Giáo trình Tâm lý học đại cương (Phần 2)
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Tâm lý học đại cương (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_tam_ly_hoc_dai_cuong_phan_2.pdf
Nội dung text: Giáo trình Tâm lý học đại cương (Phần 2)
- Chương 4: HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC GIÁO TRÌNH TÂM LÍ HỌC ĐẠI CƯƠNG I. NHẬN THỨC CẢM TÍNH CÂU HỎI ÔN TẬP II. NHẬN THỨC LÍ TÍNH CÂU HỎI ÔN TẬP III. NGÔN NGỮ VÀ HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC IV. TRÍ NHỚ CÂU HỎI ÔN TẬP Created by AM Word2CHM
- I. NHẬN THỨC CẢM TÍNH GIÁO TRÌNH TÂM LÍ HỌC ĐẠI CƯƠNG à Chương 4: HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC 1. Cảm giác 1.1. Khái niệm cảm giác Trong cuộc sống thường ngày con người luôn bị tác động bởi các sự vật hiện tượng vô cùng đa dạng và phong phú. Các sự vật hiện tượng bằng các thuộc tính của mình như màu sắc, âm thanh, hình dáng, khối lượng, tính chất tác động vào các giác quan của con người, từ đó trong đầu óc con người có được hình ảnh về các thuộc tính của các sự vật hiện tượng. Quá trình phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính, bề ngoài của sự vật, hiện tượng đang tác động vào các giác quan của con người, như vậy gọi là cảm giác. Cảm giác là một quá trình nhận thức phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính, bề ngoài của sự vật hiện tương đang trực tiếp tác động vào các giác quan của con người. Con người có thể phản ánh được các thuộc tính của sự vật hiện tượng là do nó có một hệ thống
- hết sức phức tạp các cơ quan cảm giác có thể tiếp nhận các kích thích từ các sự vật, hiện tượng đó. Mỗi kích thích liên quan tới một thuộc tính của sự vật, hiện tượng (ví dụ: hình dáng, màu sắc kích thích thị giác, âm thanh kích thích thính giác ), các kích thích này tác động lên các giác quan, các giác quan tiếp nhận các kích thích, sau đó mã hoá, chuyển tới não bộ. Tại vỏ não các thông tin này được xử lí và con người Có được Cảm giác. Tất cả các thông tin bên ngoài được chuyển vào trong thông qua các "kênh cảm giác" của chúng ta. Quá trình cảm giác gồm ba khâu như sau: 1. Kích thích xuất hiện và tác động vào một cơ quan thụ cảm. 2. Xuất hiện xung thần kinh được truyền theo các dây thần kinh tới não. 3. Vùng thần kinh cảm giác tương ứng ở vỏ não hoạt động tạo ra cảm giác. Con người còn có những cảm giác từ các kích thích xuất hiện bên trong cơ thể. Nói cách khác, con người không chỉ có các cảm giác phản ánh các thuộc tính của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách
- quan mà còn có các cảm giác phản ánh chính các trạng thái của cơ thể đang tồn tại (cảm giác đói, cảm giác khát ). Đa số các cảm giác có nguồn gốc từ các kích thích bên trong thường ít rõ ràng và được điều chỉnh bởi hệ thần kinh. 1.2. Đặc điểm cảm giác Từ những điều nêu trên có thể thấy cảm giác có những đặc điểm sau: - Cảm giác là một quá trình nhận thức phản ánh dấu hiệu trực quan, bề ngoài cụ thể của sự vật, hiện tượng. - Cảm giác chỉ phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính của sự vật hiện tượng chứ chưa phản ánh đầy đủ, trọn vẹn sự vật, hiện tượng. Cơ sở sinh lí của cảm giác là hoạt động của các giác quan riêng lẻ. - Cảm giác phản ánh sự vật, hiện tượng một cách trực tiếp, khi sự vật, hiện tượng đang hiện diện, đang tác động vào các cơ quan thụ cảm. 1.3. Bản chất cảm giác Mặc dù là hình thức phản ánh tâm lí sơ đẳng
- có cả ở động vật nhưng cảm giác của con người khác về chất so với cảm giác ở động vật. Sự khác biệt đó là ở chỗ: cảm giác của con người có bản chất xã hội. Bản chất xã hội của cảm giác do chính bản chất xã hội của con người quy định. Bản chất xã hội của cảm giác được quy định bởi các yếu tố sau: - Đối tượng phản ánh của cảm giác không chỉ đơn giản là các sự vật hiện tượng tự nhiên mà chủ yếu là các sản phẩm được tạo ra nhờ lao động xã hội của loài người, trong đó tích đọng các chức năng người, chức năng xã hội. - Con người ngoài hệ thống tín hiệu thứ nhất, còn có hệ thống tín hiệu thứ hai - một đặc trưng xã hội của loài người. Cảm giác ở con người không chỉ diễn ra nhờ hệ thống tín hiệu thứ nhất mà cả hệ thống tín hiệu thứ hai. - Cảm giác ở con người chịu sự chi phối của các hiện tượng tâm lí cấp cao khác. - Sự rèn luyện, hoạt động của con người là những phương thức đặc thù của xã hội giúp hình thành và phát triển cảm giác. 1.4. Vai trò của cảm giác
- Cảm giác là hình thức phản ánh tâm lí đơn giản nhất, là mắt xích đầu tiên trong mối quan hệ con người - môi trường. Điều này thể hiện ở chỗ, cảm giác chỉ phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính bên ngoài sự vật, hiện tượng. Các sự vật hiện tượng đó đang trực tiếp tác động vào các cơ quan cảm giác của chúng ta. Tức là sự vật đang hiện diện "ở đây" và "bây giờ" trong mối quan hệ với con người. Cảm giác chính là các kênh thu nhận các loại thông tin phong phú và sinh động từ thế giới bên ngoài. cung cấp cho các quá trình nhận thức cao hơn sau nảy. Không có các nguyên vật liệu của cảm giác thì không thể có các quá trình nhận thức cao hơn. Lênin nói rằng: "Cảm giác là nguồn gốc duy nhất của hiểu biết". Ngày nay các nhà Tâm lí học còn chỉ ra vai trò của từng loại cảm giác trong việc thu nhận thông tin từ thế giới khách quan: - Vị giác: 1 % - Xúc giác: 1,5% - Khứu giác: 315% - Thính giác: 11 % - Thị giác: 83%
- Cảm giác giữ cho não bộ ở trạng thái hoạt hoá, đảm bảo cho hoạt động của hệ thần kinh. Cảm giác giúp con người cơ hội làm giàu tâm hồn, thưởng thức thế giới diệu kì xung quanh chúng ta. 1.5. Các loại cảm giác a. Cảm giác bên ngoài: là các cảm giác có nguồn gốc là các kích thích từ các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Cảm giác nhìn (thị giác): Cơ quan cảm giác thị giác là mắt cung cấp các thông tin (hay phản ánh các thuộc tính) về màu sắc, hình dạng, kích thước độ sáng, độ xa của đối tượng. Mắt tiếp nhận kích thích là sóng điện từ, với các bước sóng khác nhau. Bước sóng là khoảng cách giữa 2 đỉnh sóng. Sóng ánh sáng mà con người nhìn thấy được có bước sóng từ 400Nm - 700Nm (Nanomet). Các màu sắc có bước sóng khác nhau, phân bố trong vùng bước sóng kể trên. Ngoài phạm vi bước sóng đó con người không nhìn thấy (như tia hồng ngoại > 700Nm, tia X < 400Nm ). Cảm giác thị giác không mất ngay sau khi một kích thích ngừng tác động. Hình ảnh của vật được
- lưu lại khoảng 1/5 giây. Hiện tượng này được gọi là lưu ảnh. Cảm giác thị giác đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin. Có đến hơn 80% thông tin từ thế giới xung quanh đi vào não qua con đường thị giác. Cảm giác nghe (thính giác): Cơ quan cảm giác thính giác là tai tiếp nhận các kích thích liên quan tới sự thay đổi về sóng âm. Khi một hành động nào đó diễn ra nó tạo ra các âm thanh vì chúng khiến các đồ vật rung lên. Năng lượng rung được truyền tới môi trường xung quanh đẩy các phân tử đi tới, đi lui tạo ra sóng âm. Cảm giác nghe phản ánh cao độ (tần số dao động), cường độ (biên độ dao động), âm sắc (hình thức dao động). Con người có thể nghe được các âm thanh có độ cao từ 16 đến 20000 héc. Cảm giác nghe giúp con người có được các thông tin về không gian trên những khoảng cách xa, định hướng các sự kiện ngoài tầm nhìn Đặc biệt thính giác đóng vai trò tối quan trọng trong giao lưu ngôn ngữ, là phương thức giác quan chính trong hoạt động giao lưu của con người.
