Giáo trình Sự kỳ thị đối với lao động nhập cư nghèo tại các đô thị Việt Nam - Phạm Văn Quyết
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Sự kỳ thị đối với lao động nhập cư nghèo tại các đô thị Việt Nam - Phạm Văn Quyết", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_su_ky_thi_doi_voi_lao_dong_nhap_cu_ngheo_tai_cac.pdf
Nội dung text: Giáo trình Sự kỳ thị đối với lao động nhập cư nghèo tại các đô thị Việt Nam - Phạm Văn Quyết
- TRIẾT - LUẬT - TÂM LÝ - XÃSự kỳHỘI thị đối HỌC với lao động nhập nghèo Sự kỳ thị đối với lao động nhập cư nghèo tại các đô thị Việt Nam Phạm Văn Quyết* Trần Văn Kham Tóm tắt: Sự kỳ thị là một trong các rào cản khó tháo gỡ đối với quá trình hòa nhập xã hội của lao động nhập cư nghèo tại các đô thị Việt Nam hiện nay. Nhận diện bản chất của kỳ thị cũng như cảm nhận của nhóm lao động nhập cư về kỳ thị này là cần thiết để tìm ra các giải pháp tháo gỡ. Bài viết phân tích sự kỳ thị xảy ra trong một số lĩnh vực hoạt động sống cơ bản của nhóm lao động này trong đời sống đô thị. Theo các tác giả, đó là một trong các nguyên nhân tạo ra sự khác biệt, khoảng cách khó vượt qua giữa lao động nhập cư nghèo với cộng đồng cư dân đô thị. Do sự kỳ thị đó nên trong cuộc sống hàng ngày nhóm lao động nhập cư trở nên khép kín, co cụm, ít hòa nhập vào đời sống cộng đồng cư dân nơi họ sinh sống và làm việc. Từ khóa: Sự kỳ thị; hòa nhập xã hội; lao động nhập cư nghèo; đô thị Việt Nam. 1. Mở đầu đến những trở ngại, khó khăn đối với sự Sự gia tăng tốc độ đô thị hóa của Việt hòa nhập xã hội của nhóm lao động di cư ở Nam trong hơn hai thập kỷ qua đã tạo cơ Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.(*)Đặc hội thúc đẩy mạnh mẽ các dòng di cư trong biệt, thông qua kết quả từ thống kê và từ nước, đặc biệt là dòng di cư từ nông thôn ra các điều tra đối với lao động nhập cư, đô thị. Nổi bật lên trong dòng di cư này là nghiên cứu hướng đến nhận diện và làm rõ di cư của người lao động từ các vùng nông những rào cản đối với quá trình hòa nhập xã thôn ra Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. hội của lao động nhập cư nghèo ở một số Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm lĩnh vực hoạt động cơ bản như lao động 2013 tỷ suất nhập cư vào Hà Nội là 7,7%; việc làm, trong đời sống sinh hoạt cộng vào Thành phố Hồ Chí Minh là 16,5%. đồng, trong sử dụng các dịch vụ công và Kèm theo dòng di cư này là hàng loạt vấn đề xã hội nảy sinh trong đời sống đô thị và (*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học xã ngay với chính người nhập cư. Đó là những hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. vấn đề trong quản lý đô thị, sức ép với cơ ĐT: 0912470932. Email:quyetpv@vnu.edu.vn. sở hạ tầng, sự hòa nhập xã hội của người di Nghiên cứu này được sự tài trợ của Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (Nafosted) trong cư về việc làm, thu nhập, nhà ở, văn hóa, đề tài mã số I3.1-2012.11. lối sống và các dịch vụ xã hội, Bài nghiên ( ) Tiến sĩ Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. cứu này phân tích ở chiều cạnh liên quan ĐT: 0936404540. Email:khamtv@ussh.edu.vn. 43
