cách thông thường, vì nhờ tính cách không dài không ngắn của nó. I. Một đoạn nhạc trung bình thường có 4 câu: 1. Câu I: cuối câu ta cho câu nhạc dừng lại trên nốt bậc III hoặc bậc V, tránh dừng ở nốt bậc I, vì sẽ làm cho câu nhạc bị bí, không phát triển được. Câu I này sẽ được dùng kết bằng hợp âm bậc I (sơ kết) nhờ dừng ở các nốt bậc III hoặc V. Câu này nếu là trung bình thường có khoảng 4 hoặc 5 ô nhịp, loại nhịp ngắn: 2/4, 3/4 . . . 2. Câu II: Ta bắt đầu việc phát triển câu nhạc đề thêm ra thành câu nữa là câu thứ II, trong câu này ta có quyền phỏng tạo thêm bằng cách từ câu I ta nâng lên hoặc hạ xuống vài bậc âm. Tuy nhiên ta 18 * Giáo Trình Sáng Tác Ca Khúc
- phải tuân theo điều kiện là giữ nguyên số ô nhịp bằng với câu I, tiết tấu của mỗi ô nhịp cũng phải giữ nguyên bằng với câu I, ở khởi và kết phải thật cân đối với câu I. Như thế có nghĩa là ta tha hồ phỏng tạo về âm điệu, có thể cả tiết tấu nữa, các bước đi của câu nhạc . . . nhưng cố gắng để giữ được cái tính chất của câu I. Câu II sẽ dừng trên nốt bậc II hoặc V để dùng hợp âm bậc V (bán kết). Tránh dừng ở nốt cảm âm (tuy nhiên, nếu nhạc hứng cần thì ta vẫn có thể). 3. Câu III: Viết lại y như câu I kèm theo các điều kiện: không dừng ở nốt bậc I, nên dừng ở nốt bậc VI, với chuyển động I xuống VI thì rất tốt, để cho câu III này được dừng ở lánh kết. Như vậy ta vẫn phải giữ nguyên số ô nhịp nhất định như ở câu I. Ở âm giai thứ, lánh kết ngoài hợp âm bậc VI còn có thể hiểu là hợp âm bậc IV nữa. Khi khởi câu III có thể cho khởi trước hoặc sau so với câu I khoảng nửa phách để tạo sự mới lạ cho câu III. Tuy nhiên sự sáng tạo này cũng phải được dùng tùy theo điều kiện khởi của từng câu nhạc đề có thể được mà thôi. 4. Câu IV: Giữ nguyên số ô nhịp cho cân đối với các câu trên. Về âm điệu và tiết tấu ta được hoàn toàn tự do, miễn là đừng quá lạc xa với các câu trên. Ở khởi câu IV ta có thể giữ sự sáng tạo về khởi của câu III (nếu có) để tạo thành một cái sáng tạo cố ý của mình. Cuối câu ta dẫn câu nhạc về toàn kết. Có thể dừng sớm hoặc trễ hơn các câu khác miễn là vẫn giữ đủ số ô nhịp. Ngoài ra ta còn phải để ý thêm: Nếu khởi câu IV bằng tiết tấu động thì nên dừng sớm với tiết tấu tĩnh. Nếu khởi câu IV với tiết tấu tĩnh thì kết với tiết tấu động và đúng bằng các câu trên về số ô nhịp, có thể muộn hơn một chút. Như vậy: Một đoạn nhạc trung bình được cấu tạo bằng 4 câu nhạc trung bình. Câu I: khoảng 4, 5 ô nhịp. Kết bằng sơ kết. Câu II: phỏng tạo từ câu I. Kết bằng bán kết. Câu III: viết lại câu I khoảng 3/4. Kết bằng lánh kết. Câu IV: hoàn toàn tự do. Kết bằng toàn kết. Giáo Trình Sáng Tác Ca Khúc * 19
- Nếu lỡ có câu nhạc đề dài: 8 ô nhịp 2/4 hoặc 4 ô nhịp C . . . Ta sẽ làm đoạn nhạc này chỉ có 2 câu nhạc khác nhau mà thôi. 2 câu nhạc khác nhau đó sẽ được xếp ở câu I và câu II. - Câu I: là câu nhạc đề với kết bằng sơ kết. - Câu II: sáng tạo khác câu I nhưng đừng xa lạc quá để tránh lạc đề, dẫn về bán kết. - Câu III: viết lại y như câu I, kết bằng sơ kết như câu I hoặc lái sang lánh kết. - Câu IV: viết giống câu II nhưng dẫn về toàn kết để kết cả đoạn nhạc. Nếu muốn làm một đoạn nhạc có câu dài: Nhiều khi ta chỉ có một nhạc đề ngắn mà lại muốn làm một đoạn nhạc dài. Ta có thể bắt đầu cho đoạn nhạc đó trở thành dài, từ câu nhạc đề ngắn đó. Ta làm câu I bằng nhạc đề ngắn đó cộng thêm sự phỏng tạo những nét ngắn của câu nhạc đề hoặc một vài phần trong câu nhạc đề. Ngoài ra ta còn có thể làm câu I dài bằng nhạc đề đó cộng với sự phỏng tạo bằng cách nhồi lại câu nhạc đề, hoặc nâng lên, hoặc hạ xuống một vài bậc âm, hoặc nhồi lại theo tiết tấu và đổi âm điệu . . . hoặc giữ âm điệu mà đổi tiết tấu . . . như thế câu nhạc đề của ta sẽ dài ra như ý muốn. Sau đó ta lại làm thêm các câu II, III và IV để được một đoạn nhạc dài. Các câu nhạc sẽ vẫn tuân theo các điều lệ về phỏng tạo, khởi, kết, tiết tấu, âm điệu . . . theo như các quy tắc đã đặt ra. KHÁI NIỆM VỀ CÂN ĐỐI, CÂN PHƯƠNG: Trong khi sáng tạo nhạc ta phải tuân theo luật sáng tác là luật cân phương và luật cân đối, luật này nhằm để tạo cho thính giác khi cảm 20 * Giáo Trình Sáng Tác Ca Khúc