- Cảm giác ngửi (khứu giác): là cảm giác cho biết tính chất của mùi vị, có do sự tác động của các phân tử trong các chất bay hơi lên màng ngoài của khoang mũi. Khứu giác là một trong các cảm giác cổ xưa nhất nhưng vô cùng quan trọng đối với động vật. ở con người, vai trò của khứu giác tương đối ít quan trọng hơn. Cảm giác nếm (vị giác): Cảm giác nếm được tạo nên do tác động của các thuộc tính hoá học có ở các chất hoà tan trong nước lên các cơ quan thụ cảm vị giác ở lưỡi, họng và vòm khẩu. Có bốn vị cơ bản là: ngọt, mặn, chua, đắng. Các cảm giác vị giác khác là sự kết hợp của các vị cơ bản đó. Cảm giác da (mạc giác): Cảm giác da do những kích thích cơ học hoặc nhiệt độ tác động lên da tạo nên. Cảm giác da không chỉ có vai trò nhận biết sự tác động của sự vật mà còn có vai trò quan trọng trong sự phát triển sinh lí của con người. Các nghiên cứu cho thấy, những đứa trẻ được vuốt ve nhiều tăng trọng tốt hơn những đứa trẻ khác, hay âu yếm vuốt ve sẽ làm tăng cường hệ miễn dịch của cơ thể. b. Cảm giác bên trong: là các cảm giác có
- nguồn gốc từ các kích thích bên trong cơ thể. Cảm giác vận động và cảm giác sờ mó: Cảm giác vận động là cảm giác phản ánh những biến đổi trong các cơ quan vận động, báo hiệu mức độ co cơ và vị trí các phần trong cơ thể. Nhờ có cảm giác này mà chúng ta có thể vận động trong môi trường sống, có thể phối hợp các hành động một cách nhịp nhàng. Cảm giác sờ mó là sự kết hợp giữa cảm giác vận động và cảm giác đụng chạm. Cảm giác này được thực hiện bởi bàn tay con người. Cảm giác thăng bằng là cảm giác phản ánh vị trí và những chuyển động của đầu. Cảm giác rung, do các dao động của không khí tác động lên bề mặt của thân thể tạo nên. Cảm giác cơ thể phản ánh tình trạng hoạt động của các cơ quan nội tạng như đói, no, đau 1.6. Các quy luật của cảm giác a. Quy luật ngưỡng cảm giác Không phải mọi kích thích đều có thể gây ra được cảm giác. Một đốm sáng nhỏ ở quá xa thì không
- thể trông thấy được hay một âm thanh nhỏ phát ra từ xa cũng không thể nghe thấy. Một kích thích chỉ có thể gây ra được cảm giác khi cường độ của nó đạt tới một giới hạn nhất định. Giới hạn của cường độ kích thích mà ở đó kích thích gây ra được cảm giác gọi là ngưỡng cảm giác Có hai loại ngưỡng cảm giác: ngưỡng cảm giác phía dưới và ngưỡng cảm giác phía trên. Ngưỡng cảm giác phía dưới là cường độ tối thiểu cần để gây ra được một cảm giác. Ngưỡng ac3m giác phía trên là cường độ tối đa mà ở đó còn gây ra được Cảm giác. Cường độ kích thích nằm giữa ngưỡng trên và ngưỡng dưới gọi là vùng cảm giác được. Bên cạnh các ngưỡng trên còn có ngưỡng sai biệt. Ngưỡng sai biệt là mức đô khác biệt tối thiểu về cường độ hoặc tính chất của hai kích thích để có thể phân biệt sự khác nhau giữa chúng Các cơ quan cảm giác khác nhau có ngưỡng riêng của mình ở các cá nhân khác nhau ngưỡng cảm giác cũng không giống nhau. Nó chịu ảnh hưởng của các điều kiện giáo dục và rèn luyện. Hiện nay các nhà khoa học còn đưa ra thuyết
- phát hiện tín hiệu. Thuyết này cho rằng tính nhạy cảm của cảm giác không chỉ Phụ thuộc vào cường độ của kích thích và khả năng đáp lại của cơ quan cảm giác mà còn phụ thuộc vào sự biến đổi của các nhân tố hoàn cảnh và tâm lí. Các nhân tố tâm lí ở đây chính là kì vọng, kinh nghiệm và động cơ của con người trong tình huống cảm giác cụ thể đó. Ví dụ, khi con người đang ở trạng thái sẵn sàng để tiếp nhận thông tin thì tính nhạy cảm của nó cao hơn so với lúc bình thường. b. Quy luật thích ứng của cảm giác Thích ứng là khả năng thay đổi độ nhạy cảm của cảm giác cho phù hợp với sự thay đổi của cường độ kích thích, khi cường đô kích thích tăng thì độ nhạy cảm giảm và khi cường độ kích thích giảm thì độ nhạy cảm tăng. Cảm giác của con người có thể thích ứng với các thay đổi môi trường như thích ứng với nhiệt độ của nước nóng, buồng tối. Đồng thời cảm giác của con người còn thích ứng với các kích thích kéo dài mà không thay đổi cường độ hoặc một tính chất nào đó. Trong trường hợp này ta sẽ ngừng nhận thấy kích thích đến khi kích thích đó có sự thay đổi.