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11(96) - 2015 trong các trải nghiệm đời sống đô thị của hành nghề xe ôm, phụ hồ, bán hàng rong lao động nhập cư dưới góc độ của sự kỳ thị hay lao động giúp việc nhà, Phần lớn đó và tự kỳ thị. là các công việc nặng nhọc, không ổn định, 2. Kỳ thị trong lĩnh vực lao động việc bụi bặm, đôi khi là độc hại mà người thành làm phố hiếm khi làm. Chính đặc điểm phân Đa số người lao động nghèo nhập cư vào biệt rõ nét trong việc làm như vậy là cơ sở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thời cho sự kỳ thị, từ đó tạo ra một nhóm lao gian vừa qua đều vì động cơ kinh tế. Họ động đặc thù, dễ bị tổn thương trong số các đến thành phố với hy vọng tìm kiếm được nhóm người di cư vào thành phố. Kết quả một công việc khả dĩ, phù hợp với trình độ, nghiên cứu ý kiến của hơn một nghìn lao sức khỏe và có thu nhập. Họ có thể là lao động nhập cư nghèo ở Hà Nội và Thành động làm việc trong các khu công nghiệp, phố Hồ Chí Minh về khả năng tìm kiếm lao động làm thuê trong các cơ sở sản xuất, việc làm, đặc điểm của công việc, sự đối xử kinh doanh nhỏ, trong các đội/nhóm thợ của chủ lao động đối với họ được thể hiện xây dựng, dịch vụ hoặc là lao động tự do tại bảng 1. Bảng 1: Mức độ xảy ra một số vấn đề về lao động việc làm đối với người trả lời (%) Mức độ thường xuyên xảy ra Các vấn đề Thường Thỉnh Có, Không bao xuyên thoảng nhưng ít giờ Cạnh tranh kiếm việc làm 17,6 32,5 21,1 28,8 Việc làm nặng nhọc, nguy hiểm 8,5 22,5 28,6 40,4 Thiếu kỹ năng, kinh nghiệm 12,0 33,3 26,2 28,5 Bị chủ sử dụng lao động đối xử 2,6 14,2 30,9 52,3 không tốt Nguồn: Kết quả điều tra của đề tài Bảng 1 cho thấy, tuy mức độ thường (47,7%) số người trả lời đối với họ đã từng xuyên có khác nhau, song trong số 1.040 xảy ra trường hợp bị người sử dụng lao người lao động nhập cư nghèo tham gia trả động đối xử không tốt. Tuy không chiếm số lời câu hỏi này đã có tới hơn 70% thừa đông và cũng không phải thường xuyên, nhận trong tìm kiếm việc làm họ đã phải song tỷ lệ lao động nhập cư thừa nhận đã cạnh tranh và trong công việc họ còn thiếu từng bị “chủ” đối xử không tốt trong lao kỹ năng, kinh nghiệm. Đặc biệt có gần 60% động như vậy cũng rất đáng để xem xét số người trả lời cho rằng họ đã trải qua việc dưới góc độ của sự kỳ thị. Chính thái độ đối làm nặng nhọc, nguy hiểm và gần một nửa xử đó không những chỉ làm cho lao động 44
- Sự kỳ thị đối với lao động nhập nghèo nhập cư thiếu yên tâm và ít gắn bó với công sự ràng buộc nào. việc, mà còn góp phần làm sâu sắc hơn ở họ Kỳ thị cảm nhận (tự kỳ thị) của lao động tính tự ty, mặc cảm trong các mối quan hệ nghèo nhập cư trong lĩnh vực lao động việc lao động và việc làm. làm cũng rất cần được đề cập đến trong Phân tích sâu hơn với chỉ báo này theo nghiên cứu này. Với đặc thù về việc làm và các nhóm nghề nghiệp, kết quả nghiên cứu sự khác biệt trong công việc, sự đối xử có cho thấy người lao động nhập cư thuộc các tính tiêu cực cũng dễ dẫn đến thái độ tự ty, đội xây dựng, dịch vụ phản ánh đã từng bị tự hạ thấp mình, làm mất đi lòng tự tin “chủ” đối xử không tốt ở tỷ lệ cao nhất, trong quan hệ công việc ở chính người lao chiếm 53,5%, trong khi