Giáo trình Tâm lý học bệnh nhân các chuyên khoa
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Tâm lý học bệnh nhân các chuyên khoa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_tam_ly_hoc_benh_nhan_cac_chuyen_khoa.pdf
Nội dung text: Giáo trình Tâm lý học bệnh nhân các chuyên khoa
- TÂM LÝ HỌC BỆNH NHÂN CÁC CHUYÊN KHOA Mục tiêu học tập 1.Mô tả được những đặc điểm tâm lý của bệnh nhân nội khoa, lão khoa, nhi khoa 2.Trình bày được thái độ của thầy thuốc để tác động tâm lý bệnh nhân nội khoa, lão khoa và nhi khoa . MỞ ĐẦU Tuy vậy mỗi chuyên khoa bệnh nhân có những đặc điểm tâm lý riêng. Bệnh nội khoa và lão khoa thường là những bệnh mãn tính, khó chữa, dễ tái phát, do đó người mắc bệnh nội khoa, thường có nhiều rối loạn tâm lý. Đặc biệt là các bệnh nhân già có những biến đổi sinh lý và do đó có nhiều biến đổi về tâm lý. Thầy thuốc cần phải có thái độ đúng đắn, nâng đỡ cho người bệnh nội khoa và lão khoa bởi vì đối với các bệnh mãn tính đôi khi thuốc men tỏ ra vô hiệu, mà cần có sự nâng đỡ về tinh thần. I. ĐỐI VỚI BỆNH NHÂN NỘI KHOA 1.Những rối loạn về tâm lý chung bệnh nhân nội khoa Đặc điểm của bệnh nhân tổn thương nội tạng thường biểu hiện trầm lặng, lo lắng, suy nghĩ về các rối loạn chức năng sinh lý như : đau đầu , mất ngủ, ăn kém, đôi khi bệnh nhân tự cách ly mình, ít thổ lộ với ai. Có những bệnh nhân sốt ruột muốn mau lành bệnh muốn thầy thuốc nhanh chóng tìm ra bệnh nên phát hiện các rối loạn lung tung cái gì cũng cho là bệnh lý. Tuy vậy thầy thuốc phải kiên trì lắng nghe. Có bệnh nhân muốn chống lại bệnh tật, không thừa nhận bệnh tật do thầy thuốc trước đó đã chẩn đoán, mà tự cho là mình bị bệnh này bệnh khác thích thầy thuốc chẩn đoán theo ý mình, ngoài ra một số bị mê tín đạo giáo chạy chữa lung tung. Do bệnh tái đi tái lại cho nên nghi ngờ tính chính xác của xét nghiệm và chẩn đoán, nhiều bệnh nhân nghĩ rằng bệnh viện chưa làm đầy đủ cho họ những việc cần phải làm, dễ định kiến thắc mắc nhân viên y tế. 1.1. Nguyên nhân những rối loạn tâm lý Nếu kết quả thì bệnh nhân vui tươi, thay đổi khí sắc, tin tưởng làm cơ sở điều trị tiếp tục có kết quả tốt. Nếu dai dẳng, hiện tượng suy nhược rõ rệt thì lo lắng hoang mang, do đó quá trình hưng phấn sút giảm quá trình ức chế chiếm ưu thế ở hai bán cầu đại não nên bệnh nhân dễ ưu tư, lo lắng đồng thời vùng dưới võ phát sinh hưng phấn biểu hiện sợ chết, mất ăn, mất ngủ. Nhận xét của họ không được chiïnh xác như bình thường, không giữ được trạng thái bình thường 1.2.Thái độ của thầy thuốc
- Đối với các bệnh nội khoa thái độ của thầy thuốc có tác dụng rất lớn đối với bệnh nhân. Thầy thuốc quan sát cẩn thận để phát hiện các rối loạn tâm thần do các bệnh nội tạng gây ra. Các bệnh nhân nội khoa có phản ứng khác nhau, có người phản ứng mãnh liệt, có người âm thầm chịu đựng. Tùy theo các rối loạn tâm lý khác nhau ở một số bệnh lý nội khoa khác nhau mà thầy thuốc cần có thái độ cụ thể cho từng bệnh nhân 2.Tâm lý và sức khỏe của người già - Người già khỏe mạnh, không bệnh tật, có luyện tập, mọi hoạt động tâm lý , tư duy như lúc còn trẻ. Những người này họ có sự liên hệ mật thiết với xã hội, vẫn lao động sáng tạo.ví dụ: I.V Mitsurin thọ 80 tuổi, I.Goethe và Huygo 83 tuổi, F. Voltaire 84 tuổi, Nguyễn bỉnh Khiêm 96 tuổi. Guenio lúc 102 tuổi viết:" Bạn sẽ thấy đến tuổi 90 người ta thông minh biết bao", Charle Fiessinger trong sách Trí thông minh của người già viết:" Trên cơ thể đã suy tàn, ánh của trí tuệ bừng sáng huy hoàng hơn bao giờ hết, như ánh lửa của hoàng hôn trên cánh đồng trơ trụi" - Người già bệnh tật thì không đạt được mức hoạt động tâm lý tinh thần như vậy. Hơn 985 người quá 65 tuổi ở quận 13 thành phố Paris ( Phap) được khám kỹ lưỡng về thể chất và tâm thần, thấy có 407 có bệnh thực thể hoặc tâm thần nặng, 509 có bệnh thực thê,ø tâm thần nhẹ, chỉ có 69 là không có bệnh. Vai trò của bệnh tật đối với tâm lý người già là rõ rệt 2.1.Biến đổi giải phẫu sinh lý và tâm lý - Biến đổi giải phẫu: Bình thường ở người già tổ chức thần kinh có vài biến đổi giải phẫu mức độ và số lượng ít ở võ não và vùng trước thùy trán, các vùng khác tổ chức thần kinh vẫn giữ được cấu trúc giải phẫu bình thường. Nếu những biến đổi không lớn, không lan rộng nhờ giữ gìn sức khỏe, luyện tập thì thần kinh hoạt động bù trừ, bảo đảm chức năng như lúc chưa già. + Về đại thể trọng lượng não có giảm : Nam nặng 1400g lúc 20-25 tuổi còn 1350g lúc 50 tuổi và 1180g lúc 85 tuổi Nữ: 1260g lúc 20-25 tuổi còn 1250g lúc 50 tuổi và 1060g lúc 85 tuổi + Về vi thể: không gặp tổn thương gì đáng kể, hoặc chỉ gặp tổn thương rất nhẹ ở một số ít neuron xơ hóa nhẹ các động mạch nhỏ - Biến đổi về sinh lý Một số biến đổi sinh lý ảnh hưởng hoạt động tinh thần tâm lý, trực tiếp hay gián tiếp. Có hiện tượng giảm tính linh hoạt trong dẫn truyền xung động, giảm tốc độ dẫn truyền các dây thần kinh vận động, giảm khả năng thụ cảm( tai, mắt , mũi )dẫn đến giảm khối lượng thông tin, giảm nguồn kích thích cấu trúc lưới . -Về hoạt động thần kinh cao cấp có hiện tượng giảm ức chế sau đó giảm hưng phấn. Tính linh hoạt do đó cũng giảm và mất dần sự cân bằng giữa hai quá trình ức chế và hưng phấn. Giữa võ não và bộ phận dưới võ, giảm sự liên hệ như lúc còn trẻ, nếu không có luyện tập và thói quen tốt thì phãn xạ có điều kiện khó xác lập và cũng khó thay đổi. Do sự kiểm soát của vỏ não giảm cho nên các trung tâm dưới võ hoạt động bất thường gây nhiều rối loạn thần kinh thực vật, gây hội chứng ngoài bó tháp ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý người già
- - Ảnh hưởng hưởng đến tâm lý Hai biến đổi quan trọng là giảm tốc độ và giảm sinh động. Về tính tình Những người già cơ thể không khỏe mạnh có những biến đổi về tính tình như sau: Đậm nét hóa những tính tình có trước đây, ví dụ trước đây cẩn thận thì khi già trở nên đa nghi. Trước chan hòa thì khi già ba hoa, nói không cân nhắc. Ở người già cơ thể suy yếu có hiện tượng thờ ơ với mọi người xung quanh, quay về với cuộc sống bên trong, với kỷ niệm cũ. Cảm xúc và tình cảm có những đáp ứng khác lúc trẻ, đôi khi chỉ một kích thích nhỏ cũng làm cho họ khó chịu, phản ứng quá mức. Về trí nhớ Họ thường nhớ chuyện cũ tốt hơn, và thích thú với những kỷ niệm cũ và bao giờ cũng đẹp hơn hiện tại. Trí nhớ của những người ít hoạt động trí óc đối với những việc mới vừa trình bày , vấn đề trừu tượng thường kém đi 2.2.Những rối loạn tâm lý khi người già mắc bệnh Người lớn tuổi có những thay đổi đặc biệt về tính tình cảm xúc trong thời gian mắc bệnh, một số người có thái độ trầm lặng, có người kém tự chủ trong cảm xúc dễ tự ái , bực dọc, dễ giận hờn, hung dữ quá mức, lo lắng cho cá nhân, đa nghi sợ mất mát. Về nội tâm bệnh nhân cao tuổi thường lo nghĩ diễn biến của bệnh tật, nghĩ đến cái chết đang đợi chờ mình, vĩnh viễn người thân gia đình con cháu, bao nhiêu việc chưa làm, đặc biệt khi có sự cố về tình cảm gia đình, bạn bè sẽ làm suy yếu thêm cơ thể vốn đã suy yếu, và ngày càng không thể bù trừ nổi. Người già luôn nghĩ đến thân phận của mình, nên dễ bi quan thầm lặng. 2.3 Thái độ của thầy thuốc Thầy thuốc cần phải thể hiện tôn trọng và thương yêu chân thành trong lời nói, thái độ và việc làm của mình. Đối với bệnh nhân có tuổi cần chú ý một số điểm: - Khám bệnh ở người già: Khám bệnh ở người già không giống người trẻ vì bệnh lý tuổi già có một số đặc điểm chú ý: +.Người già mắc nhiều bệnh mãn tính và có thể mắc thêm bệnh cấp tính đòi hỏi khám bệnh phải tỉ mỉ +.Triệu chứng không điển hình do tính phản ứng của cơ thể già đối với tác nhân gây bệnh thay đổi, tiến triển bệnh không điển hình +.Tâm lý người già khác với người trẻ do đó cách tiếp xúc và cách hỏi bệnh cần chú ý: Tiếp xúc với người già cần chú ý thái độ và tác phong. Đối với người già sức khỏe còn tốt, việc hỏi bệnh không có gì khác người bệnh thông thường. Đối với người đã suy yếu việc tiếp xúc, hỏi bệnh khó khăn hơn, công tác động viên tinh thần để tranh thủ tối đa sự cộng tác của người bệnh là rất cần thiết. Đối với người cơ thể đã suy kiệt do quá già, hoặc bệnh tật lâu ngày, việc hỏi bệnh thăm khám rất khó khăn, cần tranh thủ sự giúp đỡ của gia đình, người thân để khai thác tiền sử, triệu chứng bệnh. Trường hợp này thầy thuốc cần có tinh thần trách nhiệm cao, hết lòng vì người bệnh, mới tránh được sai sót dễ gặp trong chẩn đoán và điều trị. Cần chú ý trong tiếp xúc phải thể hiện tình thương yêu, lòng kính trọng, từ cách xưng hô đến cách chăm sóc hàng ngày. Người già dễ tự ty và dễ có tư tưởng cho mọi người ít
- quan tâm đến mình vì vậy khi họ trình bày cần lắng nghe, không nên vội ngắt lời. Nếu họ nói lan man quá lúc đó sẽ lái khéo về trọng tâm, tránh tác phong vội vã, lạnh nhạt. - Những điểm cần chú ý đối với bệnh nhân già: + Tuyệt đối giữ bí mật, không nói bí mật bệnh tật của họ cho người khác ngay cả về bệnh sử, hoàn cảnh gia đình , đời tư, những điều mà bệnh nhân đã thổ lộ với thầy thuốc, nếu tiết lộ những điều sâu kín của họ sẽ làm chấn thương tâm thần , mất lòng tin. + Phải đúng hẹn, đúng giờ, chu đáo tỷ mỹ và chính xác, giải thích rõ ràng, những thay đổi phải thông báo trước. + Tác phong giản dị, chân thành, không bê tha, nghiêm túc lắng nghe ý kiến bệnh nhân và biết tôn trọng ý kiến đó. + Thầy thuốc cần chú ý rằng người có tuổi là người đã trải qua bao thử thách, quá trình lao động, chiến đấu, có kinh nghiệm cuộc đời, có kiến thức sâu rộng, đã từng là người lãnh đạo, người cha, mẹ nên tình cảm rất sâu đậm, nhiều người có quan hệ với nhiều thầy thuốc, đã ra vào viện nhiều lần vì vậy tiếp xúc phải khiêm tốn thực thà, thận trọng, thân tình như đối với ông bà cha mẹ mình. Nếu bệnh nhân muốn biết bệnh của mình thầy thuốc có thể cho họ biết những điều vô hại, còn những điều ảnh hưởng tâm lý , bệnh tật thì tuyệt đối không được tiết lộ. + Đối những bệnh nhân có diễn biến xấu , những bệnh tiên lượng xấu, chưa có phương pháp điều trị hiệu lực làm cho bệnh nhân suy mòn thì bên cạnh điều trị bảo tồn nâng cao thể tạng cần phải dùng thuốc an thần , chống đau và động viên tâm lý liệu pháp. + Sự chăm sóc chu đáo tận tình hằng ngày làm cho bệnh nhân thấy rằng mọi người không bỏ rơi mình , thiết tha với mình. + Đối với các bệnh nhân chủ quan về sức khỏe, không chịu thực hiện các yêu cầu điều trị, phải giải thích thuyết phục nhưng cũng phải có thái độ cương quyết. III.TÂM LÝ HỌC BỆNH NHÂN NHI KHOA Đối với trẻ em, trẻ sơ sinh khi ra đời đã là một sinh vật xã hội, đã có nhạy cảm và có ý thức, tuy chưa hoạt động và chưa biết nói, nó đã tri giác được thế giới chung quanh theo cách riêng của nó. Do vậy mỗi người làm nhiệm vụ chăm sóc trẻ phải chăm sóc trẻ như một người hiểu được ngôn ngữ, một người đáng tôn trọng, phải có tấm lòng để quan sát nó và cần nhận ra nó như một kẻ ngang hàng. 1.Đón trẻ như một con người đáng tôn trọng - Lần đón tiếp khởi đầu Giới thiệu: Cần phải biết tên đứa trẻ để chào trẻ và giới thiệu cho trẻ biết mình là ai, vai trò gì trong bệnh viện, và đối với trẻ. điều này giúp cho trẻ cảm nhận được ngay thái độ của người ta đối với nó. Chính giáo sư Robert Debre, giáo sư nhi khoa nổi tiếng của Pháp đã biểu lộ sự tôn trọng như vậy ông xưng tội với anh chị, ông gọi tên các trẻ khi ông nói với chúng. Nếu trẻ có vào viện thì giới thiệu khoa điều trị và buồng nằm của nó trong thời gian điều trị, các đồ vật xung quanh và cuối cùng nói cho nó biết là nó không bị cô độc ở bệnh viện đâu. - Tôn trọng không gian sinh hoạt Sinh hoạt với trẻ như người trưởng thành vậy, người lớn không chấp nhận ai không tôn trọng không gian sinh hoạt của mình. Trẻ em cũng vậy, thế nhưng ở bệnh viện
