Giao_trinh_tam_ly_hoc_dai_cuong_p2_5107_385007_20180606_054616
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giao_trinh_tam_ly_hoc_dai_cuong_p2_5107_385007_20180606_054616", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_tam_ly_hoc_dai_cuong_p2_5107_385007.pdf
Nội dung text: Giao_trinh_tam_ly_hoc_dai_cuong_p2_5107_385007_20180606_054616
- Chương 5: TÌNH CẢM VÀ Ý CHÍ I. TÌNH CẢM Trong khi phản ánh thế giới khách quan, con người không chỉ nhận thức thế giới đó mà còn tỏ thái độ của mình đối với nó nữa. Xem những bức tranh đẹp, nghe những bản nhạc hay chúng ta không chỉ tri giác (nhìn, nghe ) chúng mà còn có những "rung động", những "rạo rực", những "xao xuyến" kèm theo nữa. Những hiện tượng tâm lí biểu thị thái độ của con người đối với những cái mà họ thận thức được, hoặc tìm ra được gọi là xúc cảm và tình cảm của con người. Đời sống tình cảm của con người rất phong phú và phức tạp, được thể hiện dưới nhiều hình thức, ở nhiều mức độ khác nhau, có ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ các quá trình và hoạt động tâm lí khác của con người. Nó đóng vai trò động lực của tâm lí con người. 1. Định nghĩa về tình cảm Tình cảm là những thái độ thể hiện sự rung cảm của con người đối với những sự vật, hiện tượng của hiện thực, phản ánh ý nghĩa của chúng trong mối liên quan với nhu cầu và động cơ cửa con người. Như vậy, tình cảm là một dạng phản ánh tâm lí mới - phản ánh cảm xúc. Sự phản ánh cảm xúc, ngoài những đặc điểm giống với sự phản ánh nhận thức - đều là sự phản ánh hiện thực khách quan, đều mang tính chủ thể và có bản chất xã hội - lịch sử, lại mang những đặc điểm khác căn bản với sự phản ánh nhận thức. - Thứ nhất:Xét về đối tượng phản ánh thì quá trình nhận thức phản ánh bản thân sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan; còn tình cảm phản ánh mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng gắn với nhu cầu, động cơ của con người. - Thứ hai: Xét về phạm vi phản ánh. Bất cứ sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan tác động vào các giác quan của ta đều được phản ánh (nhận thức) với những mức độ sáng tỏ, đầy đủ, chính xác khác nhau. Nhưng tình cảm chỉ tỏ thái độ bằng sự rung cảm với những sự vật hiện tượng mà có liên quan với sự thoả mãn hay không thoả mãn gắn với nhu cầu, động cơ của con người. - Thứ ba: Xét về phương thức phản ánh thì nhận thức phản ánh hiện thực khách quan dưới hình thức những hình ảnh (cảm giác, tri giác; những biểu tượng, trí nhớ, tưởng tượng),
- những khái niệm (tư duy); còn tình cảm phản ánh hiện thực khách quan dưới hình thức những rung động, những trải nghiệm. - Thứ tư: Mức độ thể hiện tính chủ thể trong tình cảm cao hơn, đậm màu sắc cá nhân hơn so với nhận thức. - Thứ năm: Tình cảm so với nhận thức khó hình thành, hình thành lâu dài, phức tạp hơn và được diễn ra theo những quy luật khác với quá trình nhận thức. Từ sự khác nhau đó chúng ta chú ý trong khi đề ra những con đường, những biện pháp xây dựng, giáo dục tình cảm đúng cho học sinh, tránh sử dụng những biện pháp hình thành tri thức vào việc hình thành tình cảm. "Dạy khoa học tự nhiên, ta có thể dùng định lí, dùng công thức. Nhưng xây dựng con người, xây dựng tình cảm không thể theo công thức được". Để có một tình cảm nào đó như: tình yêu Tổ quốc, quê hương, tình bạn, tình gia đình phải có và được biểu hiện qua những xúc cảm đồng loại. Nói như thế có nghĩa tình cảm được hình thành và biểu hiện qua xúc cảm. Xúc cảm và tình cảm đều biểu thị thái độ của con người đối với thế giới, nhưng xúc cảm và tình cảm cũng có những điểm khác nhau. Tình cảm xúc Cảm - Chỉ có ở con người - Có cả ở Con người và động vật - Là một thuộc tính tâm lí - Là một quá trình tâm lí - Có tính chất xác định và ổn định - Có tính chất nhất thời, phụ thuộc vào - Thường hay ở trạng thái tiềm tàng tình huống đa dạng - Luôn luôn ở trạng thái hiện thực - Xuất hiện sau - Xuất hiện trước - Thực hiện chức năng xã hội (giúp con người định hướng và thích nghi với xã - Thực hiện chức năng sinh vật (giúp cơ hội với tư cách một nhân cách). thể định hướng và thích ứng với môi trường bên ngoài với tư cách một cá thể). - Gắn liền với phản xạ có điều kiện với động hình thuộc hệ thống tín hiệu thứ hai. - Gắn liền với phản xạ không điều kiện, với bản năng.
- Tuy khác nhau, nhưng xúc cảm và tình cảm có quan hệ mật thiết với nhau: Tình cảm được hình thành từ những xúc cảm đồng loại (do sự tổng hợp hóa, động hình hóa, khái quát hoá các cảm xúc đó mà thành) và được thể hiện qua các cảm xúc. Nói cách khác, xúc cảm là cơ sở, là phương tiện biểu hiện của tình cảm; ngược lại, tình cảm có ảnh hưởng trở lại, chi phối các cảm xúc của con người. 2. Đặc điểm tình cảm Tình cảm với tư cách là một đặc trưng của tâm lí người, có những đặc điểm sau đây: a. Tính nhận thức Tình cảm được phát triển trên cơ sở những xúc cảm trong sự tác động qua lại với lí trí, trong mối quan hệ người - người. Tính nhận thức của tình cảm thể hiện ở việc nhận thức được đối tượng, nguyên nhân gây nên tình cảm cho mình. Yếu tố nhận thức rung động và phản ánh cảm xúc là ba yếu tố làm nảy sinh tình cảm. Nhận thức được xem là "cái lí" của tình cảm. Nó làm cho tình cảm bao giờ cũng có đối tượng xác định, "tính có đối tượng của tình cảm tìm thấy sự biểu hiện cho mình ở chỗ, chính các tình cảm được phân biệt tuỳ theo phạm vi đối tượng mà chúng có quan hệ tới". b. Tính xã hội Tình cảm chỉ có ở con người, nó mang tính xã hội, thực hiện chức năng xã hội và hình thành trong môi trường xã hội chứ không phải là những phản ứng sinh lí đơn thuần. Bản chất của con người được hiểu như là "tổng hòa của các mối quan hệ xã hội". Tình cảm nảy sinh trong quá trình con người cải tạo tự nhiên bằng lao động xã hội và trong sự giao tiếp giữa con người với nhau như là một thành viên của một nhóm, một tập thể, một cộng đồng nhất định. c. Tính ổn định So với xúc cảm thì tình cảm là những thái độ ổn định của con người đối với hiện thực xung quanh và với bản thân, chứ không phải là thái độ nhất thời có tính tình huống. Chính vì vậy, tình cảm là một thuộc tính tâm lí, một đặc trưng quan trọng nhất của tâm lí con người. Nó tiềm tàng trong con người và khi nào có điều kiện nó sẽ bộc lộ toàn bộ những tình cảm của họ. Ví dụ lòng yêu nước, tình bạn Do tình cảm có tính ổn định nên nếu biết được những đặc điểm về tình cảm của một người nào đó ta có thể phán đoán được tình cảm của họ đối với mọi người xung quanh. d. Tính chân thật
- Tình cảm phản ánh chính nội tâm thực của con người cho dù người ấy có cố tình che dấu bằng những "động tác giả" bên ngoài. (Chẳng hạn bảo không vui, nhưng thực ra vui nổ trời). e. Tính "đối cực" (hay tính hai mặt) Thường thì sự thỏa mãn nhu cầu của con người mâu thuẫn với nhau. Trong hoàn cảnh này thì những nhu cầu này được thỏa mãn, còn sự thỏa mãn các nhu cầu khác bị kiềm hãm. Tương ứng với điều đó các tình cảm của con người trở thành những tình cảm đối cực hay "hai mặt" nghĩa là, tính chất đối lập nhau: vui - buồn; yêu - ghét; sợ hãi - can đảm; dương tính - âm tính thiếu sự rung động tương phản thì nó sẽ dẫn đến sự bão hòa và buồn tẻ, đơn điệu. g. Tính khái quát Tình cảm có được là do tổng hợp hóa, động hình hóa, khái quát hóa những xúc cảm đồng loại. Tính khái quát của tình cảm biểu hiện ở chỗ, tình cảm là thái độ của con người đối với cả một loại (hay một phạm trù) các sự vật, hiện tượng chứ không phải với ừng sự vật hiện tượng như: lòng yêu nước, tình gia đình, tình bạn 3. Các mức độ của đời sống tình cảm Đời sống tình cảm của con người vô cùng phong phú và đa dạng tạo thành một mặt quan trọng của hoạt động cá nhân. Tính chất phong phú và đa dạng đó không chỉ hiểu qua các cảm xúc mà còn ở những mức độ khác nhau của đời sống tình cảm cá nhân. a. Màu sắc xúc cảm của cảm giác. Đây là mức độ thấp nhất của phản ánh cảm xúc. Nó là một sắc thái của cảm xúc đi kèm theo quá trình cảm giác. Ví dụ: cảm giác về màu xanh gây cho ta xúc cảm dễ chịu. cảm giác màu đỏ gây cho ta cảm xúc rạo rực, nhức nhối. b. Xúc cảm Đây là một mức độ phản ánh cảm xúc cao hơn, nó là sự thể nghiệm trực tiếp của một tình cảm nào đó trong một hoàn cảnh xác định. Tuy nhiên, tùy theo cường độ, tính ổn định (thời gian tồn tại) và tính ý thức cao hay thấp người ta lại chia xúc cảm nói chung làm hai loại: * Xúc động: là một dạng của xúc cảm có cường độ rất mạnh, xảy ra trong một thời gian ngắn và khi xảy ra xúc động con người thường không làm chủ được bản thân mình ("cả giận mất khôn"), không ý thức được hậu quả hành động của mình.
- * Tâm trạng: là một dạng khác của xúc cảm, nó có cường độ vừa phải hoặc tương đối yếu, tồn tại trong một thời gian tương đối dài, có khi hàng tháng, hàng năm và con người không ý thức được nguyên nhân gây ra nó. Tâm trạng là một trạng thái xúc cảm chung bao trùm lên toàn bộ các rung động và làm nền cho hoạt động của cơn người, có ảnh hưởng rõ rệt đến toàn bộ hành vi của họ trong một thời gian khá dài, ảnh hưởng tích cực, tiêu cực đến đời sống tình cảm của con người. Nguồn gốc của tâm trạng rất khác nhau: có những nguồn gốc gần và những nguồn gốc xa. Nguồn gốc chủ yếu để gây tâm trạng là vị trí của cá nhân trong xã hội. c. Tình cảm Đó là thái độ ổn định của con người đối với hiện thực xung quanh và đối với bản thân mình, nó là một thuộc tính tâm lí của nhân cách. Tình cảm có một loại đặc biệt, có cường độ rất mạnh, thời gian tồn tại khá dài và được ý thức rất rõ ràng - sự say mê, có những say mê tích cực (say mê học tập, nghiên cứu) và có những say mê tiêu cực thường gọi là đam mê (đam mê cờ - bạc, rượu chè ). - Người ta còn phân chia tình cảm thành tình cảm cấp thấp và tình cảm cấp cao, tình cảm cấp thấp là những tình cảm có liên quan tới sự thỏa mãn hay không thỏa mãn những nhu cầu sinh lí. Tình cảm cấp cao gồm có tình cảm đạo đức, tình cảm trí tuệ, tình cảm thẩm mĩ, tình cảm hành động - Tình cảm đạo đức: là những tình cảm có liên quan đến sự thỏa mãn hay không thỏa mãn những nhu cầu đạo đức của con người. Tình cảm đạo đức biểu hiện thái độ của con người đối với những người khác, đối với tập thể và đối với bản thân. Ví dụ: tình yêu tổ quốc, tinh thần quốc tế, tình cảm nghĩa vụ Tình cảm trí tuệ: là những tình cảm nảy sinh trong quá trình hoạt động trí óc, nó liên quan đến những quá trình nhận thức và sáng tạo, liên quan đến sự thỏa mãn hay không thỏa mãn nhu cầu nhận thức của con người. - Tình cảm thẩm mĩ. là những tình cảm có liên quan tới nhu cầu thẩm mĩ, nhu cầu về cái đẹp, thể hiện thái độ thẩm mĩ của con người đối với tự nhiên, xã hội, lao động Tình cảm thẩm mĩ cũng như tình cảm đạo đức được quy định bởi xã hội, nó phản ánh trình độ phát triển của xã hội.