- Sự thích ứng cảm giác giúp con người thích nghi với những điều kiện môi trường luôn biến đổi, bảo vệ hệ thần kinh không bị quá tải bởi các kích thích cũ liên tục, đồng thời nó còn cho phép con người luôn được đổi mới cảm giác bằng các kích thích mới đa dạng hơn, phong phú hơn. Sự thích ứng của cảm giác ở các loại cảm giác khác nhau có mức độ không giống nhau. Nó có thể phát triển nhờ rèn luyện và hoạt động nghề nghiệp. c. Quy luật tác động lẫn nhau của cảm giác Các cảm giác luôn tác động tới nhau, làm thay đổi tính nhạy cảm của nhau. Sự tác động diễn ra theo quy luật như sau: Sư kích thích yếu lên một cơ quan Phân tích này sẽ làm tăng độ nhạy cảm của một cơ quan Phân tích kia, sự kích thích lẫn cơ quan Phân tích này làm giảm độ nhạy cảm của cơ quan phân tích kia Sự tác động có thể đồng thời hay nối tiếp trên những cảm giác cùng loại hay khác loại. Có hai loại tương phản tương phản nối tiếp và tương phản đồng thời. Tương phản nối tiếp là tương phản khi hai kích thích tác động nối tiếp nhau lên một cơ quan cảm giác, còn tương phản đồng thời xảy ra khi hai kích thích tác động cùng
- một lúc lên cơ quan cảm giác. 2. Tri giác 2. 1. Khái niệm về tri giác Khi các thông tin về các thuộc tính của sự vật, hiện tượng có được nhờ cảm giác được chuyển tới vỏ não thì ngay lập tức chúng được tổ chức sắp xếp tạo nên một hình ảnh đầy đủ có ý nghĩa về chính sự vật, hiện tượng đang tác động vào các giác quan của chúng ta. Nhờ vậy, chúng ta không chỉ thấy màu xanh đơn thuần mà thấy màu xanh của cỏ, không chỉ nghe thấy một âm thanh mà nghe thấy tiếng nhạc hay tiếng bài hát. Quá trình tổ chức sắp xếp, lí giải và xác định ý nghĩa của hình ảnh về sự vật hiện tượng đó chính là tri giác. Tri giác là sự phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bên ngoài của sự vật hiện tương đang trực tiếp tác động vào các giác quan. Như vậy, hình ảnh trọn vẹn của sự vật có được là dựa trên cơ sở của các thông tin do cảm giác đem lại, dựa trên việc tổ chức, sắp xếp các thuộc tính bên ngoài của sự vật thành một thể thống nhất theo
- đúng cấu trúc của sự vật, hiện tượng khách quan. Cảm giác được coi như một nguồn cung cấp thông tin đầu vào, còn tri giác là tổ hợp, diễn giải, gán ý cho các thông tin đó. 2.2. Đặc điểm tri giác Cùng là một quá trình thuộc giai đoạn nhận thức cảm tính, tri giác có những đặc điểm giống với cảm giác: - Tri giác là một quá trình tâm lí. Quá trình này có khởi đầu, diễn biến và kết thúc tương đối rõ ràng. - Tri giác phản ánh các dấu hiệu bề ngoài của sự vật, hiện tượng. - Phản ánh sự vật, hiện tượng một cách trực tiếp. Bên cạnh những điểm giống nhau đó, tri giác có những đặc điểm nổi bật khác với cảm giác: Khác biệt cơ bản giữa cảm giác và tri giác là ở chỗ cảm giác phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính bề ngoài của sự vật, hiện tượng và gắn với một cơ quan thụ cảm chuyên biệt, trong khi đó tri giác là sự tổng hợp các cảm giác để tạo ra một hình ảnh trọn vẹn
- về đối tượng. Nói cách khác tri giác phản ánh sự vật, hiện tượng một cách trọn vẹn. Tri giác sử dung dữ liệu trực quan do cảm giác đang mang lại đồng thời sử dung cả các kinh nghiệm đã học được trong quá khứ để có hình ảnh của sự vật một cách trọn vẹn để gọi tên sự vật. Đây là điểm khác biệt lớn so với cảm giác. Tri giác giúp con người xác định được vị trí của chủ thể đối với các sự vật hiện tượng trong thế giới xung quanh một cách tương đối rõ ràng. ở mức độ cảm giác, chủ thể chưa có được hình ảnh đầy đủ về sự vật hiện tượng, do vậy chưa có được điều này. Đồng thời, tri giác giúp con người xác định được sự vật đó thuộc loại, nhóm sự vật hiện tượng nào. Tức là tri giác một cách "tự động" xác định mối quan hệ giữa một sự vật hiện tượng và nhóm sự vật hiện tượng. Điều này minh chứng cho luận điểm của Mác: "lồng trong con mắt là những nhà lí luận". Tri giác là quá trình tích cực, gắn liền với việc giải quyết các nhiệm vụ cụ thể của con người. Quá trình tri giác diễn ra một cách tự động ngay khi con người có cảm giác. Ranh giới giữa cảm
- giác và tri giác về mặt thời gian là không rõ ràng. ở đây, việc tách biệt cảm giác và tri giác là hoàn toàn do mục đích nhận thức. Trên thực tế, quá trình cảm giác và tri giác diễn ra một cách liên tục và không thể chia cắt. Do vậy có quan điểm cho rằng cảm giác và tri giác là một hệ thống hợp nhất. 2.3. Các loại tri giác Căn cứ vào các cơ quan cảm giác đóng vai trò chính trong quá trình tri giác có thể chia thành: tri giác nhìn, tri giác nghe, tri giác sờ mó (trong đó tri giác nhìn được nghiên cứu nhiều hơn cả). Do vậy, theo cách phân chia này chúng ta chỉ tìm hiểu loại tri giác nhìn. Căn cứ vào đối tượng tri giác có thể chia tri giác thành: tri giác không gian, tri giác thời gian, tri giác chuyển động, tri giác con người. a. Tri giác nhìn Tri giác nhìn phản ánh sự vật hiện tượng trọn vẹn nhờ thị giác. Một số nhân tố thuộc trường kích thích ảnh hưởng tới tri giác nhìn: - Sự gần nhau giữa các sự vật đem đến tri
- giác các sự vật gần nhau thuộc về một nhóm: - sự giống nhau: Tri giác các sự vật giống nhau thuộc về một nhóm: - Sự khép kín (bao hàm): sử dụng tất cả các thành phần để tạo ra một chỉnh thể: - Nhân tố tiếp diễn tự nhiên: Các thành phần của các hình quen thuộc với chúng ta thường được liên kết thành một hình. b. Tri giác không gian Tri giác không gian phản ánh khoảng không gian tồn tại khách quan của sự vật hiện tượng. Tri giác không gian bao gồm: + Tri giác hình dạng sự vật, + Tri giác độ lớn của vật, + Tri giác chiều sâu, độ xa và các phương hướng. c. Tri giác thời gian Tri giác thời gian phản ánh độ dài lâu, tốc độ và tính kế tục khách quan của sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Cơ chế của việc tri giác thời gian gắn với sự tiếp diễn liên tục và nhịp trao đổi sinh học