với các nhóm lao động nhập cư nghèo. Ba chỉ báo được đưa động khác tỷ lệ này ở mức thấp hơn: 48,2% ra xem xét trong trường hợp này là khả với nhóm công nhân trong các khu công năng tìm được việc làm ổn định, sự e ngại nghiệp là 45,2% với nhóm lao động trong thái độ thiếu thiện cảm của mọi người khi các cơ sở sản xuất, kinh doanh nhỏ. Thực tế làm việc và sự lo ngại bị phân biệt đối xử cho thấy sự gắn kết người nhập cư lao động trong công việc. Kết quả khảo sát về mức trong các đội xây dựng, dịch vụ lỏng lẻo độ cảm nhận của lao động nhập cư theo các nhất, họ dễ dàng bỏ việc, về quê mà ít chịu chỉ báo trên được thể hiện tại bảng 2. Bảng 2: Cảm nhận của người nhập cư nghèo về việc làm và các quan hệ trong lao động (%) Mức độ thường xuyên cảm nhận Các tình huống, quan hệ Thường Thỉnh Có, nhưng Chưa bao xuyên thoảng ít giờ Khó tìm được việc làm ổn định 24,1 34,3 23,4 18,2 E ngại thái độ thiếu thiện cảm 4,9 29,6 30,1 35,4 của mọi người khi làm việc Lo ngại bị phân biệt đối xử trong 4,4 23,2 30,5 42,0 công việc Nguồn: Kết quả điều tra của đề tài Bảng 2 cho thấy, dù thường xuyên, thỉnh lao động nhập cư nghèo nhận thấy tình trạng thoảng hay ít khi, song ở một tỷ lệ khá cao khó tìm việc làm ổn định chiếm tỷ lệ cao trong số người trả lời đã xuất hiện những nhất (81,8%) trong số 3 chỉ báo trên. Tương chiều cạnh nhất định của sự kỳ thị cảm nhận. tự tỷ lệ lao động nhập cư nghèo có sự e ngại Cụ thể, số lao động nhập cư nghèo cho rằng thái độ thiếu thiện cảm của mọi người khi chưa bao giờ thấy tình trạng khó tìm việc làm việc là 64,6% và lo ngại bị phân biệt đối làm ổn định chiếm tỷ lệ nhỏ nhất (18,2%), số xử trong công việc là 58,0%. 45
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11(96) - 2015 Kỳ thị gặp phải hay kỳ thị cảm nhận Trong khảo sát với lao động nhập cư trong lĩnh vực việc làm, nhất là trong quan nghèo, số lao động nhập cư không bao giờ hệ lao động đều làm xuất hiện ở lao động hoặc hiếm khi đến thăm gia đình người nhập cư nghèo thái độ nghi ngờ, thiếu tự dân sở tại và ngược lại đều chiếm tỷ lệ khá tin, tự hạ thấp giá trị và khả năng lao động lớn (ở mức 65,5% và 66,7%); con số tương của bản thân, dễ chấp nhận tình trạng công tự giữa họ với đại diện chính quyền và đại việc mang đặc trưng của nhóm, thiếu ý thức diện các đoàn thể còn ở mức cao hơn (với vươn lên để học hỏi và hòa nhập vào cộng đại diện chính quyền ở mức 83,7% và đồng những người lao động cùng làm việc 80,6%, với đại diện các đoàn thể ở mức trong môi trường sống ở đô thị. 80,9% và 77,9%). Người lao động nhập cư 3. Kỳ thị trong tham gia đời sống cộng chỉ tham gia những hoạt động hoặc các tổ đồng nơi sinh sống chức xã hội khi họ được chính quyền và Tham gia vào các hoạt động sống tại các đoàn thể địa phương mời tham dự, cộng đồng, nơi người nhập cư sinh sống và trong khi đó tỷ lệ lao động nghèo nhập cư làm việc là một chỉ báo quan trọng cho sự được mời luôn luôn ở mức thấp; cụ thể, số hòa nhập xã hội của họ. Đối với lao động lao động được mời tham gia các hoạt động nhập cư nghèo sự tham gia của họ vào đời văn hóa, thể thao của địa phương là 39,0%, sống xã hội tại cộng đồng đô thị gặp rất được