- - Tình cảm hoạt động: là sự thể hiện thái độ của con người đối với hoạt động nhất định, liên quan đến sự thỏa mãn hay không thỏa mãn nhu cầu hoạt động đó. Lao động là cơ sở tồn tại của cơn người. Vì vậy, thái độ cảm xúc dương tính đối với lao động như lòng yêu lao động, sự tôn trọng người lao động Để tồn tại và phát triển con người cần phải hoạt động. Hoạt động của con người bao giờ cũng có mục đích và con người luôn tỏ thái độ đối với đối tượng hoạt động đó. - Tình cảm mang tính chất thế giới quan, nhân sinh quan là mức độ cao nhất của tình cảm con người. ở mức độ này tình cảm có đặc điểm rất bền vững và ổn định, có tính khái quát cao, có tính tự giác và tính ý thức cao trở thành một quan điểm, một nguyên tắc trong thái độ và hành vi của cá nhân. Ví dụ: lòng yêu nước, tinh thần tương thân tương ái, tính giai cấp 4. Các quy luật của đời sống tình cảm Đời sống tình cảm của con người vô cùng phong phú đa dạng và cũng rất phức tạp, điều đó được thể hiện qua các quy luật của tình cảm. a. Quy luật "lây lan" Con người luôn luôn sống trong xã hội, trong các mối quan hệ người - người. Vì vậy, xúc cảm, tình cảm của người này có thể truyền "lây"sang người khác. Trong đời sống hàng ngày ta thường thấy hiện tượng "vui lây", "buồn lây", "cảm thông", "đồng cảm" Nền tảng Của quy luật này là tính xã hội trong tình cảm con người.Tuy nhiên, việc "lây lan" tình cảm từ chủ thể này sang chủ thể khác không là con đường chủ yếu để hình thành tình cảm. b. Quy luật “thích ứng” Tương tự như trong quá trình cảm giác, trong xúc cảm, tình cảm cũng có hiện tượng thích ứng. Nghĩa là một xúc cảm, tìnhcảm nào đó được lặp đi lặp laạ nhiều lần với một cường độvkhông thay đổi thì cuối cùng cũng sẽ bị suy yếu, bị lắng xuống. Đó là hiện tượng thường được gọi là sự "chai dạn" của tình cảm. c. Quy luật "tương phản" hay "cảm ứng" Giống như cảm giác, tình cảm cũng có sự tương phản. Trong quá trình hình thành hoặc biểu hiện tình cảm, sự xuất iên hoặc suy yếu của một tình cảm này có thể là tăng hoặc giảm một tình cảm khác xảy ra đồng thời hoặc nối tiếp nhau Đó là hiện tương "cảm ứng" hay "tương
- phản" trong tình cảm. Người ta vận dụng quy luật này trong văn học, nghệ thuật, càng yêu nhân vật chính diện bao nhiêu càng ghét nhân vật phản diện bấy nhiêu d. Quy luật "di chuvển " Tình cảm của con người có thể di chuyển từ một đối tượng này sang một đối tượng khác có liên quan tới đối tượng gây nên tình cảm trước đó, chẳng hạn hiện tượng "giận cá chém thớt", "ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng", "vì cây mà dây quấn". e. Quy luật "pha trộn" Trong đời sống tình cảm của một con người cụ thể, nhiều khi hai tình cảm đối cực nhau có thể cùng xảy ra một lúc nhưng không loại trừ nhau mà chúng "pha trộn" vào nhau. ví dụ: "giận mà thương", "bởi trưng hay ghét cũng vì hay yêu" g. Quy luật về sự hình thành tình cảm - Xúc cảm là cơ sở của tình cảm, tình cảm được hình thành do quá trình tổng hợp hóa động hình hóa và khái quát hóa. những xúc cảm đồng loại, chẳng hạn tình cảm mẹ con; lòng yêu tổ quốc, tình yêu quê hương - Tình cảm được xây dưng từ những xúc cảm, nhưng khi đã được hình thành thì tình cảm lai chi phối và thể hiện qua các xúc cảm đa dạng. 5. Vai trò của tình cảm trong nhân cách con người Tình cảm có vai trò to lớn trong đời sống trong hoạt động của con người. a. Tình cảm đối với nhận thức Đối với nhận thức, tình cảm là nguồn động lực mạnh mẽ kích thích con người tìm tòi đối với kết quả của nhận thức. Ngược lại, nhận thức định hướng, điều khiển, điều chỉnh tình cảm đi đúng hướng. Nhận thức và tình cảm là hai mặt của một vấn đề nhân sinh quan thống nhất của con người. b. Tình cảm đối với hành động Tình cảm chiếm vị trí quan trọng trong số những động lực và nhân tố điều chỉnh hành vi và hoạt động của con người. Tình cảm nảy sinh, biểu hiện, thúc đẩy con người hoạt động, giúp con người vượt qua những khó khăn trở ngại gặp phải trong quá trình hoạt động. c. tình cảm đối với các thuộc tính tâm lí khác
- Tình cảm có mối quan hệ và chi phối toàn bộ các thuộc tính tâm lí của nhân cách. Tình cảm chi phối tất cả các biểu hiện của xu hướng nhân cách: nhu cầu, hứng thú, lí tưởng, thế giới quan. niềm tin; tình cảm là mặt nhân lõi của tính cách; là điều kiện và động lực để hình thành năng lực; là yếu tố có quan hệ qua lại với khí chất con người. d. Tình cảm đối với nghề dạy học Tình cảm giữ một vị trí vô cùng quan trọng, nó vừa là điều kiện, vừa là nội dung, vừa là phương tiện giáo dục. Tài năng của nhà giáo dục phụ thuộc rất nhiều vào lòng yêu nghề và tình thương yêu tuổi trẻ, thiếu lòng yêu nghề, yêu trẻ sâu sắc thì thầy giáo khó trở thành nhà giáo dục tốt. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Phân tích khái niệm tình cảm. So sánh tình cảm với nhận thức 2. Phân tích các đặc điểm của tình cảm con người. 3. Hãy nêu và phân tích các quy luật của tình cảm, từ đó rút ra ý nghĩa trong nghề dạy học. 4. Nêu vai trò và ý nghĩa của tình cảm đối với cuộc sống con người và đối với các hiện tượng tâm lí khác. Bài tập 1. Dưới đây là những ví dụ khác nhau về tình cảm: Hãy xác định xem những tình cảm nào thuộc về tình cảm trí tuệ những tình cảm nào thuộc về tình cảm đạo đức, những tình cảm nào thuộc về tình cảm thẩm mĩ? Tại sao? Ngạc nhiên - Tính khôi hài Tình bạn - Lòng tin Tình cảm với cái đẹp - Sự công tâm Sự khâm phục - Tình cảm bi lụy Tình cảm trách nhiệm - Sự hoài nghi Sự mỉa mai - Sự xấu hổ Tính tàn ác - Tính ghen tị Tình cảm vui nhộn - Lòng trắc ẩn
- 2. Căn cứ theo thời gian tồn tại và cường độ, người ta phân chia các thể nghiệm cảm xúc thành những loại nào? Theo các dấu hiệu đó, hãy phân chia các thể nghiệm dưới đây: Tình yêu bền vững với nghệ thuật Bị kích thích Buồn rầu - Trống trải Giận dữ - Lo sợ Đau khổ - Say mê khoa học Khiếp sợ - Độc ác Trầm uất 3. Hiện tượng nào trong lĩnh vực tình cảm được thể hiện trong ví dụ dưới đây? Nó được gọi là gì? "Tôi không biết - một thiếu nữ viết - tôi yêu anh hay là căm giận anh. Có lẽ những tình cảm đó trong tôi được hoà trộn một cách lạ thường. Tôi tự đặt câu hỏi: Tại sao tôi lại có thể yêu anh? Tôi không tìm được câu trả lời. Nhưng không, có lẽ có những cơ sở để căm giận. Có thể là anh đã giúp tôi hiểu được chính bản thân mình và điều đó đã gây cho tôi cái trạng thái phi lí trên đối với anh". 4. Hãy phân biệt trong số những đặc điểm dưới đây. những đặc điểm nào là của tình cảm, những đặc điểm nào là của xúc cảm? a) là một quá trình tâm lí; b) có tính chất nhất thời, đa dạng; c) chỉ có ở người; d) là một thuộc tính tâm lí; e) ở dạng tiềm tàng; g) ở trạng thái hiện thực; h) có cả ở người lẫn vật, e) ổn định và xác định. 5. Các câu ca dao và thơ sau nói lên quy luật nào của tình cảm? "Yêu nhau yêu cả đường đi Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng".
- "Qua đình ngả nón trông đình Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu". "Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay " 6. Thử đánh giá các phản ứng xúc cảm và các trạng thái được biểu hiện ở học sinh trong một hoạt động nào đó (học tập. lao động, họp lớp ) bằng phương pháp quan sát của Platônốp và Dinchencô. Dung cụ cần thiết - Một bảng đánh giá giám định các thể hiện của cảm xúc (theo mẫu 1). - Một phiếu đánh giá giám định (theo mẫu 2). Các chỉ số bên Điểm số và chất lượng các thể hiện xúc cảm ngoài TT Đơn vị 1 2 3 4 5 Xúc cảm âm Xúc cảm âm Trạng thái Xúc cảm Xúc cảm tính mạnh tính yếu xúc cảm dương dương tính trung bình tính yếu mạnh 1 Miệng Góc miệng sa Góc miệng sa Bình Góc Góc miệng xuống nhiều xuống ít thường miệng nhếch lên nhếch lên nhiều đôi chút 2 Mắt Cái nhìn rất Cái nhìn lộ vẻ Bình Cái nhìn Cái nhìn hân không hài lòng không hài thường vui vẻ, hoan, sáng lòng sáng ngời, ngời, nheo hơi nheo lại 3 Lông mày Nhíu lại, dịch Nhăn nhúm Bình thản Bình thảnh về gốc mũi, nhíu lại cau có 4 Sắc mặt Đỏ lên hoặc tái Hơi tái, hay Bình Bình Bình thường
- đi hơi đỏ thường thường 5 Cử động Rất căng, rất Hơi căng, Bình Tự do Tự do của tay không tự không tự thường nhiên, hoặc nhiên hoặc lúng túng, hơi hỗn loạn, mạnh hơi mạnh mẽ 6 Giọng nói Rất mạnh, rất Hơi mạnh, Hơi vui, Rất vui, và nội không hài lòng hơi khó chịu sung sung sướng dung phát sướng biểu 7 Hô hấp Râu mau, rối Hơi mau, Bình Bình Bình thản loạn, hay thỉnh thoảng thường thảnh ngừng thở nín thở Cách tiến hành: Có một nhóm (3 - 5 người) giám định viên cùng quan sát và đánh giá học sinh. Nhóm này quan sát học sinh trong quá trình hoạt động và đánh giá trạng thái cảm xúc của học sinh bằng điểm số theo "Bảng đánh giá giám định các thể hiện cảm xúc" (mẫu 1). Mẫu 2. Phiếu đánh giá giám định Họ tên: Ngày: Lớp: Các chỉ số bên ngoài Điểm số Nhận xét 1. Miệng 2. Mắt 3. Lông mày 4. Sắc mặt 5. Cử động của tay
- 6. Giọng nói và nội dung phát biểu 7. Hô hấp Tổng số điểm Điểm số trung bình Cách tính toán và phân tích kết quả. Mỗi giám định viên đánh giá theo bảng từng chỉ số riêng lẻ vào "Phiếu đánh giá giám định" (mẫu 2). Mỗi giám định viên tính điểm số trung bình tức là điểm số chỉ trạng thái xúc cảm chung của học sinh. bằng cách lấy tổng số điểm chia cho 7. Số yếu vị (mốt) của các điểm số ở tất cả các giám định viên sẽ là giá trị nói lên trạng thái cảm xúc như là phản ứng xúc cảm của học sinh đối với hoạt động. 7. Hãy tập nhận xét tâm trạng bên trong của con người qua nét mặt của họ: Dụng cụ: Bộ ảnh chuẩn của E. Izard (hình dưới). Cách tiến hành: Cho học sinh quan sát từng tấm ảnh và nói trạng thái cảm xúc bên trong của người trong ảnh. Đánh giá. Tính số lượng câu trả lời đúng. II. Ý CHÍ 1. Ý chí 1.1. Định nghĩa về ý chí Ý chí là mặt năng động của ý thức, biểu hiện ở năng lực thực hiện những hành động có mục đích, đòi hỏi phải có sự nỗ lực khắc phục khó khăn bên ngoài và bên trong. Năng lực này không phải tự nhiên ai cũng có như nhau - nói cách khác, ý chí là một phẩm chất tâm lí của cá nhân, một thuộc tính tâm lí của nhân cách. Người ta thường nói: Anh này không có ý chí; Chị này có ý chí cao; Chị kia kém ý chí, Là một hiện tượng tâm lí, ý chí cũng là một sự phản ánh hiện thực khách quan thông qua mục đích của hành động, nhưng mục đích đó không có sẵn mà được con người nhận thức một cách tự giác, mục đích ấy do các điều kiện của hiện thực khách quan quy định.
- Ý chí là mặt năng động của ý thức, ý chí là hình thức tâm lí điều chỉnh hành vi tích cực nhất của con người, là năng lực tâm lí cho phép con người vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để thực hiện đến cùng mục đích đã xác định. "Sở dĩ như vậy là vì ý chí kết hợp được trong mình cả mặt năng động của trí tuệ lẫn mặt năng động của tình cảm đạo đức. "ý chí - đó là mặt hoạt động của trí tuệ và tình cảm đạo đức". Năng lực kiểm soát, điều chỉnh hành vi một cách có ý thức nảy sinh trong hoạt động lao động. Động vật không có ý chí. Ý chí là mặt đặc trưng của tâm lí người, bởi vì con vật chỉ thích ứng một cách thụ động với thiên nhiên, còn con người bằng lao động - một loại hoạt động có ý thức - đã chinh phục và cải biến thiên nhiên. ý chí con người được hình thành trong quá trình lao động. Ngay cả hoạt động lao động đơn giản nhất (ví dụ, việc săn bắt nguyên thuỷ ) cũng đòi hỏi con người phải có phẩm chất ý chí nhất định, nó hình thành nên ở con người những phẩm chất ý chí nhất định, Ph. ănghen đã nói: "Loài người càng cách xa loài vật thì tác động của con người vào giới tự nhiên càng mang tính chất của một hoạt động có tính toán trước, tiến hành một cách có phương hướng vào những mục đích nhất định, đã đề ra từ trước. Ý chí của con người được hình thành và biến đổi tuỳ theo những điều kiện xã hội - lịch sử, tuỳ theo những điều kiện vật chất của đời sống xã hội. Tính chất của những mục đích và những thúc đẩy đối với hành động của con người được quyết định bởi thính họ đại diện cho quyền lợi của giai cấp nào. Xu hướng của ý chí khác nhau trong những thời đại khác nhau và ở những đại diện của các giai cấp khác nhau. Trong xã hội XHCN, những quan hệ được xây dựng trên nguyên tắc giúp đỡ lẫn nhau, hợp tác với nhau. ở đây có sự phối hợp hài hoà giữa mục đích của cá nhân và mục đích của xã hội. Trong khi ý thức được mối liên hệ gắn bó mình với tập thể, cá nhân phục từng hoạt động chung của xã hội, của tập thể, bắt quyền lợi của cá nhân phục tùng những quyền lợi của dân tộc, vì vậy không thể đặt ra cho mình những mục đích đối lập với những mục đích của tập thể. Giá trị chân chính của ý chí không phải chỉ ở chỗ ý chí đó như thế nào (cao hay thấp, mạnh hay yếu) mà thể hiện ở chỗ nó hướng vào cái gì. Cho nên cần phải phân biệt mức độ ý chí (hay cường độ ý chí) với nội dung đạo đức của ý chí.
- Chỉ Có những ý chí được giáo dục về đạo đức mới có thể giúp con người thực hiện được những chuyển biến lớn lao trong sự nghiệp của mình. 1.2. Ý chí và các đặc điểm tâm 1í khác của nhân cách Ý chí không phải là thuộc tính tách rời của con người, nó liên hệ chặt chẽ với các mặt, các chức năng khác của tâm lí con người. a. Nhận thức với ý chí Nhận thức của con người hướng vào lĩnh hội, phân tích, trừu tượng hoá và khái quát hoá các tri thức tiếp thu từ môi trường xung quanh, những kiến thức này được củng cố trong trí nhớ và chế biến trong tư duy. Nghĩa là nội dung của ý chí nằm trong các khái niệm, các biểu tượng do tư duy và tưởng tượng mang lại. Những tri thức này thông báo những cái có trong thế giới xung quanh chúng ta. Như vậy, nhận thức làm cho ý chí có nội dung. Đồng thời.,ý chí là cơ chế khởi động và ức chế, ý chí còn điều chỉnh hành vi, nghĩa là hướng một cách có ý thức vào các nỗ lực của bản thân nhằm đạt mục đích cần thiết. Đó là sự điều chỉnh của ý chí và hành vi, hướng một cách có ý thức sự nỗ lực trí tuệ và thể chất vào việc đạt tới mục đích hoặc kiềm chế hoạt động khi cần thiết. Khi chúng ta nói giữa ý chí và nhận thức có quan hệ thì không có nghĩa là con người ta nhận thức cái gì thì hành động như thế. Nhưng con người ta một khi đã có những suy nghĩ chín chắn về mục đích cuộc sống thì họ phải bằng mọi cách để đạt được mục đích đã đề ra, có nghĩa là con người sẽ phải có sự nỗ lực ý chí. Trong đời sống hàng ngày chúng ta có thể gặp những người mà ở họ có sự hoạt động rất mạnh mẽ, thể hiện sự kiên trì để vươn tới mục đích.,nhưng bản thân mục đích đó không quan trọng, không có ý nghĩa xã hội. Sự nỗ lực lớn của họ trở nên vô ích, vì họ không nhận thức được ý nghĩa. b. Ý chí với tình cảm Tình cảm và ý chí có quan hệ mật thiết, ý chí là mặt hoạt động của tình cảm. Trong đời sống hàng ngày, hoạt động của con người, tình cảm thực hiện vai trò kích thích hành động. Đồng thời những rung động có thể là phương tiện kìm hãm hành động. Nhưng bản thân tình cảm cũng chịu sự kiểm soát của ý chí, vì thực tế có khi con người ta hành động trái ngược với tình cảm; Chẳng hạn con người ta đấu tranh với những mất mát, với sự tức giận, với niềm vui, nỗi khổ v.v làm được điều đó là nhờ ý chí.