- hay cạnh giường điều trị người lớn thường gọi, cãi nhau om sòm về chuyện không liên quan gì đến trẻ. Tương tự nhiều đám người tụ tập xung quanh trẻ - Tôn trọng nhân phẩm của trẻ Trước mắt trẻ tránh ý nghĩ hoặc thái độ xem thường trẻ, đã bao lần nhiều đứa trẻ được đón tiếp bằng những câu đại loại như :''Ôi nó xấu quá, tôi hy vọng lớn lên rồi sẽ đâu vào đấy thôi". Thậm chí" Làm sao để một đứa trẻ bệnh tật như thế này còn sống làm gì". Nói như vậy giữa các nhân viên với nhau trước mặt đứa bé, phê phán hoặc nhục mạ đứa bé là không thể chấp nhận được. Tương tự như vậy, bất kỳ lời chỉ trích nào trước mặt đứa trẻ của bố mẹ là vi phạm quyền được sống của đứa trẻ - Tôn trọng tập quán sinh hoạt Ngay từ lúc ra đời mỗi đứa trẻ có tính cách riêng, điệu bộ riêng, về sau nó có đồ chơi, quần áo riêng của nó. Điều quan trọng là khi ở bệnh viện phải để cho nó giữ lại cái" mốc " then chốt của nó đã có từ khi ở nhà. Do đó khi nhập viện nên chăng bố mẹ nó cần điền một phiếu vè những sở thích của trẻ, tờ phiếu này được đem tham khảo người chăm sóc trẻ nhất là y tá, điều dưỡng, hộ lý, nhân viên dinh dưỡng Trong quá trình chăm sóc trẻ cần có sự trao đổi giữa các nhân viên trong khoa về những khó khăn của trẻ để mọi người có hiểu biết đầy đủ hơn các trẻ và có thích nghi tốt hơn. - Tôn trong thân thể, các nhịp sinh hoạt của trẻ +Giác ngũ của trẻ: Không cần thiết để đánh thức một đứa trẻ đang ngon giấc để khám hoặc lấy mẫu nghiệm không cần thiết, +Sự ngon miệng của trẻ:Những trẻ nhỏ nằm viện không nên cho ăn vào những giờ trái khuấy hoặc ép phải ăn. Việc ép ăn hiện giờ khá phổ biến không nên xãy ra ở bệnh viện. Đơn giản là không nên ép trẻ phải ăn khi nó từ chối bữa ăn, chuyện này thường xãy ra tại bệnh viện, khi đứa trẻ bị xâm kích nên nó có quyền chống đối. - Làm dịu nổi đau Cơn đau ở trẻ thường được xử trí tích cực. Huyền thoại về đứa trẻ không biết đau là gì đã hậu thuẫn cho chủ trương không cần gây mê khi can thiệp các giải phẫu ở trẻ, những bằng chứng về các trường hợp cắt amiđan cho trẻ mà không gây mê là bằng chứng về những hậu quả nghiêm trọng do các thủ thuật kiểu đó gây ra. Sông bây giờ nhiều trường hợp trẻ sơ sinh không giảm đau đầy đủ khi làm các thủ thuật. Nhiều kíp nghiên cứu đã chứng minh sự cần thiết tuyệt đối phải gây mê cho trẻ sơ sinh một cách có bài bản. Kíp của bác sĩ Anand (1992) khi so sánh 2 nhóm mê nông và mê sâu đã chứng minh nhóm mê sâu có tình trạng giảm đáp ứng sinh lý với stress, giảm các biến chứng hậu phẫu ( nhiểm trùng, đông máu nội mạch rải rác và nhất là giảm tử vong và nghiên cứu ở người lớn cảm giác đau làm tăng nguy cơ do cuộc giải phẫu gây ra). - Tiếp xúc có ý thức Theo P.Wallon nhấn mạnh "Khi tiếp xúc thân thể với đứa trẻ thì điều quan trọng là phải theo một tiến trình nào đấy. Trước khi đụng đến vùng nhạy cảm xúc giác thì cần thiết lập trước đó mối quan hệ giao tiếp với đứa trẻ qua ánh mắt rồi qua lời nói.Trình tự này cần được tôn trọng nghiêm ngặt nếu không bất kỳ một cử chỉ nào được xem như một sự xâm kích đối với đứa trẻ. - An ủi bằng lời
- Nếu ta muốn an ủi một đứa bé thì trước hết phải bằng ngôn ngữ với các từ ngữ chính xác. Trẻ tri giác được trong giọng nói, trong điệu bộ, trong cử chỉ, nội dung thông tin về lòng khoan dung này. Francoise Dolto có kể lại một câu chuyện về một thầy thuốc nội trú được mời đến bên giường một đứa trẻ 18 tháng vừa mới nhập viện ban ngày, nó chạy như một kẻ lên cơn điên trong khoa và vừa la hét, vừa mỡ hết tất cả các cửa. Người y tá thường trực đòi tiêm một mũi để làm dịu. Thế nhưng với thái độ rất tế nhị, cô bác sĩ nội trú đến hỏi chuyện đứa bé và giải thích cho nó hiểu là nó phải vào viện vì đang ốm và rằng bố mẹ thì mới trở về nhà , song cô bác sĩ đảm bảo rằng bố mẹ rất nhớ nó. Chẳng bao lâu đứa trẻ tỉnh lại và lên giường ngủ. 2.Đón tiếp trẻ như một người hiểu được ngôn ngữ - Nói với trẻ tất cả mọi điều Nên nói với trẻ hết thảy mọi điều là vì trẻ nhỏ thường hiểu được hơn ta tưởng, nhất là nói những điều liên quan đến nó. Do vậy, điều cơ bản là bình luận cái gì đang xảy ra chung quanh nó, cái làm thức tỉnh tính tò mò của nó Hảy cố gắng trả lời hết thảy mọi câu hỏi nó có thể tự đặt ra. Ví dụ nói cho nó biết bố mẹ nó đang ở đâu, vì sao vắng mặt, khi nào họ sẽ trở lại - Phải giải thích cho trẻ tất cả mọi điều Tại sao nó ở đây, mắc bệnh gì, người ta sẽ làm gì cho nó, làm như thế nào, có gây đau hay không. Chẳng hạn cô y tá nói như thế này với em bé gái 6 tháng:"Này cháu Mai,bố mẹ cháu đã đưa cháu vào bệnh viện vì cháu sốt cao quá và bố mẹ cháu rất lo lắng, cô phải lấy máu như thế này để làm xét nghiệm, tuy có làm cháu hơi đau một chút nhưng sẽ biết rõ hơn con vi trùng nào đã làm cháu sốt cao và thứ thuốc nào tốt hơn để chữa cho cháu. Cái gì cũng có thể nói với trẻ: bệnh được chẩn đoán, kể cả bệnh nặng, dị tật Điều quan trọng là đứa trẻ cần được biết sớm nó mắc bệnh gì - Nói trước điều sẽ làm với trẻ Thật dễ dàng khi nói với bệnh nhân người lớn, giải thích cặn kẽ khi cần làm thủ thuật. Với một đứa trẻ chưa biết nói thì lời nói chưa diễn tả hết được, trong tình huống này ta có thể sử dụng phương tiện khác để giải thích cho trẻ, chẳng hạn ta thao tác trên hình nộm cho trẻ nhìn thấy để an tâm. Phần lớn các bệnh viện thành phố Paris có những bộ tranh, biểu đồ hoặc thú nhồi bông để giải thích mô tả tiến trình thủ thuật sẽ thực hiện cho đứa trẻ, có thể đem giải thích cho bệnh nhi rất nhỏ. Bằng cách nói trước với trẻ những gì sẽ xảy ra, ta có thể giảm đi một phần điều huyền bí về việc đứa trẻ được đưa tới bệnh viện và phải sống ở đó, cũng đồng thời giảm đi nỗi lo hãi có thể phát sinh. Nói trước cho trẻ giúp cho trẻ, giúp cho nó thích ứng, nó có chổ dựa và từ đó có phương cách phòng vệ. Tesi bergmann kể lại việc chuẩn bị cho một bé gái 3 tuổi tên là Sanne, đã được tiến hành phẫu thuật ở háng trước khi phải bất động trong nhiều tuần trên một chiếc giường chỉnh hình, cô bé được mô tả tất cả diễn biến nó sẽ trải qua, qua vai trò trung gian một con búp bê, Jane, nó vẫn thường ôm ấp. Như vậy là Janne được chở bằng ô tô đến một bệnh viện khác. Ở đó nó được đặt trên một chiếc giường rồi ngũ thiếp đi. Chính cô bé đã thực hiện việc bó bột cẳng chân cho con búp bê nhiều lần mỗi ngày và tỏ ra rất
- hãnh diện vè việc làm đó trước mặt bác sĩ. theo lời kể của người mẹ thì trong thời gian nằm tại khoa cô bé tỏ ra mẫu mực. Câu chuyện cho thâïy việc chuẩn bị việc chuẩn bị đó mang lại lợi ích như thế nào. 3.Chuẩn bị tâm lý trẻ em trước khi mỗ Giải phẫu và gây mê thường gây ra stress nặng cho cả cha mẹ lẫn trẻ em. Do vậy thầy thuốc gây mê trẻ em , ngay ở tuyến cơ sở cũng nên đảm bảo cho bệnh nhi tránh khỏi các hậu quả nói trên cả tâm lý lẫn sinh lý. 3.1. Các yếu tố cảm xúc của trẻ Thường có 4 nỗi lo sợ đứa trẻ phải qua khi nhập viện: - Sợ phải tách khỏi bố mẹ - Sợ đau đớn hay bị thương tiïch - Sợ sẽ phạm lỗi lầm và bị trừng phạt vì hoang mang không biết ứng xử thế nào để làm vừa lòng nhân viên. - Và sợ hoặc lo hãi mất quyền tự chủ, mất năng lực và mất quyền riêng tư. Không phải tất cả trẻ đều trải qua nỗi lo hãi như vậy, song đáp ứng mỗi nhóm tuổi là có khả năng đoán trước, do vậy nên tiếp cận vấn đề theo từng lứa tuổi: + Trẻ còn bú dưới 6 tháng tuổi: Có những rắc rối cho gây mê, còn những rắc rối tâm lý không đáng kể, tác động tâm lý thường vào các bậc cha mẹ + Trẻ còn bú 6 tháng và lứa tuổi trước khi đến trường: Trẻ 6 tháng - 4 tuổi : thuộc nhóm đặc biệt nhạy cảm và hầu như bao giờ cũng trãi qua 3 nỗi sợ hãi đầu tiên lúc nhập viện-Sợ tách mẹ, sợ đau và sợ người lạ, vật lạ. Song chúng không thể lý giải hoặc chấp nhận lời giải thích của thầy thuốc mà chỉ kêu khóc mà thôi + Tuổi học trò và tuổi thiếu niên: Quá trình lớn lên giúp trẻ học tính thích nghi với các tình huống mới. Song vào viện vẫn tạo ra tình huống mới nẽ mà đứa trẻ chưa được chuẩn bị gì, do vậy đứa trẻ sinh ra mọi thứ lo hãi do mọi thứ xa lạ, lo lắng không biết ứng xử thế nào cho phù hợp với môi trường bệnh viện. Lứa tuổi này vẫn sợ bị đau , sợ bị thương tích, tàn phế Chuẩn bị trước mỗ Cuộc gặp trước mỗ với bệnh nhi và gia đình không chỉ là trách nhiệm của thầy thuốc, mà còn là một cơ hội quan trọng , chúng ta có thể biết nhiều điều cần thiết. Ngoài ra nó còn củng cố lòng tin với bệnh nhi và cha mẹ. 4.Bệnh viện cho trẻ em trong tương lai Để cải thiện việc tiếp đón trẻ nhỏ tại bệnh viện thì nhất thiết phải tăng thêm khả năng sẵn sàng của các nhân viên phục vụ. Và đấy không phải chỉ là công việc của các nhân viên làm nhiệm vụ chăm chữa mà còn của hết thảy mọi người - Gây ý thức cho người chăm sóc trẻ về gương mặt mới của trẻ nhỏ: Thai nhi cũng như chúng ta một con người nhạy cảm cần được tôn trọng, một sinh vật có ngôn ngữ sẽ tiến hóa trong sự gắn bó hòa mình với mẹ, chính vì vậy cần phải giảng dạy cho những ai có nhiệm vụ tiếp xúc với một đứa trẻ khi nằm viện. Thang đo lượng giá ứng xử của trẻ sơ sinh được Brazelton đề xuất ( xem phụ lục) là một ví dụ về điều có thể làm được để gây ý thức cho các nhân viên phục vụ và các bậc cha mẹ rằng đứa trẻ mới đẻ là đã có quan hệ tương tác với những người xung quanh rồi.
- +Gây ý thức cho nhân viên phục vụ về tầm quan trọng của việc đón tiếp, tiếp xúc đầu tiên; *Giao nhiệm vụ đón tiếp cho sinh viên năm thứ 2 hoặc thứ 3, nữ hộ sinh năm thứ nhất : Làm các thủ tục hành chính, giới thiệu các khoa phòng, nội quy bệnh viện, tháp tùng bệnh nhân - Cải thiện việc đón tiếp tại bệnh viện là công việc của mọi người +Các bậc cha mẹ: các bậc cha mẹ có thể giúp đỡ đứa con nằm viện như thế nào? Mọi chuyên phải giống như các nhân viên y tế và còn hơn thế nữa +Các nghệ sĩ, âm nhạc +Kiến trúc sư, nhà thiết kế và các kỹ thuật gia: những chi tiết về kiến trúc, trang trí bệnh viện đóng vai trò thứ yếu nhưng cũng không được xem thường bên cạnh tinh thần sẵn sàng của nhân viên y tế. Hệ thống cửa sổ thoáng, trang trí căn phòng đẹp thân quen như ở nhà, tạo ra các không gian xanh, những đồ đạc thích nghi cho trẻ nhỏ, phương tiện kỹ thuật thông tin( máy ảnh, máy ghi âm, hệ nghe nhìn ) - Chức năng tâm lý: Sự có mặt của cán bộ tâm lý tại các khoa điều trị tại bệnh viện trẻ em Pháp từ hơn ba chục năm nay tạo ra một sự cải thiện căn bản. Giờ đây không chỉ là khía cạnh bệnh tật mà cả về phương diện cuộc sống đó là vai trò của cán bộ tâm lý. Thông qua những sinh hoạt quen thuộc hàng ngày, lúc thức và những trò chơi, đứa trẻ được thừa nhận là một con người lành mạnh, thế mà bên trong nó đang cảm thấy đau khổ, đang hy vọng và đang muốn chữa khỏi bệnh, như vậy vai trò của cán bộ tâm lý là một bộ phận tổng hợp trong đội ngũ nhân viên chăm sóc và vai trò trị liệu của nó không thể xem nhẹ. Phòng chơi của trẻ cũng là một nơi ưu tiên để quan sát, nơi có thể dễ dàng nhận ra nỗi đau khổ thực sự của đứa trẻ hoặc một quan hệ giữa mẹ con đã bị xáo trộn. Như vậy cán bộ tâm lý dêî dàng lắng nghe nguyện vọng của đứa trẻ và cha mẹ nó. Chức năng tâm lý là giá đỡ của sự lắng nghe, của điều kiện cho sự trao đổi, thấu hiểu và sau chót là giữ được niềm tin giữa những đứa trẻ và cha mẹ chúng và với nhân viên phục vụ.