mời họp tổ dân phố: 48,6%, được nhiều trở ngại, trong đó sự khác biệt về mời tham gia một tổ chức đoàn thể bất kỳ văn hóa, lối sống và sự kỳ thị là những trở của địa phương: 36,5%. ngại rất khó vượt qua. Dường như giữa Nghiên cứu về ý kiến của lao động nhập người dân sở tại và ngay cả các đoàn thể cư nghèo theo 2 biến số quan sát liên quan địa phương với những người nhập cư đến sự kỳ thị gặp phải: (bị dân sở tại xa lánh nghèo luôn có một khoảng cách, đôi khi là và bị đại diện của chính quyền/công an coi sự xa lánh, thậm chí là sự coi thường. thường) đã cho kết quả như sau (Bảng 3). Bảng 3: Mức độ kỳ thị gặp phải của lao động nhập cư trong đời sống cộng đồng (%) Mức độ thường xuyên xảy ra Các trường hợp Thường Thỉnh Có, nhưng ít Chưa bao xuyên thoảng giờ Bị dân sở tại xa lánh 0,7 4,5 18,9 75,9 Bị đại diện của chính quyền/ 2,1 5,3 15,4 77,1 công an coi thường Nguồn: Kết quả điều tra của đề tài Số lao động nhập cư nghèo trả lời rằng lệ ở mức cao. Tuy nhiên, với số lượng gần họ chưa bao giờ bị dân sở tại xa lánh và bị ¼ số người tham gia trả lời câu hỏi đã từng chính quyền/công an coi thường chiếm tỷ bị dân sở tại xa lánh và bị đại diện chính 46
- Sự kỳ thị đối với lao động nhập nghèo quyền địa phương coi thường cũng là con kỳ thị cảm nhận. số rất đáng quan tâm. Bởi lẽ, tin tức về một Nghiên cứu về kỳ thị cảm nhận ở lao lao động nhập cư bị ứng xử như vậy sẽ lan động nhập cư trong trường hợp này cũng nhanh chóng trong cộng đồng; từ đó làm được chúng tôi khảo sát theo 2 biến số gia tăng số lượng lao động nhập cư có liên quan đến ý kiến đánh giá về cảm quan điểm và sự đánh giá tiêu cực với nhận của họ khi tiếp xúc với dân sở tại người dân và đại diện đoàn thể, chính và đại diện chính quyền, đoàn thể địa quyền sở tại; làm khoảng cách giữa họ phương. Kết quả nghiên cứu được mô tả thêm rộng hơn, cũng như làm tăng thêm số tại bảng 4. Bảng 4: Kỳ thị cảm nhận ở người nhập cư nghèo khi tiếp xúc với người dân và đại diện chính quyền sở tại (%) Mức độ thường xuyên của sự cảm nhận Các tình huống Thường Thỉnh Có, nhưng Chưa bao xuyên thoảng ít giờ Cảm thấy thiếu tự tin khi tiếp xúc với 7,0 23,7 25,6 43,7 người dân sở tại E ngại khi có việc phải tiếp xúc với 11,2 26,4 21,5 40,8 chính quyền, đoàn thể địa phương Nguồn: Kết quả điều tra của đề tài Bảng 4 cho thấy, cảm nhận thiếu tự tin động nhập cư nghèo vào các hoạt động và thái độ e ngại khi phải tiếp xúc với sống của cộng đồng và vào các tổ chức xã người dân sở tại và đại diện chính quyền, hội địa phương nơi sinh sống. đoàn thể địa phương xuất hiện ở lao động 4. Kỳ thị trong tiếp cận và sử dụng các nhập cư nghèo với tần xuất không thật dịch vụ công thường xuyên, mà phần lớn chỉ ở mức độ ít Một trong các chiều cạnh quan trọng cho khi hoặc thỉnh thoảng. Song cũng từ bảng đánh giá sự hòa nhập xã hội của lao động số liệu này chúng ta dễ thấy một tỷ lệ lớn nhập cư là khả năng của họ trong việc tiếp (đều chiếm hơn một nửa) số lao động nhập cận và sử dụng các dịch vụ công. Liên quan cư đã từng có thấy thiếu tự tin và sự e ngại đến vấn đề này nghiên cứu xem xét ý kiến khi tiếp xúc với chính quyền, đoàn thể và đánh giá của lao động