- 1.3. Các phẩm chất cơ bản của ý chí Đó là tính mục đích, tính độc lập, tính quyết đoán, tính kiên trì tính tự chủ. a. Tính mục đích T ính mục đích là phẩm chất quan trọng của ý chí, đó là kĩ năng của con người biết đề ra cho hoạt động và cuộc sống của mình mục đích. Biết điều khiển hành vi của mình phục từng các mục đích - Nhưng tính mục đích của người lớn phụ thuộc vào thế giới quan và những nguyên tắc đạo đức của người đó - Tính mục đích còn mang tính giai cấp. Vì vậy mà khi xem xét tính mục đích không phải xem xét ở góc độ hình thức mà phải xét ở mặt nội dung. Ví dụ: ý chí của bọn cướp của giết người khác với ý chí của những người chiến sĩ cách mạng. Khác ở chỗ người chiến sĩ cách mạng đã biết đặt mục đích là vì nhân dân vì Tổ quốc, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc Vì vậy, nhà trường phải thường xuyên giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh, giúp cho các em trở thành người sống. làm việc có mục đích cao đẹp. b. Tính độc lập Đó là năng lực quyết định và thực hiện hành động đã dự định mà không chịu ảnh hưởng của người khác. Tính độc lập thể hiện ở chỗ con người có thể từ bỏ ý kiến của mình để phục từng người khác (nhưng là ý kiến đúng). Điều đáng chú ý là tính độc lập ở đây không giống với tính bướng bỉnh, tính bảo thủ, nghĩa là bất luận ý kiến của người khác đúng hay sai họ đều phủ định giữ nguyên ý kiến của mình. Tính độc lập - không có nghĩa là không phục tùng ý kiến của người khác, của tập thể. Song cũng không có nghĩa là phải "a dua", "gió chiều nào theo chiều đó" hay bắt chước một cách không có ý thức. Tính độc lập giúp cho con người hình thành được niềm tin vào sức mạnh của mình. c. Tính quyết đoán Là khả năng đưa ra được những quyết định kịp thời, không dao động, không phụ thuộc vào người khác.
- Tính quyết đoán không phải thể hiện ở hành động thiếu suy nghĩ, mà là những hành động có cân nhắc, có căn cứ. Con người có tính quyết đoán là có niềm tin vào sự thành công, vào sự đúng đắn của những suy nghĩ của mình. Tiền đề của tính quyết đoán là tính dũng cảm, nghĩa là sự nhút nhát, mềm yếu thì không thể có được tính quyết đoán. Người có tính quyết đoán luôn luôn có hành động dứt khoát, nhanh, đúng lúc, không dao động. Ngược lại người không có tính quyết đoán thường hay do dự, dao động và hành động không đúng lúc, không kịp thời và hay hoài nghi. d. Tính bền bỉ (hay kiên trì) Phẩm chất này được biểu hiện ở kĩ năng vượt khó khăn để đạt mục đích không tính thời gian ngắn hay dài miễn đạt mục đích đặt ra. Không bao giờ cảm thấy mệt mỏi, chán nản, những khó khăn không làm họ nhụt chí mà còn làm tăng nghị lực để vượt qua khó khăn. Phẩm chất bền bỉ rất cần đối với người làm công tác giáo dục. Song chúng ta cũng cần phân biệt người có tình bền bỉ, dẻo dai khác với người có tính lì lợm, bướng bỉnh, kém ý chí. Tính bướng bỉnh ở học sinh được biểu hiện rõ nhất là thái độ phản ứng của các em đối với người lớn khi có thái độ thiếu tế nhị hoặc ở tính đỏng đảnh của đứa trẻ được gia đình nuông chiều, từ đó các em quan niệm sai về phẩm chất này, các em đánh giá tính bướng bỉnh, nũng nịu, đỏng đảnh là thể hiện tính cứng rắn, tính độc lập, không dao động. e. Tính tự chủ Là khả năng làm chủ bản thân, duy trì được sự kiểm soát các hành vi của bản thân: như chiến thắng với những thúc đẩy không mong muốn, không lành mạnh, tính tự chủ là khả năng kiểm soát, làm chủ được những xúc động, cảm xúc (sợ hãi, giận dữ) xảy ra không đúng lúc, không cần thiết của mỗi người. Tính tự chủ giúp con người khắc phục được tính cục cằn cũng như các trạng thái tâm lí khác (buồn chán, hoang mang, dao động, hoài nghi ), những trạng thái tâm lí này thường nảy sinh trong công tác, trong quan hệ với đồng nghiệp, trong quan hệ giữa cá nhân với cá nhân. Tính tự chủ của con người được hiểu là sự kiềm chế những cảm xúc, xúc động trong tình cảm. Khi kiềm chế những cảm xúc đó người ta gắn liền nó với những phản ứng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ.
- Sở dĩ có những cách hiểu bó hẹp như vậy vì phẩm chất ý chí này thường biểu hiện rõ nhất trong phạm vi điều khiển, điều chỉnh các cảm xúc - thực ra nó còn có khả năng điều khiển, điều chỉnh hành vi con người trong giao tiếp. 2. Hành động ý chí 2.1. Khái niệm về hành động ý chí Hành động ý chí là hành động có ý thức, có chủ tâm, đòi hỏi nỗ lực khắc phục khó khăn, thực hiện đến cùng mục đích đã đề ra. Hành động ý chí có các đặc điểm: - Nguồn kích thích hành động ý chí không trực tiếp quyết định hành động bằng cường độ vật lí mà thông qua cơ chế động cơ hoá hành động, trong đó chủ thể nhận thức ý nghĩa của kích thích để từ đó quyết định có hành động hay không. - Tính mục đích của hành động ý chí. Trước khi hành động con người tự hỏi "hành động để đạt mục đích gì" nghĩa là con người phải ý thức được mục đích của hành động, ý chí sẽ giúp con người ta đạt được mục đích - ý thức được mục đích của hành động là đặc điểm cơ bản, điển hình của hành động ý chí. Nếu mất đi đặc điểm này thì không thể gọi là hành động ý chí. Ví dụ: Người ta so sánh hành động của con ong và con người. Mác vạch ra cái khác cơ bản giữa con ong giỏi nhất và nhà kiến trúc sư tồi nhất là nhà kiến trúc sư trước khi xây dựng từng tầng sáp thì đã xây dựng tầng đó trong óc mình rồi. Mác viết: "Một con nhện làm động tác giống như động tác của người thợ dệt, là con ong với những ngăn tổ sáp của mình còn khéo hơn nhà kiến trúc sư nhiều. Nhưng điều phân biệt trước tiên giữa một nhà kiến trúc sư tồi nhất và con ong là trước khi xây dựng từng ngăn trong tổ ong thì đã xây dựng từng ngăn trong óc của mình rồi. Kết quả mà cuối cùng lao động đạt được trí tưởng tượng của người lao động đã quan niệm trước rồi. Không phải con người chỉ thực hiện một sự thay đổi hình thức trong những vật liệu tự nhiên không thôi mà đồng thời con người còn thực hiện mục đích của bản thân mình và đã có ý thức mục đích ấy như một quy luật quyết định phương thức hoạt động của con người và bắt ý chí con người phụ thuộc vào nó". - Trong hành động ý chí, con người lựa chọn phương tiện và biện pháp hành động sao cho thực hiện được mục đích và đạt hiệu quả cao.
- Khác với con vật, con người chủ động tác động vào tự nhiên và môi trường để tạo ra những sản phẩm phục vụ nhu cầu của mình. Trong quá trình hành động con người ta biết dùng những công cụ sẵn có và sáng tạo ra công cụ để hành động và con người biết lựa chọn biện pháp hành động. - Có sự theo dõi, kiểm tra,.điều chỉnh, điều khiển, có sự nỗ lực ý chí để khắc phục những khó khăn trong quá trình thực hiện mục đích. Nỗ lực ý chí thể hiện trong hành động là kìm hãm, tăng giảm cường độ của hành động - Nỗ lực ý chí chì còn thể hiện ở chỗ có thể chuyển từ trạng thái hành động sang trạng thái không hành động và ngược lại v.v Khi xét, đánh giá sự nỗ lực ý chí của một người thì bao giờ người ta cũng xét nội dung đạo đức của hành động ấy. Điều đó nói lên rằng hành động ý chí nào phù hợp với sự phát triển của xã hội thì hành động ý chí đó chân chính và ngược lại. Hành động ý chí có thể gồm ba loại: + Hành động ý chí đơn giản: Đó là những hành động có mục đích rõ ràng. Loại hành động này còn gọi là hành động có chủ định, hay hành động tự ý. + Hành động ý chí cấp bách: là hành động xảy ra trong một thời gian ngắn, đòi hỏi phải có sự nỗ lực, sự quyết định chớp nhoáng. + Hành động ý chí phức tạp: Đây là loại hành động ý chí điển hình mà trong đó nó thể hiện tất cả các đặc điểm của hành động ý chí. 2.2. Các giai đoạn của hành động ý chí Từ việc phân tích cấu trúc của hành động ý chí cho phép ta phân chia hành động ý chí thành ba giai đoạn sau: a. Giai đoạn chuẩn bị Đây là giai đoạn hành động trí tuệ, giai đoạn suy nghĩ. Giai đoạn này bao gồm: + Đặt ra và ý thức rõ ràng về mục đích hành động, + Lập kế hoạch và tìm ra phương pháp thực hiện, + Quyết định hành động. Nhu cầu là yếu tố kích thích, gây ra mọi hành động. Nhu cầu gồm nhiều mức độ khác nhau:
- + Mức độ thấp - ý hướng. ở mức độ này mới chỉ phản ánh trong ý thức, nghĩa là còn mù mờ, chưa rõ ràng. Nhu cầu ở mức ý hướng là nhu cầu còn chưa rõ ràng, chưa phản ảnh một cách đầy đủ. + Mức độ cao hơn - ý muốn - so với ý hướng thì nhu cầu biểu hiện rõ ràng hơn, xác định được đối tượng của nhu cầu, nhưng chưa xác định phương cách thực hiện mục đích. + Mức độ ý định là nhu cầu đã được ý thức một cách đầy đủ, con người đã xác định được mục đích của hành động. Chẳng hạn khi ta nói ý định làm việc gì đó nghĩa là người ta đã sẵn sàng hành động. Nhưng con người ta có nhiều nhu cầu khác nhau cùng một lúc, do đó cùng một lúc phải đề ra nhiều mục đích khác nhau cho hành động của mình. Thực tế con người khi hành động chỉ có thể thực hiện một hay hai mục đích nào đó. Chính vì vậy trong quá trình đề ra mục đích hành động tất yếu phải diễn ra cuộc đấu tranh bản thân để chọn lấy một trong hai mục đích. Nhu cầu một khi đã ý thức một cách sâu sắc nó sẽ trở thành động cơ của hành động. Vì vậy mà sự đấu tranh bản thân còn gọi là đấu tranh động cơ. Sự đấu tranh động cơ có được diễn ra dưới nhiều hình thức như đấu tranh giữa nhu cầu cá nhân và nhu cầu tập thể, giữa tình cảm với lí trí; giữa cái sống và cái chết. Trong đấu tranh động cơ thì vốn hiểu biết, vốn kinh nghiệm khả năng nhận thức và tình cảm của nhân cách giữ một vai trò quan trọng. Sự khuyến cáo của người lớn, người có uy tín có ý nghĩa nhất định trong việc xác định, đấu tranh động cơ. Sau khi đã xác định được mục đích, thì khâu tiếp theo sẽ là lập kế hoạch để thực hiện mục đích. Để thực hiện được mục đích bằng nhiều phương tiện khác nhau, mà người ta chọn phương tiện nào hợp lí nhất, mang lại hiệu quả. Khi lập kế hoạch người ta đã lường trước những thuận lợi và khó khăn sẽ xảy ra, đó là những khó khăn chủ quan và khó khăn khách quan. Chính ở đây sẽ diễn ra sự đấu tranh bản thân. Kết quả của cuộc đấu tranh này là đưa đến một quyết định hành động. Sau khi đã quyết định hành động, sự căng thẳng nảy sinh trong quá trình đấu tranh bản thân, đấu tranh động cơ được giảm xuống, lúc này con người sẽ cảm thấy thoải mái, dễ chịu một khi quyết định phù hợp với nguyện vọng của bản thân, phù hợp với mục đích đề ra. b. Giai đoạn thực hiện
- Đây là giai đoạn tiếp theo sau khi đã quyết định. Giai đoạn này đòi hỏi sự nỗ lực lớn lao, nhưng nỗ lực chưa đủ mà phải có ý chí. Quá hình thực hiện quyết định có thể có hai hình thức hành động bên ngoài - hành động bên trong, có thể gọi đó là hành động ý chí bên ngoài và hành động ý chí bên trong. Nếu con người ta đi chệch khỏi con đường đã định tức lệch mục đích thì đó là hành động thiếu ý chí. Song chúng ta cũng lưu ý rằng, đôi khi trong điều kiện hoàn cảnh thay đổi, và việc thực hiện quyết định trước đây trở nên không hợp lí nữa thì phải từ bỏ một cách có ý thức cái quyết định trước là việc làm cần thiết. Việc làm này phải có ý chí mới có thể thực hiện được. Khi mục đích đã đạt được, những khó khăn đã vượt qua được con người ta sẽ cảm thấy thoả mãn về mặt đạo đức và bến hành những hoạt động mới. c. Giai đoạn đánh giá kết quả của hành động Sau khi hành động ý chí đã được thực hiện, con người bao giờ cũng đánh giá các kết quả đã đạt được, đánh giá là để rút kinh nghiệm cho những hành động tiếp theo. - Đánh giá kết quả hành động là đối chiếu kết quả đạt được với mục đích đã định. Sự đánh giá có thể xảy ra hai trạng thái: Đánh giá xấu thường kèm theo những rung cảm xấu hổ, hối hận, chưa thoả mãn; đánh giá tốt xảy với những rung cảm thoả mãn, hài lòng, sung sướng. Sự đánh giá hành động có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong hoạt động của con người. Nó có thể trở thành động cơ, kích thích đối với hoạt động tiếp theo: Đánh giá xấu dẫn đến việc đình chỉ hoặc sửa chữa hành động hiện tại, đánh giá tốt sẽ kích thích việc tiếp tục tăng cường hành động đang thực hiện. Qua sự phân tích một hành động điển hình thấy trong giai đoạn đầu tiên có sự tham gia của nhiều yếu tố tâm lí, tư duy có vai trò vô cùng quan trọng, giai đoạn (thành phần) thứ hai thì các kĩ năng, kĩ xảo, năng lực tổ chức giữ vai trò quyết định. Khi gặp khó khăn, trở ngại thì vai trò tích cực lại thuộc về tư duy. Vì khắc phục khó khăn là giải quyết vấn đề. Muốn giải quyết vấn đề cần nỗ lực ý chí. Sang giai đoạn thứ ba (thành phần thứ ba) của hành động ý chí liên quan đến tư duy, cảm xúc, xu hướng và tính cách của con người. Tóm lại, nhân cách của con người được bộc lộ rõ ràng trong các giai đoạn của một hành động ý chí. 3. Hành động tự động hoá 3.1. Hành động tự động hoá là gì?