- TÂM LÝ HỌC BỆNH NHÂN CÁC CHUYÊN KHOA ( tiếp theo) Mục tiêu học tập: 1.Mô tả được những đặc điểm tâm lý bệnh nhân Ngoại khoa và thái độ của thầy thuốc. 2.Trình bày được những đặc điểm tâm lý bà mẹ trong thời kỳ mang thai, trong cuộc đe, sau đẻí và các biện pháp dự phòng những rối loạn tâm lý. MỞ ĐẦU Nói chung tất cả các người bệnh đều có những rối loạn tâm lý tâm lý. Rối loạn tâm lý có thể hoặc là nguyên nhân của bệnh hoặc là là hậu quả của bệnh. Tùy theo mức độ bệnh tật, trạng thái tâm lý của người bệnh, đặc điểm nhân cách riêng của người bệnh mà người bệnh có những rối loạn tâm lý khác nhau khi mắc cùng một bệnh lý. Tuy vậy ở những bệnh nhân của mỗi chuyên khoa có những đặc điểm riêng mà những thầy thuốc của chuyên khoa đó phải nghiên cứu, để có cơ sở tìm hiểu những rối loạn tâm lý của người bệnh theo chuyên khoa và ứng dụng trong khám chữa bệnh toàn diện. I. TÂM LÝ SẢN PHỤ 1.Tâm lý sản phụ Ở các nước phương tây tâm lý phụ sản đã được nghiên cứu từ lâu. Ở Việt Nam, chỉ vài năm gần đây lĩnh vực này mới được tìm hiểu, khai tâm cho các nhà sản phụ khoa, nhi khoa và nhà tâm lý để cùng tiếp cận chẩn đoán, phòng và điều trị cho sản phụ và sơ sinh. Lịch sử diễn biến tâm lý của sản phụ trong thời kỳ thai nghén, khả năng sở trường của sơ sinh, quan hệ sớm mẹ con, những yếu tố nguy cơ rối nhiễu tâm lý, thái độ nhân viên y tế trong ứng xử như thế nào để hỗ trợ cho sản phụ đã được nhiều chuyên gia giới thiệu. 2.1.Những đặc điểm tâm lý sản phụ qua từng thời kỳ - Thời kỳ thai nghén Song song với những biến đổi sinh lý dẫn tới việc thay da đổi thịt ở người phụ nữ và còn có những diễn biến tâm lý đưa người phụ nữ rời bỏ cuộc sống thời thơ ấu, con gái và chờ đợi cuộc sống làm mẹ. Thai nghén được coi là bước ngoặt của quá trình phát triển tâm lý- cảm xúc của người phụ nữ. Đó là thời kỳ khủng hoảng bình thường, một bệnh bình thường, được giải quyết bằng nâng đỡ đơn thuần, nhưng cần bao gồm các mặt sức khỏe, kinh tế , tâm lý và văn hóa xã hội. Trong thời kỳ này , người phụ nữ dễ nhạy cảm hơn bao giờ hết với các biểu tượng vô thức dồn đến ồ ạt . Nhìn chung, các tác giả (như Bibring và cộng sự) chia thời kỳ đó ra 3 giai đoạn, mỗi giai đoạn có đặc điểm riêng như sau: - Giai đoạn đầu: 3 tháng đầu: +Chấp nhận hay không chấp nhận cái thai. Ở nước ta với những biện pháp sinh đẻ kế hoạch thì đa số có thai là theo mong muốn, nhưng cũng có trường hợp lỡ lầm ( hoang
- thai, con ngoài giá thú,vỡ kế hoạch) và có nhiều vấn đề trong đời sống gia đình. Dẫu sao lúc có thai sản phụ không khỏi không có lúc lưỡng lự đắn đo +Vừa muốn có con để đạt ước nguyện nhà chồng, người chồng, để có niềm sung sướng được làm mẹ, với đứa con trai để nối dõi tông đường, đảm bảo tuổi già có người chăm sóc +Vừa không muốn chấp nhận cái thai, thậm chí còn lo hãi, khước từ nó, lo lắng cho kinh tế gia đình để nuôi con, đứa con không như ý muốn, phong tục tập quán ngặt nghèo, đã có nhiều con gái lại sinh thêm một đứa nữa sẽ sao đây. Khi chẩn đoán siêu âm thấy một cái gì đó không bình thường có thể dẫn đến những xung đột nội tâm dẫn tới tính khí bất thường, làm nặng thêm các biểu hiện tâm lý đã có sẵn do nguyên nhân nội tiết. Những rối loạn thực vật: gai gai rét, sởn gai ốc, nôn mửa, - Giai đoạn thứ hai: 3 tháng giữa +Sang giai đoạn này thai bắt đầu máy và ngày càng mạnh, thai phụ đi vào thế ổn định hơn. +Trung tâm mối quan tâm của thai phụ chuyển dần sang đứa con trong bụng: Theo dõi tiến triển của thai, qua kết quả các đợt khám thai. Bà mẹ sẽ có tưởng tượng về đứa con mình sẽ ra sao, mạnh hay yếu, hiền hay nghịch ngợm, trai hay gái Rồi liên tưởng các lần sinh nở trước của bản thân hoặc của bố mẹ mình. Cho tới khi sinh bà mẹ xây dựng hình ảnh đứa con tưởng tượng từ những ước mơ có ý thức (85% đến 95% theo điều tra của Phạm Bích Nhung), quan tâm đến giới ( 80% theo Vũ Thị Chín và CTV) Trong thời gian này chỉ cần một lời nói vô tình của bà đỡ, BS Siêu âm, hoặc bất cứ ai khiên sản phụ phấn chấn, sung sướng hoặc bồn chồn lo lắng cho những điều không biết. - Giai đoạn thứ 3: 3 tháng cuối Giai đoạn chuẩn bị làm tổ và mong mỏi sự ra đời của đứa trẻ. Giai đoạn này nặng nhọc hơn, chân phù nề, 90% bà mẹ lo lắng, sợ những điều không biết, đau hoặc tai biến sau đẻ, rách tầng sinh môn, băng huyết, phẫu thuật Vì vậy ở giai đoạn này sản phụ cần có chỗ để bám víu và đa số bà mẹ mong chóng đến ngày đẻ để thoát những vất vả của các tuần cuối. 2.Cuộc đẻ và sinh con Cuộc đẻ diễn ra vào lúc trình trạng người mẹ quá mẫn cảm và dễ yếu đi về thể xác và tinh thần do đó có nhiều vấn đề nếu không được chuẩn bị trước và không có sự nâng đỡ. Về sinh lý đó là do sự thúc đẩy không cưỡng lại được của thai nhi và do vậy bà mẹ không chọn được thời điểm cũng không cảm nhận được cơ thể diễn ra ngoài tầm kiểm soát và ý chí của sản phụ cho dù có được chuẩn bị một phần nào đó. Về tâm lý, sự mất chủ động đã biến sản phụ thành đối tượng hoàn toàn thụ động đưa người phụ nữ trở về với sự lo hãi. Theo Phạm Bích Nhung (1994) ở bệnh viện HảiPhòng tỷ lệ có lo hãi ở sản phụ khi vào đẻ: 68,5% ,ở phụ nữ đẻ con so 76%, con rạ 62%, sợ chết 3,7% ( sản phụ lớn tuổi, cô đơn, có tiền sử mỗ lấy thai). "Mang nặng đẻ đau" đó là đánh giá của nhiều thế hệ phụ nữ đã trãi qua hoặc chứng kiến quá trình thai nghén và sinh con. Điều đó đã được truyền tụng lại để tô vẽ thêm sự chịu đựng của người phụ nữ
- Khi sinh đẻ tử cung co bóp theo sự chỉ huy cúa trung tâm tự động nằm trong lớp sâu của võ não. Nhiều công trình nghiên cứu chứng minh trên lâm sanìg và thực nghiệm là những can thiệp tâm lý ảnh hưởng đến co bóp tử cung. Không kể những trường hợp áp dụng những biện pháp vô cảm bằng thuốc không gây nguy hiểm cho thai nhi và bà mẹ và phương pháp chuẩn bị sản phụ đẻ không đau do Lamaze phổ biến từ năm 1952; theo Arlette Carpentier:"Có từ 5 - 10% sản phụ đã sinh tự nhiên không đau đớn. Đã lâu trước thời kỳ có chuẩn bị kiến thức cho sản phụ, vẫn có chị đẻ không đau". Theo Phạm Bích Nhung có tới 31% phụ nữ bước vào đẻ không lo hãi. Hiện tượng đó thường gặp trên các bà mẹ ở trong hoàn cảnh thuận lợi, đã sinh con dễ một vài lần, đã có kinh nghiệm. Khi mong muốn có con ngay thì đau đớn lùi lại phía sau, do sức mạnh của hy vọng đã làm giảm thậm chí mất hết đau đớn. Ngược lại, sợ hãi, nỗi cô quạnh cùng với một thế giới xa lạ không thiện cảm ( những người mặc áo quần bệnh viện, bên cạnh phòng sinh tiếng kêu la, rên rỉ lẫn tiếng dụng cụ đỡ đẻ) làm cho sản phụ mất chủ động và bị nhấn chìm trong quằn quại đau đớn. " Phản ứng quá mức do nguyên nhân trung tâm có thể làm phát sinh cả một dòng thác tâm sinh lý gây hưng phấn tử cung và chuyển dạ sớm" Trong điều tra của Phạm Bích Nhung, trên 54 ca đẻ thì 42 sản phụ rất sợ, 20 % sợ không dám đẻ nữa, có bà thề: có cho 10 cây vàng cũng không đẻ nữa. Do đó việc chuẩn bị tâm lý cho sản phụ từ lúc mang thai nhất là khi chuyển dạ và đẻ tỏ ra rất cần thiết. 72 % sản phụ ( 80% với đẻ con so, 65% với đẻ con rạ) mong có người thân ( 48% là chồng) ở bên cạnh lúc đẻ. Trong hầu hết 150 nền văn hóa được các nhà nhân chủng học nghiên cứu đều thấy có một bà mẹ, một người thân hoặc bạn, thường là phụ nữ, có mặt bên sản phụ trong suốt thời gian chuyển dạ và đẻ. Tại các nước Châu Âu, trong 10 năm gần đây, người ta đã cho phép các ông chồng hoặc người thân, bạn được vào trong phòng đẻ. Có nhiều nghiên cứu ý nghĩa quan trọng của nâng đỡ xã hội vào thời điểm đó, chuyển dạ ngắn hơn, các vấn đề can thiệp trong lúc chuyển dạ thấy ít hơn ở các bà mẹ được hỗ trợ tinh thần ( thời gian chuyển dạ ngắn bằng nữa nhóm thực nghiệm, Mỗ lấy thai 19% ở nhóm thực nghiệm, 27% ở nhóm chứng), số trẻ đưa vào hồi sức cấp cứu cũng giảm đi. Trong xã hội cổ truyền , mụ vườn không được huấn luyện, nhưng ở trong thôn xóm rất quen với sản phụ ( đã từng đỡ cho mẹ sản phụ), nên sản phụ thấy yên tâm trong tay bà (tất nhiên là chỉ những ca đẻ thường). Qua điều tra sản phụ ở các thành phố, trừ những trường hợp đẻ khó họ đều cảm thấy thoải mái hơn nếu được đẻ tại nhà hộ sinh quận, cho phép người nhà ở cạnh, nữ hộ sinh đã từng thăm thai đỡ cho họ, xung quanh có những gương mặt quen thuộc. Những hỗ trợ đơn giản đó ít tốn kém, có thể làm được giúp cho sản phụ quên đi cảm giác đau, rút ngắn thời gian chuyển dạ và đẻ. 3.Sau đẻ Sau đẻ theo kinh nghiệm của một số bà mẹ cho thấy sau đẻ có một thời kỳ trầm nhược nhẹ, một trạng thái u buồn sau đẻ (Post partum blues). Đó là một biểu hiện bình thường ngắn ( 2-48 giờ), xãy ra ở 50 % phụ nữ mới sinh ( 30-80% theo các tiêu chuẩn được chấp nhận), xuất hiện ngay sau đẻ, với một cao điểm vào ngày thứ 3 và thứ 6, thường được cho là do mệt mỏi sau đẻ. Thực chất đó là một trạng thái buồn bã, chán nản, mệt nhọc, lờ đờ, ảm đạm, được sản phụ mô tả một cách mơ hồ và mọi chuyện sẽ qua đi và đâu sẽ vào đấy.
- Nguyên nhân là do những biến đổi nội tiết và tâm lý: -Sinh lý: do nồng độ hóoc môn như estrogen, progesteron, prolactin và cortison quá cao hoặc quá thấp sau đẻ, hoặc nồng độ thay đổi quá nhanh hay không đủ mạnh giống như các rối loạn tính khí khi hành kinh hoặc thời kỳ mãn kinh. -Tâm lý:Nhiều tác giả cho thấy có mối liên quan của u buồn trầm nhược với những sự kiện gây trầm nhược với những sự kiện gây stress trong cuộc sống (Stressful Life Events SLE), đặc biệt giữa quan hệ hôn nhân đối với u buồn trầm nhược sau đẻ. Người ta đã tìm thấy vai trò của sự mất mát trong trầm nhược: Đứa con không đúng mong ước, dị tật bẩm sinh. Đồng thời lo lắng trước trách nhiệm mới. Một số trường hợp trạng thái u buồn trầm nhược đó có thể kéo dài, trầm trọng hơn, làm tái diễn những trầm nhược đã có từ trước, hoặc do những yếu tố nguy cơ ( bệnh tật, đẻ non, dị tật, chết chu sinh ) làm trở ngại cho quan hệ sớm mẹ con. U buồn trầm nhược sau đẻ làm ảnh hưởng và tác động tới quan hệ này. 4.Quan hệ sớm mẹ con Những giờ đầu sau đẻ là một thời kỳ người mẹ rất nhạy bén để bắt quan hệ với con, thiết lập được cầu nối (bonding), sự gắn bó mẹ con (attachment) (Anna Freud, Melanie Klein, Sitz Bowlby). Các điều tra sản phụ được tiến hành tại bệnh viện BVBMSS Hà Nội và bệnh viện phụ sản Hải Phòng, cho thấy khi người ta giao đứa bé mới lọt lòng cho mẹ nó nhìn rồi một lúc sau đó đặt nó nằm sát cạnh mẹ, thì bà mẹ không còn lo nghĩ nó là trai hay gái nữa, mà đều nói lên một xúc động mới mẻ gần như choáng váng vì lần tiếp xúc đầu tiên đó. Có sản phụ nói: "Tôi mừng run người lên" hoặc "Mừng không tả được" Lại một cảm giác nửa khi lần đầu tiên cho bú: Nhìn thấy, sờ thấy con khiến người mẹ quên đi mọi đau đớn khổ sở, tháo gỡ hết những lo hãi về cơ thể đứa con không lành lặn( tất nhiên nếu đứa trẻ bình thường). Sản phụ nói : "Tôi hết đau ngay". Sự gắn bó mẹ con giúp mẹ con hòa mình vào nhau, quan hệ tương tác để phát triển. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng: đứa trẻ sinh ra không chỉ là một ống tiêu hóa mà đã có nhu cầu xã hội, trí khôn của trẻ được hình thành vừa do tri giác vừa do xã hội (Lecuyer) bà mẹ là cái võ bọc tâm lý giúp cho trẻ phát triển nhận thức và cảm xúc tốt đẹp. Mọi nhiễu loạn trong tương tác mẹ con đều do: -Kích thích quá mức không tôn trọng tín hiệu của trẻ ( Tránh né, nhắm mắt, quay mặt đi ) -Kích thích yếu ớt nơi những bà mẹ trầm nhược, ức chế. -Đẻ non, dị tật bẩm sinh. -Chậm phát triển thai nhi dẫn tới thiếu thỏa mãn bố mẹ so với đứa con và kém tương tác. -Khó khăn thời thơ ấu của mẹ. Một cách tổng quát thì người phụ nữ trong thời kỳ thai nghén và sinh nở phải trải qua một giai đoạn tu tạo sâu sắc về tâm lý và sinh lý, một thời điểm khủng hoảng, song đó là một khủng hoảng : Sản phụ vượt qua chặng đường đó với mối lo hãi và những xung đột ẩn tàng, đồng thời năng lượng cũng được huy động để tham gia vào quá trình hình thành
- một bản sắc, một căn tính mới, do đó sản phụ phải trải qua quá trình thích nghi tâm lý phụ thuộc nhiều yếu tố: -Lịch sử bản thân -Quan hệ tình cảm với bố mẹ đẻ -Thái độ của người tình, người chồng -Chất lượng quan hệ hôn nhân -Thái độ của đối tác nam có ý nghĩa quyết định đối với thích nghi của sản phụ. -Thái độ của bản thân đối với đứa con: mong muốn, từ chối hay đồng ý -Môi trường gia đình -Điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội. -Thái độ của nhân viên y tế. (Sự nâng đỡ xã hội nằm trong 3 yếu tố cuối) 5.Tiếp cận dự phòng và trị liệu 5.1Tiếp cận dự phòng Tiếp cận dự phòng một rối loạn là hoạt động bên cạnh những sản phụ, những em bé phải đương đầu với rối loạn đó. Làm sao cho khả năng rối nhiễu xảy ra giảm bớt, và nếu có rối nhiễu cường độ sẽ giới hạn hơn. Dự phòng ở 3 cấp độ: -Dự phòng cấp 1 tương ứng với định nghĩa trên nhằm giảm tỷ lệ mới xuất hiện trong dân cư. -Dự phòng cấp 2 nhằm giảm tổng số người mắc, ngăn chặn và rút ngắn thời gian mắc. -Dự phòng cấp 3 nhằm giảm những bất lực mãn tính, tái phát, hạn chế tối đa những tàn phế chức năng do bệnh tật. Dự phòng dựa vào các chỉ báo nguy cơ: -Thời kỳ tiền sinh là khuyết tật của bà mẹ, những thai nghén trước đây không được theo dõi, tuổi bà mẹ dưới 18, tình cảnh cô đơn nhất là cắt đứt quan hệ với người bố của đứa trẻ. -Thời kỳ chu sinh là đẻ non, loạn tâm hậu sản, thời gian ở lại bệnh viện phải kéo dài và việc đưa trẻ vào một đơn vị chăm sóc chuyên biệt Dù ở thời kỳ nào điều kiện kinh tế xã hội thấp kém cũng là một yếu tố nguy cơ trên bình diện phát triển tâm lý xã hội và nhận thức. Tổ chức dự phòng ở từng thời kỳ thai nghén như thế nào? -Trong thời kỳ thai nghén: nhiều cố gắng dự phòng cấp 1 như là: định kỳ khám thai, tránh các nhiễm trùng gây tổn thương cho hệ thần kinh trung ương và giác quan của trẻ, ngăn ngừa đẻ non. Đôi khi những tiến bộ trong chẩn đoán siêu âm , bên cạnh những đóng góp về mặt y tế có thể tăng sự huyền tưởng của bà mẹ tương lai.Như trường hợp dưới đây do cộng tác viên bệnh viện phụ sản Hải phòng kể: " Lần này tôi chủ động có thai, cháu đầu là con gái, nên rất mong sinh được một cháu trai. Vào 2 tháng cuối thai kỳ, đi siêu âm được biết là con gái, tôi rất buồn chán, khóc nhiều, không thiết ăn. Khi vào đẻ tôi buồn bã lo lắng. Khi biết chắc là đẻ ra con gái tôi vô cùng thất vọng và rất khổ tâm. Tôi buồn chán tới