nhập cư nghèo về người dân sở tại. Chính sự thiếu tự tin và mức độ khó khăn mà họ gặp phải khi tiếp sự e ngại này đã hướng họ đến cuộc sống cận và sử dụng các dịch vụ y tế, giáo dục, co cụm, né tránh, ít tiếp xúc, ít tham gia ngân hàng, hành chính. Kết quả khảo sát cho các hoạt động xã hội nơi đô thị. Có thể nói thấy số đông trong các lao động nhập cư đã đây là những khó khăn, trở ngại có tính từng sử dụng các dịch vụ này đều gặp những thường trực đối với sự tham gia của lao khó khăn, trở ngại nhất định (Bảng 5). 47
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11(96) - 2015 Bảng 5: Ý kiến của lao động nhập cư nghèo về mức độ khó khăn khi tiếp cận, sử dụng các dịch vụ xã hội (%) Các dịch vụ sử dụng Mức độ khó khăn Rất khó khăn Khó khăn Không khó khăn Khám chữa bệnh 8,2 17,7 74,1 Đăng ký khai sinh cho con 32,8 25,6 41,6 Xin học cho con 32,8 28,5 38,6 Vay tín dụng qua các đoàn thể 42,0 24,3 33,7 Vay ngân hàng 39,0 22,5 38,5 Nguồn: Kết quả điều tra của đề tài Trừ dịch vụ y tế với nhiều hình thức mẽ quá trình hòa nhập của họ vào đời sống khác nhau cho sự lựa chọn khám chữa bệnh đô thị. của người nhập cư và dường như không Kỳ thị cảm nhận trong tiếp cận và sử chịu sự ràng buộc nào, còn đối với các dịch dụng các dịch vụ công ở lao động nhập cư vụ khác như đăng ký khai sinh, xin học cho trong nghiên cứu được chúng tôi quan tâm con, vay tín dụng, ngân hàng đều ít nhiều nhiều hơn đối với dịch vụ y tế. Đây là loại gắn với vấn đề hộ khẩu, trong khi đó đa số dịch vụ mà hầu hết lao động nhập cư đã sử lao động nhập cư trong điều tra không có dụng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, gần 2/3 hộ khẩu thành phố, hầu hết trong số này số người trả lời (69,7%) đã từng có cảm đều thuộc diện đăng ký tạm trú KT3 và nhận e ngại về sự đối xử của nhân viên y tế KT4 hoặc không khai báo (chiếm 93,3%). khi họ đến các cơ sở y tế khám chữa bệnh Chính vì vậy đối với việc tiếp cận và sử cho mình hoặc cho người thân, bạn bè; dụng những dịch vụ này lao động nhập cư trong đó có 12,9% thường xuyên xuất hiện nghèo luôn gặp những khó khăn nhất định. cảm giác này. Chính sự mặc cảm, sợ bị ghẻ Có thể nói đây chính là sự phân biệt đối xử, lạnh, sợ bị phân biệt đối xử, không tin một trong những biểu hiện của sự kỳ thị tưởng đã hướng họ đến cách chữa bệnh gặp phải. mang tính đặc trưng của nhóm: mua thuốc Bảng 5 cho thấy, ít nhất 1/3 số lao động về tự chữa (47,3% số lao động được hỏi), nhập cư nghèo rất khó khăn khi tiếp cận, sử rút lui khỏi các dịch vụ y tế phong phú, đa dụng các loại dịch vụ đăng ký khai sinh, xin dạng, hiệu quả tại các đô thị. học cho con, vay tín dụng, ngân hàng và 5. Kỳ thị qua sự trải nghiệm trong đời trong số đó khó khăn trở ngại nhất là việc sống đô thị sử dụng dịch vụ vay tín dụng thông qua các Các vấn đề xã hội thuộc đời sống giao đoàn thể. Có thể nói những hạn chế trong tiếp sinh hoạt hàng ngày mà mỗi lao động tiếp cận và sử dụng các dịch vụ công là một nhập cư từng gặp phải đều là những trải trong các yếu tố góp phần làm tăng thêm nghiệm quý giá đối với họ. Những trải tính “yếu thế”, tính “dễ bị tổn thương” của nghiệm này có thể hữu ích, là động cơ thúc lao động nhập cư nghèo, gây cản trở mạnh đẩy, song cũng có thể là rào cản, gây khó 48