- của các quá trình cơ thể (thường được gọi là đồng hồ sinh học). Trong đó nhịp của hệ tuần hoàn và nhịp hệ tiêu hoá đóng vai trò quan trọng. Các nghiên cứu cho thấy rằng khi dùng một số thuốc làm thay đổi nhịp sinh học, sẽ dẫn tới sự thay đổi của tri giác thời gian. Các nhân tố ảnh hưởng tới tri giác thời gian. + Tuổi và kinh nghiệm: Trẻ em chưa biết phân biệt thời gian, dần dần trẻ mới học được cách tri giác thời gian. + Động cơ, trạng thái tâm lí. d. Tri giác chuyển động Tri giác chuyển động phản ánh sự biến đổi vị trí của sự vật. Bao gồm sự thay đổi vị trí, hướng, tốc độ. + Chuyển động tương đối: Đi xe nhìn bên ngoài, vật gần chuyển động nhanh, vật xa chuyển động xa chậm (thử đưa ngón tay trước mắt và ngửa đầu ra xa). + Chuyển động ra xa (Radial motion): Luật xa gần trong hội hoạ. + Tri giác âm thanh trong không gian: Nhờ
- sóng âm lan truyền theo dạng sóng nên con người nhận biết được hưởng phát ra của âm thanh. e. Tri giác con người Tri giác con người là quá trình nhận thức lẫn.nhau của con người trong quá trình giao lưu trực tiếp. Đối tượng của tri giác con người là đối tượng đặc biệt. Trong quá trình tri giác con người, các chủ thể tập trung chủ yếu vào việc tri giác các đặc điểm và giá trị xã hội của con người. 2.4. Quan sát và năng lực quan sát Quan sát là hình thức tri giác cao nhất của con người. Đây là quá trình tri giác mang tính chủ động, có mục đích, có ý thức rõ ràng. Quan sát có vai trò quan trọng trong hoạt động của con người. "Quan sát, quan sát, quan sát" - Pavlốp. Thông qua quá trình quan sát trong hoạt động và nhờ rèn luyện, ở con người hình thành năng lực quan sát. Năng lực quan sát là khả năng tri giác nhanh chóng những điểm quan trọng, chủ yếu và đặc sắc của sự vật, cho dù những điểm đó khó nhận thấy hoặc có vẻ là thứ yếu. Năng lực tri giác ở mỗi người là
- khác nhau, phụ thuộc vào các kiểu tri giác (kiểu tổng hợp, kiểu phân tích, kiểu phân tích tổng hợp, kiểu cảm xúc ), vào hoạt động nghề nghiệp và sự rèn luyện của họ. 2.5. Vai trò của tri giác Tri giác là thành phần chính trong nhận thức cảm tính, là điều kiện quan trọng cho sự định hướng hành vi và hoạt động của con người trong thế giới khách quan. Dựa vào các hình ảnh của tri giác, con người điều chỉnh hoạt động của mình cho thích hợp với sự vật hiện tượng khách quan. Quan sát - hình thức cao nhất của tri giác đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của hoạt động và là một phương pháp nghiên cứu khoa học. 2.6. Các quy luật của tri giác a Quy luật về tính đối tượng của tri giác Tri giác bao giờ cũng Có đối tượng là các sự vật trong hiện thực khách quan. Tri giác phản ánh các sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan không phải dưới hình thức tập hợp đơn thuần các cảm giác lẫn lộn về mọi sự vật hiện tượng, mà nó phản ánh một
- cách trọn vẹn, cụ thể sự vật hiện tượng độc lập với sự vật hiện tượng khác. Hình ảnh trực quan mà tri giác đem lai bao giờ cũng thuộc về một sự vật hiện tượng nhất định của thế giới khách quan. Nhờ sự phản ánh chân thực của tri giác mà con người có thể hoạt động với đồ vật tổ chức hoạt động của mình một cách có kết quả. b. Tính ổn định của tri giác Trong thực tế, đối tượng được tri giác không phải bao giờ cũng hiện ra một cách đầy đủ và rõ ràng trước chủ thể. Để tri giác không nhất thiết phải có đầy đủ thông tin về mọi thuộc tính của sự vật, mà chỉ cần một số thuộc tính nào đó: hình dạng, màu sắc, kích thước Chủ thể sẽ "lấp đầy", tạo ra hình ảnh của sự vật một cách đầy đủ nhờ kinh nghiệm của mình. Tính ổn định của tri giác chính là khả năng tri giác sự vật hiện tượng một cách không thay đổi trong những điều kiện luôn biến đổi.cCn người Có đươc tính ổn nđịnh trong tri iác chủ yếu là do kinh nghiệm. c. Quy luật về tính lựa chọn của tri giác Bất kì đối tượng nào khi tác động vào các cơ quan cảm giác của chúng ta cũng đều nằm trong một bối cảnh
- nào đó, tri giác sẽ tách đối tượng đó ra khỏi các sự vật xung quanh để phản ánh chính bản thân đối tượng. Đốitượng được tri giác gọi là hình, còn bối cảnh gọi là nền. Tron quan hệ hình và nền, vai trò của hình và nền có thể thay đổi tùy thuộc vào mục đích tri giác, điều kiện tri giác. d. Quy luật về tính có ý nghĩa của tri giác Hình ảnh tri giác bao giờ cũng có một ý nghĩa nào đó, được gắn với một tên gọi nhất định. Điều này có được do sự gắn bó chặt chẽ của tri giác với tư duy. Các cảm giác khi được tổ hợp lại thành một hình ảnh trọn vẹn, sẽ được đem so sánh đối chiếu với các biểu tượng của sự vật, hiện tượng đã được lưu giữ trong trí nhớ và được xếp vào một nhóm, một lớp hay một loại hiện tượng nhất định. Từ đó ta gọi được tên của sự vật. e. Quy luật tổng giác Trong quá trình tri giác, hình ảnh tri giác không chỉ phụ thuộc vào chính đối tượng được tri giác mà còn phụ thuộc vào một số nhân tố thuộc về chủ thể tri giác. Các nhân tố đó có thể là: + Xu hướng của chủ thể đối với một cấu trúc ổn định + Kinh nghịệm trước
- đây: chủ thể không tri giác đối tượng độc lập với các kinh nghiệm của mình mà đưa kinh nghiệm vào quá trình tri giác, không tri giác sự vật với não "tẩy trắng" mà với các kì vọng, các giả thuyết nào đó. + Điều kiện cơ thể + Hứng thú, động cơ + Một số nhân tố giá trị xã hội, hạn chế và ưu thế xã hội, những gợi ý xã hội. + Một số nhân tố tương tác giữa các cảm giác sự phụ thuộc của tri giác vào nội dung đời sống tâm lí con người, vào đặc điểm nhân cách như vậy gọi là tổng giác g. ảo giác Là sự phản ánh không chính xác về sự vật, hiện tượng. Trong thực tế hay gặp các ảo giác quang học và ảo giác hình học. Created by AM Word2CHM
- CÂU HỎI ÔN TẬP GIÁO TRÌNH TÂM LÍ HỌC ĐẠI CƯƠNG à Chương 4: HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC 1. Nêu và phân tích khái niệm cảm giác. Tại sao nói cảm giác mang bản chất xã hội - lịch sử? 2. Các quy luật của cảm giác? ý nghĩa của việc nghiên cứu các quy luật đó trong dạy học. 3. So sánh cảm giác và tri giác. 4. Vai trò của nhận thức cảm tính trong dạy học. Bài tập 1. Khi nói về sự khác nhau giữa con người và con vật, Ph. ăng ghen đã viết: "Chim đại bàng nhìn thấy xa hơn người rất nhiều nhưng hong các vật, mắt người nhìn thấy được nhiều hơn mắt đại bàng rất nhiều" (Biện chứng của tự nhiên). Sự ưu việt của các cơ quan cảm giác ở con người được cắt nghĩa bởi cái gì?