- mức không muốn nhìn con nữa. Bế con chỉ là nghĩa vụ. Chứ không cảm thấy có cảm xúc gì. Cho bú mà cảm thấy hết sức bình thường, "Nó đói thì phải cho bú thôi". Cần có hợp tác nhiều chuyên khoa ( giữa cán bộ y tế sản khoa, nhi khoa và tâm lý cùng với gia đình sản phụ) mà trung tâm là BVBMTE nơi khám thai và nâng đỡ quá trình thai sản. -Tại nhà hộ sinh: Việc chuẩn bị tâm lý cho cuộc sinh nở theo Lamaze ( Phương pháp: không đau) sẽ giúp sản phụ làm chủ được lo hãi trước và trong thời gian đẻ, tránh được ít nhất sự tăng đau đớn do lo hãi. Trong việc chuẩn bị đó mối quan hệ giữa sản phụ và NHS thực hiện việc chuẩn bị đó có một vai trò quan trọng. +Việc cho phép các ông bố, người thân vào phòng đễ giúp cho việc nâng đỡ sản phụ có hiệu quả. Theo điều tra của viện BVBMTE và Sơ sinh (1993), tỷ lệ sản phụ muốn có chồng ở cạnh khi đẻ là 78%. Theo Phạm bích Nhung ở bệnh viện Phụ sản Hải Phòng (1994), tỷ lệ sản phụ sinh con so muốn có người thân bên cạnh lúc đẻ là 80%, sản phụ con rạ là 62%. +Trẻ sơ sinh sau sinh được nằm ngay với mẹ để hình thành sớm quan hệ mẹ con +Nhiều tài liệu của tổ chức Y Tế Thế Giới khuyến cáo cho bú mẹ, bú theo yêu cầu là điều kiện để bà mẹ tiếp xúc chặt chẽ với con ngay từ những ngày đầu. Với sản phụ sinh con so phải hướng dẫn cho bú khi đầu vú ngắn, bị tụt vào, hoặc đau vì nứt cổ gà, động viên bà mẹ tự tin, không hổ thẹn -Khi trở về nhà: Khi rời nhà hộ sinh về nhà sản phụ có những khó khăn đặc biệt. Theo điều tra tại Viện Bảo vệ Bà mẹ và Sơ sinh: 71% sản phụ sau khi ra viện muốn mẹ con về nhà riêng vì 65% có chồng có thể giúp hoặc làm chổ dựa. Vai trò người chồng là đặc biệt quan trọng từ khi thai nghén, cần được phát huy khi vợ đẻ và sau sinh. +Bà ngoại của đứa trẻ cũng là chổ dựa, 23% sản phụ sau khi ra viện muốn về nhà mẹ đẻ một thời gian. -Cần hạn chế số người xung quanh trẻ, để trẻ có cơ may tạo được những quan hệ thật sự. Một trẻ cứ luôn thay người bế, không những lâm vào tình trạng mất an toàn mà còn không phát triển được những quan hệ sâu sắc.( M.d'Agostino). -Một lời khuyên cuối cùng là cần giúp các cha mẹ và những người chăm sóc trẻ, để họ lưu ý tới nhu cầu được tiếp xúc của sơ sinh và trẻ bé. Những nhu cầu đó cũng sơ đẳng và cũng không kém quan trọng như nhu cầu ăn ngũ, vệ sinh thân thể Để thiết lập mối quan hệ sớm mẹ con mà tính phong phú của các phương tiện cũng có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Chất lượng tiếp xúc, trao đổi cũng không kém ( nhìn, mĩm cười, vuốt ve, nói năng ) 5.2.Trị liệu Trong các xu hướng tiếp cận trị liệu, nên quan tâm tới phương pháp tư vấn trị liệu và tiếp cận trị liệu phân tâm bằng lời nói +Tư vấn trị liệu: Tư vấn trị liệu nằm trong hoạt động lâm sàng của nhiều tác giả (L.Kreisler, S.Lebovici. Mazet ở Pháp, B.Cramer, Palacio Espana. J.Manzano ở Thụy sĩ) Tư vấn trị liệu nhằm vào quan hệ (bố) mẹ, con, thông qua đó tác động lên các đối tác bằng biến đổi theo hướng cải thiện quan hệ sớm mẹ con. Qua các buổi tiếp xúc trao đổi( có khi chỉ một đôi lần) người thầy có kinh nghiệm, một lúc nào đó"chộp" được những lời nói, hoặc thái độ của bố mẹ, tương tác mẹ con có ý nghĩa và với một cái nhìn có ý nghĩa
- lý giải. Người thầy đi tới dẫn dắt bố mẹ tự tìm ra mình và con mình, đồng thời tự tìm ra được cách thích nghi với con để tương tác có hiệu quả +Trị liệu phân tâm bằng lời nói: F.Dolto nhà phân tâm pháp nổi tiếng về trẻ em và các môn đệ của bà đã miêu tả cách họ theo dõi, nghe hiểu ngôn ngữ cơ thể của bé và cách chăm chữa có hiệu quả nhiều rối nhiễu ở trẻ đó chỉ bằng lời nói. Ví dụ: Khi con khóc vì đói, người mẹ nói :''Đợi tí thôi mẹ sẽ cho bú ngay đây" hoặc là:''Hôm nay con ngũ muộn nên gắt ngũ, mẹ xin lỗi" "Sao hôm nay con khóc thế nhỉ? hay là do bà khách ban nãy, mẹ sẽ đốt vía bà ấy là ổn ngay thôi". Những lời nói đó làm êm dịu nhanh chóng sự căng thẳng của trẻ, giúp nó thư dãn lấy được thế cân bằng. Bản thân mẹ thủ thỉ với con, nhiều lúc cũng vợi đi nỗi lòng nặng trĩu. Giao tiếp với trẻ là một sở trường mà bà mẹ và những người lớn phải đạt tới qua một quá trình tập thích nghi, cho khớp với trẻ. Lĩnh hội khả năng đó đòi hỏi không chỉ thời gian mà cả một công lao đầu tư tình cảm quan trọng. Đó là nhiệm vụ khó khăn cần nhiều cố gắng nhưng lại được đền bù bằng nhiều tình yêu của trẻ( M.d'Agostino). 6.Những yếu tố tâm lý trong chuyển dạ sớm Ở các nước phương Tây có chừng 5%-15% là đẻ non và chúng chiếm phần lớn tử vong trẻ em. Nhiều nghiên cứu cho thấy những sự kiện trong cuộc sống gắn với đẻ non. Gunter dùng một bảng phỏng vấn so sánh diễn biến của cuộc sống đã xảy ra trong suốt cả cuộc đời quá khứ của bà mẹ. Chỉ có những diễn biến gây stress quan trọng (Như mất người thân, ly hôn, những bệnh nặng của bản thân hoặc người thân trong gia đình) là được kể trong đó. Ở nhóm đẻ non thì các diễn biến đó xảy ra nhiều hơn. Schwatz so sánh các diễn biến trong thời kỳ mang thai và trong 2 năm rưởi trước đó. Những phụ nữ đẻ non cũng thấy gặp nhiều các sự kiện hơn. Newton chia nhóm đẻ non thành 2 nhóm phụ: một là nhóm đẻ rất sớm (trước 33 tuần) và nhóm đẻ sớm (33-36 tuần). những phụ nữ đẻ rất sớm có nhiều sự kiện hơn so với nhóm đẻ sớm, nhóm này lại có nhiều sự kiện hơn so với nhóm đẻ đủ tháng. Những khác biệt của các nhóm chủ yếu là do các sự kiện diễn ra trong tuần lễ cuối cùng của kỳ thai. William lại thấy rằng 1/3 số phụ nử đẻ non lại có vấn đề y học như nhiễm độc thai và rau tiền đạo chẳng hạn. Tóm lại, có nhiều công trình nghiên cứu, mặc dầu còn thiếu sót, song phần lớn các phát hiện gợi ra rằng stress mạn tính hoặc stress lặp đi lặp lại ( đối lập với stress cấp tính) đã góp phần gây đẻ non. II. TÂM LÝ BỆNH NHÂN NGOẠI KHOA 1.Đặc điểm tâm lý bệnh nhân ngoại khoa Bệnh ngoại khoa đặc biệt là bệnh cần can thiệp phẫu thuật thường có ảnh hưởng lớn đến tâm lý bệnh nhân và người nhà bệnh nhân, bệnh nhân và người nhà thường rất lo lắng: Mổ có nguy hiểm không , ai mổ, sau mổ có lành bệnh không, có để lại di chứng, biến chứng, tàn phế không Vì vậy vai trò của thầy thuốc, điều dưỡng khoa ngoại là hết sức quan trọng, tùy theo trường hợp bệnh nhân đêí có tác động tâm lý thích hợp 2.Tác động tâm lý đối với bệnh nhân ngoại khoa
- -.Đối với bệnh nhân tỉnh táo mắc bệnh ngoại khoa cần can thiệp phẫu thuật thầy thuốc phải chuẩn bị tư tưởng thật chu đáo vì bệnh nhân thường sợ đau đớn, và lo sợ kết quả của cuộc mổ tốt hay không. -.Đối với bệnh nhân có loại thần kinh cân bằng mạnh, động viên giải thích làm cho họ an tâm -.Đối với bệnh nhân thần kinh không cân bằng hoặc yếu thì việc chuẩn bị thật chu đáo trước mổ là rất quan trọng ngoài động viên giải thích cần phải nâng cao thể trạng điều trị an thần Kinh nghiệm ở bệnh viện Macarop Ucrain Liên xô người ta có những bệnh nhân được mỗ kết quả tốt đến nói chuyện với bệnh nhân mới, bản thân thầy thuốc mời bệnh nhân đến giải thích phân tích bệnh tật, giới thiệu về sự cần thiết phải mổ , khi mổ có tiền mê , thuốc tê bệnh nhân không thấy đau đớn là gì. -.Đối với bệnh nhân bị bệnh cấp tính đang đau quằn quại phải mổ cấp cứu mới cứu sống được bệnh nhân , tuy vậy bệnh nhân vẫn rất sợ mổ, thầy thuốc phải phân tích thật tỷ mỹ để bệnh nhân thấy sự nguy hiểm của bệnh tật đang đe dọa tính mạng. Trong khi mổ phải đảm bảo mê sâu để bệnh nhân không bị đau đớn. Trong giai đoạn hậu phẫu, bệnh nhân cần được chăm sóc điều dưỡng đặc biệt. 3.Tác động tâm lý đối với người nhà bệnh nhân Đối với thân nhân bệnh nhân cũng cần được chuẩn bị tư tưởng đầy đủ, không được hoảng hốt, khóc lóc trước mặt bệnh nhân, điều đó làm cho bệnh nhân dễ suy diễn cho là nguy hiểm đến tính mạng nhưng thầy thuốc và người nhà không nói cho bệnh nhân. Kinh nghiệm và trên nghiên cứu khoa học cho thấy bệnh nhân được chuẩn bị tinh thần chu đáo thì chịu đựng cuộc phẫu thuật tốt hơn, sợ hãi thì tỷ lệû tử vong cao lên do sợ hãi, chấn động tinh thần.
- KHÁI NIỆM, NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT CHỨC NĂNG CỦA ĐẠO ĐỨC HỌC Mục tiêu học tập 1. Trình bày được các khái niệm về đạo đức. 2. Trình bày được các điểm cơ bản của các dạng đạo đức I. KHÁI NIỆM VỀ ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những nguyên tắc, chuẩn mực của xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người, vì sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội. Quan niệm đạo đức hoàn toàn khác nhau khi xã hội có giai cấp, có đấu tranh giai cấp, quan điểm duy vật lịch sử về đạo đức của chủ nghĩa Mác đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Cùng quan điểm, ở những góc độ khác nhau của đời sống, cách nhìn nhận đạo đức cũng khác nhau. Quan niệm đạo đức theo lý luận duy vật lịch sử: “Đạo đức là những hình thái ý thức xã hội, xuất hiện sớm nhất trong lịch sử loài người. Đạo đức là tổng hợp những quan niệm về thiện, ác, trung thực, giả dối, đáng khen, đang chê, cùng với những quy tắc phù hợp với những quan niệm đó, nhằm điều chỉnh hành vi của con người đối với xã hội, đối với giai cấp, đối với Đảng và đối với người khác”. Quan niệm phổ thông: “Đạo đức là những phép tắc, căn cứ vào chế độ kinh tế, chế độ chính trị mà đặt ra, quy định quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân và xã hội cốt để bảo vệ chế độ kinh tế, chế độ xã hội”. Quan niệm của Duberstin và Linchevski: “Đạo đức là hình thái của sự nhận thức xã hội, là tất cả những nguyên tắc, những quy định, tiêu chuẩn mà mọi người tuân theo trong hành vi của mình”. Đạo đức xã hội có chức năng giáo dục, điều chỉnh và nhận thức. Từ nhận thức về các quy luật, bản chất, khái niệm đạo đức để nhận thức lại đạo đức của mình. Đạo đức chỉ xuất hiện nơi nào có mối quan hệ (quan hệ giữa cá nhân-cá nhân, cá nhân-tập thể, ), hành vi điều chỉnh các mối quan hệ luôn tự giác, mối quan hệ của đạo đức là mối quan hệ giữa chủ quan và khách quan của con người nhưng đạo đức bản thân có ý nghĩa nhân sinh quan. Đó cũng chính là quy luật của đạo đức và nội dung của đạo đức do tồn tại xã hội quyết định. Bản chất của đạo đức xã hội là một hình thái đặc biệt của ý thức xã hội, là sự điều chỉnh mối quan hệ xã hội, là biện pháp giải quyết và khắc phục các mâu thuẫn xã hội làm cho xã hội phát triển, tiến bộ. II. CÁC DẠNG ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI 1. Đạo đức ở xã hội công xã nguyên thủy
- Hình thái kinh tế xã hội công xã nguyên thủy là hình thái kinh tế xã hội đầu tiên của loài người. Ý thức xã hội bắt đầu xuất hiện từ “Ý thức bầy đàn đơn thuần” tiến tới “Ý thức xã hội nguyên thủy”. Thông qua lao động, ngôn ngữ , con người biểu lộ được những mối quan hệ tình cảm giữa cá nhân và cộng đồng. Ở chế độ thị tộc, ý thức đạo đức gắn với cuộc sống tinh thần tổ tiên là tôn giáo nguyên thủy, sinh ra từ các biểu tượng mông muội, tối tăm của con người với thiên nhiên, họ đã tìm vật tổ (tổ tem) để thờ cúng, đạo đức thể hiện dưới kinh nghiệm, truyền thống, phong tục tập quán và các điều cấm kỵ. Chế độ công xã nguyên thủy ý thức cá thể đồng nhất với ý thức tập thể (hòa tan lao động và lợi ích cá nhân vào tập thể). Lợi ích của cộng đồng thị tộc do lao động tập thể quy định, là nhân tố cơ bản tạo ra đạo đức nguyên thủy. Vậy thực chất đạo đức công xã nguyên thủy là sự phản ảnh thực chất quan hệ lợi ích giữa cá nhân và tập thể - lợi ích đồng nhất. Dấu hiệu của đạo đức nguyên thủy chưa trở thành quan hệ riêng biệt, chế định đơn giản, biểu hiện bằng tình cảm truyền thống thị tộc, nền tảng của đạo đức công xã nguyên thủy chính là sự hợp tác và công bằng. Đạo đức đúng nghĩa chỉ xuất hiện và tồn tại trong xã hội có đấu tranh giai cấp, như vậy đạo đức xuất hiện ở công xã nguyên thủy chỉ ở trạng thái mờ. Những dấu hiệu của đạo đức hiện thực và ý thức đạo đức xã hội là quá trình lao động tập thể dần dần trở thành các chuẩn mực đạo đức xã hội. Những dấu hiệu đó có tác dụng cho đến bây giờ (tình cảm, nền tảng của đạo đức xã hội, đạo đức thị tộc). 2. Đạo đức xã hội chiếm hữu nô lệ (CHNL) Xã hội CHNL là xã hội bắt đầu xuất hiện giai cấp, có đấu tranh giai cấp, những quan niệm đạo đức không đồng nhất và mâu thuẫn, chức năng đầu tiên của đạo đức chính là biện pháp khắc phục mâu thuẫn giai cấp nhằm đè bẹp ý chí của giai cấp bị trị (nô lệ) bảo vệ quyền lợi giai cấp thống trị (chủ nô). Sản xuất CHNL là cơ sở của đạo đức CHNL. - Đạo đức xã hội CHNL có tính chất đối kháng. - Quan điểm đạo đức CHNL được hiểu trùng khít với lý luận, tập tục, quy tắc và ý chí tổ tiên (Logos: theo Héraclit là quy luật vũ trụ, là chuẩn mực đạo đức). - Quan niệm phẩm hạnh là một cuộc đấu tranh cho phẩm giá, vì vậy mà xuất hiện lòng nhân đạo. Platon chia công dân theo ba đức tính: đức tính thông minh thuộc loại người triết gia, đức tính dũng cảm thuộc về các thủ lĩnh, đức tính ôn hòa thuộc về tầng lớp công dân tự do. Còn nô lệ không được xếp là công dân, là giai cấp đông đảo trong xã hội CHNL không được bảo vệ về mặt luật pháp cũng như quan niệm đạo đức. Đấu tranh cho sự bình đẳng, tự do là nguyên tắc đạo đức cao nhất của các nhà tư tưởng tiến bộ, phẩm hạnh giúp con người vươn tới hoàn thiện tính cách, đó là đạo đức. Tuy nhiên các quan niệm tiến bộ đều không có chỗ đứng cho giai cấp nô lệ! 3. Đạo đức xã hội phong kiến (PK) Xã hội phong kiến tồn tại đồng thời nhiều kiểu đạo đức: đạo đức của chính giai cấp phong kiến (địa chủ, quý tộc, quan lại thống trị), đạo đức của giai cấp nông dân và những người lao động. Tư tưởng quyền uy trở thành nguyên lý đạo đức, đặt xã hội dưới sự điều khiển của giai cấp phong kiến thống trị.