- Sự kỳ thị đối với lao động nhập nghèo khăn đối với quá trình hòa nhập xã hội của nhập cư nghèo tại đô thị. Trải nghiệm về sự lao động nhập cư vào đời sống đô thị. Ở quấy rối tình dục, sự phân biệt đối xử, sự đây chúng tôi sẽ đề cập đến một số trải bắt nạt, đe dọa như đối với kẻ yếu thế, như nghiệm có tác động tiêu cực đến quá trình các chiều cạnh khác nhau của sự kỳ thị hòa nhập xã hội của những người lao động (Bảng 6). Bảng 6: Mức độ một số tình huống gặp phải của người nhập cư nghèo trong đời sống đô thị (%) Một số tình huống gặp Mức độ thường xuyên của trải nghiệm phải Thường xuyên Thỉnh thoảng Có, nhưng ít Chưa bao giờ Bị lạm dụng tình dục 0,6 3,9 12,8 82,7 Bị bắt nạt, đe dọa 1,1 7,0 20,0 70,9 Bị phân biệt đối xử 1,3 8,6 20,3 69,8 Nguồn: Kết quả điều tra của đề tài Trải nghiệm về sự phân biệt đối xử phân biệt đối xử và một số tình huống chiếm tỷ lệ cao nhất trong mức độ thường tương tự đều là những trải nghiệm mang xuyên, thỉnh thoảng và ít gặp (chiếm tính đặc trưng khá nổi bật của nhóm lao 30,2%). Số người gặp phải tình trạng bị lạm động nghèo nhập cư. Sự kỳ thị ở đây tuy dụng tình dục chiếm tỷ lệ thấp nhất (cả ở 3 chưa đến mức khinh miệt, xa lánh, tẩy mức độ thường xuyên, thỉnh thoảng và ít chay, song nó cũng là nguyên nhân khiến gặp chiếm 17,3%) trong số người tham gia cho nhóm lao động này hướng đến sự chịu trả lời. Khi phân tích tương quan theo các đựng nhẫn nhục, từ đó xa lánh và ít tham nhóm giới tính, tuổi tác, thời gian nhập cư gia vào các hoạt động chung của cộng đồng và nghề nghiệp với các tình huống mà họ cư dân đô thị. đã gặp, chúng tôi thấy có sự khác biệt nhất 6. Kết luận định giữa các nhóm đối tượng. Nhóm phụ Thực tế cho thấy có sự kỳ thị đối với lao nữ trẻ mới nhập cư, nhóm lao động tự do động nhập cư nghèo tại Hà Nội và Thành hoặc bán hàng rong chiếm tỷ lệ cao trong số phố Hồ Chí Minh hiện nay. Sự kỳ thị tuy các nhóm lao động đã từng trải qua các tình chưa thật phổ biến, song cũng đã thể hiện rõ huống này. Tuy nhiên, ở nhóm lao động xã nét trong một số lĩnh vực hoạt động cơ bản hội nào cũng có tỷ lệ nhất định phản ánh đã của lao động nhập cư nghèo. từng trải qua các tình huống trên. Ngay cả Những đặc trưng về lao động, việc làm nhóm lao động giúp chăm sóc người bệnh và thu nhập của những người lao động nhập tại bệnh viện, được gọi là “ô-sin bệnh viện”, cư nghèo tại các đô thị đã tạo ra một nhóm cũng thường bị bắt nạt, quấy rối: “Những lao động - xã hội đặc thù, dễ bị tổn thương, “ô-sin” bệnh viện đều phải chi tiền “lót tay” bị phân biệt đối xử trong quan hệ lao động, cho một số y tá, điều dưỡng, nếu không họ do bị kỳ thị xã hội nên họ thiếu tự tin, tự hạ sẽ bị kiểm tra, hoạnh họe thường xuyên”. thấp khả năng của bản thân, sống co cụm, Có thể nói bị bắt nạt, bị lạm dụng, bị thiếu ý thức vươn lên để hòa nhập vào cộng 49