- 2. Hãy tìm ra trong các ví dụ dưới đây, những ví dụ nào mô tả sự thể hiện các cảm giác? Tại sao? a. Một em bé gái 4 tuổi đi đến tấm lịch để bàn. Khi chỉ vào số 6, bé nói: "Chị Giang kí tên chỗ này". Sau đó, trong các số 16; 26 bé lại tìm ra số 6 và lại nói: "Chị Giang kí ở đây nữa. cả đây nữa". b. ở nhà trẻ, người ta đưa cho các cháu một số đồ vật có hình dáng giống nhau nhưng màu sắc khác nhau. Sau đó giơ lên một cái có màu xanh dương, rồi bảo các cháu tìm các vật giống như thế. c. ở nhà trẻ, các cháu được chơi lô tô: trên các tấm bìa nhỏ có vẽ 10 đồ vật. Các cháu phải tìm trên tấm bìa của mình hình vẽ của một đồ vật nào đó mà cô giáo đưa ra. d. Trong một lớp mẫu giáo, người ta tiến hành một lớp học như sau: đưa cho các cháu 5 con lắc có hình dáng giống nhau, nhưng âm thanh khác nhau. Từng cháu sẽ lắng nghe âm thanh của một con lắc nào đó và phải tìm ra đúng con lắc có âm thanh đó. e. Giáo viên cho học sinh lớp 1 hai số 5 và 3. Một học sinh trả lời: "5 không bằng 3, 5 lớn hơn 3 hai
- đơn vị, 3 nhỏ hơn 5 hai đơn vị". g. Học sinh đang chăm chứ làm bài kiểm tra. Bỗng ở ngoài cửa sổ có tiếng còi ô tô vang lên. Nhiều học sinh đã dừng bút lại. 3. Khi nghiên cứu khả năng nghe các âm cao, người ta phát hiện ra rằng, độ nhạy cảm với những khác biệt nhỏ về độ cao ở các nhạc công pianô và viôlông là không giống nhau. a. Độ nhạy cảm ở người nào cao hơn? b. Giải thích điều đó như thế nào? 4. Quy luật nào của cảm giác được thể hiện trong mỗi ví dụ dưới đây? a. Một mùi khó chịu tác động lâu sẽ không gây cảm giác nữa. b. Sau khi nhúng tay vào nước lạnh, một vật nóng 30oc được cảm nhận như một vật ấm, mặc dù nhiệt độ của nó thấp hơn nhiệt độ bình thường của da tay. c. Sau khi kích thích nhẹ (gần tới ngưỡng) vào mắt bằng một màu nào đó, thì độ nhạy cảm của mắt
- đối với một màu khác bổ sung sẽ tăng lên trong một thời gian dài. d. Dưới ảnh hưởng của vị ngọt của đường, độ nhạy cảm màu sắc đối với màu da cam bị giảm xuống. e. Dưới ảnh hưởng của sự kích thích mắt bằng ánh sáng màu đỏ trước đó, thì độ nhạy cảm của mắt trong bóng tối tăng lên. g. Dưới ảnh hưởng của một số mùi, người ta thấy độ nhạy cảm của thính giác tăng lên rõ rệt. h. Các tài liệu thực nghiệm và kinh nghiệm sống hằng ngày cho thấy: vị trí của âm thanh mà ta nghe thấy thường bị ta lầm tưởng theo hướng của các đối tượng mà ta nhìn thấy và nó có khả năng phát ra âm thanh (ví dụ, khi xem chiếu bóng chẳng hạn). 5. Quy luật nào của cảm giác được thể hiện tròno mỗi ví dụ sau đây? a. Sau khi đã đứng trên xe buýt một lúc thì cảm giác khó chịu về mùi mồ hôi nồng nặc mất đi, còn người vừa mới lên xe thì lại cảm thấy rất khó chịu về mùi đó. b. A.N. Xriabin và N.A. Rmxki - Cooxacôp (các
- nhạc sĩ Nga nổi tiếng) có thích giác màu, nghĩa là nghe thấy các âm thanh với những màu sắc khác nhau. c Người mù định hướng trong không gian chủ yếu là dựa vào các cảm giác đụng chạm, sờ mó, khứu giác, vận động giác và cam giác rung. d. Khi dấp nước lạnh lên mặt thì độ tinh của mắt người phi công tăng lên. e. Khi tăng độ chiếu sáng của phòng hoà nhạc, thì các âm thanh không đáng kể ở sân khấu trở nên to hơn đối với các khán giả. Dưới đây có 3 cách trả lời, hãy chọn xem cách trả lời nào đúng hoàn toàn: 1. a) biến đổi khứu giác; b) sự tác động qua lại giữa các cơ quan phân tích; c) sự tăng cảm; d) sự chuyển cảm giác; e) sự tăng cảm. 2. a) sự thích ứng; b) sự chuyển cảm giác; c) sự tổ chức cảm giác đặc biệt; d) sự tăng cảm; e) sự tăng cảm. 3. a) sự thích ứng; b) đặc trưng của thính giác
- tuyệt đối; c) sự rèn luyện độ nhạy cảm; d) sự tăng cảm; e) sự chuyển cảm giác. 6. Quy luật nào của cảm giác cắt nghĩa sự biến đổi độ tinh của mắt? Người ta đo độ tinh của mặt ở các trẻ mẫu giáo. Các cháu phải đứng ở những độ xa khác nhau để nhận ra các hình được đưa ra. Sau đó, các cháu phải nhận ra cũng các hình đó trong trò chơi "săn thú", mà theo các hình đó trẻ phải tìm ra chỗ ẩn náu của thú dữ. Trong trò chơi, người ta thấy độ tinh của mắt ở trẻ lớn hơn nhiều. 7. Các kết quả nghiên cứu về sự tri giác của con người đối với con người đã chỉ ra rằng: các nhà biên đạo múa thường hay phân biệt các đặc điểm của tay và chân những người mà họ tri giác nhiều hơn 12 lần so với các chủ thể tri giác khác, còn giáo viên lại thường hay phân biệt các đặc điểm ngôn ngữ của những người mà họ tri giác nhiều hơn 8 lần so với các chủ thể tri giác khác. Xu hướng tập trung như thế vào những dấu hiệu rất xác định trong bộ mặt hay hành vi của người khác được cắt nghĩa bởi cái gì? Hiện tượng đó trong tâm lí học gọi là gì?