- Trong cuộc sống hàng ngày của con người thì hành động ý chí có vai trò quan trọng, thiếu nó sẽ không được vì như vậy con người sẽ không có một hành động nào. Tuy vậy, không có nghĩa toàn bộ hoạt động của con người lúc nào cũng phải có ý chí. Bên cạnh đó con người còn phải có loại hành động khác phối hợp, hỗ trợ cho hành động ý chí. Đó là hành động tự động hoá. Hành động tư động hoá là một hành động có ý thức, có ý chí nhưng do được lặp đi lặp lại hay do luyện tập mà về sau trở thành những hành động tư động nghĩa là không cần có sự kiểm soát trực tiếp của ý thức mà vẫn được thực hiện có kết quả. Ví dụ: Ban đầu mới học đan len, thì hành động đan len là hành động có ý thức, nhưng khi thành thạo thì nó trở thành hành động tự động hoá. Lúc bấy giờ có thể vừa nói chuyện vừa đan len. Có hai loại hành động tự động hoá: kĩ xảo và thói quen. Sự giống nhau và khác nhau giữa kĩ xảo và thói quen: Kĩ xảo Thói quen -Mang tính chất kĩ thuật - Mang tính chất nhu cầu, nếp sống - Được đánh giá về mặt thao tác - Được đánh giá về mặt đạo đức. - ít gắn với tình huống - Luôn gắn với tình huống cụ thể. - Có thể ít bền vững nếu không thường - Bền vững, ăn sâu vào nếp sống. xuyên luyện tập củng cố - Hình thành bằng nhiều con đường - Con đường hình thành chủ yếu của kĩ như rèn luyện, bắt chước xảo là luyện tập có mục đích và có hệ thống 3.2. Quy luật hình thành kĩ xảo a. Quy luật về tiên bộ không đồng đều - Quy luật tiến bộ không đồng đều: Trong quá trình luyện tập kĩ xảo có sự tiến bộ không đồng đều:
- + Có loại kĩ xảo khi mới luyện tập thì tiến bộ nhanh, sau đó chậm dần. + Có những kĩ xảo khi mới bắt đầu luyện tập thì sự tiến bộ chậm, nhưng đến một giai đoạn nhất định nó lại tăng nhanh. + Có những trường hợp khi bắt đầu luyện tập thì sự tiến bộ tạm thời lùi lại, sau đó tăng dần. Nắm được quy luật trên, khi hình thành kĩ xảo cần bình tĩnh, kiên trì, không nóng vội, không chủ quan để luyện tập có kết quả. b. Quy luật "đỉnh" của phương pháp luyện tập Mỗi phương pháp luyện tập kĩ xảo chỉ đem lại một kết quả cao nhất có thể có đối với nó, gọi là "đỉnh" (trần) của phương Pháp đó. Muốn đạt được kết quả cao hơn phải thay đổi phương pháp luyện tập để có "đỉnh" cao hơn. c. Quy luật về sự tác động qua lại giữa kĩ xảo cũ và kĩ xảo mới Trong quá trình luyện tập kĩ xảo mới, những kĩ xảo cũ đã có ở người học ảnh hưởng đến sự hình thành kĩ xảo mới, sự ảnh hưởng này có thể tốt hoặc xấu. Nếu ảnh hưởng tốt thì làm cho quá trình thành kĩ xảo mới nhanh hơn, dễ dàng hơn, bền vững hơn, người ta gọi đó là sự di chuyển kĩ xảo. Ví dụ: Biết tiếng Pháp, hay tiếng Nga thì học tiếng Anh sẽ nhanh hơn. Còn khi kĩ xảo cũ ảnh hưởng xấu đến sự hình thành kĩ xảo mới, gây cản trở, khó khăn cho sự hình thành kĩ xảo đó sẽ là sự giao thoa kĩ xảo, d. Quy luật dập tắt kĩ xảo Khi kĩ xảo đã được hình thành, nếu không được sử dụng, luyện tập, củng cố thường xuyên thì sẽ bị suy yếu và cuối cùng sẽ bị dập tắt. Chẳng hạn một ngoại ngữ nào đó nếu không được sử dụng thường xuyên thì kĩ năng sử dụng ngoại ngữ đó sẽ bị mai một đi. Quy luật này cho chúng ta thấy vai trò quan trọng của việc "văn ôn, võ luyện". Việc hình thành thói quen được thực hiện bằng con đường khác nhau. Một trong những con đường đó là sự lặp đi lặp lại một cách đơn giản các cử động và hành động không chủ định được nảy sinh trong các trạng thái tâm lí nhất định của con người. Chẳng hạn có những học sinh hay "nói leo" trong lớp, hay có em hay ngậm bút trong mồm khi suy ngẫm điều gì đó - hoặc có người hay dùng những ngón tay "gõ trống" trên mặt bàn - có người hay vo tròn giấy
- hoặc di chuyển đồ vật từ chỗ nọ sang chỗ kia khi đang sốt ruột; hoặc có người có thói quen khi nói chuyện hay vung tay v.v Những thói quen này do lặp đi lặp lại nhiều lần những cử chỉ, hành động không chủ định. Có những thói quen do bắt chước trong quá trình sống. Ví dụ: Trẻ em bắt chước người lớn uống cà phê, hút thuốc dần dần trở thành thói quen có hại ở các em. Nhưng có con đường thứ ba là thói quen được hình thành - do sự giáo dục và tự giáo dục. Những thói quen này tốt - có lợi cho hoạt động học tập, rèn luyện của học sinh. Muốn giáo dục - hình thành thói quen tốt bản thân mỗi học sinh phải đạt mục đích khi hình thành thói quen. Đó là hình thành thói quen có những hành vi văn minh, giao tiếp có văn hoá với mọi người, với thầy cô Muốn làm được điều đó cần chú ý đến các điều kiện cơ bản sau: + Phải làm cho học sinh tin tưởng vào sự cần thiết phải có những thói quen ấy. + Tổ chức những điều kiện khách quan thúc đẩy sự hình thành thói quen. + Phải có sự kiểm soát của học sinh đối với việc thực hiện nghiêm chỉnh các hành động cần phải chuyển thành thói quen. + Đấu tranh tích cực, kiên quyết gạt bỏ những thói quen xấu. + Củng cố những thói quen tốt đang được hình thành bằng những cảm xúc dương tính ở học sinh qua sự khích lệ, khuyến khích v.v của nhà giáo. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Ý chí là gì? Y chí có quan hệ với các chức năng tâm lí khác như thế nào? 2. Hành động ý chí là gì? Đặc điểm của hành động ý chí. Thử phân tích một hành động ý chí của một nhân vật nào đó trong một tác phẩm văn học để nêu rõ được cấu trúc của một hành động ý chí điển hình. 3. Phân tích sự khác biệt giữa kĩ xảo và thói quen. Nêu các quy luật hình thành kĩ xảo và ý nghĩa của việc hiểu biết quy luật đó trong dạy học. Bài tập 1. Hãy đánh dấu "x" vào bên cạnh những đặc điểm của hành động ý chí mà bạn cho là đúng.
- Một hành động ý chí là một hành động có mục đích a) có mục đích; b) mới mẻ, khác thường; c) chính xác, hợp lí; d) có sự khắc phục khó khăn; e) có sự lựa chọn phương tiện, biện pháp; g) tự động hoá; h) cả a, d và e. 2. Đoạn trích dưới đây nói lên Phùng Văn Bằng đang ở giai đoạn nào trong hành động ý chí. a) hình thành mục đích; b) đấu tranh động cơ, c) quyết định; d) thực hiện. Đừng, Anh đừng nhận anh ạ. Anh vừa bảo anh không nhận công được cơ mà. Bằng lấy bàn tay to và thô của mình chải chải mớ tóc rối bời của vợ - Thôi đừng khóc nữa. Đi gác đèn có làm sao đâu mà em khóc gớm thế này. Miệng nói vậy, nhưng thực ra chính Bằng cũng thấy buồn không kém gì vợ. Đúng như lời nói: Bằng có thể từ chối, vì nếu vậy thì đây cũng chỉ mới là lần đầu tiên Bằng từ chối công tác của Đảng giao cho. Bằng mới cưới vợ được hai tháng. Hai tháng trời quan hệ vợ chồng với bao nhiêu ràng buộc và hạnh phúc. Bằng an ủi, động viên vợ và cũng là tự động viên mình. Anh không ngờ mình lại phải chuyển công tác một cách đột ngột như vậy. Khi đồng chí Bí thư Đoàn và đồng chí cán bộ tổ chức báo cho anh tin ấy, anh lặng người: - Các đồng chí quyết định rồi à? - Đồng chí Bí thư Đoàn lắc đầu: - Chưa quyết định hẳn đâu. Còn tuỳ ở cậu. Bằng im lặng một lúc:
- - Các đồng chí cho tôi hai ngày suy nghĩ. Bây giờ tôi chưa trả lời ngay được đâu. (sống giữa những người anh hùng) 3. Sai lầm trong quan điểm được nêu dưới đây là ở chỗ nào? Trong thực tế hành động ý chí của con người do cái gì quy định? Học thuyết Mác - Lênin giải quyết vấn đề tự do ý chí như thế nào? Cũng như hiện tượng tâm lí khác, ý chí được quy định một cách chặt chẽ, có nguyên nhân xác định. Nhưng đối với con người thì dường như việc lựa chọn mục đích, và sau đó là hành động nhằm đạt mục đích đó chỉ phụ thuộc vào họ, chứ không phụ thuộc vào cái gì khác ngoài ý muốn của bản thân họ (Tôi làm như vậy là vì tôi muốn như thế!). Quan niệm như thế về bản chất của ý chí đã là cơ sở của những lí thuyết duy tâm (như ý chí luận v.v ) về ý chí. Những người theo các thuyết này cho rằng: nguồn gốc tính tích cực của Con người, nguồn gốc của các quyết định của họ, của sự tự do lựa chọn các khả năng, các con đường, các mục đích và phương tiện là bản thân ý chí. 4. Dưới đây là những ví dụ về hành động ý chí. Hãy phân tích các hành động đó, chỉ ra những động cơ đã dẫn trẻ đến các hành động đó, và hãy vạch ra những giai đoạn nào của hành động ý chí được thể hiện trong các trường hợp đó. a) Học sinh B là thành viên của Ban Biên tập báo tường. Các bạn đã báo cho em biết là 5h chiều nay em phải đến lớp để cùng các bạn chuẩn bị cho số báo tới. Một bạn khác của B là L đã rủ B tham gia đội bóng của phường để thi đấu với phường bạn cũng vào 5h chiều nay. B đã suy tính hồi lâu: đến lớp làm báo hay đi đá bóng? Cuối cùng em đã quyết định đến lớp. b) Trong một đám thiếu niên đang tụ tập ở sân khu tập thể G, một thiếu niên lớn đang hút thuốc lá, và em bắt đầu chìa thuốc ra mời các em khác. Một vài em, mặc dù có đắn đo nhưng đã cầm thuốc hút. Em thiếu niên lớn đó đã nói với các em từ chối không hút thuốc như sau: "Sợ à! Thế mà cũng đòi là đàn ông!". Chịu ảnh hưởng của những lời chế giễu đó và của áp lực xung quanh, các thiếu niên này cũng phân vân. Nhưng rồi một em trong số này đã chống lại: "Sợ cái gì cơ chứ?". Cuộc tấn công bị ngừng lại, và nỗi băn khoăn: cầm hay không cầm thuốc, cũng biến mất.
- 5. Trong một công trình nghiên cứu ở các học sinh lớp 7 - 8, người ta đã hỏi học sinh: người như thế nào thì được gọi là người vững vàng (kiên định), người như thế nào thì được gọi là người độc lập, v.v Một số học sinh đã gọi người vững vàng là người "trong khi tranh cãi không bao giờ chịu nhượng bộ ai cả". "không bao giờ nghe người khác cả, luôn luôn làm theo ý mình", "không quan tâm đến lời khuyên của bạn bè"; còn người độc lập là người "sống theo ý mình, không phải nghe theo ai cả". Sai lầm của các câu trả lời trên là ở chỗ nào? Những học sinh đó đã không thấy được mặt quan trọng nào của một hành động ý chí chân chính? 6. Hãy cho biết những phẩm chất ý chí nào được mô tả trong các ví dụ dưới đây? a. Bất cứ công việc gì Hương cũng làm đến cùng. Chưa bao giờ em không làm bài tập mà cô giáo cho về nhà. Sức học của em ở mức trung bình, nhưng em ngồi học và làm việc căng thẳng cho đến khi nào làm xong bài mới thôi. Đối với các công việc khác, Hương cũng như vậy. Có một lần các bạn trong lớp quyết định ghi chép kết quả theo dõi thời tiết hàng ngày. Sau một tháng, nhiều em đã bỏ dở công việc này, nhưng Hương ghi thời tiết suốt cả năm học, mặc dù không phải lúc nào em cũng thích việc đó. b. Một học sinh thực hiện một công việc vừa sức, không có sự giúp đỡ và kiểm tra thường xuyên của người khác, em biết tìm việc cho mình và tổ chức hoạt động của mình; biết rút lui ý kiến của mình, chứ không tỏ ra bướng bỉnh trong trường hợp mình không đúng; biết sử dụng thói quen hành động độc lập đã được hình thành vào những điều kiện mới, nhưng cùng một loại của hoạt động. 7. ở tất cả mọi lớp, đặc biệt ở các lớp lớn, đều có những học sinh muốn tự giáo dục ý chí của mình và các phẩm chất ý chí của tính cách. Nhưng không phải tất cả những em này đều biết rằng, muốn như vậy thì cần phải làm gì, và các em đã sử dụng các thủ thuật không đúng hay những bài tập giả tạo, tách rời khỏi đời sống (nhảy từ gác hai xuống, cho dòng điện chạy qua thân thể, v.v ). Với tư cách là giáo viên, bạn sẽ bắt đầu công tác với các em này từ cái gì? Bạn sẽ hướng dẫn các em các phương pháp và thủ thuật tự giáo dục ý chí nào? 8. Để nghiên cứu đặc điểm của ý chí ở học sinh, người ta đã đề nghị các em dùng hết sức bóp chiếc lò xo của cái lực kế và giữ nguyên ở tình trạng bóp chặt tối đa càng lâu càng tốt, cho đến khi nào mỏi mệt mới thôi. Kết quả thực nghiệm như sau:
- Lứ tuổi Thời gian bóp (giây) Em trai Em gái 8 – 9 tuổi 18,8 28,4 10 – 11 tuổi 20,3 35,6 Hãy cho biết phẩm chất nào của ý chí được thí nghiệm trong thực nghiệm trên?
- Chương 6: NHÂN CÁCH VÀ SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ NHÂN CÁCH 1. Khái niệm Nhân cách là một trong những từ chỉ con người và cũng chỉ nói về con người đã được phát triển tới một trình độ nhất định. Do yêu cầu, mục đích và nội dung nghiên cứu của mình, các nhà tâm lí học sử dụng các thuật ngữ khác như cá nhân, cá tính hay chủ thể để chỉ con người. Nhưng mỗi khái niệm có nội hàm riêng. Để hiểu định nghĩa nhân cách, trước hết cần phân biệt các khái niệm nêu trên. 1.1. Khái niệm con người Con người vừa là một thực thể tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội. Về mặt sinh học, con người thuộc lớp động vật có vú, có dáng đứng thẳng, có đôi bàn tay là công cụ nhận thức và lao động, có bộ óc người phát triển cực kì cao và tinh vi. Là thực thể sinh vật, con người chịu sự chi phối của quy luật tự nhiên. Nhưng cái sinh vật trong con người không thuần tuý là cái sinh vật cái tự nhiên mà nó bị cái xã hội quy định một cách trực tiếp. C. Mác viết: "Con người không phải chỉ là thực thể tự nhiên. Nó là thực thể tự nhiên có tính người". Về mặt xã hội, con người vừa là chủ thể vừa là khách thể của các quan hệ xã hội, có khả năng kế thừa nền văn minh nhân loại. Do đó, sự phát triển của con người chủ yếu bị chi phối bởi quy luật xã hội. Con người là một chủ thể có ý thức và đây chính là điểm khác nhau cơ bản nhất giữa con người với con vật. Về vấn đề này C. Mác đã viết: "con người chỉ khác con vật ở hiện tượng duy nhất là trong con người có ý thức thay thế bản năng". Cũng có thể định nghĩa con người là một thực thể sinh vật - xã hội và văn hoá. - Khái niệm cá nhân: Cá thể là từ chỉ đại diện của một loài. Có thể nói cá thể động vật, một cá thể người, nhưng cá thể người được gọi là cá nhân. Như vậy, cá nhân là thuật ngữ chỉ một con người với tư cách đại diện loài người. Nói đến cá nhân là nói đến một con người cụ thể của một cộng đồng, là thành viên của xã hội và để phân biệt nó với cá nhân khác, với cộng đồng.