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11(96) - 2015 đồng những người lao động cùng làm việc Tài liệu tham khảo trong môi trường sống ở đô thị. 1. Viện Nghiên cứu phát triển xã hội (ISDS) Trong đời sống cộng đồng nơi sinh sống, (2013), Chi phí kinh tế của sống với khuyết tật giữa lao động nhập cư nghèo với người dân và kỳ thị ở Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội. bản địa, chính quyền, đoàn thể địa phương 2. Trần Văn Kham (2013), “Nghiên cứu về thường ít có sự tiếp xúc, thăm hỏi, giữa hai hoà nhập xã hội: Một số hàm ý cho Việt Nam”, bên luôn luôn tồn tại một khoảng cách khó Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, vượt qua. Người nhập cư thường gặp phải tr.24, số 4. sự xa lánh, ghẻ lạnh của một số đáng kể cư 3. Brenda Major, Laurie T. O'Brien (2005), dân thành phố, sự coi thường, thậm chí là “The Social Psychology of Stigma”, Annual xua đuổi của một vài đại diện cơ quan Review of Psychology 56 (1). chính quyền sở tại. Sự kỳ thị này làm cho 4. Corrigan, P. W., et al. (2004), “Stigmatizing người lao động nhập cư thiếu tự tin, mặc Attitudes about Mental Illness and Allocation cảm khi giao tiếp với người dân sở tại, hoặc of Resources to Mental Health Services”, e ngại, sợ hãi khi có công việc với chính Community Mental Health Journal, No 40 (4). quyền và các đoàn thể địa phương nơi sinh 5. Cox, William TL; Abramson, Lyn Y.; Devine, sống. Từ đây, họ sống co cụm, né tránh, Patricia G.; Hollon, Steven D. (2012), Stereotypes, ngại tham gia các hoạt động xã hội, cũng Prejudice and Depression: The Integrated Perspective, như các đoàn thể địa phương nơi sinh sống. Perspectives on Psychological Science 7 (5). Sự phân biệt đối xử liên quan đến vấn đề 6. Frosh, Stephen (2002), The Other, American hộ khẩu cùng những khó khăn trong tiếp Imago 59.4.389-407. Prin. cận và sử dụng một số dịch vụ công đối với 7. Heatherton, TF; Kleck, RE; Hebl, MR; Hull, lao động nhập cư nghèo cũng là một trong JG (2000), The Social Psychology of Stigma. các yếu tố góp phần làm tăng thêm ở họ Guilford Press. ISBN 1-57230-573-8. tính dễ bị tổn thương, càng làm gia tăng sự 8. Mitchell G Weiss and Jayashree Ramakrishna khác biệt giữa họ với cư dân đô thị. (2006), Stigma Interventions and Research for Những trải nghiệm trong đời sống đô thị International Health, The Lancet. của lao động nhập cư nghèo như bị lạm 9. Ontario Human Rights Commission (OHRC) dụng, bị bắt nạt, bị phân biệt đối xử tuy (2015), không phải đối với số đông và cũng không BB%81-nh%C3%A2n-quy%E1%BB%81n/k% E1% phải ở mức độ cao của sự kỳ thị, song điều BB%B3th%E1%BB%8B-l%C3%A0-g% C3%AC đó đã làm tăng thêm tính đặc thù của nhóm 10. Lạc Thành, Hồng Thanh (2015), “Bệnh lao động này, tạo ra ở họ sự chịu đựng nhẫn nhân gần đất xa trời vẫn quấy rối tình dục nữ nhục, lối sống khép kín, ngại hòa nhập. osin”, Nguoiduatin.vn, ngày 18/6/2015. Nhận diện rõ kỳ thị đối với lao động 11. Lạc Thành, Phạm Thiệu (2015), “Những nhập cư nghèo tại các đô thị là điều cần góc khuất khó tỏ bày của nghề “Ô-sin bệnh thiết đối với các cơ quan chức năng trong viện”, Nguoiduatin.vn, ngày 21/6/2015. việc đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy 12. Tổng cục Thống kê, Số liệu thống kê, quá trình hòa nhập xã hội của nhóm lao Dân số và lao động. động nhập cư. default.aspx?tabid=714. 50
- Sự kỳ thị đối với lao động nhập nghèo 51