- Quyền uy là ý chí của giai cấp PK, áp đặt bắt buộc mọi tầng lớp nhân dân phải phục tùng vô điều kiện “Quyền uy lấy sự phục tùng làm tiền đề”- Englels vì vậy đạo đức phong kiến là những tiêu chuẩn, chuẩn mực hà khắc đối với nông dân và nhân dân lao động. Lịch sử tư tưởng đạo đức của nhân dân Việt Nam qua đấu tranh với giai cấp thống trị và ngoại xâm hình thành từng bước, lúc đầu là theo tư tưởng Phật giáo, tiến tới theo tư tưởng Nho giáo, Lão giáo, rồi tam giáo đồng nguyên và cuối cùng là Nho giáo độc tôn, trở thành tư tưởng đạo đức thống trị xã hội Việt Nam. Nội dung cơ bản của đạo đức phong kiến là Trí, Nhân, Dũng. Quan niệm Khổng Tử cho rằng: đạo là mối quan hệ ngũ luân (1. quân thần, 2. phụ tử, 3. phu thê, 4. Huynh đệ, 5. bằng hữu, trong đó 1, 2, 3, là tam cương). Người có đức (có trí, nhân, dũng) sẽ giải quyết tốt các mối quan hệ ngũ luân, đặc biệt là tam cương. Nội dung đạo đức phong kiến từ trí,nhân, dũng sau này thành: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, Chế độ phong kiến rất coi trọng rèn luyện lễ. Lễ là toàn bộ quy tắc lớn nhỏ trong đời sống, là yêu cầu hàng ngày của trật tự lễ giáo phong kiến bắt mọi người phải tuân theo. Vì vậy nông dân, nhân dân lao động, luôn bị chà đạp, sự xung đột tư tưởng đạo đức phong kiến với nhân dân luôn xẩy ra trong các mối quan hệ tam cương, ngũ thường. Nghĩa trung quân không có nghĩa là sự mù quáng với tên vua tân bạo, xâm lược (vua coi bề tôi như chân tay thì bề tôi coi vua như ruột thịt; vua coi bề tôi như chó ngựa thì bề tôi coi vua như người dưng; vua coi bề tôi như cỏ rác thì bề tôi coi vua như cừu thù) Lịch sử tư tưởng đạo đức của nhân dân Việt Nam cũng thế: Khi vua là người hết lòng vì dân vì nước thì nhân dân trung với vua là trung với nước: Lê Lai liều mình cứu chúa; Dã Tượng và Yết Kiêu quên mình cứu Trần Hưng Đạo; hàng vạn quân Tây Sơn xông lên trước đầu voi để bảo vệ chủ; nhưng khi vua chúa thối nát thì nhân dân vùng lên chống lại. 4. Đạo đức trong xã hội tư bản Chủ nghĩa tư bản đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển, trình độ xã hội hóa cao, sản xuất tập trung, năng suất lao động có hiệu quả rõ rệt, Đó là mặt tích cực, nhưng chính giai cấp tư sản đã để lại cho xã hội nhiều hiệu quả tiêu cực về đạo đức. Đứng về mặt lịch sử phát triển thì chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa cá nhân tư sản đã đóng vai trò tích cực trong buổi bình minh của nó thì quá trình tích lũy tư bản chính là bước suy đồi về đạo đức, bằng sự bóc lột giá trị thặng dư một cách tàn bạo đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Chính giai cấp tư sản đã tạo nên một lớp người kiên cường đối trọng với chủ nghĩa tư bản đó là lực lượng xã hội tiến bộ trong công nhân, nhân dân lao động, có tư tưởng đạo đức đối lập với đạo đức tư bản. Tuy nhiên ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, đạo đức xã hội của giai cấp tư sản với chủ nghĩa cá nhân vị kỷ thống trị là chủ yếu, được nhà nước và pháp luật tư bản bảo vệ, ngược lại đạo đức vô sản, đạo đức của giai cấp công nhân và nhân dân lao động không được nhà nước và luật pháp bảo vệ. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa với quy luật giá trị của nó làm cho đạo đức tư bảnchủ nghĩa lệ thuộc vào đồng tiền. Đồng tiền có thể thúc đẩy xã hội tư bản phát triển nhưng đồng thời cũng trở thành uy lực mạnh mẽ có thể kích thích mọi động cơ, mọi dục vọng thấp kém và hèn hạ nhất.
- Vì vậy cơ sở đạo đức chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa cá nhân Tư sản vị kỷ, quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là bất khả xâm phạm, xâm phạm quyền sở hữu tư nhân là phá vỡ nguyên tắc đạo đức. Cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản làm cho sản xuất phát triển nhưng thủ đoạn phổ biến của nó ngày càng gay gắt, ác liệt, trắng trợn có khi mang tính chất bạo lực, đã trở thành nhân tố đe dọa cơ sở đạo đức nhân cách. Tính giả dối bên trong được che đậy bởi hình thức quan hệ hào nhoáng bên ngoài, giương cao ngọn cờ chủ nghĩa cá nhân tư sản chính là ngụy tạo một nền dân chủ tư sản, ngụy tạo một chủ nghĩa thực dụng tự do tuyệt đối, sản sinh ra những lớp người hưởng thụ khoái lạc trên sự đau khổ của người khác, vô trách nhiệm với xã hội Khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển với những thành tựu kỳ diệu tạo điều kiện cho loài người xây dựng một thế giới văn minh tiến bộ, bình đẳng, hữu nghị, không có chiến tranh, đói nghèo với một nền đạo đức tiên tiến nhân văn, nhưng mặt khác cũng chứa đựng nguy cơ các thế lực đen tối, phản động chống lại con người, gây xung đột sắc tộc đưa nhân loại trở thành nạn nhân của những chết chóc đau thương ngày càng tinh vi và độc ác hơn. Tóm lại. Đạo đức tư bản chủ nghĩa không phải là hình thái ý thức xã hội thuần nhất mà gồm nhiều nội dung đạo đức của giai cấp tư sản, của công nhân của nhiều lực lượng tiến bộ khác. Các kiểu đạo đức đo đan xen nhau, đấu tranh với nhau mở rộng cho khả năng phát triển đạo đức tương lai đó là đạo đức xã hội chủ nghĩa. 5. Đạo đức trong xã hội xã hội chủ nghĩa Đạo đức xã hội chủ nghĩa xuất hiện và hình thành trong lòng tư bản chủ nghĩa, quan niệm đạo đức xã hội chủ nghĩa đối lập với tư bản chủ nghĩa. Ở các nước xã hội chủ nghĩa bên cạnh việc hình thành một hệ xã hội chủ nghĩa là giai đoạn thấp của đạo đức cọng sản chủ nghĩa vừa thoát khỏi đạo đức tư bản chủ nghĩa và vẫn còn tàn dư của đạo đức phi xã hội chủ nghĩa khác. 5.1.Đạo đức XHCN có các đặc điểm - Đạo đức XHCN là nền đạo đức tiến bộ nhất trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người: + Quá trình phát triển đi lên của cách mạng là quá trình người lao động được giải phóng và làm chủ về kinh tế, xã hội. Vì thế đạo đức XHCN được biểu hiện bằng quá trình giải phòng XH, giải phóng con người. + XHCN tồn tại nhiều thành phần kinh tế do nhà nước điều hành dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, làm cho nhân dân lao động thực sự làm chủ đất nước. Là nền tảng đạo đức thống nhất giữa lý tưởng của dân tộc và lý tưởng thời đại, con người phát huy lao động sáng tạo phục vụ cho tiến bộ xã hội vì mục tiêu con người. + Sự tiến bộ đạo đức XHCN ở chỗ phạm vi ứng dụng luân lý không ngừng mở rộng, thâm nhập vào mọi lĩnh vực đời sống. - Đạo đức XHCN là nền đạo đức có giá trị phổ biến và nhân đạo: Các xã hội cũ, đạo đức đã trở thành phương tiện, công cụ để giai cấp thống trị đàn áp bóc lột nhân dân lao động. Dưới chế độ XHCN, khi giai cấp công nhân đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động nắm được chính quyền thì lợi ích của người lao động và toàn xã hội thống nhất với nhà nước. Nhà nước XHCN là nhà nước của dân, do dân và vì dân, là
- điều kiện thuận lợi để mọi giá trị đạo đức, mọi phẩm chất cao đẹp của nhân dân, của dân tộc phát huy. Ở xã hội cũ, mọi giá trị sáng tạo của nhân dân lao động hoặc không được biết đến, hoặc bị vùi dập, trong XHCN người lao động được tham gia và phát huy sáng tạo, giá trí mới ngày càng nhiều, càng đông đảo, nhân dân lao động vừa là chủ thể, vừa là động lực, vừa là mục tiêu sáng tạo mọi giá trị tinh thần văn hóa. 5.2.Nguyên tắc đạo đức XHCN Do đặc điểm trên mà đạo đức XHCN có các nguyên tắc cơ bản: - Lòng trung thành với lý tưởng XHCN là nguyên tắc đạo đức cao cả: Đó là xã hội con người được giải phóng, được hoàn thiện, được phát huy mọi tiềm năng sáng tạo cá nhân người lao động. Lòng trung thành với chủ nghĩa yêu nước: Trong tình yêu nước của nhân dân lao động hàm chứa lý tưởng giải phóng con người, giải phóng xã hội. Chủ nghĩa yêu nước chân chính chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và thống nhất với tình cảm quốc tế. - Lao động sáng tạo nhằm cống hiến ngày càng nhiều cho xã hội là nguyên tắc đạo đức: Lao động tự giác mong cống hiến cho xã hội để tự hoàn thiện mình đã trở thành nhu cầu thôi thúc của xã hội đ/v cá nhân. Đạo đức công dân ( Hồ chí Minh toàn tập ) : - Tuân theo pháp luật - Tuân theo kỷ luật lao động - Giữ gìn trật tự chung - Nộp thuế đúng kỳ đúng số để xây dựng lợi ích chung - Hăng hái tham gia công việc chung - Bảo vệ tài sản công cộng - Bảo vệ tổ quốc III. ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP (DÉONTOLOGIC) Đạo đức nghề nghiệp là một bộ phận của đạo đức xã hội, là đạo đức cụ thể trong đạo đức chung của xã hội. Đạo đức nghề nghiệp xuất hiện để là tên gọi khoa học về cách sử dụng nghề nghiệp của con người (Déon: bổn phận cần phải làm, logos: học thuyết - Déontologic được nhà triết học Anh Bentam sử dụng có ý nghĩa là nghĩa vụ luận, đạo đức nghề nghiệp). Đạo đức nghề nghiệp là những yêu cầu đạo đức đặc biệt, có liên quan đến việc tiến hành một hoạt động nghề nghiệp nào đó. Là tổng hợp của các quy tắc, các nguyên tắc chuẩn mực của 1 lĩnh vực nghề nghiệp trong đời sống, nhờ đó mà mọi thành viên của lĩnh vực nghề nghiệp đó tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích và sự tiến bộ của nó trong mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể với xã hội, Tuân theo các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp sẽ tạo điều kiện cho việc nâng cao chất lượng lao động trong lĩnh vực nghề nghiệp. Phẩm chất đạo đức cá nhân trong xã hội đều có nét chung, nhưng đạo đức trong lĩnh vực nghề nghiệp có những đặc thù và yêu cầu riêng biệt.
- Thầy thuốc phải có lòng trắc ẩn Thầy giáo phải là người mô phạm Nhà báo phải trung thực Nhà chính trị phải có lòng nhân hậu đặc biệt với nhân dân
- CÁC PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA ĐẠO ĐỨC HỌC Mục tiêu học tập 1. Trình bày và vận dụng được nội dung và ý nghĩa của các cặp phạm trù đạo đức. I. PHẠM TRÙ ĐẠO ĐỨC 1. Khái niệm Phạm trù là những khái niệm chung nhất, phản ánh những đặc tính cơ bản, những phương tiện và mối quan hệ phổ biến nhất của hiện tượng trong đời sống thực tế Các phạm trù đạo đức cũng giống như các phạm trù của khoa học khác về tính khái quát, tính phổ biến và các mối liên hệ xác định với nhau theo những quy luật nhất định. Bên cạnh đó, phạm trù đạo đức có một đặc điểm có tính riêng biệt. 2. Các đặc điểm của phạm trù đạo đức 2.1. Các phạm trù đạo đức ngoài việc thông báo những nội dung, còn biểu hiện thái độ của con người và sự đánh giá (phạm trù đạo đức phản ánh nội dung khách quan như các phạm trù khác, nhưng phản ánh không bằng phẳng, mang yếu tố cảm xúc, có ý nghĩa nhân sinh quan). 2.2. Các phạm trù đạo đức thường có tính phân cực, phạm trù đạo đức quan tâm đến miền giới hạn rõ ràng của thang giá trị, không bàn đến các giá trị trung gian. 3.1. Thiện và ác - Thiện: Thiện là cái tích cực, cái tiến bộ, cái có ích, phù hợp với lịch sử, cái thiện là cái đạo đức. - Ác: Là cái tiêu cực, cái lạc hậu, cái có hại, không phù hợp với lịch sử, cái ác là cái phi đạo đức. - Các quan niệm về thiện và ác: Quan niệm trước Mác: Những quan niệm trước Mác có khuynh hướng quy cái thiện và cái ác vào bản chất vốn có của con người mà không hiểu bản chất xã hội và tính lịch sử của cái thiện và ác. + Bản chất con người là thiện (Mạnh Tử) + Bản chất con người là ác (Tuân Tử) + Con người hướng tới cái thiện (Platon) Quan niệm của đạo đức học Mác-Lênin: Mác quan niệm thiện và ác có tính lịch sử xã hội và quan hệ chặt chẽ với tính giai cấp. Ý thức của con người về cái thiện và cái ác là kết quả phản ánh những điều kiện kinh tế xã hội của thời đại và phụ thuộc vào vị trí của giai cấp. - Quan niệm về thiện: + Thiện là cái tốt đẹp, là lợi ích của con người phù hợp với tiến bộ xã hội. Theo đó, thiện trước hết là sự giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột, khỏi mọi nỗi khổ đau do sự bóc lột đem lại.
- + Là cái thiện hiện thực chứ không phải chỉ là ước muốn như những quan niệm trước đó, cái thiện gắn với sự đấu tranh cho hạnh phúc con người. + Cái thiện bản thân có sự sáng tạo vì chứa đựng chân lý, cái thiện không chỉ trong ý thức tư tưởng mà phải được thể hiện trong hành động. - Quan niệm về cái ác: + Cái ác là cái đang ghê tởm, cần gạt bỏ ra khỏi đời sống xã hội (tuy nhiên nội dung của nó và mặt đối lập nó mang tính lịch sử không phải vĩnh viễn). + Cái ác là cái gây nên nỗi đau khổ bất hạnh cho con người. Cùng với những biến đổi lịch sử, theo chiều hướng tiến bộ, thì cái bình thường của thời đại này có thể trở thành cái ác của thời đại sau (còn cái thiện có thể trở thành bình thường). + Con người phấn đấu để gạt bỏ nỗi đau khổ cũng xem đó là sự chiến đấu chống cái ác. Cái thiện cái ác là sự thống nhất giữa mục đích và kết quả, giữa động cơ và phương tiện. Giữa mục đích và kết quả không bao giờ cùng đồng nhất. Vì vậy trong đánh giá, cần coi trọng động cơ. Một hành động có mục đích tốt, nhưng kết quả không tốt, chúng ta không coi là ác, nhưng nếu xuất phát từ mục đích xấu xa, thì dù kết quả có tốt cũng vẫn coi là ác, bởi lẽ cái tốt đó không phụ thuộc vào chủ thể hành động mà do những ngẫu nhiên bên ngoài khác chi phối. Giữa động cơ và phương tiện cũng vậy. Nếu phương tiện đã bao hàm động cơ thì mục đích thiện không thể dùng các phương tiện tàn ác. Tuy nhiên điều đó không hoàn toàn loại bỏ việc thực hiện những mục tiêu thiện, những đòi hỏi phải vượt qua khó khăn vất vả kể cả nỗi đau khổ để đến với cái thiện. “Chỗ hoàn thiện của con người không phải là quyền lực, chỗ hoàn thiện của con người chính là lòng phục thiện của mình” (Tago). 3.2. Nghĩa vụ và lương tâm - Nghĩa vụ: Nghĩa vụ được hiểu như là mặt tất yếu của nhiệm vụ mà cá nhân ấy được thực hiện trước xã hội, là sự phục tùng lợi ích xã hội, là mệnh lệnh từ bên ngoài. + Quan niệm trước Mác cho rằng “nghĩa vụ là động lực thúc đẩy hoạt động của con người” (Democrit). Democrit là người đầu tiên đưa phạm trù nghĩa vụ vào đạo đức học. Các tôn giáo thì cho nghĩa vụ là ý thức trách nhiệm của con người trước thượng đế. Kant là người có nhiều công trình nghiên cứu về nghĩa vụ, cho rằng nghĩa vụ là cái hoàn hoàn không nhận thức được, ông xem nghĩa vụ như mệnh lệnh tuyệt đối mà con người phải tuân theo. + Quan niệm của đạo đức học Mac-Lênin cho rằng: nghĩa vụ là trách nhiệm của con người trước lợi ích chung của xã hội (giai cấp, dân tộc) và người khác. Là ý thức về cái cần phải làm và mong muốn được làm vì lợi ích chung của xã hội. Nội dung của việc thực hiện nghĩa vụ đạo đức: * Thực hiện hoàn toàn tự giác. * Hành động phải phù hợp với tiêu chuẩn tiến bộ xã hội, có sáng tạo ra giá trị cao đẹp. *Hành động hoàn toàn tự do, không bị ràng buộc bởi lợi ích vật chất và lợi ích cá nhân nào, Giáo dục ý thức nghĩa vụ đạo đức là một quá trình lâu dài, từng bước. Nguồn gốc của ý thức nghĩa vụ là lòng biết ơn đối với xã hội, là ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ những lợi ích xã hội, là tình cảm yêu thương đoàn kết giữa con người và con người.