- 8. Hãy nhìn vào hình lập phương bên dưới. Mặc dù hình lập phương ở đây là hình phẳng. nhưng ta vẫn tri giác nó như là một hình khối. Hơn nữa, hình này khó hình dung là hình phẳng hơn là hình ba chiều (hình nổi). Hiện tượng tương tự như vậy cũng được quan sát thấy cả khi ta xem những bức tranh: các đồ vật được trình bày ở tranh được chúng ta tri giác như là những hình khối hình không gian ba chiều. Giải thích đặc điểm này của tri giác như thế nào? 9. Người ta đã kể về Galilê rằng, có một lần, lúc còn thanh niên, ông đã nhìn lên chiếc đèn chùm bằng đồng của Cha cả B. Chenlin. Gió thổi qua cửa sổ đã làm cho chiếc đèn khẽ đung đưa. Galilê bắt đầu đo thời gian dao động của cái đèn theo nhịp tim của mình. Chàng thanh niên bất chợt phát hiện ra rằng, thời gian dao động của chiếc đèn luôn luôn xác định. Định luật dao động của con lắc đã được tìm ra như vậy đó! Hình thức tri giác nào được mô tả trong ví dụ trên? Hãy nêu những điều kiện giúp cho loại tri giác này phát triển tốt nhất ở trẻ em.
- 10. a) Năng lực được mô tả dưới đây của con người phụ thuộc vào quy luật nào của tri giác? b) Máy điện tử hiện đại có thể có năng lực đó hay không? Con người có thể thoáng nhìn đã nhận ra bất cứ một hình nào, ví dụ hình vuông, mà không phụ thụ thuộc vào chỗ nó to hay nhỏ, đặt thẳng đứng hay nghiêng, được vẽ bằng màu trắng trên nền đen hay bằng màu đen trên nền trắng hoặc được kẻ bằng đường viền một cách đơn giản. Hơn nữa, con người còn nhận ra hình vuông cả trong trường hợp nếu tờ giấy trên đó vẽ hình vuông được đặt nghiêng sao cho ảnh của hình vuông trên võng mạc trông như một hình bình hành. Created by AM Word2CHM
- II. NHẬN THỨC LÍ TÍNH GIÁO TRÌNH TÂM LÍ HỌC ĐẠI CƯƠNG à Chương 4: HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC 1. Tư duy Cảm giác, tri giác đem lại cho ta những hình ảnh cụ thể về Các thuộc tính bề ngoài của hiện thực khách quan, những cái đang trực tiếp tác động vào các giác quan. Quá trình nhận thức cảm tính hết sức quan trọng. Chúng là nền tảng, là cơ sở để xây dựng nên lâu đài nhận thức của chúng ta. Mặc dù hết sức quan trọng, nhưng nó cũng còn những hạn chế như: chỉ phản ánh được những cái hiện tại, những thuộc tính bề ngoài, phản ánh một cách trực tiếp Để nhận thức và cải tạo thế giới, đòi hỏi con người không chỉ nhận thức những cái hiện tại mà còn phải nhận thức cả những cái đã diễn ra trong quá khứ và những cái sẽ diễn ra trong tương lai, không chỉ phản ánh những thuộc tính bề ngoài mà quan trọng hơn phải phản ánh được những thuộc tính bản chất. những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của sự vật hiện tượng. Đó chính là quá trình nhận thức
- lí tính của con người mà đặc trưng là quá trình tư duy. 1.1. Khái niệm tư duy Đứng trước một bông hồng, cảm giác, tri giác cho chúng ta biết được hình dạng, màu sắc, mùi thơm của nó. Nhưng muốn biết nó thuộc hoa đơn tính hay lưỡng tính, thuộc loại giống hồng nào, thành phần hoá học của mùi thơm, cách trồng và chăm sóc thì quá trình nhận thức trên không thể giải quyết được. Muốn giải quyết những vấn đề trên con người phải có một quá trình nhận thức cao hơn, đó là tư duy. Cũng như cảm giác và tri giác, tư duy cũng là một quá trình tâm lí, mà cụ thể là quá trình nhận thức, nhưng nó phản ánh được những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của sự vật hiện tượng mà trước đó ta chưa biết. Vì là một quá trình, nên tư duy cũng có ba giai đoạn là mở đầu diễn biến và kết thúc. Mở đầu của tư duy là sự bắt gặp hoàn cảnh có vấn đề, những cái chúng ta chưa biết, những cái mâu thuẫn với kinh nghiệm của chúng ta, đòi hỏi phải giải quyết, phải phản ánh. Diễn biến của tư duy là diễn ra các thao tác của tư duy, sự phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu
- tượng hoá, khái quát hoá để giải quyết tình huống (bài toán) đặt ra. Kết thúc quá trình tư duy sẽ cho ta những khái niệm mới, những suy lí, phán đoán (những sản phẩm của tư duy). Tư duy có khả năng phản ánh được những thuộc tính bản chất của sự vật hiện tượng, đó là những đặc tính cố hữu, gắn chặt với từng sự vật, hiện tượng, là cái để phân biệt sự vật hiện tượng này với sự vật hiện tượng khác. Khi những thuộc tính này trong sự vật hiện tượng mất đi thì không còn bản thân sự vật hiện tượng đó nữa mà sẽ thành một sự vật hiện tượng khác. Ví dụ, một ôxít lưỡng tính tức là nó vừa có tính ôxít axít vừa có tính ôxít badơ. Nếu nó mất tính ôxít axít thì nó không còn là ôxít lưỡng tính nữa. Các thuộc tính bản chất nằm ngay trong sự vật hiện tượng, gắn chặt với cái bên ngoài và được bộc lộ nhờ cái bên ngoài thông qua hiện tượng. Nhưng không phải mọi hiện tượng đều là bản chất. Cái bản chất và cái hiện tượng thống nhất với nhau nhưng không đồng nhất. Tư duy phản ánh những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật đó là những mối liên hệ bên trong, tất