- - Khái niệm cá tính dùng để chỉ cái độc đáo không lặp lại về những đặc điểm tâm lí và sinh lí của mỗi cá nhân, nhân cách. Nhà tâm lí học Nga X.L. Rubinstêin viết: "Con người là cá tính do nó có những thuộc tính đặc biệt, không lặp lại". Khái niệm chủ thể: Khi cá nhân thực hiện một hoạt động nhất định một cách có ý thức và có mục đích, nhận thức và cải tạo thế giới xung quanh trong quá trình hoạt động đó, thì được gọi là chủ thể. 1.2. Khái niệm nhân cách Nhân cách được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau thuộc nhiều ngành khoa học xã hội khác nhau, trong đó có khoa học tâm lí. Đây là vấn đề rất phức tạp nên ngay trong tâm lí học cũng có nhiều định nghĩa và quan niệm khác nhau về nhân cách. Nhân cách là một trong những từ cổ nhất của khoa học tâm lí. Ngay từ năm 1927, G.W. Allport đã dẫn ra gần 50 định nghĩa khác nhau của các nhà tâm lí học về nhân cách và hiện nay có rất nhiều lí thuyết khác nhau về nhân cách trong khoa học tâm lí. Có thể nêu một số nhóm quan điểm lí thuyết như sau: - Quan điểm sinh vật hoá nhân cách: coi bản chất nhân cách nằm trong các đặc điểm hình thể (Kretchmev), ở góc mặt (C. Lombrozo), ở thể tạng (Sheldon), ở bản năng vô thức (S. Freud) - Quan điểm xã hội học hoá nhân cách: lấy các quan điểm xã hội (gia đình, họ hàng, làng xóm ) để thay thế một cách đơn giản, máy móc các thuộc tính tâm lí của cá nhân đó. - Có những quan niệm chỉ chú ý đến cái chung, bỏ qua cái riêng, cái đơn nhất của con người, đồng nhất nhân cách với con người. Ngược lại, một số quan điểm khác lại chỉ chú ý tính đơn nhất có một không hai của nhân cách. - Các nhà tâm lí học khoa học cho rằng, khái niệm nhân cách là một phạm trù xã hội, có bản chất xã hội - lịch sử, nghĩa là nội dung của nhân cách là nội dung của những điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội cụ thể chuyển vào thành đặc điểm nhân cách của từng người. Có thể nêu lên một số định nghĩa nhân cách như sau: + "Nhân cách là một cá nhân có ý thức, chiếm một vị trí nhất định trong xã hội và đang thực hiện một vai trò xã hội nhất định" (A.G. Covaliôv). + "Nhân cách là con người với tư cách là kẻ mang toàn bộ thuộc tính và phẩm chất tâm lí, quy định hình thức của hoạt động và hành vi có ý nghĩa xã hội" (E.V. Sôrôkhôva).
- + "Nhân cách là hệ thống những phẩm giá xã hội của cá nhân thể hiện những phẩm chất bên trong của cá nhân, mối quan hệ qua lại của cá nhân với các cá nhân khác, với tập thể, xã hội, với thế giới xung quanh và mối quan hệ của cá nhân với công việc trong quá khứ, hiện tại và tương lai". + "Nhân cách của con người là mức độ phù hợp giữa thang giá trị và thước đo giá trị của người ấy với thang giá trị và thước đo giá trị của cộng đồng và xã hội; độ phù hợp càng cao, nhân cách càng lớn". Từ những điều trình bày ở trên, có thể nêu lên một định nghĩa về nhân cách như sau: Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lí của cá nhân, quy định hành vi xã hội và giá trị xã hội của cá nhân đó. Như vậy, nhân cách là sự tổng hoà không phải các đặc điểm cá thể của con người mà chỉ là những đặc điểm quy định con người như là một thành viên của xã hội, nói lên bộ mặt tâm lí - xã hội, giá trị và cốt cách làm người của mỗi cá nhân. Những thuộc tính tâm lí tạo thành nhân cách thường biểu hiện trên ba cấp độ: cấp độ bên trong cá nhân, cấp độ liên cá nhân và cấp độ biểu hiện ra hoạt động và các sản phẩm của nó. Từ định nghĩa trên cho ta thấy chỉ có thể dùng từ nhân cách cho con người và chỉ từ một giai đoạn phát triển nhất định nào đó. Vì thế người ta không nói "nhân cách của con vật" hay "nhân cách của một trẻ sơ sinh, một trẻ hai tuổi". Nhưng lại có thể nói đến nhân cách của một học sinh tiểu học, nhân cách của một sinh viên. Con người được sinh ra chưa phải đã là một nhân cách, mà trong quá trình sinh sống và hoạt động, giao lưu của mình trong xã hội, con người trở thành một nhân cách. Nhân cách được hình thành không dừng lại, không cố định, nó có thể được phát triển đi đến hoàn thiện, có thể bị suy thoái. X.L. Rubinstêin đã viết: "Con người là nhân cách do nó xác định quan hệ của mình với những người xung quanh một cách có ý thức" và ông cũng nêu ý tưởng rằng, nhân cách là sản phẩm tương đối của sự phát triển xã hội - lịch sử và của sự tiến hoá cá thể của con người. 2. Các đặc điểm cơ bản của nhân cách Hiện nay, trong các tài liệu, giáo trình tâm lí học thường nêu lên bốn đặc điểm cơ bản của nhân cách: tính ổn định, tính thống nhất, tính tích cực và tính giao lưu của nhân cách. a. Tính ổn định của nhân cách
- Dưới ảnh hưởng của cuộc sống và giáo dục, từng thuộc tính tạo nên nhân cách có thể được biến đổi, được chuyển hoá, nhưng trong tổng thể thì chúng tạo thành một cấu trúc trọn vẹn của nhân cách. Cấu trúc này tương đối ổn định nói lên bộ mặt tâm lí - xã hội của cá nhân ấy trong một khoảng thời gian nào đó của cuộc đời con người. Nhờ có tính ổn định tương đối này của nhân cách, người ta có thể đánh giá được giá trị xã hội của một nhân cách nào đó ở thời điểm hiện tại và có thể dự đoán trước được hành vi của nó trong những tình huống nhất định. b. Tính thống nhất của nhân cách Nhân cách là một chỉnh thể thống nhất của các thuộc tính hay các phẩm chất và năng lực của con người. Các thuộc tính đó có liên quan, kết hợp chặt chẽ với nhau tạo thành một hệ thống nhất chứ không phải là một phép cộng đơn giản các thuộc tính riêng lẻ. Vì vậy khi xem xét, đánh giá một nét nào đó của nhân cách phải xét nó trong mối liên hệ với các thuộc tính khác của nhân cách và toàn bộ nhân cách. Chẳng hạn, tinh thần dũng cảm của một chiến sĩ cảnh sát làm nhiệm vụ bảo vệ dân khác xa với sự dũng cảm của một kẻ trong một băng cướp, khi đánh giá về mặt đạo đức của nhân cách. Vì vậy, không được giáo dục nhân cách theo "từng phần", từng thuộc tính riêng lẻ tách bạch mà phải giáo dục con người như một nhân cách hoàn chỉnh. c. Tính tích cực của nhân cách Nhân cách là một sản phẩm của xã hội. Nhân cách không chỉ là khách thể chịu sự tác động của các mối quan hệ xã hội, mà điều quan trọng hơn là nó chủ động tham gia vào các mối quan hệ đó, là chủ thể của các mối quan hệ xã hội ấy, nghĩa là nó có tính tích cực của mình. Tính tích cực của nhân cách biểu hiện ở những hoạt động muôn hình muôn vẻ với mục đích cải tạo thế giới xung quanh và cải tạo chính bản thân mình. Nếu không hoạt động, con người không thể tồn tại, nhân cách của họ không thể được hình thành và phát triển. Giá trị đích thực của nhân cách, chức năng xã hội và cốt cách làm người của cá nhân thể hiện rõ nét ở tính tích cực của nhân cách. Như vậy, cá nhân được coi là nhân cách khi nó tích cực hoạt động và giao lưu trong xã hội một cách có ý thức. Do đâu có được tính tích cực của nhân cách. Theo quan niệm của tâm lí học thì nguồn gốc tính tích cực của nhân cách chính là nhu cầu. Tính tích cực của nhân cách thể hiện trong quá trình thoả mãn nhu cầu của nó. Khác với động vật và bằng hoạt động lao động của mình, con người không thoả mãn nhu cầu bằng các đối tượng có
- sẵn mà luôn luôn sáng tạo ra những đối tượng mới, các phương thức mới để thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng phong phú, đa dạng và ngày càng cao của mình. d. Tính giao lưu của nhân cách Nhân cách chỉ có thể tồn tại trong sự giao lưu với những nhân cách khác. Vì lí do nào đó mà ngay từ lúc mới sinh con người bị tách khỏi xã hội loài người thì không thể tồn tại và phát triển như một nhân cách. Chẳng hạn, một đứa trẻ mới sinh bị bỏ rơi ở ngoài rừng được các con vật nuôi hay một đứa trẻ bị nuôi ở dưới hầm từ lúc còn rất bé không được tiếp xúc, giao lưu với những nhân cách khác thì không thể trở thành một nhân cách. Như vậy, nhân cách không thể tồn tại, không thể hình thành và phát triển bên ngoài sự giao tiếp, bên ngoài xã hội loài người. Nhu cầu giao lưu hay giao tiếp được xuất hiện rất sớm và có thể coi như một nhu cầu bẩm sinh của con người. Nhu cầu của con người trước hết là nhu cầu về người khác. Vì sao vậy? Bởi vì chỉ có thông qua giao tiếp cá nhân mới có thể gia nhập các mối quan hệ với các cá nhân khác trong các nhóm xã hội và quan hệ với toàn xã hội. Qua giao tiếp, cá nhân lĩnh hội được các chuẩn mực đạo đức và hệ thống giá trị xã hội và cũng nhờ có giao tiếp, mỗi cá nhân được nhìn nhận, được đánh giá theo quan niệm về giá trị, đạo đức của thời đại cá nhân đó đang sống. Trên cơ sở đó, cá nhân tự điều chỉnh, điều khiển bản thân theo các chuẩn mực xã hội và cũng qua giao tiếp mỗi cá nhân có thể tham gia đóng góp những giá trị phẩm chất nhân cách của mình cho sự phát triển xã hội. Đặc điểm này của nhân cách là cơ sở tâm lí học cho nhiều phương pháp biện pháp giáo dục trẻ, đặc biệt là nguyên tắc giáo dục trong tập thể và bằng tập thể do nhà giáo dục Nga A.X.Macarencô đề xướng. 3. Cấu trúc tâm lí của nhân cách Cấu trúc là sự thống nhất toàn vẹn các phần tử và sự liên hệ về mọi mặt giữa chúng. Cấu trúc tâm lí của nhân cách cũng vậy. Theo nhà tâm lí học Nga K.K. Platônốp thì nhân cách không phải là vô định, không phải là cái túi với những đặc điểm của nhân cách vô tình bị bỏ vào trong đó. Nhân cách có một cấu trúc nhất định. Nhân cách bao gồm các phần tử và các phần tử liên hệ với nhau theo cách thức khác nhau. Chính các phần tử kết hợp lại bằng sự liên hệ theo một cách thức tạo nên nhân cách toàn vẹn. Nhân cách cũng có ảnh hưởng ngược trở lại các phần tử và các mối liên hệ giữa các phần tử. Từ đó có thể nói, câu trúc nhân cách là sự sắp xếp các thuộc tính hay các thành phần của nhân cách thành một chỉnh thể trọn vẹn tương đối
- ổn định trong một liên hệ và quan hệ nhất định. Có nhiều quan điểm khác nhau về cấu trúc nhân cách tuỳ thuộc vào quan niệm của mỗi tác giả về bản chất của nhân cách. Có tác giả xem xét cấu trúc nhân cách gồm ba, bốn hay năm thành phần. Có thể nêu ra một số loại cấu trúc nhân cách sau: Loại cấu trúc hai phần: + Trong tài liệu tâm lí học Việt Nam đưa ra quan niệm cho rằng cấu trúc nhân cách gồm hai thành phần cơ bản là đức và tài hay còn gọi là phẩm chất và năng lực. + Quan niệm cấu trúc nhân cách có hai tầng: Tầng "nổi" sáng tỏ gồm ý thức, tự ý thức, ý thức nhóm và tầng "sâu" tối tăm bao gồm tiềm thức, vô thức. Loại cấu trúc ba thành phần: + S. Phrớt quan niệm cấu trúc nhân cách gồm ba phần: cái nó, cái tôi và cái siêu tôi. Mỗi bộ phận hoạt động theo nguyên tắc nhất định và có liên hệ chặt chẽ với nhau. + A.G. Covaliốp cho rằng trong cấu trúc của nhân cách bao gồm ba thành phần là các quá trình tâm lí, các trạng thái tâm lí và các thuộc tính tâm lí cá nhân. + Quan điểm coi nhân cách bao gồm ba lĩnh vực cơ bản; nhận thức (bao gồm cả tri thức và năng lực trí tuệ), tình cảm (rung cảm, thái độ) và lí trí (phẩm chất ý chí, kĩ năng, kĩ xảo, thói quen). Loại cấu trúc bốn thành phần: + K.K. Platônốp nêu lên bốn tiểu cấu trúc của nhân cách như sau: * Tiểu cấu trúc có nguồn gốc sinh học (bao gồm khí chất, giới tính, lứa tuổi và có cả những đặc điểm bệnh lí). * Tiểu cấu trúc về đặc điểm của các quá trình tâm lí như các phẩm chất của cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy; những phẩm chất của ý chí; những đặc điểm của xúc cảm, tình cảm. * Tiểu cấu trúc về vốn kinh nghiệm gồm các tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, năng lực, * Tiểu cấu trúc xu hướng nhân cách: nhu cầu, hứng thú, lí tưởng, thế giới quan, niềm tin