- - Lương tâm: Lương tâm là mặt tự do bên trong của nghĩa vụ, là ý thức tự giác hành động của cá nhân theo mệnh lệnh từ bên trong, theo một niềm tin, theo một định hướng mà cá nhân đã lựa chọn. Lương tâm là đặc trưng của đời sống đạo đức, nhờ có lương tâm mà con người tự điều chỉnh hành vi của mình. + Quan niệm trước Mác: Trước Mác người ta quan niệm lương tâm “là sự mách bảo của thượng đế” (Platon) “là sự xấu hổ của con người trước hết là với bản thân mình” (Démocrit). + Quan niệm của đạo đức Mác-Lênin cho rằng: Lương tâm là cảm giác hay là ý thức trách nhiệm đạo đức của con người đối với hành vi của mình, là sự tự đánh giá và phán xử những hành vi của mình trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội. Nguồn gốc của lương tâm là sự nhận thức về nghĩa vụ đạo đức của mình. Nó xuất phát từ hoạt động xã hội theo các bước: * Ý thức về cái cần phải làn vì sợ bị trừng phạt. * Ý thức về cái cần phải làm vì xấu hổ trước người khác. * Ý thức về cái cần phải làm vì sợ xấu hổ trước bản thân. Cảm giác tự xấu hổ là bước đầu của lương tâm. “Xấu hổ trước mọi người là tình cảm tốt, nhưng xấu hổ trước bản thân mình lại còn tốt hơn nhiều” (Tonstoi) Lương tâm biểu hiện ở hai trạng thái: * Trạng thái phủ định: là sự cắn rứt của lương tâm, giúp con người tự phán xét hành vi sai trái của mình, giúp con người thức tỉnh, hối cải và tìm cách khắc phục lỗi lầm. *Trạng thái khẳng định: là trạng thái làm cho lương tâm thanh thản, nâng cao tính tích cự của con người, tin tưởng vào hoạt động của mình. Trạng thái lương tâm luôn giữ vai trò định hướng giúp con người uốn nắn những sai trái và là động lực thúc đẩy hành động đúng đắn. 3.3. Hạnh phúc và lẽ sống - Hạnh phúc: Hạnh phúc là mục đích, là lý tưởng tối cao cho mọi cuộc sống có ý nghĩa. Hạnh phúc là mối quan tâm lớn của moi thời đại, bởi lẽ quan niệm của con người về hạnh phúc quyết định thái độ sống, quyết định toàn bộ hoạt động của con người. + Quan niệm trước Mác về hạnh phúc thường nhấn mạnh đến các yếu tố tinh thần, các quan điểm tư sản có khuynh hướng cho nội dung hạnh phúc là sự thỏa mãn những nhu cầu vật chất cá nhân. Aristốt nhấn mạnh hạnh phúc là cuộc sống trí tuệ. Démocrit: Trí tuệ chế ngự đau khổ Phơbach: Trí tuệ là hạnh phúc Héghen: Hạnh phúc chỉ có ở người giàu, người nghèo và lao động không có hạnh phúc. + Quan niệm đạo đức Mác-Lênin cho rằng hạnh phúc đích thực là sự thỏa mãn cao nhất những nhu cầu đạo đức xã hội.
- Là yếu tố tâm lý cảm xúc một cách tự giác các nhu cầu đạo đức cao cả (tình yêu, tình bạn, gia đình, khát vọng đẹp đẽ giải phóng con người, ) Đặt hạnh phúc trong mối quan hệ lịch sử cụ thể vừa có mặt chủ quan vừa có mặt khách quan. Mặt khách quan của hạnh phúc là nhu cầu phát triển xã hội, mặt chủ quan là những nỗ lực cố gắng và điều kiện phát triển của cá nhân. Sự thống nhất chủ quan và khách quan trong thực tế tạo nên hạnh phúc cho con người. Con người càng có những cố gắng vượt bậc, nỗ lực cao để thực hiện các nhu cầu xã hội thì họ càng có điều kiện tạo nên hạnh phúc cho mình. Hạnh phúc cá nhân độc lập với chữ nghĩa cá nhân.Chủ nghĩa cá nhân không giúp con người vươn tới hạnh phúc đích thực mà ngược lại, luôn đe dọa con người tới bất hạnh đau khổ. Hạnh phúc của mình có thể là bất hạnh cho người khác. - Lẽ sống (Ý nghĩa cuộc sống) : Lẽ sống đem lại cơ sở triết lý cho vấn đề hạnh phúc nó chỉ cho ta thấy thế nào là hạnh phúc chân chính, hạnh phúc lý tưởng. + Quan niệm trước Mác về lẽ sống: Trước Mác có nhiều trường phái về lẽ sống. *Trường phái hạnh phúc luận cho rằng: lẽ sống của con người là tìm cho mình hạnh phúc trong sự giàu có, quyền thế, danh vọng, sức khỏe và sự thanh thản. *Trường phái nghĩa vụ luận cho rằng lẽ sống của con người là tìm niềm vui trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình trước xã hội. + Quan niệm đạo đức của Mác-Lênin cho rằng: Lẽ sống là sự thống nhất giữa nghĩa vụ và hạnh phúc. Trong quá trình hoạt động, con người thực hiện nghĩa vụ của mình trước xã hội, sự thực hiện nghĩa vụ đó làm cho con người phát triển, hoàn thiện. Ngược lại, xã hội càng tốt đẹp càng tạo cho con người những điều kiện vật chất phong phú như vậy lẽ sống là sự nỗ lực, chủ quan tự hoàn thiện đạo đức của mình, là sự cống hiến của mình cho xã hội, đem lại hạnh phúc cho xã hội và cho chính mình. Lẽ sống vì vậy đem lại cơ sở triết học cho hạnh phúc, người có hạnh phúc nhất là người đem lại hạnh phúc cho người khác, cho xã hội trong đó có mình. Lẽ sống chính là ý nghĩa cuộc sống mang ý nghĩa xã hội, mang ý nghĩa đấu tranh. “Hạnh phúc là đấu tranh” (Mác). - Người có lẽ sống chưa đủ mà phải có lẽ sống đúng đắn mới thúc đẩy hoạt động tích cực. Người có cống hiến cho xã hội càng lớn thì ý nghĩa cuộc sống càng cao đẹp. - Lẽ sống là nền tảng của lý tưởng, sống có lý tưởng sống mới có động lực vượt qua khó khăn nguy hiểm, vươn lên đỉnh cao của đức tài.
- ĐẠI CƯƠNG VỀ ĐẠO ĐỨC Y HỌC VÀ ĐẠO ĐỨC NGƯỜI THẦY THUỐC VIỆT NAM Mục tiêu học tập 1. Trình bày được đạo đức y học và lời thề Hyppocrat. 2. Trình bày được đạo đức y học qua các thời kỳ 3. Trình bày các sự kiện chính trong lịch sử đạo đức y học Việt Nam. I. ĐẠO ĐỨC Y HỌC (DÉONTOLOGIE MÉDICAL) - Đạo đức y học là một bộ phận của đạo đức nghề nghiệp, là yêu cầu đặc biệt có liên quan đến việc tiến hành các hoạt động nhằm đem lại sức khỏe cho con người. - Là các quy tắc, nguyên tắc chuẩn mực của ngành y tế, nhờ đó mà mọi thành viên y tế (từ hộ lý đến bộ trưởng, ) phải tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích và tiến bộ của ngành y tế. - Là khoa học về lý luận, phẩm cách của người cán bộ y tế và bản chất giai cấp của vấn đề ấy. Là học thuyết về nghĩa vụ người thầy thuốc và cả trách nhiệm công dân của người ấy, không những trên bệnh nhân, trên đồng nghiệp mà cả toàn thể nhân dân. - Những quan hệ riêng biệt, cơ bản nói lên tính chất luân lý của đạo đức y học là: Quan hệ giữa thầy thuốc với bệnh nhân Quan hệ giữa thầy thuốc với công việc Quan hệ giữa thầy thuốc với khoa học Quan hệ giữa thầy thuốc với đồng nghiệp - Lĩnh vực nghề nghiệp của ngành y có hai phạm vi nguyên tắc chuẩn mực: luật pháp hành nghề y tế, và tiêu chuẩn đạo đức người thầy thuốc. Luật pháp và đạo đức có mối quan hệ hữu cơ khăng khít, luật pháp bị vi phạm thì bầu không khí đạo đức bị thoái hóa. Người thầy thuốc sẽ bị tước danh hiệu cao quý của mình nếu xâm phạm luật pháp ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng con người, người thầy thuốc sẽ bị lương tâm dày vò dằn vặt đau khổ vì chưa hết lòng vì nghề nghiệp vì hạnh phúc của người bệnh. “Hàng trăm cuộc đời được cứu sống không làm dịu đi niềm cay đắng của một tổn thất” (Cuprianob) Đạo đức hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Thông qua sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội, nội dung đạo đức được hình thành và phát triển từ đơn giản đến phức tạp và phong phú. Đạo đức y học cũng vậy, đạo đức y học hình thành và phát triển cùng với lịch sử y học. Nhiều nhà tư tưởng vĩ đại đã có nhiều công trình nghiên cứu về đạo đức, tuy nhiên nghiên cứu về đạo đức y học còn chưa nhiều. Các nghiên cứu về đạo đức y học hầu hết là do các nhà tư tưởng các triết gia và một phần rất ít là của các thầy thuốc tiến hành. Chúng ta ghi nhận những nét lịch sử đạo đức cơ bản về y học bắt đầu từ thời kỳ đạo đức xã hội phát triển. Từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ, đó là thời kỳ mà đạo đức xuất hiện và tồn tại thông qua đấu tranh giai cấp, còn trước đó, xã hội công xã nguyên thủy mới chỉ là trạng thái mờ của đạo đức, tuy nhiên đã để lại nhiều dấu hiệu có tác dụng cho tới ngày nay.
- II. THỜI KỲ CHIẾM HỮU NÔ LỆ (CHNL) (Từ 4000 năm trước công nguyên đến 500 năm sau công nguyên) 1. Thời kỳ Sumerien Babilon Cùng với sự xuất hiện nền y học cổ lưỡng hà, 3000 năm trước công nguyên, bộ tộc Sumerien có vị vua là Hamourabi, (vua của bộ tộc) đã đặt ra bộ luật lấy tên Hamourabi. Bộ luật Hamourabi có quy định tiêu chuẩn hành nghề y một cách đơn giản: Người thầy thuốc được lấy tiền khám và chữa bệnh (10 đồng tiền nếu là người chủ nô, 2 đồng tiền nếu người bệnh là nô lệ- nô lệ do chủ nô trả). 2. Thời Trung hoa cổ đại - Thần nông 3000 năm trước công nguyên đã thử trên bản thân các cây cỏ để tìm và xác định các cây thuốc và các phương pháp chữa bệnh (tài liệu bản thảo cương mục). - Có nhiều sách nói về “thiên nhiên và cuộc sống”, trong một cuốn sách cùng tên đã quy định rõ nguyên lý hành nghề cơ bản của thầy thuốc, và yêu cầu thầy thuốc phải có đạo đức, thầy thuốc phải biết khuyên bệnh nhân tự chữa bệnh, hãy “biết giữ gìn trái tim trong lồng ngực”. - Thầy thuốc Hoa đà thời Chiến quốc (TKII trước công nguyên) đã nêu cao đạo đức hết lòng vì người bệnh. Là danh y đề cao đạo đức trong lúc hành nghề, biết phép tâm lý trị liệu, biết dùng khí công chữa bệnh, là người tìm ra thuốc mê và sử dụng nó như là một phương pháp nhân đạo. “Khuyên mọi người giữ gìn sức khỏe: Y học không cứu ta khỏi chết nhưng giúp ta sống lâu”. 3. Thời Ấn độ cổ đại Có nhiều sách nói về đạo đức y học, cuốn “Đời sống” đã nói lên tiêu chuẩn người thầy thuốc: Đệ tử ngành y phải là người như thế nào? + Đẹp cả hình thức: Là người đạo mạo, đôi mắt, miệng, mũi đẹp, cột sống thẳng, lưỡi đỏ thon, răng và môi đều. + Xuất thân từ một giai cấp quyền quý hoặc từ một gia đình thầy thuốc. + Tư chất và tình cảm: có giọng nói thanh thoát, tính tình cương nghị, thông minh, không vụ lợi, có lý trí, khiêm tốn, thương người, không khuyết tật, có khả năng về lý thuyết và thực hành. Ai có tiêu chuẩn ấy thì hãy làm nghề thầy thuốc. - Kinh Veda Harak nêu cách lựa chọn, đào tạo và đặc điểm thầy thuốc: + Chọn lọc người học ngành y phải từ 16 tuổi trở lên, có phẩm chất, có thể lực, có mục đích tốt và phải xuất thân từ một gia đình tốt. + Khi nhập học, phải có cam kết hy sinh cả cuộc đời để cứu chữa bệnh nhân, không được đụng đến của cái của họ, không được làm phật lòng họ. + Có quyền được vào nhà bệnh nhân với mục đích trong sáng vì chữa bệnh và có cách xử thế đàng hoàng. + Tiêu chuẩn hạnh kiểm của thầy thuốc: 1. Lòng trắc ẩn 2. Sự niềm nở 3. Nhẫn nại, chủ động, bình tĩnh, lạc quan hy vọng
- Đối với bệnh nhân thầy thuốc là cha Đối với người đang bình phục thầy thuốc là người bảo vệ Đối với người khỏe thầy thuốc là bạn - Kinh Veda Bachatta yêu cầu thầy thuốc và bệnh nhân phải có đạo đức và niềm tin: + Thầy thuốc phải có lòng nhân đạo, lòng nhân đạo phải trở thành một tôn giáo đối với thầy thuốc. + Bệnh nhân phải tin tưởng thầy thuốc, bệnh nhân có quyền nghi ngờ người khác và cả bà con ruột thịt của mình nhưng không được nghi ngờ thầy thuốc. + Đối với bệnh nhân cấp cứu sắp chết thầy thuốc phải hết lòng cứu chữa tới cùng, cứu bệnh khẩn trương như cứu hỏa. - Nền y học Brama nêu những chuẩn mực: + Thầy thuốc phải mặc quần áo trắng, thơm tho, móng tay phải cắt cẩn thận và sạch sẽ. + Thầy thuốc khi ra đường phải luôn mang ô và gậy. + Tránh cười đùa với phụ nữ + Có lòng trắc ẩn và nhân hậu + Khám bệnh kỷ, đúng hẹn, giữ bí mật. 4. Thời Hy lạp cổ đại Thời kỳ Hy lạp cổ đại chú ý xây dựng đạo đức thầy thuốc trên cơ sở những mối quan hệ giữa người và người. Cùng với La mã cổ đại, Hy lạp cổ đại có nhiều nhà tư tưởng lớn, học giả lớn để tâm đến đạo đức học. Aristot cho rằng chỉ có con người mới có khả năng thu nhận một cách nhạy cảm những khái niệm về tốt, xấu, công bằng, bất công và nhấn mạnh: “Con người không có cái gốc đạo đức thì chỉ là một con vật xấu xa và mọi rợ nhất, một con vật thấp hèn với bản năng sinh vật và hưởng thụ của nó”. Người ta đề cao phẩm chất con người có trí thức cao, đạo đức trong sáng, lòng nhân đạo, tinh thần dũng cảm như là một lý tưởng, là mục tiêu giáo dục thanh niên. Lời thề khi nhập môn và ra trường xuất phát từ mục đích hành nghề: + Khi nhập môn phải nghe lời huấn thị trước bàn thờ: phải sống trong sạch, không được có những ham muốn quá độ, như sự hận thù, dâm ô, ghen tị, tự kiêu, thô bạo, tham lam xảo quyệt, mà phải sống khiêm tốn, cần cù, yêu đời, từ bỏ cả thức ăn có thịt, + Lời thề ra trường của phái Asclépiat là những chuẩn mực, nguyên tắc hành nghề, đạo đức của thầy thuốc: “ Tôi xin thề rằng, trước vị giáo thụ là Apollon, Esculape, Hygie, và Panace, trước tất cả thần linh nam nữ, xi các vị chứng kiến cho là, tôi sẽ đem hết khả năng, sức lực và trí tuệ để thực hiện lời thề nay của tôi và hứa viết trên giấy này, đối với thầy dạy tôi nghệ thuật, tôi kính trọng như cha mẹ và chia sẻ với thầy mọi phương tiện sinh sống và chăm lo mọi nhu cầu của thầy; Đối với con của thầy tôi xem như anh chị em ruột và họ muốn theo nghề này tôi sẽ truyền thụ lại không lấy tiền và không mặc cả trước. Những đơn thuốc và mọi học thuyết còn lại, tôi sẽ truyền lại cho con tôi, con của thầy tôi và cho học trò của tôi, với những người này sẽ có một giấy cam kết phù hợp với luật lệ y học, ngoài những người này ra tôi sẽ không truyền cho một người nào khác nữa.