- yếu, những quan hệ không đổi trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định, có thể biểu thị dưới dạng công thức khái quát. Ví dụ, nước nguyên chất, ở áp suất một atm, nhiệt độ một trăm độ C thì sẽ sôi (chuyển từ trạng thái lỏng sang trạng thái hơi). Tư duy phản ánh được các quy luật, vì tư duy lấy ngôn ngữ làm phương tiện và có bản chất xã hội (tư duy con người mang tính tập thể, tức là dựa trên kết quả tư duy của người khác). Tư duy nảy sinh do yêu cầu của thực tiễn cuộc sống cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo chính bản thân mình của con người. Tư duy phản ánh những cái mới, những cái trước đó ta chưa biết, nó khác xa về chất so với nhận thức cảm tính và trí nhớ. Nhờ có tư duy mà kho tàng nhận thức của loài người ngày càng đồ sộ xã hội loài người luôn luôn phát triển, thế hệ sau bao giờ cũng tiến bộ và văn minh hơn thế hệ trước. Tư duy trừu tượng, tư duy bằng ngôn ngữ chỉ có ở con người, những người phát triển bình thường và trong trạng thái tỉnh táo. Một số động vật bậc cao như khỉ, vượn, cá heo cũng có khả năng tư duy nhưng là tư duy trực quan cụ thể, tư duy bằng thao tác,
- (tư duy bằng tay). Tức là loại tư duy này có cả ở người và động vật. Ngày nay, do sự phát triển của khoa học kĩ thuật, con người có thể tạo ra những máy móc biết tư duy - người máy (rôbốt). Mặc dù người máy có thể tư duy giải quyết công việc nhanh và chính xác hơn con người, nhưng đó lại là sản phẩm tư duy của con người, nó chỉ giải quyết những công việc do con người lập trình và cài đặt cho nó. Nếu không có sự điều khiển của con người thì người máy không thể tự tư duy để giải quyết vấn đề thực tiễn đặt ra, dù là những công việc đơn giản nhất. Tóm lại, tư duy là một quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất những mối liên hệ quan hệ có tính quy luật của sự vật hiện tượng khách quan mà trước đó ta chưa biết 1.2. Đặc điểm của tư duy a. Tính có vấn đề Tư duy nảy sinh từ hiện thực khách quan, từ những tình huốngng có vấn đề, đó là những bài toán
- đặt ra trong cuộc sống nhưng không phải mọi tác động của thế giới khách quan đều làm nảy sinh tư duy mà chỉ những cái ta chưa biết, đang thắc mắc và có nhu cầu giải quáyết. Tình huống có vấn đề là bài toán đặt ra mâu thuẫn với vốn hiểu biết cũ của chúng ta. Khi ta có nhu cầu giải quyết chúng thì quá trình tư duy bắt đầu. Tình huống có vấn đề mang tính Chủ quan đối với mỗi cá nhân, Có nghĩa là cùng một tình huống, nhưng có vấn đề với người này mà không có vấn đề với người khác. Không phải cứ có tình huống có vấn đề là làm nảy sinh quá trình tư duy, mà quá trình tư duy chỉ diễn ra khi cá nhân nhận thức được tình huống có vấn đề và có nhu cầu giải quyết chúng. Đặc biệt hơn là cá nhân đó phải có những tri thức cần thiết liên quan đến vấn đề, đủ để có thể giải quyết được vấn đề sau những cố gắng nhất định. Từ đặc điểm trên chúng ta có thể rút ra một số kết luận sư phạm như sau: Để quá trình dạy học đạt kết quả cao, giáo viên phải thường xuyên tạo ra tình huống có vấn đề, làm cho học sinh nhận thức được tình huống gcó vấn đề và có nhu cầu giải quyết chúng một cách
- tích cực, ợi mở cho học sinh, giúp học sinh giải quyết rồi tiếp tục tạo ra tình huống mới. Cứ như thế làm cho quá trình nhận thức của học sinh phát triển không ngừng. Đó là một hướng dạy học tích cực gọi là dạy học nêu vấn đề: Trong quá trình học tập của cá nhân cũng vậy, muốn đạt kết quả cao, chúng ta phải liên tiếp làm nảy sinh tình huống có vấn đề và tích cực giải quyết chúng. b. Tính khái quát Khái quát là phản ánh những đặc điểm chung nhất của một nhóm sự vật hiện tượng. Phản ánh khái quát là phản ánh cái chung, cái bản chất của hàng loạt sự vật hiện tượng cùng loại, là sự phản ánh bằng ngôn ngữ, bằng khái niệm và quy luật. Ví dụ, phụ nữ Việt Nam anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang. Cái khái quát là cái chung, cái bản chất của các sự vật hiện tượng cùng loại và tư duy có khả năng phản ánh chúng. Nhưng không phải mọi cái chung đều mang tính khái quát, bản chất. Ví dụ, sở dĩ gọi là cá voi vì chúng có các đặc điểm chung của loài cá nhưng những đặc điểm đó không phải là đặc điểm bản chất của cá voi, thực chất cá voi là loài thú
- Đối tượng của tư duy là cái chung nhưng nó cũng hướng tới cái riêng. Bởi vì, cái chung bao giờ cũng được khái quát từ những cái riêng, cụ thể và chúng được biểu hiện thông qua cái riêng. Cái riêng tồn tại trong mối liên hệ với cái chung, dựa vào cái chung và có tác dụng soi sáng cái chung. Tư duy mang tính khái quát nhưng không nên khái quát vội theo kinh nghiệm cá nhân. Ví dụ, mọi lời nói dối đều xấu, Trong quá trình dạy học, muốn phát triển tư duy cho học sinh phải truyền thụ cho học sinh những tri thức mang tính khái quát, cô đọng, súc tích c. Tính gián tiếp Gián tiếp là Phải qua các khâu trung gian. Tư duy Phản ánh gián tiếp thông qua nhân thức cảm tính và thông qua kế quả tư duy của người khác (kinh nghiệm xã hội). Sở dĩ tư duy phải phản ánh gián tiếp Chứ không thể phản ánh trực tiếp được vì tư duy phản ánh cái bên trong, cái bản chất những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật. Những cái này không thể phản ánh trực tiếp bằng các giác quan.