- + Quan điểm coi nhân cách gồm bốn nhóm thuộc tính tâm lí điển hình của cá nhân: xu hướng, tính cách, khí chất và năng lực (những thuộc tính này đang được thừa nhận tương đối rộng rãi nên sẽ được phân tích chi tiết ở mục 2). + Theo nhà tâm lí học Việt Nam, Phạm Minh Hạc thì nhân cách con người bao gồm bốn bộ phận sau: * Xu hướng của nhân cách: Đó là hệ thống những thúc đẩy quy định tính lựa chọn của các thái độ và tính tích cực của con người. Xu hướng của nhân cách bao gồm nhiều thuộc tính khác nhau, bao gồm một hệ thống các nhu cầu, hứng thú, niềm tin, lí tưởng tác động qua lại với nhau. Trong đó có một thành phần nào đó chiếm ưu thế và có ý nghĩa chủ đạo, đồng thời các thành phần khác giữ vai trò làm chỗ dựa, làm nền. * Những khả năng của nhân cách: bao gồm một hệ thống các năng lực, đảm bảo cho sự thành công của hoạt động. Các năng lực cá nhân là tiền đề tâm lí đảm bảo cho những xu hướng của nhân cách trở thành hiện thực, chúng có liên quan và tác động qua lại với nhau. Thông thường, có một năng lực nào đó chiếm ưu thế còn những năng lực khác thì phụ thuộc vào nó và tăng cường cho nó (tức năng lực chủ đạo). Rõ ràng là, cấu trúc của xu hướng nhân cách sẽ ảnh hưởng đến tính chất của mối tương quan giữa các năng lực của nó. Về phần mình, sự phân hoá của các năng lực sẽ lại ảnh hưởng đến thái độ lựa chọn của nhân cách đối với hiện thực. * Phong cách, hành vi của nhân cách: Phong cách, cũng như các đặc điểm tâm lí trong hành vi của nhân cách là do tính cách và khí chất của nhân cách đó quy định. Tính cách là hệ thống thái độ của con người đối với thế giới xung quanh và bản thân. được thể hiện trong hành vi của họ. Tính cách tạo nên phong cách hành vi của con người trong môi trường xã hội và phương thức giải quyết những nhiệm vụ thực tế của họ. Khí chất là những thuộc tính cá thể quy định động thái của hoạt động tâm lí con người, quy định sắc thái thể hiện bên ngoài của đời sống tinh thần của họ. * Hệ thống điều khiển của nhân cách: Hệ thống này thường được gọi là cái "tôi" của nhân cách. "Cái tôi" là một cấu tạo tự ý thức của nhân cách, nó thực hiện sự điều chỉnh: tăng cường hay làm giảm bớt hoạt động, tự kiểm tra và sửa chữa các hành vi và hoạt động, dự kiến và hoạch định cuộc sống và hoạt động của cá nhân. Tuỳ theo mức độ phát triển mà hệ thống tự điều chỉnh này được củng cố và con người trở thành chủ nhân của các sức mạnh của mình. Tuỳ thuộc vào sự giáo dục và lối sống của đứa trẻ và người lớn mà phẩm chất của "cái tôi"
- được xác định, khả năng tự điều chỉnh các sức mạnh và phương tiện của bản thân được xác định Biểu tượng về "cái tôi" của bản thân sẽ quy định mức độ kì vọng, mức độ tính tích cực tương ứng của nhân cách cũng như mức độ phát triển của các năng lực. - Loại cấu trúc năm thành phần: Nhà tâm lí học Cộng hoà Séc J. Stêfanôvic đưa ra cấu trúc nhân cách gồm năm đặc điểm: + Đặc điểm tính tích cực - động cơ của nhân cách như xu hướng, nguyện vọng, hứng thú, kế hoạch sống. + Đặc điểm lập trường - quan hệ của nhân cách thể hiện mặt giá trị của nhân cách bao gồm lập trường, lí tưởng và quan điểm sống. + Đặc điểm về mặt hành động của nhân cách bao gồm tri thức kĩ xảo thói quen. + Đặc điểm tự điều chỉnh của nhân cách gồm tự ý thức, tự đánh giá, tự phê bình của nhân cách. + Đặc điểm về động thái của nhân cách thể hiện ở khí chất Sau đây chúng ta phân tích chi tiết hơn về quan điểm cấu trúc nhân cách của các nhà tâm lí học Việt Nam để có thể dễ dàng vận dụng trong công tác giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta. Đó là quan điểm coi cấu trúc nhân cách gồm hai mặt thống nhất với nhau là đức và tài (phẩm chất và năng lực). Có thể biểu diễn cấu trúc theo bảng sau: Phẩm chất (Đức) Năng lực (Tài) - Phẩm chất xã hội (đạo đức, chính trị) - Năng lực xã hội hoá: khả năng thích như: thế giới quan. lí tưởng. niềm tin, lập ứng. hoà nhập, tính mềm dẻo cơ động, trường, thái độ linh hoạt trong cuộc sống - Phẩm chất cá nhân (đạo đức tư cách: cái - Năng lực chủ thể hoá: khả năng thể hiện nết. thói quen. các ham muốn) tính độc đáo, đặc sắc, khả năng thể hiện cái riêng, cái “bản lĩnh” của cá nhân - Phẩm chất ý chí: tính mục đích, tính tự - Năng lực hành động: khả năng hành
- chủ, tính kỉ luật, tính quả quyết, tính phê động có mục đích, chủ động tích cực có phán hiệu quả - Cung cách ứng xử: tác phong, lễ tiết, - Năng lực giao tiếp: khả năng thiết lập và tính khí duy trì mối quan hệ với người khác 4. Các kiểu nhân cách Kiểu nhân cách được hiểu là loại nhân cách có những đặc trưng riêng biệt để phân biệt nhân cách này với nhân cách khác. Có nhiều cách phân loại khác nhau tuỳ thuộc vào quan điểm lí thuyết và vào tiêu chí phân loại. Có thể nêu ra một số loại kiểu nhân cách sau: 4. 1. Phân loại nhân cách theo định hướng giá trị - Căn cứ vào các định hướng giá trị trong hệ thống sống của cá nhân có thể phân ra năm kiểu nhân cách cơ bản cua con người: + Người lí thuyết + Người chính trị + Người kinh tế + Người thẩm mĩ + Người vị tha. Trong cách phân loại này, tác giả mới chỉ mô tả các biểu hiện đặc trưng của các loại nhân cách, nhưng chưa lí giải được sự hoà nhập của các loại nhân cách vào xã hội cũng như vị trí, vai trò của từng loại nhân cách. Dựa vào định hướng giá trị trong quan hệ giữa con người với con người, các nhà tâm lí học Mĩ đã phân ra ba kiểu nhân cách: + Kiểu người nhường nhịn (bị áp đảo), + Kiểu người công kích (mạnh mẽ), + Kiểu người hờ hững (lạnh lùng). 4.2. Phân loại nhân cách qua giao tiếp + Người thích sống bằng nội tâm, + Người thích giao tiếp hình thức, + Người nhạy cảm,
- + Người ba hoa. 4.3. Phân loại nhân cách qua sự bộc lộ của bản thân trong các mối quan hệ (H.J. Eysenck) + Kiểu nhân cách hướng nội, + Kiểu nhân cách hướng ngoại. II. CÁC THUỘC TÍNH CƠ BẢN CỦA NHÂN CÁCH 1. Xu hướng 1.1. Khái niệm về xu hướng Con người vừa là một thực thể tự nhiên vừa là một thực thể xã hội. Với tư cách là một thực thể xã hội, con người luôn có mối quan hệ tích cực, qua lại với môi trường xung quanh - nơi con người sống và hoạt động. Trong môi trường xã hội phong phú và đa dạng đó con người bao giờ cũng hướng tới một mục tiêu nào đó có ý nghĩa đối với bản thân mình. Sự hướng tới mục tiêu đó diễn ra trong một thời gian tương đối lâu dài và khá ổn định do đó có thể trở thành động lực thúc đẩy con người hành động nhằm chiếm lĩnh mục tiêu đó, quy định phương hướng cơ bản trong hành vi, quy định bộ mặt đạo đức của cá nhân, quy định mục đích của cả cuộc đời. Đó là xu hướng của cá nhân Trong cuộc sống và hoạt động, mỗi cá nhân đặt ra cho mình những mục tiêu và viễn cảnh khác nhau, có thái độ lựa chọn khác nhau với những giá trị xã hội xung quanh. Xu hướng của mỗi người khác nhau là khác nhau. Xu hướng là thuộc tính của nhân cách. Xu hướng của cá nhân là ý định hướng tới đối tượng trong một thời gian lâ u dài nhằm thoả mãn những nhu cầu hay hứng thú hoặc vươn tới mục tiêu cao đẹp mà cá nhân lấy làm lẽ sống của mình. (A.G. Côvaliốp) 1.2. Vai trò của xu hướng Xu hướng quy định phương hướng cơ bản trong hành vi, quy định bộ mặt đạo đức cũng như mục đích cuộc đời của cá nhân do đó chiếm vị trí trung tâm trong cấu trúc nhân cách. Xu hướng tạo động cơ của hoạt động, định hướng, chi phối, điều khiển, điều chỉnh hoạt động.
- Xu hướng và tính cách: Xu hướng quy định tính cách của con người phát triển theo hướng nào. Tính cách của con người được ổn định và vững vàng khi xu hướng được ổn định. Thường thì cuối tuổi thanh niên tính cách tương đối ổn định. Xu hướng và năng lực: Đây là mối quan hệ hai chiều. Xu hướng xác định chiều hướng phát triển của năng lực. Ngược lại, năng lực giúp cho những mục tiêu của xu hướng có khả năng biến thành hiện thực. Sau đó những kết quả đạt được nhờ năng lực sẽ trở lại củng cố, kích thích xu hướng. Xu hướng và khí chất: Xu hướng có thể góp phần phát triển những mặt tốt, hạn chế, khắc phục những thiếu sót của từng kiểu khí chất. 1.3. Những mặt biểu hiện chủ yếu của xu hướng a. Nhu cầu * Khái niệm Để tồn tại và phát triển, mỗi cơ thể sống đều cần có những điều kiện và phương tiện nhất định do môi trường đem lại. Giống như các cơ thể sống khác, để tồn tại và hoạt động, con người cũng cần có những điều kiện và phương tiện nhất định. Tất cả những đòi hỏi ấy gọi là nhu cầu của cá nhân. Nhu cầu biểu thị sự gắn bó của cá nhân với thế giới xung quanh. Ngược lại, tất cả mọi hoạt động của con người đều nhằm thoả mãn hàng loạt nhu cầu ngày càng cao trong cuộc sống của con người. Nhu cầu là sự thể hiện mối quan hệ tích cực của cá nhân đối với hoàn cảnh, là những đòi hỏi mà cá nhân thấy cần được thoả mãn để tồn tại và phát triển. * Đặc điểm + Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng (tính đối tượng của nhu cầu) Nhu cầu bao giờ cũng là nhu cầu về một cái gì đó cụ thể. Cũng là sự đòi hỏi để thoả mãn nhu cầu nhưng ban đầu đối tượng có thể chưa cụ thể, rõ ràng. Tuy nhiên, đối tượng của nhu cầu càng được xác định cụ thể, ý nghĩa của nhu cầu đối với đời sống của cá nhân và xã hội càng được nhận thức sâu sắc thì nhu cầu càng chóng nảy sinh, củng cố và phát triển.
- Đối tượng của nhu cầu ở những người khác nhau là khác nhau. Người có nhu cầu này, người có nhu cầu khác. Ngay trong cùng một loại nhu cầu, đối tượng của nhu cầu ở người này cũng khác đối tượng nhu cầu của người khác. Chính tính đối tượng của nhu cầu đã thúc đẩy con người hoạt động, sáng tạo ra thế giới đối tượng để thoả mãn những nhu cầu ngày càng cao của con người. Cũng nhờ đặc điểm này mà nhu cầu kích thích sản xuất phát triển, tạo nên mối quan hệ giữa "cung và cầu", thể hiện mối quan hệ tích cực của cá nhân với hoàn cảnh. Càng có nhiều nhu cầu và càng có nhiều đối tượng của nhu cầu sẽ càng kích thích sản xuất phát triển. + Nội dung của nhu cầu do những điều kiện và phương thức thoả mãn nó quy định. Chính điều kiện sống quy định nội dung đối tượng của nhu cầu hay nói cách khác nhu cầu là sự phản ánh những điều kiện sống. Xã hội càng phát triển, sản xuất càng phát triển do đó nhu cầu càng phát triển và ngược lại nhu cầu càng phát triển, kích thích sản xuất càng phát triển. Nội dung của nhu cầu do điều kiện thoả mãn nó quy định. Điều kiện thoả mãn nhu cầu của con người nằm trong xã hội, do đó nhu cầu của con người mang tính xã hội. Các nhu cầu lao động, học tập, tiếp thu tri thức, nghiên cứu khoa học, thưởng thức văn học nghệ thuật, nhu cầu giao tiếp mang tính xã hội rõ rệt. Ngay trong những nhu cầu thuần tuý mang tính cá nhân hoặc những nhu cầu dường như chỉ liên quan đến những chức năng sinh vật của cơ thể con người trên thực tế vẫn mang tính xã hội. (Con người không thoả mãn một cách tuỳ tiện, bản năng như con vật mà ít nhiều đều có ý thức). Nội dung cụ thể của nhu cầu còn phụ thuộc vào phương thức thoả mãn nó. C. Mác viết: "Đói là đói, song cái đói được thoả mãn bằng thịt chín với cách dùng dao và dĩa thì khác hẳn cái đói bắt buộc Phải nuốt bằng thịt sống với cách dùng tay, móng và răng". Nhu cầu con người phụ thuộc vào điều kiện và phương thức thoả mãn nhu cầu do đó muốn cải tạo nhu cầu phải căn cứ vào điều kiện cụ thể của xã hội, gia đình, bản thân. Muốn cải tạo những nhu cầu xấu ở con người cần cải tạo cơ sở đã làm nảy sinh ra nó. Muốn nảy sinh những nhu cầu tốt phải tạo ra những điều kiện và phương thức sinh hoạt tương ứng với nó. + Nhu cầu mang tính chu kì
- Khi một nhu cầu nào đó được thoả mãn, không có nghĩa là nhu cầu ấy chấm dứt mà nó vẫn tiếp tục tái diễn, nếu người ta vẫn còn sống vả phát triển trong điều kiện và phương thức sinh hoạt như cũ. Sự tái diễn đó thường mang tính chu kì. Tính chu kì này do sự biến đổi có tính chu kì của hoàn cảnh xung quanh và của trạng thái cơ thể gây ra. b. Hứng thú * Khái niệm Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó vừa có ý nghĩa trong đời sống vừa có khả năng mang lại khoái Cảm. Hứng thú luôn có hai yếu tố. Đối tượng phải có ý nghĩa đối với đời sống cá nhân (yếu tố nhận thức). Đối tượng có khả năng hấp dẫn, tạo ra những khoái cảm (yếu tố cảm xúc). Chính vì đặc điểm này mà hứng thú lôi cuốn con người hướng về phía nó, tạo ra tâm lí khát khao tiếp cận và đi sâu tìm hiểu nó. Đây là đặc trưng quan trọng của hứng thú giúp ta phân biệt nhu cầu và hứng thú và không thể đồng nhất nhu cầu và hứng thú tuy nhu cầu và hứng thú có mối quan hệ mật thiết. * Vai trò của hứng thú + Hứng thú làm tăng hiệu quả của hoạt động nhận thức, hoạt động trí tuệ. Khi có hứng thú với một đối tượng nào đó, cá nhân có sự tập trung cao độ của chú ý, tình cảm, hướng toàn bộ quá trình nhận thức vào đối tượng khiến quá trình này nhạy bén và sâu sắc. Khi hứng thú, chú ý không chủ định xuất hiện nhanh, chú ý có chủ định được duy trì dễ dàng. Tính tích cực trí tuệ của học sinh được định hướng và duy trì bởi hứng thú. Học sinh không thể chiếm lĩnh được đối tượng mà nó không hứng thú. Nó có thể ghi nhớ những sự kiện do ảnh hưởng của sự sợ hãi hay để lẩn tránh sự nhục nhã của thất bại nhưng sự học tập như thêm không có hiệu quả. Muốn đứa trẻ có thể biểu hiện sự tưởng tượng và phương pháp sáng tạo trong lĩnh vực nào đó thì nó cần phải ham mê sâu sắc lĩnh vực này và điều đó chỉ có thể đảm bảo được nhờ hứng thú. Nếu nhận thức chiều sâu của đối tượng trở thành sự cần thiết, thiết thân với đứa trẻ thì những nỗ lực thường xuyên vượt ra ngoài phạm vi tri thức hiện có sẽ trở thành cuộc phiêu lưu đầy xáo động đối với nó.