- Tôi sẽ cố gắng hết sức lực và trí tuệ để xây dựng lối sống cho bệnh nhân theo lợi ích của họ và sẽ ngăn ngừa cho họ mọi tổn hại và thiếu sót. Dù cho có van nài đến mấy, tôi cũng không cho bất cứ thứ thuốc độc chết người, và cũng không chỉ bảo cho ai về thứ thuốc đó. Cũng như dứt khoát là tôi không bao giờ cho một người phụ nữ nào phương tiện phá thai. Tôi sẽ giữ gìn cuộc sống và học thuật của tôi một cách thành kính và trong sách. Tôi sẽ không bao giờ làm thủ thuật mổ xẻ bằng đá và giành các thủ thuật này cho các chuyên gia khác làm. Tôi không vào bất cứ nhà nào, và chỉ tới đó khi cần cứu chữa bệnh nhân mà thôi, và không có bất cứ một ý đồ nào làm hại bệnh nhân hoặc có tham vọng nhục dục đối với phụ nữ hay nam giới, đối với người tự do hay nô lệ. Khi hành nghề tôi phải giữ im lặng những điều được xem là bí mật hoặc những điều tâm phúc mà tôi biết. Nếu tôi thức hiện được lời thề mà không bội tín, tôi được xem như là người có thể hưởng hạnh phúc trong cuộc sống, trong học thuật và luôn luôn được mọi người kính trọng, và nếu tôi làm sai lời thề thì số phận của tôi ngược lại”. - Hyppocrat (466-377) nổi bật như một ông tổ của nghệ thuật y học và đạo đức y học, là người đã có nhiều đóng góp cho ngành y vơi những chuẩn mực đạo đức và nhân sinh quan trong sáng vì nghề nghiệp. Lời thề Hyppocrat sống mãi và có nhiều tác dụng tích cực cho thầy thuốc mọi thời đại sau ông noi theo. Lời thề chứa đựng các chuẩn mực đạo đức có giá trị. Đáng ghi nhớ là các nguyên tắc chuẩn mực về quan hệ thây trò, quan hệ với bệnh nhân, hết lòng vì người bệnh và tránh mọi bất công; Xây dựng nhân sinh quan về cuộc sống nghề nghiệp; tất cả vì hạnh phúc người bệnh; bí mật nghề nghiệp, (xem phần lời thề Hyppocrat) - Thời Hy lạp cổ đại đã xuất hiện tiêu chuẩn đạo đức của người đỡ đẻ. Yêu cầu người đỡ đẻ phải là phụ nữ, biết chữ, khôn ngoan, linh hoạt, đúng đắn, có thể lực, biết vệ sinh, có đức độ và bình tĩnh; cấm phá thai, không được mê tín (tạp chí phụ khoa Efeskin Sorai- TKII) 5. Thời La mã cổ đại Là vùng trung tâm văn minh của thế giới, cũng như thời Hy lạp cổ đại, thời La mã cổ đại đã để lại nhiều công trình và chuẩn mực đạo đức. - Có hội thầy thuốc nhân dân (Archiatri popularis) được thượng viện bổ nhiệm, bắt buộc thầy thuốc phải hành nghề nhân đạo, chữa bệnh không lấy tiền đối với người nghèo. - Có quyền được nhận tiền thưởng của người bệnh (Khi họ bình phục) nhưng nghiêm cấm hối lộ, mặc cả, nếu phát hiện sẽ bị tước quyền. - Senaka nói lên sự đánh giá của xã hội đối với thầy thuốc: “Thầy thuốc là bạn của ta chứ không phải là người làm thuê” vì sự cống hiến to lớn của thầy thuốc “chúng ta trả cho thầy thuốc tiền công? không đủ đâu, vì họ cống hiến cho chúng ta, không chỉ lao động của họ mà cả trái tim của họ nữa. Họ đáng được trọng vọng và yêu mến”. - Galien (131-201) là thầy thuốc vĩ đại đã có đóng góp vào lĩnh vực y đức; ý nghĩa đạo đức của Galien được thể hiện: + Có hướng y học dự phòng và thể dục chữa bệnh. + Có xu hướng chú ý chữa bệnh và chữa cả người mắc bệnh (anh ta chỉ cho tôi một trường hợp sa ruột và chỉ thấy sa ruột chứ không thấy bệnh nhân. Còn tôi, tôi muốn xem không phải chỉ bệnh sa ruột mà chính là người có bệnh sa ruột).
- + Yêu cầu người thầy thuốc phải có lòng nhân đạo, thương người, tế nhị, khôn ngoan, mềm dẻo, Không được kích động bệnh nhân, giữ được phẩm cách của mình. + Chỉ trích mạnh mẽ thầy thuốc chỉ quan tâm người bệnh giàu sang quyền thế, “dương dương tự đắc khi cùng đi với họ ngoài đường, cùng dự những cuộc hành lạc và cùng làm bộ làm tịch như thằng điên”. III. THỜI KỲ PHONG KIẾN (TK 5 - TK 17) 1. Avicènne (980-1037) là nhà khoa học, nhà triết học, nhà thơ, một danh y nổi tiếng đã có nhiều công trình y học và đạo đức y học (người biên soạn y điển “Canon of medecine” 5 tập; “quy tắc khoa học y học”; “đạo đức”, ). - Là người có đức độ, có lòng nhân đạo và nhạy cảm trước người bệnh, luôn tự tin kiến thức mình sẽ giúp cho người đời bớt đau khổ. - Tiêu chuẩn người thầy thuốc được thể hiện: Thầy thuốc phải có: Mắt của chim đại bàng Bàn tay của người con gái Trí khôn của con rắn Trái tim của con sư tử - Biết mình lâm bệnh và sẽ chết, Avicènme đã bán cả gia tài của mình phân phát cho người nghèo, đọc thánh kinh Coran cho đến khi chết. - Lần đầu tiên môn đạo đức y học được giảng dạy ở đại học Salerne (TK 9 - TK 13). Cùng với tập thể các thầy thuốc, giáo sư Arnold đã soạn và viết bộ luật “Salerne về sức khỏe”. Bộ luật Salerne được trình bày bằng thơ nói tới vai trò y học trong đời sống, phương pháp dự phòng, chữa bệnh và đặc biệt quan tâm tới đạo đức của người thấy thuốc: “Nếu anh muốn sức khỏe trở về và không mắc bệnh Thì tránh việc làm quá nặng sức Cáu giận coi là không xứng đáng Nên ăn uống thanh đạm và quên rượu Nên biết rằng sau bữa ăn mà đi bách bộ sẽ rất bổ ích Và tránh ngũ ngày, Thức hiện những điều trên anh sẽ sống lâu Bữa cơm chiều ăn bội thực chẳng lợi gì Cho dạ dày chúng ta Muốn ngon giấc trước khi ngũ Chớ ăn nhiều Nếu không có thầy thuốc Thì ba điều sau đây sẽ là thầy thuốc của bạn Vui tính, yên tĩnh, ăn uống điều độ" Bộ luật Salerne là một di sản lớn về văn học và y học tồn tại gần 1000 năm.
- 2. Arkhimat (TK 13) thầy thuốc nổi tiếng với luận điểm “Khi nào cũng làm cho người bệnh tin tưởng là họ nhất định khỏi bệnh; và nói với những người xung quanh là bệnh họ rất nặng” Luận điểm sẽ có lợi, vì nếu bệnh nhân khỏi bệnh sẽ ca ngợi thầy thuốc tận tình, nếu không may mà người bệnh chết thì những người xung quanh sẽ nói thầy thuốc sáng suốt. 3.Thời kỳ phục hưng, y học trở lại những nét đạo đức trung cổ, chỉ có một số ít thầy thuốc có văn bằng được học ở các trường đại học, còn lại đa số được coi như ông lang, các thầy thuốc tạp nham. Alôidi Mundeli (1561) đã viết: “Trong thời đại chúng ta có biết bao nhiêu là loại người vô liêm sỉ làm nghề thầy thuốc, nào là các bà mụ vườn, nào là anh bán thuốc rong, nào là anh thợ cạo, nào là anh rao hàng ở chợ, nào ông tu sĩ, tất cả chỉ mang lại tác hại lớn cho bệnh nhân mà thôi”. IV.THỜI KỲ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN PHÁT TRIỂN - Đạo đức xã hội tư bản chủ nghĩa nói chung tiến bộ nhiều so với thời kỳ trung cổ. Là một cống hiến lớn khi chủ nghĩa tư bản làm cuộc cách mạng giải phóng con người, đặt con người vào vị trí trung tâm, thì sau đó chính chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa cá nhân của mình đã bước đầu phá hoại nghiêm trọng các giá trị đạo đức, xác lập quyền sở hữu tư nhân là phá vỡ nguyên tắc đạo đức. - Các nhân vật có chiïnh kiến đạo đức y học đáng chú ý: + Francis bacon (TK 18) chú ý các điều kiện sinh sống của con người, các điều kiện đó ảnh hưởng đến quá trình bệnh. Là người quan tâm các phương pháp cha bệnh bằng dinh dưỡng. + Sydenham cho rằng thầy thuốc là công bộc của lòng từ thiện thiêng liêng. Người thầy thuốc phải phục vụ tận tâm và tạo điều kiện cho người bệnh lạc quan tin tưởng khi chữa bệnh. + Helvetius (1715-1771): “Con người đạo đức không phải con người hy sinh những thói quen và những ham muốn mạnh mẽ nhất của mình vì lợi ích chung, không thể có con người như thế được mà con người có sự ham mê nhất trí với lợi ích chung” Từ thế kỷ 19, tư bản công nghiệp phát triển mạnh, hình thành thấy thuốc TBCN thì khả năng của thầy thuốc bị hạn chế, họ đã trải qua tấm bi kịch nghề nghiệp khi nghĩ rằng lao động nghề nghiệp của mình không thể giúp ích được mấy cho quảng đại quần chúng nhân dân. V. BẢN CHẤT ĐẠO ĐỨC Y HỌC XHCN Tiêu chuẩn đạo đức y học có những cơ sở và yêu cầu chung của đạo đức xã hội. Nhưng dưới những xã hội khác nhau, yêu cầu đạo đức y học cũng khác nhau. Bản chất đạo đức y học XHCN có những đặc điểm yêu cầu riêng. 1. Đạo đức người thầy thuốc trước hết phải có đạo đức của mäüt công dân XHCN Người thầy thuốc có đạo đức không bao giờ bị luật pháp tước quyền công dân. 2. Người thầy thuốc XHCN luôn coi trọng trách nhiệm nghề nghiệp và đạo đức thầy thuốc. Cả hai bổ sung cho nhau (vì trách nhiệm của thầy thuốc trước bệnh nhân, khiến người thầy thuốc phải không ngừng vươn lên đỉnh cao đạo đức y học và ngược lại vì trách nhiệm đạo đức mà người thầy thuốc không ngừng học tập nâng cao tay nghề, ). Trách nhiệm và đạo đức thầy thuốc luôn hướng tới những điều kiện thuận lợi nhất cho
- sức khỏe người bệnh. Sức khỏe người bệnh là trên hết. “Đạo đức y học có mục đích cứu người, trách nhiệm nghề nghiệp yêu cầu người thầy thuốc phải có trí thức khoa học, nghệ thuật chữa bệnh và chuyên môn sâu”. “Người cán bộ y tế không thể so sánh với những người làm công tác khác được, những đức tính mà các nghề khác cần đòi hỏi chưa đủ đối với người cán bộ y tế. Còn đức tính vừa đủ cho người lao động khác đạt được kết quả tốt thì lại càng ít ỏi đối với cán bộ y tế”. 3. Phải có lòng nhân đạo đối với bệnh nhân. Lòng nhân đạo của người thầy thuốc XHCN xuất phát từ bản chất chế độ, trách nhiệm lớn lao cao cả của thầy thuốc bắt nguồn từ bản chất XHCN. Bản chất nhân đạo XHCN đó là làm cho con người được giải phóng, được lao động sáng tạo, được phát huy trong điều kiện tự do, có nhà nước bảo vệ. Nhân đạo, vì con người được xem là nhân tố phát triển quan trọng của xã hội. Quan hệ nhân đạo đối với người bệnh là yêu cầu cơ bản của thầy thuốc XHCN, thầy thuốc phải quan hệ rộng rãi với mọi tầng lớp nhân dân lao động, hiểu họ, thấy họ là một con người với đầy đủ đặc điểm và quy luật đời sống, Hãy tránh mọi sự sai lầm của thầy thuốc, một sự sai lầm của thầy thuốc dẫn đến hậu quả tai hại cho cuộc sống. 4. Thầy thuốc XHCN hành nghề vì mục đích trong sáng Thầy thuốc XHCN hết lòng vì người bệnh, không vụ lợi. Nguyên lý y tế XHCN tạo tiền đề cho thầy thuốc vừa thực hiện nghĩa vụ và lý tưởng của mình, vừa là điều kiện để nâng cao đạo đức. Thầy thuốc XHCN xem đồng tiền là phương tiện để phát triển nghề nghiệp, đồng thời không phải là mục đích. VI. ĐẠO ĐỨC Y HỌC VIỆT NAM Đạo đức y học Việt Nam từ lâu mang màu sắc từ bi, bác ái, các thầy thuốc thường sống hoặc nương nhờ cửa phật làm điều thiện như nuôi trồng cây thuốc, bốc thuốc chữa bệnh không lấy tiền cho người nghèo. 1.Thế kỷ 13 Phạm công Bân là một thái y lệnh nhưng về nhà thì chữa bệnh cho dân nghèo không lấy tiền, tự bỏ tiền làm nhà chữa bệnh và nuôi dưỡng người nghèo người tàn tật ,kẻ mồ côi, nêu cao tinh thần trách nhiệm người thầy thuốc . Chu văn An (1292-1370) là thầy thuốc, thầy giáo có bản lĩnh, trong sáng, có đức độ và tài năng. Chu văn An quê làng Thanh liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội ngày nay, đậu Thái học sinh (tiến sĩ) được bổ nhiệm làm quan tư nghiệp quốc tử giám nhưng đã từ quan về nhà mỡ trường dạy học, nghiên cứu y học, vận dụng đông y sáng tạo chế nhiều phương thuốc mới, tổng kết nhiều bệnh án và biên soạn nhiều sách (trong đó quyển “ học chú giải tạp chí biên”). Về đạo đức Chu văn An rất coi trọng Nhân, Minh, Trí, trong đó mấu chốt của nghề làm thuốc là nhân. Phải có Nhân rồi mới có Minh, Trí. Đức độ là điều cần nhất của thầy thuốc. 2. Thế kỷ 14 có Tuệ Tĩnh (Tuệ Tĩnh 1330-1339) + Tuệ Tĩnh nêu cao tinh thần dân tộc “Nam dược trị Nam nhân”.