- - Hứng thú làm tăng sức làm việc Do ý nghĩa và đặc biệt do sự hấp dẫn của đối tượng mà cá nhân làm việc say sưa, dẻo dai, bền bỉ, khả năng khắc phục khó khăn lớn. - Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động và hành động sáng tạo. Khi hứng thú, con người không chỉ dừng lại ở chỗ tích cực tìm hiểu, thưởng thức, chiêm ngưỡng vẻ đẹp của đối tượng mà còn tích cực hoạt động theo hướng phù hợp với hứng thú đó. Hứng thú không chỉ dừng ở sự thích thú vẻ bề ngoài, sự tò mò mang tính hiếu kì. Hứng thú chân chính luôn thúc đẩy con người hành động, hành động sáng tạo để chiếm lĩnh đối tượng đó. c. Lí tưởng * Khái niệm Khi nói đến lí tưởng trong đời sống cá nhân người ta thường nghĩ tới đó là một mục tiêu cao đẹp, được phản ánh vào đầu óc con người dưới hình thức một hình ảnh mẫu mực và hoàn chuẩn có tác dụng lôi cuốn mạnh mẽ toàn bộ cuộc sống của cá nhân trong một thời gian tương đối lâu dài vào hoạt động để tới mục tiêu đó. Theo các nhà duy tâm: lí tưởng là lí tưởng, cuộc sống là cuộc sống, lí tưởng khác cuộc sống, tách rời khỏi cuộc sống. Theo các nhà duy vật biện chứng: lí tưởng cao hơn hiện thực, đi trước hiện thực nhưng xuất phát từ hiện thực cuộc sống, là hình ảnh của hiện thực. * Đặc điểm của lí tưởng Lí tưởng vừa mang tính hiện thực vừa mang tính lãng mạn. - Tính hiện thực: Mục tiêu của lí tưởng được nhào nặn từ những chất liệu có trong hiện thực cuộc sống. Khi xây dựng lí tưởng, cá nhân đều căn cứ vào những điều kiện chủ quan và khách quan. Lí tưởng là hình ảnh của hiện thực. Tính lãng mạn: Mục tiêu của lí tưởng bao giờ cũng thuộc về ngày mai, thuộc về tương lai. Lí tưởng thể hiện ý muốn của con người vươn tới một cái gì đó hoàn chỉnh và mẫu mực nhưng chưa đạt tới được. Cái mà cá nhân đạt được trong hành động thì cái đó không còn là lí tưởng nữa mà là hiện thực. Từ hiện thực đó cá nhân lại muốn đạt tới cái tốt đẹp, cái hoàn
- chỉnh, mẫu mực hơn. Có thể nói, con người không bao giờ đạt được lí tưởng một cách tuyệt đối cả. Trong lí tưởng, người ta tước bỏ đi những gì là không cốt yếu chưa hoàn thiện, nhấn mạnh cái đẹp, cái hoàn thiện. Lí tưởng luôn được người mang nó tô điểm bằng những màu sắc tươi sáng, rực rỡ nhất. Tuy nhiên, thiếu chất lãng mạn, lí tưởng chỉ còn là những ước muốn tầm thường nhưng nếu lí tưởng không xuất phát từ hiện thực cuộc sống, thiếu cơ sở hiện thực, xa vời, bay bổng quá mức thì đến một lúc nào đó sẽ chỉ còn là những ước muốn viển vông mà thôi. Để xây dựng lí tưởng và vươn tới lí tưởng cần có sự thống nhất hài hoà giữa ba yếu tố: nhận thức sâu, tình cảm nồng cháy và ý chí kiên cường. Lí tưởng mang tính xã hội, lịch sử, giai cấp. c. Chức năng của lí tưởng - Lí tưởng là biểu hiện và biểu hiện tập trung nhất của xu hướng cá nhân (lí tưởng xác định mục đích cuộc sống của cá nhân, mục tiêu và chiều hướng phát triển của cá nhân). - Lí tưởng là động lực thúc đẩy, điều khiển toàn bộ hoạt động của con người. - Lí tưởng được xây dựng từ nhận thức đầy đủ + tình cảm sâu sắc + ý chí mạnh mẽ đo đó tạo cho con người có một sức mạnh phi thường vượt qua mọi khó khăn trở ngại, thậm chí không sợ hi sinh để đạt được. - Lí tưởng trực tiếp chi phối sự hình thành, phát triển tâm lí cá nhân: lí tưởng có ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành và phát triển của nhu cầu, hứng thú. Để vươn tới lí tưởng cao đẹp của đời mình có khi cá nhân phải tự điều chỉnh, huỷ bỏ một số nhu cầu hứng thú không phù hợp, hình thành những nhu cầu, hứng thú mới phù hợp. Do yêu cầu của lí tưởng, cá nhân thấy cần phải trau dồi nhiều năng lực mới, sửa đổi tính tình cho phù hợp với tính chất công việc. d. Thế giới quan, niềm im * Khái niệm Thê giới quan là hệ thống các quan điểm về tư nhiên, về xã hội và bản thân được hình thành ở mỗi người và xác định phương châm hành động ở người đó.
- Niềm tin là thế giới quan đã được kiểm nghiệm, thể nghiệm. Trước những vấn đề về tự nhiên, về xã hội, về bản thân, mỗi người mỗi giai cấp có những quan điểm nhìn nhận khác nhau do đó sẽ hành động khác nhau. Thế giới quan mang tính giai cấp rõ rệt. Không có thế giới quan của mọi giai cấp. Thế giới quan có thể thay đổi khi điều kiện sống, môi trường sống thay đổi. Trong xã hội tồn tại nhiều thế giới quan khác nhau vì tồn tại nhiều hệ thống quan điểm khác nhau. Giai cấp nào đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất sẽ có thế giới quan khoa học nhất. * Vai trò của thế giới quan Thế giới quan là kim chỉ nam cho mọi hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Do thế giới quan khác nhau, người ta nhận thức về thế giới khác nhau thậm chí có thể trái ngược nhau. Do đó hành động sẽ khác nhau. Toàn bộ những thuộc tính tâm lí cá nhân đặc biệt là lí tưởng đều được hình thành và phát triển dưới ánh sáng của thế giới quan. 2. Tính cách 2.1. Khái niệm Trong cuộc sống, mỗi người có những phản ứng riêng biệt khác nhau đối với những tác động của thế giới khách quan (tự nhiên và xã hội) và thế giới chủ quan. Trong thái độ đối với người khác, có người luôn tỏ ra dịu dàng, lịch thiệp, có người lại thô lỗ cục cằn. Có người xởi lởi, phóng khoáng nhưng có người lại keo kiệt, bủn xỉn. Trong thái độ đối với lao động, có người thường cần cù, chịu khó, có người lại lười biếng, ngại khó Những phản ứng riêng biệt này được củng cố trong thực tiễn, trong kinh nghiệm trở thành ổn định, bền vững thì gọi là những nét tính cách. Tổng hợp nhiều nét tính cách chúng ta có tính cách. Từ "xapakmep" (tiếng Nga), "character" (tiếng Anh) dịch từ tiếng Hi Lạp "charakter" có nghĩa là "nét", "dấu tích", "đặc điểm". Song khái niệm tính cách không phải bao gồm tất cả những nét, những đặc điểm tiêu biểu của con người. Khi dùng khái niệm tính cách là chúng ta muốn đánh giá hành vi của con người trong quan hệ của con người với người khác, với thế giới bên ngoài và khi chúng ta muốn nói về không phải những hành vi ngẫu nhiên mà là những hành vi mà chúng biểu thị quan hệ xã hội của người đó.
- Mỗi người đều có quan hệ nhiều vẻ với thực tiễn và do đó có nhiều đặc điểm hay thuộc tính cá nhân. Nhưng trong số những đặc điểm ấy, có ý nghĩa lớn nhất là những đặc điểm nào của cá nhân nêu lên được đặc trưng của con người cụ thể coi như là một thành viên của xã hội. Tương ứng với chúng là những hình thức riêng biệt, độc đáo của hành vi là sự biểu hiện của những mối quan hệ trên. Tính cách là một phong cách đặc thù của mỗi nguồn phản ánh lịch sử tác động của những điều kiện sông và giáo dục biểu thị ở thái độ đặc thù của người đó đối với hiện thực khách quan ở cách xử sự, ở những đặc điểm trong hành vi xã hội của người đó (A.G. Covaliốp) 2.2. Đặc điểm đặc trưng của tính cách a. Nội dung và hình thức của tính cách Nội dung của tính cách là hệ thống thái độ của cá nhân đối với hiện thực: thái độ đối với tự nhiên, đối với xã hội, đối với lạo động, đối với bản thân. Hệ thống thái độ này có mối quan hệ tương hỗ với nhau. Trong các loại thái độ thì thái độ đối với những người xung quanh là chính, nó sẽ chi phối các mối quan hệ khác. Hình thức của tính cách là những phương thức hành động, kiểu hành vi xã hội của con người. Giữa hệ thống thái độ (nội dung của tính cách) và phương thức hành động, kiểu hành vi xã hội (hình thức của tính cách) có mối quan hệ biện chứng, tác động chi phối lẫn nhau. b. Sự kết hợp giữa các thuộc tính trong cấu trúc tính cách là sự kết hợp độc đáo mang tính đặc thù. Mỗi tính cách có nhiều nét tính cách. Mỗi nét tính cách có ý nghĩa riêng tuỳ thuộc vào sự kết hợp của nó với những nét tính cách khác của cá nhân. Sự kết hợp khác nhau giữa các nét tính cách sẽ tạo nên những tính cách khác nhau. c. Cái chung và cái riêng trong tính cách Tính cách là một hiện tượng xã hội - lịch sử. Do đó không thể có tính cách chung chung cho mọi tầng lớp, giai cấp, tách khỏi không gian, thời gian sống. Song cá nhân có tính cách lại là một thành viên của xã hội và liên quan với xã hội bằng các quan hệ khác nhau.
- Những điều kiện kinh tế, xã hội, văn hoá chung tạo nên cho tính cách những nét chung. Cái chung trong tính cách là những nét chung cho một nhóm người. Những nét này phản ánh những điều kiện chung trong cuộc sống của nhóm người ấy và biểu hiện nhiều hay ít ở từng đại diện của nhóm ấy. Mỗi thời kì lịch sử mỗi chế độ xã hội, mỗi giai cấp có những nét tính cách điển hình riêng. Như vậy là trong tính cách của một con người cụ thể có thể tách ra những nét tính cách chung của cả loài người, của dân tộc, của giai cấp và những nét cá biệt đặc trưng cho cá nhân ấy. Chúng thấm quyện vào nhau tạo thành một sắc thái tâm lí thống nhất, độc đáo của tính cách. d. Sự hình thành tính cách Tính cách không phải được di truyền, không phải là bẩm sinh cũng không phải là một thuộc tính bất biến của con người. Tính cách được hình thành trong tiến trình sống, nó phụ thuộc vào cách sống của con người, phản ánh những điều kiện sống và là hình ảnh của cuộc sống của con người. Tuy nhiên con người không phải là đối tượng thụ động, chịu những tác động của những điều kiện sống và hoàn cảnh bên ngoài. Con người là chủ thể của hoạt động, có hành động tương hỗ, tích cực với môi trường. Không những môi trường biến đổi con người mà con người cũng tích cực tác động đến môi trường, biến đổi môi trường, khắc phục và cải tạo những hoàn cảnh sống không thuận lợi. Không phải tự bản thân môi trường mà chính là hoạt động của con người với môi trường đã đóng vai trò quyết định trong việc hình thành tính cách của họ. 2.3. Cấu trúc của tính cách Sự kết hợp độc đáo của các nét tính cách tạo nên cấu trúc tính cách. Đó không phải là sự kết hợp máy móc, phép tính cộng đơn giản của các thuộc tính, của các nét tính cách mà là sự hoà nhập vào nhau, kết hợp với nhau một cách độc đáo tạo nên một cấu trúc toàn vẹn, thống nhất. Nhưng không thể nghiên cứu và hiểu một nguyên thể phức tạp như tính cách nếu như không tách ra trong tính cách ấy những mặt riêng lẻ hay những biểu hiện điển hình. a. Xu hướng.:thành phần chủ đạo Một trong những mặt quan trọng nhất của tính cách là những nét tính cách nói lên xu hướng của nhân cách.
- Xu hướng quy định tính cách con người phát triển theo hướng nào. Khi con người đặt ra cho mình mục đích, mục tiêu nào trong cuộc sống (xu hướng) họ sẽ hướng thái độ và hành vi của mình (tính cách) vào mục đích, mục tiêu đó. Tính cách của con người ổn định và vững vàng (con người có bản lĩnh) khi xu hướng được hình thành và ổn định. Nhu cầu và hứng thú quy định nên thái độ lựa chọn đối với các mặt khác nhau trong cuộc sống, xác định tính độc đáo trong tính cách. Lí tưởng, thế giới quan, niềm tin quy định nên nội dung đạo đức trong thái độ, giúp cá nhân định hướng đúng đắn trong cuộc sống và quy định nguyên tắc của hành vi khiến con người trở nên vững vàng trong mọi tình huống. b. Tình cảm: thành phần cốt lõi, bao trùm của tính cách K.Đ. Usinxki: "Không có cái gì, không một lời nào, thậm chí một hành vi nào của chúng ta lại biểu thị bản thân và thái độ của ta với thế giới bên ngoài một cách rõ ràng và hoàn toàn như cảm xúc của chúng ta". Có thể nói, nơi nào có quan hệ tình cảm giữa con người và con người với nhau thì đều có quan hệ tình cảm giữa con người và con người. Quan hệ nào trong xã hội cũng có quan hệ tình cảm xen vào. Tất cả những tình cảm như lòng yêu nước, yêu quê hương, tình làng, nghĩa xóm, tình yêu giữa những người ruột thịt tình bạn, tình yêu, tình đồng chí bao trùm lên cuộc sống cá nhân và đạo đức con người được xây dựng trên cơ sở tình cảm gắn bó giữa con người và con người. Đời sống tình cảm của con người như thế nào thì sẽ quy định tư cách đạo đức và tư thế tác phong của người đó như thế ấy. Khi con người mất đi những quan hệ tình cảm, người ta cũng mất luôn cả tính người. Mất đi những tình cảm tốt đẹp cũng là mất đi những phẩm chất, tính cách nói riêng, nhân cách nói chung. c. Ý chí: mặt sức mạnh của tính cách. Ý chí thể hiện trong tính cách theo hai chiều: + Thúc đẩy hành động: Đó là sự quyết tâm, tính quả quyết, lòng dũng cảm. + Kiềm chế hành động: Đó là sự tự chủ, tự kiềm chế để đạt được mục đích. Những nét ý chí của tính cách có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với hành vi của con người, quy định hiệu quả của mọi thái độ, hành vi. Các phẩm chất ý chí quy định cường độ và
- sự cứng rắn của tính cách nói chung. Tuỳ thuộc vào sự phát triển những nét ý chí của tính cách con người mà người ta nói đến những tính cách mạnh hay yếu. Nhờ ý chí con người mới chuyển được nội dung bên trong của tính cách (hệ thống thái độ đối với hiện thực) thành kiểu hành vi xã hội, kiểu xử thế bên ngoài và tính cách mới được bộc lộ một cách trọn vẹn, sắc nét, bản lĩnh của con người mới được biểu hiện rõ ràng. Nếu con người có xu hướng đúng nhưng không có ý chí để thực hiện những mục tiêu tốt đẹp đó thì mục tiêu đó cũng không có giá trị gì. d. Khí chất mặt cơ động của tính cách Khí chất là sự thể hiện sắc thái hoạt động tâm lí của cá nhân về cường độ, tốc độ, nhịp độ tạo nên bức tranh hành vi của cá nhân đó, làm đậm nét tính đặc thù của nhân cách. Khí chất có ảnh hưởng đến sự dễ dàng hay khó khăn của việc hình thành và phát triển nét tính cách này hay khác của cá nhân. Khí chất không quy định con đường phát triển của các đặc điểm đặc trưng của tính cách một cách một chiều và hơn nữa một cách định mệnh. Bản thân khí chất được cải tổ dưới ảnh hưởng của tính cách. Nhưng nội dung bên trong của tính cách khi biểu hiện ra bên ngoài thường mang sắc thái của loại khí chất này hay khác góp phần tạo nên tính độc đáo, riêng biệt trong tính cách mỗi người. e. Kiểu hành vi: mặt hiện thực của tính cách. Nhờ kiểu hành vi mà tính cách tồn tại. Hệ thống hành vi, cử chỉ, cách nói năng của cá nhân là sự thể hiện ra bên ngoài một cách cụ thể hệ thống thái độ của họ, là sự thể hiện của tính cách cá nhân. Do đó đánh giá tính cách phải thông qua kiểu hành vi. Tính cách không được thể hiện ra hành vi thì cũng sẽ mất dần. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi hành vi, cử chỉ, cách nói năng của cá nhân đều biểu hiện tính cách mà chỉ những hành vi, cử chỉ, cách nói năng đã trở thành thói quen, đã trở thành "kiểu riêng" của cá nhân mới biểu hiện tính cách của họ. Tóm lại. Khi xét tính cách phải xét toàn bộ chỉnh thể của nó. Tách riêng một mặt nào đều không có ý nghĩa. Nhưng trong thực tế người ta có thể gọi tính cách bằng nét tiêu biểu của thành phần có trong cấu trúc. Ví dụ: Chị A giàu tình cảm; Anh B giàu nghị lực
- 3. Năng lực 3. 1. Khái niệm Trong đa số các hoạt động, có một thực tế là bất kì người bình thường nào cũng có thể tiếp thu một số kiến thức, kĩ năng. Song trong những điều kiện bên ngoài như nhau thì những người khác nhau có thể tiếp thu những kiến thức, kĩ năng ở những mức độ với những tốc độ, nhịp độ khác nhau. Thực tế trên là do năng lực của họ khác nhau. Ngoài ra có một số lĩnh vực hoạt động chỉ nhưng người có năng lực nhất định mới có thể đạt được kết quả. Năng lực là tổng hợp những thuộc tính tâm lí độc đáo của cá nhân đáp ứng yêu cầu đặc trưng của hoạt động và đảm bảo cho hoạt động âý đạt kết quả cao. 3.2. Các mức độ năng lực a. Năng lực: Khái niệm dùng để chỉ một mức độ nhất định của năng lực, biểu thị sự hoàn thành có kết quả một hoạt động nào đó, nhiều người có thể đạt được. b. Tài năng: Mức độ năng lực cao hơn được đặc trưng bởi sự đạt được những thành tích lớn, ít người có thể sánh được. Tài năng là toàn bộ những năng lực cho phép con người thu được những sản phẩm hoạt động có đặc điểm là độc đáo và mới mẻ, có sự hoàn chỉnh cao và có ý nghĩa xã hội lớn. Đặc điểm của tài năng là trình độ sáng tạo cao khi thực hiện một hoạt động nào đó. Hoạt động sáng tạo nhằm sản sinh ra một cái gì đó có tính chất mới mẻ mà trước đây chưa hề có. Hoạt động sáng tạo không hướng con người vào việc thích ứng với những chế định xã hội, với những lôgic đã được hình thành mà hướng con người vào sự cải tạo cái cũ, tạo ra cái mới. c. Thiên tài: là mức độ năng lực ở mức cao nhất, biểu thị sự hoàn thành một cách hoàn chỉnh nhất, cao nhất, kiệt xuất nhất, có một không hai trong một lĩnh vực hoạt động nào đó, tạo ra một thời đại mới trong lĩnh vực hoạt động của mình. Hoạt động sáng tạo của thiên tài bao giờ cũng bắt buộc phải có ý nghĩa tích cực ý nghĩa xã hội. 3.3. Cấu trúc của năng lực a. Cấu trúc của năng lực mang tính cơ động Có những thuộc tính tâm lí vừa nằm trong cấu trúc của năng lực này vừa nằm trong cấu trúc của năng lực khác. Thực tế cho thấy, cá nhân có nhiều năng lực có thể tham gia tốt hoạt động A nào đó nhưng đồng thời có thể hoàn thành yêu cầu của hoạt động B. Do đó, mỗi con
- người có thể có nhiều năng lực chứ không bị trói buộc vào một loại năng lực, một loại hoạt động. Tính cơ động của năng lực còn thể hiện ở khả năng bù trừ của các thành phần trong cấu trúc. Cấu trúc của năng lực và tính cách đều vừa ổn định vừa cơ động nhưng sự cơ động trong cấu trúc năng lực cao hơn nhiều. Chính tính cơ động của năng lực giúp con người dễ dàng hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau. b. Các thành phần trong câu trúc năng lực Theo A.G. Covaliốp, năng lực bao gồm những thành phần: - Thành phần chủ đạo: bao gồm những thuộc tính quy định phương hướng hoạt động của con người. - Thành phần chỗ dựa: bao gồm những thuộc tính có tính chất là công cụ của hoạt động - Thành phần làm nền: bao gồm những thuộc tính bổ sung, hỗ trợ. Ở những năng lực khác nhau, các thành phần chủ đạo, chỗ dựa, làm nền sẽ khác nhau. K.K. Platonốp cũng chia như vậy nhưng cách gọi khác: - Thành phần cơ bản - Thành phần chỗ dựa - Thành phần làm nền. c. Đặc điểm về số1ượng và chất lượng của năng lực Năng lực của mỗi người mang những nét riêng biệt. Năng lực của mỗi người không ai giống ai, không bao giờ lặp lại cả về số lượng và chất lượng. VI. Lênin: "Hi vọng đến chủ nghĩa cộng sản có sự ngang bằng nhau về năng lực và sức lực là điều không tưởng". Về số lượng: người có nhiều, người có ít năng lực. Về chất lượng: năng lực của người này khác năng lực của người khác trước hết về kiểu loại năng lực. Người có năng lực âm nhạc, người có năng lực hội hoạ, người có năng lực thể thao hoặc khoa học Có thể nói, trong xã hội có bao nhiêu lĩnh vực hoạt động thì có bấy nhiêu kiểu loại năng lực khác nhau. Ngay trong cùng một kiểu loại năng lực, năng lực của người này cũng khác năng lực ở người khác. 3.4. Tiền đề tự nhiên và điều kiện xã hội của sự hình thành và phát triển ăng lụực a Tiền đề tưựnhiên của năng lực
- Thường khi nói đến tiền đề tự nhiên của năng lực là người ta nói đến yếu tố tư chất. Thực tế đây là vấn đề phức tạp vì trong yếu tố tư chất có: - Cái bẩm sinh: sinh ra đã có. - Cái di truyền: cái tồn tại và phát triển trên cơ sở đến của bố mẹ. - Cái tự tạo: cái cá nhân thu được, khác thế hệ bố mẹ. Tư chất: Những đặc điểm riêng của cá nhân về giải phẫu sinh lí đặc biệt của hệ thần kinh và những chức năng của chúng được biểu hiện trong giai đoạn hoạt động đầu tiên của con người. Trong cuộc sống, trong hoạt động, tư chất luôn biến đổi chứ không cố định. Quan điểm của tâm lí học mácxít: Các hoạt động chức năng của não và trong cấu trúc cơ thể nói chung không có ý nghĩa hiển nhiên đối với sự phát triển năng lực của con người. Tư chất không quyết định năng lực nhưng tu chất có ảnh hưởng đến sự phát triển năng lực, là tiền đề tự nhiên, tiền đề vật chất của sự phát triển năng lực. X L. Rubinstein: Năng lực không được quy định trước nhưng không thể đưa từ ngoài vào một cách đơn giản. Trong các cá nhân phải có tiền đề tức là điều kiện bên trong cho sự phát triển. Tư chất ảnh hưởng như thế nào? - Ảnh hưởng đến chiều hướng và tốc độ của sự hình thành và phát triển năng lực: những người có tư chất phù hợp với sự phát triển năng lực tương ứng với tư chất đó thì sẽ dễ dàng phát triển năng lực ấy và dễ đạt được thành tích hơn những người không có tư chất phù hợp. - Về vai trò của tiền đề tự nhiên cũng cần nhấn mạnh là khi đạt đến mức độ thiên tài thì tiền đề tự nhiên này khá quan trọng. Nhưng ảnh hưởng này tới sự phát triển tài năng đang còn ở trong tình trạng tự phát. Tuy nhiên tư chất là điều kiện cần chứ chưa đủ của sự phát triển năng lực. Một người có tư chất tốt nhưng nếu không tham gia những hoạt động thích hợp thì năng lực cũng không thể phát triển được b. Điều kiện xã hội của năng lực Đây là điều kiện quan trọng và quyết định. - Năng lực vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của sự phân công lao động.
- C. Mác: Sự khác biệt tài hoa của con người không chỉ là nguyên nhân mà còn là kết quả của sự phân công lao động. Từ thời thượng cổ cho tới nay đều có sự phân công lao động. Phân công theo sức khoẻ, khả năng, trình độ. Như vậy là khả năng, trình độ, năng lực chính là nguyên nhân của sự phân công lao động. Mặt khác, chính lao động với những yêu cầu đặc trưng riêng của nó đã phát triển năng lực. Do đó năng lực là kết quả của sự phân công lao động. Năng lực của con người phát triển theo trình độ phát triển của khoa học kĩ thuật. Từ nền sản xuất thủ công, nền sản xuất với các nhà máy nhỏ đến nền sản xuất đại công nghiệp, năng lực của con người không ngừng phát triển. Trình độ phát triển của khoa học, kĩ thuật đòi hỏi con người phải có năng lực tương ứng, phù hợp để đáp ứng với trình độ khoa học kĩ thuật. Do đó và nhờ đó mà năng lực phát triển. Năng lực phụ thuộc vào chế độ xã hội. V.I. Lê nin: "Chế độ tư bản bóp nghẹt, vùi dập và làm thui chột biết bao thiên tài trong công nhân và nhân dân lao động. Những thiên tài này đã mai một đi trong cảnh nghèo túng, bần cùng và bị chà đạp cá tính". Chế độ phong kiến: "Chữ tài liền với chữ tai một vần". Trước Cách mạng tháng Tám, nhân dân ta cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc lấy đâu ra điều kiện học hành. Do đó năng lực không có điều kiện phát triển. Xã hội chúng ta khuyến khích, tạo điều kiện cho mỗi người đều có cơ hội để phát triển tài năng của mình. - Hoạt động cá nhân Hoạt động nói chung, hoạt động lao động nói riêng là động lực sáng tạo con người. Thông qua hoạt động: + Cá nhân hiểu được mình, biết được khả năng của mình; + Làm cho cá nhân thích ứng với yêu cầu của hoạt động; + Hình thành cho mình những thuộc tính còn chưa có hoặc chưa phát triển tương xứng với yêu cầu của hoạt động; + Hoạt động là nhân tố quyết định sự hình thành, phát triển năng lực.
- 4. Khí chất 4.1. Khái niệm Tâm lí con người mang tính chủ thể. Trong số những đặc điểm tâm lí của cá nhân nhắm phân biệt người này với người khác khí chất có vị trí quan trọng nhất. Từ thời cổ đại xa xưa, người ta đã nhận thấy có những khác biệt cá nhân rõ rệt trong những đặc điểm bên ngoài của hành vi: một số người thì nhanh nhẹn, hoạt bát, cởi mở, dễ thích nghi. Một số người khác. ngược lại, chậm chạp, khép kín. khó thích nghi Một số người thường bình thản, ung dung. Một số người khác ngược lại luôn vội vàng. tất bật. Người ta cũng nhận thấy rằng những đặc điểm đó chỉ thuần tuý là những biểu hiện bề ngoài của hành vi không liên quan gì đến việc con người có yêu nước, tôn trọng mọi người, yêu lao động, khiêm tốn, trung thực, chăm chỉ hay không. Nói tóm lại, những đặc điểm này không đánh giá về mặt đạo đức của con người mà chỉ phản ánh sắc thái hoạt động tâm lí của con người về mặt cường độ, tốc độ, nhịp độ của những động tác, cử chỉ, cách đi đứng mà thôi. Đó là khí chất. Khí chất không định trước giá trị đạo đức, giá trị xã hội của cá nhân như một nhân cách. Người có khí chất khác nhau có thể có chung một giá trị đạo đức, giá trị xã hội như nhau. Ngược lại có những người có cùng khí chất như nhau nhưng có thế rất khác nhau về giá trị đạo đức, giá trị xã hội. Khí chất không định trước những nét tính cách mà chỉ có liên hệ chặt chẽ với tính cách. Các nét tính cách khi thể hiện ra bên ngoài dưới hình thức các hành vi xã hội thường mang sắc thái của một khí chất này hay khí chất khác. Khí chất không định trước trình độ của năng lực. Những người có cùng khí chất có thể có năng lực khác nhau. Những người có cùng một loại năng lực có thể thuộc nhiều khí chất khác nhau. Như vậy là không một thuộc tính nào của nhân cách lại do khí chất tiền định cả nhưng sự thể hiện của tất cả các thuộc tính của nhân cách đều bị phụ thuộc vào khí chất trong những mức độ nhất định Khí chất là tông thể những đặc điểm tâm lí cá nhân thể hiện rõ hoạt động tâm lí của con người. - Một vài nét về lịch sử nghiên cứu khí chất
- Trong lịch sử, người ta đã ghi lại tên tuổi của Hypôcrát người Hi Lạp (460 - 356 TCN), người đã phát hiện ra các khí chất. Theo Hypôcrát trong cơ thể con người có bơn chất lỏng (máu, chất nhờn, mật vàng và mật đen). Tuỳ thuộc vào mối quan hệ của bốn chất dịch ấy mà quyết định hành vi của con người. Sau này do tên gọi của các chất dịch chiếm ưu thế trong cơ thể mà có tên gọi các kiểu khí chất. Xăngghít (máu - nóng) - Kiểu Xănganh (kiểu hoạt) Phlêch (chất nhờn - lạnh lẽo) - Kiểu Phlêmatic (kiểu trầm) Côle (mật vàng - khô ráo) - Kiểu Côlêric (kiểu nóng) Mêlangcôle (mật đen - ẩm ướt) - Kiểu Mêlangcôlic (kiểu ưu tư) Bác sĩ người La Mã là Galen (200 - 130 TCN) đã hoàn thiện lí thuyết của Hypôcrát và từ đó mọi người được phân chia thành bốn loại tương ứng với bốn nhóm khí chất với các đặc điểm khác nhau. - Kiểu Xănganh (kiểu linh hoạt): + Dễ thay đổi thói quen + Dễ thay đổi tâm trạng + Là người yêu đời, nhanh nhẹn, nhanh trí nhưng ít kiên nhẫn. - Kiểu Phlêmatic (kiểu trầm): + Người kém nhanh nhẹn + Hưng phấn cảm xúc yếu + Bình tĩnh và kiên định + Thói quen, kĩ xảo ơn định, khó thay đổi. - Kiểu Côlêric (kiểu nóng): + Cảm xúc biểu hiện rất rõ, nhất là những cảm xúc tiêu cực + Hay nóng nảy dù sự nóng nảy qua đi nhanh + Nhanh nhẹn, có nghị lực, kiên quyết. + Khi vui sướng hay đau khổ đều rung động mãnh liệt, sâu sắc - Kiểu Mêlangcôlic (kiểu ưu tư): + Cảm xúc mang tính mềm yếu. Bất kì thất bại nào cũng gây ức chế, luôn u sầu; + Mọi rung động diễn ra chậm chạp nhưng khá sâu sắc; + Thường lờ đờ, thụ động.