- + Cô đúc phương hướng phòng bệnh và chữa bệnh nhân đạo. + Có lý tưởng làm cho dân bớt đau khổ. 3. Thế kỷ 15 có bộ luật Hồng đức (triều lê) có quy định quy chế hành nghề y, trừng phạt kẻ vụ lợi cố tình chữa bệnh dây dưa hoặc dùng thuốc mạnh gây chết người, 4. Thế kỷ 18 có Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720-1791) Hải Thượng Lãn Ông quê cha ở làng Liêu Xá, Yên Mỹ, Hải Hưng, quê mẹ Sơn quán, Hương Sơn, Hà Tĩnh. Hải Thượng Lãn Ông từng tham gia quân ngũ một thời gian ngắn sau đó vì chán ghét chiến tranh đàn áp nông dân mà bỏ về quê mẹ làm nghề thuốc. Thời bấy giờ phần đông sĩ phu đều có tư tưởng cầu danh lợi, ham quan trường mà xem nhẹ nghề y. Trái lại Lãn Ông chỉ có một mơ ước “ Làm sao cho người đời không có bệnh” và chỉ có một lý tưởng cao quý “Bảo vệ sức khỏe cho người nghèo”. + Quan điểm xử thế của Hải Thượng Lãn Ông: 1. Làm nghề thuốc là một nhân thuật (lo cái lo của mọi người, vui cái vui của moi người, giúp người làm phận sự của mình mà không ham lợi kể công) 2. Chống tư tưởng vụ lợi. 3. Nêu gương sáng trong việc đối xử với bệnh nhân (bệnh gấp thì phục vụ trước, ). 4. Không xu nịnh kẻ giàu sang quyền thế (khi nhận quà của người khác thường nẩy sinh ra nể nang, huống chi kẻ giàu sang quyền thế tính khí khác thường mà mình cầu cạnh thường hay bị khinh rẻ; không được tâng bốc để cầu lợi). 5. Hết lòng giúp đỡ người nghèo (vì người giàu thì không thiếu gì thầy thuốc, còn người nghèo thì khó lòng kiếm được lương y, ) 6. Nêu cao đạo đức thầy thuốc, tận tụy phục vụ người bệnh. 7. Thận trọng tỷ mỹ trong kỹ thuật chữa bệnh vì tính mạng của con người. + Hải Thượng Lãn Ông nhắc thầy thuốc phải tránh tám tội: 1. Tội lười:”Có bệnh, xem xét đã rồi mới kê đơn, bốc thuốc, nếu ngại đêm mưa vất vả, không chịu tới thăm mà đã cho phòng là tội lười”. 2. Tội bủn xỉn: “Có bệnh, nên uống thuốc thứ nào đó mới cứu được nhưng sợ con bệnh nghèo túng không trả được tiền nên chỉ cho loại thuốc rẻ tiền, đó là tội bủn xỉn”. 3. Tội tham: “Khi thấy bệnh chết đã rõ, không báo thực lại nói lơ mơ để làm tiền, đó là tội tham”. 4. Tội lừa dối: “Như thấy bệnh dễ chữa lại dối là khó, lè lưỡi, cau mày dọa cho người ta sợ để lấy nhiều tiền, đó là tội lừa dối”. 5. Tội bất nhân: “Như thấy bệnh khó đáng lý bảo thật rồi hết sức cứu chữa nhưng lại sợ mang tiếng, không biết thuốc chưa chắc đã thành công mà e rồi sẽ không được hậu lợi nên cương quyết không chịu chữa để người ta bó tay chịu chết, đó là tội bất nhân”. 6. Tội hẹp hòi:”Có trường hợp, người bệnh ngày thường bất bình với mình, khi mắc bệnh phải đưa đến mình liền nghĩ ra ý nghĩ oán thù không chịu chữa hết lòng đó là tội hẹp hòi”. 7. Tội thất đức:”Lại như thấy kẻ mồ côi, góa bụa người hiền con ốm mà nghèo đói, ốm đau thì cho là chữa mất công vô ích, không chịu hết lòng cứu chữa, đó là tội thất đức”.
- 8. Tội dốt:”Lại như xét bệnh còn lờ mờ, sức học còn nông mà đã cho thuốc chữa bệnh, đó là tội dốt”. Thầy thuốc phải có 8 đức tính : 1. Thương người. 2. Sáng suốt. 3. Khôn ngoan. 4. Rộng lượng. 5. Thành thật. 6. Liêm khiết. 7. Siêng năng. 8. Khiêm tốn. “Suy nghĩ cho cùng, tôi hiểu rằng thầy thuốc là người bảo vệ tính mạng con người, sống chết trong một tay mình nắm, phúc họa trong một tay mình giữ; thế thì đâu có thể kiến thức không đầy đủ, đạo đức không trọn vẹn, tâm hồn không rộng lớn, hành vi không thận trọng mà dám học đòi làm cái nghề cao quý đó chăng”. VII. ĐẠO ĐỨC Y HỌC VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY Từ năm 1945, đạo đức thầy thuốc Việt Nam là giữ vững truyền thống tốt đẹp cao quý của y đức dân tộc, đặc biệt, được phát huy mạnh mẽ trên cơ sở đạo đức học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nêu cao quan điểm “lương y như từ mẫu” Trong những điều kiện khó khăn nhất của đất nước, các thầy thuốc Việt Nam đã nêu cao y đức Việt Nam phấn đấu hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân dân đạt nhiều thắng lợi. Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, cùng với sự hình thành cơ chế thị trường dưới sự điều khiển của nhà nước XHCN, đạo đức người thầy thuốc Việt Nam đứng trước sự thách thức lớn đã nhanh chóng lựa chọn và xác định chỗ đứng của mình, tiếp tục giữ vững đạo đức tốt đẹp của thầy thuốc Việt Nam thực hiện “lương y như từ mẫu” hết lòng vì sự nghiệp sức khỏe nhân dân. Các thầy thuốc Việt Nam XHCN nêu cao phẩm chất đạo đức thầy thuốc xứng đáng có rất nhiều, trong số đó có: 7.1. Thầy thuốc Phạm Ngọc Thạch (1909-1968) sinh tại Phan Thiết trong một gia đình khá giả, cha mẹ mất sớm, được anh chị nuôi ăn học. Đỗ bác sĩ y khoa Paris 1934, về Sài gòn mở phòng khám chưa bệnh lao cho nhân dân lao động. Giác ngộ cách mạng trong phong trào dân chủ rồi tham gia tổng khởi nghĩa ở Sài gòn-Chợ lớn, làm chủ tịch đặc khu Sài gòn-Chợ lớn. Năm 1954 là trưởng ban y tế trung ương, viện trưởng viện chống lao, bộ trưởng bộ y tế. Hy sinh tại chiến trường B2 năm 1968. - Hết lòng vì người bệnh: Tuy là tầng lớp trên nhưng thầy thuốc Phạm Ngọc Thạch rất thương người nghèo khổ, chữa bệnh theo y đạo. Dù ở bất cứ vị trí nào cũng luôn nhớ mình là thầy thuốc của nhân dân. - Có nhiều công trình nghiên cứu và sáng tạo đầy lòng nhân ái, giản dị, thực tế, cứu chữa hàng ngàn bệnh nhân là người lao động:
- + Sana xã: Năm 1954 miền Bắc có 560.000 người mắc bệnh lao, sáng kiến thành lập sana xã đã tập trung được 280.000 bệnh nhân cấp tính về điều trị, sau 10 năm miền Bắc cơ bản giải quyết xong bệnh lao. + Các công trình nghiên cứu: Tổ chức màng lưới y tế, ba công trình về hố xí hai ngăn, vacin, subtilis, BCG đều xuất phát từ hoàn cảnh và sức khỏe con người Việt Nam dễ dạy, dễ học, dễ nhớ, dễ làm. - Làm việc tận tâm, sâu sát thực tế: làm việc và ăn ở tại phòng, tại bệnh viện không kể giờ giấc vì người bệnh và đồng nghiệp. Tự mình lái xe, đi công tác khi cần thiết, đi bất cứ đâu, kiểm tra bất cứ việc gì kể cả vào chiến trường, vào tuyến lửa, luôn đặt lợi ích của nhân dân, của nghề nghiệp lên trên lợi ích cá nhân Thầy thuốc Phạm Ngọc Thạch là thầy thuốc nhân dân, anh hùng lao động, người lãnh đạo ngành y tế Việt Nam với tấm lòng nhân đạo cao cả đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân dân. 2. Thầy thuốc Đặng văn Ngữ(1910-1967): Thầy thuốc nhân dân, anh hùng lao động, giáo sư bác sĩ Đặng văn Ngữ sinh tại Huế, trong một gia đình đông con. Đỗ vào Đại học y Hà Nội năm 1930 tốt nghiệp bằng luận án “áp xe gan” và là người đầu tiên đi vào chuyên khoa ký sinh trùng.Năm 1943 được cử sang Tokyo nghiên cứu. Năm 1949 từ Nhật trở về tham gia kháng chiến. Hy sinh tại chiến trường B4 (Trị Thiên- Huế) trong lúc đang nghiên cứu tiêu diệt bệnh sốt rét ác tính cho chiến sĩ (1967). - Là thầy thuốc có tâm hồn và đạo đức cao thượng, luôn nghĩ làm cho con người có sức khỏe là một hạnh phúc lớn của mình, vì vậy mà luôn luôn suy nghĩ, nghiên cứu sáng tạo độc đáo: + Nghiên cứu sản xuất thành công nước lọc Penicilin và streptomycin để cứu chữa thương bệnh binh. + Nghiên cứu có giá trị về giun sán, muỗi, bọ chét gây bệnh và các ký sính trùng. Những năm 1966-1967 bệnh sốt rét ác tính ở chiến trường miền Nam đã làm hao mòn sức khỏe chiến đấu của quân giải phóng. Thầy thuốc Đặng văn Ngữ đã tự nguyện xin vào nghiên cứu và hy sinh vì bom B52 vùi chết tại chỗ. 3. Thầy thuốc Tôn Thất Tùng (1912-1982) - Thầy thuốc nhân dân, anh hùng lao động, giáo sư, viện sĩ Tôn Thất Tùng quê ở Huế. Vào Đại học Y Hà Nội năm 1931, tốt nghiệp bác sĩ năm 1938, làm công tác giảng dạy và nghiên cứu tại bộ môn Ngoại của trường. Tham gia cách mạng 1945, năm 1948 được cử làm thứ trưởng bộ y tế, tham gia chiến đấu cứu thương binh ở nhiều mặt trận, mất năm 1982 tạo Hà Nội. - Là thầy thuốc, Nhà khoa học có lòng nhân đạo cao quý, quên mình vì nghệ thuật y học và nhân thuật, mong muốn chữa được các bệnh hiểm nghèo đem lại sự sống cho nhân dân, đó là nguyên nhân là động lựcđã đào luyện nên người thầy thuốc có bàn tay vàng, bộ óc thông minh, tác phong khiêm tốn, lòng vị tha hết lòng vì sự nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân dân. + Nghiên cứu làm việc nghiêm túc, bền bỉ, cẩn thận và tỉ mỉ, thường xuyên trau dồi nghệ thuật ngoại khoa nên từ 1935-1939 sau 200 lần mổ gan người chết để phân tích phơi trần các mạch máu của gan đã tìm ra phương pháp cắt gan có kế hoạch và mỗi cas không quá 10 phút.
- + Năm 1961 cắt gan mỗi cas trong 6 phút + Năm 1974 tại Lunz (Thụy Điển) trước sự chứng kiến và kinh ngạc của thế giới thầy thuốc Tôn Thất Tùng cắt toàn bộ gan phải trong thời gian 4 phút. Tóm lại chiến công của thầy thuốc Việt Nam là nêu cao đạo đức y học Việt Nam, hết lòng hy sinh phấn đấu vì sự nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân dân vì vậy đã lập nên nhiều chiến công xuất sắc trong công tác nghiên cứu, chữa bệnh, phòng bệnh phát triển nền y học Việt Nam ngang tầm thế giới.
- RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨCNGƯỜI THẦY THUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Mục tiêu học tập 1. Trình bày được tư duy người thầy thuốc và kỹ thuật mới 1. Trình bày và vận dụng được các phương pháp rèn luyện đạo đức để trở thành người thầy thuốc Việt nam XHCN. 2. Trình bày được các nội dung và ý nghĩa lời thề thầy thuốc Việt nam và lời thề Hyppocrat I. TƯ DUY NGƯỜI THẦY THUỐC VÀ KỸ THUẬT MỚI 1. Khái niệm Tư duy của người thầy thuốc là sự áp dụng có ý thức tư duy khoa học (bao gồm tư duy chính trị, xã hội, triết học duy vật, nhân văn, ) với lý luận và thực hành y học. Yêu cầu người thầy thuốc phải hiểu rõ vị trí của con người trong xã hội, biết được các yếu tố, các quy luật chi phối hoạt động con người. Biết được các quá trình xẩy ra trong cơ thể, các chức năng hoạt động của bộ máy, các biến đổi của qua trình hoạt động trong cơ thể, Tư duy thầy thuốc trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển là quan tâm thực sự vị trí của con người, con người là trung tâm, là động lực, là đối tượng, quan tâm đến con người là quan tâm đến sự đầu tư và phát triển xã hội, quan tâm con người đó là đạo đức chân chính của khoa học. 2. Bản chất của chẩn đoán hiện đại - Trong chẩn đoán hiện đại, con người (người bệnh) luôn là một quan tâm hàng đầu, thầy thuốc phải biết con người trước mặt mình không chỉ là bênh ngoài mà cả bên trong ở mọi mức độ từ mức độ khái quát đến cụ thể chi tiết (mức độ tế bào, phân tử, ). Ngoài ra phải biết con người trong hoàn cảnh xã hội thiên nhiên, tiền sử gia đình bệnh tật, - Bản chất của chẩn đoán hiện đại về căn bản khác với cái mà người ta hiểu ở thế kỷ 19: chẩn đoán trong thời đại chúng ta là chẩn đoán mang tính chất bệnh học và sinh bệnh học (còn chẩn đoán thế kỷ 19 về căn bản là chẩn đoán triệu chứng học). Thầy thuốc khi chẩn đoán và điều trị phải quan niệm bệnh nhân là một thể thống nhất giữa cái chung và cái riêng. - Hiện nay có nhiều quan niệm về chữa bệnh, hình thành 2 nguyên lý chữa bệnh khác nhau về quan điểm: + Nguyên lý “chữa bệnh mà không chữa người bệnh”. Nguyên lý này nhấn mạnh việc sử dụng các phương tiện khoa học kỹ thuật, các trang bị máy móc cần thiết là chính cộng với tay nghề người thầy thuốc. Nguyên lý này xem nhẹ vai trò con người và đạo đức tâm lý người thầy thuốc. Nguyên lý “chữa người bệnh mà không chữa bệnh” nguyên lý này có quan điểm ngược lại, nhấn mạnh vai trò con người vai trò người thầy thuốc với đạo đức tâm lý của họ.
- Nguyên lý đúng đắn nhất mà người thầy thuốc cần tuân theo là nguyên lý chung có quan điểm :”có bệnh thì có bệnh nhân “ bệnh và người bệnh không thể tách rời, thầy thuốc phải chữa bệnh cho bệnh nhân, quan niệm bệnh nhân là một thể thống nhất giữa cái chung và cái riêng. 3. Dự kiến trong tư duy lâm sàng - Trong chẩn đoán và điều trị thầy thuốc không nên có dự kiến trong tư duy lâm sàng, không được nghĩ việc chẩn đoán với ý đồ trước dễ dẫn đến sai lầm. Cần phải quan sát xem xét chẩn đoán toàn diện khách quan. - Không nên đánh giá quá cao kết quả các xét nghiệm. Xét nghiệm chỉ mở rộng khả năng chẩn đoán, chỉ có ý nghĩa giúp cho thầy thuốc tư duy quyết định. Hãy bắt đầu tiếp xúc với bệnh nhân một cách khách quan toàn diện, biết rõ các xét nghiệm và phương tiện khoa học, để soi sáng các vấn đề chẩn đoán, để quyết định phương pháp chẩn đoán và điều trị phù hợp nhất. 4. Hỏi bệnh nhân và làm bệnh án - Chẩn đoán là một công trình khoa học, làm bệnh án tốt sẽ giúp chẩn đoán tốt và điều trị tốt. - Làm bệnh án phải chú ý tâm lý, trình độ, hoàn cảnh của bệnh nhân, biết các mối quan hệ của bệnh nhân, tiền sử bệnh nhân và những vấn đề liên quan. Hỏi để biết là một nghệ thuật, không thể hỏi như sự chất vấn của quan tòa. - Hỏi bệnh nhân làm bệnh án yêu cầu thầy thuốc phải vận dụng kiến thức, kỷ năng, tư duy, thái độ vì khoa học cho con người là đa dạng, phong phú. Chú ý khi vận dụng: + Không được đặt chỉ tiêu khám bệnh + Không lạm dụng kết quả xét nghiệm + Phải biết tư duy biện chứng + Không được lạm dụng trực giác của mình (chỉ sử dụng như là một kinh nghiệm được tích lũy trong quá trình hành nghề) 5. Sự phát triển khoa học kỹ thuật và đạo đức - Chúng ta đang ở thời kỳ KHKT phát triển, với sự bùng nổ thông tin, với thành tựu của tin học và máy tính, tiễn vọng sẽ giúp con người tiến xa hơn về mọi lĩnh vực chẩn đoán, điều trị bệnh. Tuy nhiên dù có phát triển mạnh mẽ đến thế nào, thì máy móc là sản phẩm của con người và bộ óc của nó sáng tạo nên phục vụ cho chính con người. Máy móc không thể nào thay thế cho vị trí con người, ví trí người thầy thuốc và nhất là thầy thuốc có đạo đức. - “Không thể đặt dấu ngang bằng giữa bộ óc đang suy nghĩ với cái máy điện tử làm công việc mà bộ óc giao phó” (Bergue). - “Tôi tin chắc rằng, ta không cần một ông lang kỹ sư với máy móc (thước đo, bảng logarit) mà cần một thầy thuốc có lòng tốt, tế nhị, nhẫn nại, yêu nghề và yêu bệnh nhân của mình” (Simolin).