- Như vậy, quá trình tư duy phải dựa vào nguyên liệu do nhận thức cảm tính cung cấp. Không có nguồn nguyên liệu này thì tư duy không thể tiến hành được. Tư duy được vận hành trên nền ngôn ngữ, biểu đạt bằng ngôn ngữ, tức là tư duy tiến hành các thao tác trên nền ngôn ngữ, biểu đạt kết quả bằng ngôn ngữ Ngoài ra tư duy của mỗi cá nhân đều dựa vào kết quả tư duy của loài người, của các cá nhân khác. Chính vì vậy nên các thế hệ sau bao giờ cũng phát triển hơn thế hệ trước. d. Tư duy của con người có quan hệ chặt chẽ với ngôn ngữ Như phần trên đã nói, tư duy vận hành trên nền ngôn ngữ Hay nói cụ thể hơn là tư duy có quan hệ chặt chẽ với ngôn ngữ. Đề các nói: Không có ngôn ngữ thì chẳng có tư duy. Xung quanh mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ có nhiều quan điểm khác nhau. Quan điểm của trường phái Vutxbua cho rằng tư duy và ngôn ngữ không gắn bó với nhau mà tách biệt nhau. Chứng chỉ gắn bó với nhau khi viết ra hoặc nói ra. Tư duy giống như mắc áo còn ngôn ngữ giống như
- cái áo. Quan điểm của thuyết hành vi lại đồng nhất tư duy với ngôn ngữ. Những người theo trường phái này cho rằng ngôn ngữ là tư duy phát ra thành lời. Theo quan điểm của tâm lí học duy vật biện chứng thì tư duy và ngôn ngữ là hai quá trình có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chúng thống nhất với nhau nhưng không đồng nhất. Đó là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. Cụ thể.là. nếu không có ngôn ngữ thì sản phẩm của tư duy không có gì để biểu đạt và người khác không thể tiếp nhận, các thao tác của tư duy cũng không thể diễn ra được. Ví dụ, muốn phân tích phải dùng ngôn ngữ để mổ xẻ sự vật hiện tượng Ngược lại, nếu không có tư duy (với sản phẩm của nó) thì ngôn ngữ chỉ là một chuỗi âm thanh vô nghĩa, không có nội dung, giống như những tín hiệu âm thanh của thế giới động vật. Tư duy và ngôn ngữ là hai quá trình tâm lí khác nhau, chúng có sản phẩm khác nhau và tuân theo những quy luật khác nhau. Tư duy bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề. Nhưng nhờ có ngôn ngữ mà con người nhận thức được tình huống có vấn đề. Nhờ có ngôn ngữ mà chủ thể tiến hành được các thao tác tư duy kết thúc quá trình tư duy
- đi đến những khái niệm, phán đoán, suy lí phải được biểu đạt bằng ngôn ngữ. Đó là các công thức, từ, ngữ, mệnh đề Như vậy, để rèn luyện khả năng tư duy nói riêng và khả năng nhận thức nói chung, chúng ta phải rèn luyện ngôn ngữ trong sáng, khúc chiết vì nó là công cụ, là phương tiện của tư duy. Ngược lại, ngôn ngữ muốn trong sáng, khúc chiết thì tư duy phải rõ ràng, minh bạch, vì ngôn ngữ biểu đạt kết quả của tư duy. e. Tư duy có quan hệ với nhận thức cảm tính Như V.I. Lê nin đã từng khẳng định: Không có cảm giác thì không có nhận thức nào cả. Rõ ràng nhân thức cảm tính là cơ sở. là nơi cung cấp nguyên liệu cho tư duy. Tư duy dựa vào nhận thức cảm tính, không tách rời nhận thức cảm tính và thường bắt đề từ nhận thức cảm tính. Dù tư duy có khái quát đến đâu, có trừu tượng đến đâu thì trong nội dung của nó cũng chứa đựng thành phẩm của nhận thức cảm tính. Ngược lại, tư duy và sản phẩm của nó cũng có ảnh hưởng mạnh mẽ, chi phối khả năng phản ánh của nhận thức cảm tính, làm cho nhận thức cảm tính
- tinh vi, nhạy bén hơn, chính xác hơn, có sự lựa chọn và có ý nghĩa hơn. Cảm nhận thức cảm tính và tư duy đều nảy sinh từ thực tiễn, lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra tính đứng đắn của nhận thức. Như vậy, để rèn luyện tư duy, chúng ta cần đi vào thực tế cuộc sống, phải rèn luyện năng lực quan sát, trí nhớ 1.3. Các giai đoạn của một quá trình tư duy Tư duy là một hành động. Mỗi hành động tư duy là một quá trình giải quyết một nhiệm vụ nào đó nảy sinh trong quá trình nhận thức hay trong hoạt động thực tiễn: Quá trình tư duy bao gồm nhiều giai đoạn kế tiếp nhau liên tục: từ khi gặp tình huống có vấn đề và nhận thức được vấn đề cho đến khi vấn đề được giải quyết. Sau khi giải quyết lại có thể làm nảy sinh vấn đề mới, khởi đầu cho một quá trình tư duy mới có thể phức tạp hơn. Các giai đoạn cụ thể của một quá trình tư duy như sau: a. Xác định vấn đề và biểu đạt vấn đề thành nhiệm vụ tư duy
- Tư duy chỉ nảy sinh khi con người bắt gặp tình huống có vấn đề nhận thức được vấn đề (tức là xác định được nhiệm vụ tư duy) và biểu đạt được nó. Khi gặp tình huống có vấn đề chủ thể phải ý thức được đó là tình huống có vấn đề đối với bản thân, phát hiện ra mâu thuẫn chứa đựng trong tình huống có vấn đề - đó là mâu thuẫn giữa cái đã biết, đã cho với cái phải tìm, cái muốn có. Chủ thể phải có nhu cầu giải quyết, tìm thấy những tri thức đã có trong vốn kinh nghiệm có liên quan đến vấn đề, sử dụng các tri thức đó vào giải quyết vấn đề, trên cơ sở đó đề ra nhiệm vụ tư duy. b. Huy động các tri thức, vốn kinh nghiệm có liên quan đến vấn đề đã xác định được Khâu này làm xuất hiện ở trong đầu những tri thức, kinh nghiệm, những mối liên tưởng nhất định có liên quan đến vấn đề đã được xác định và biểu đạt nó. Việc huy động những tri thức kinh nghiệm, những mối liên tưởng này hoàn toàn phụ thuộc vào nhiệm vụ tư duy đã được xác định. Việc tư duy đúng hướng hay lạc hướng là do nhiệm vụ tư duy đặt ra có chính xác hay không. c. sàng lọc các liên tưởng và hình thành giả thuyết
- Những tri thức, những kinh nghiệm, những liên tưởng đầu tiên được xác định ở giai đoạn trên là những tri thức, những liên tưởng còn mang tính rộng rãi, chưa được khu biệt và phân hoá kĩ càng nên chúng cần được sàng lọc, lựa chọn sao cho phù hợp nhất với nhiệm vụ đề ra. Sàng lọc các liên tưởng thực chất là lựa chọn những tri thức cần thiết, gạt bỏ những cái không cần thiết cho nhiệm vụ tư duy. Sự thành công trong việc giải quyết nhiệm vụ tư duy cũng như trong việc tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển tư duy đều tuỳ thuộc vào sự đa dạng của giả thuyết. Chính sự đa dạng của giả thuyết sẽ cho phép ta xem xét một sự vật hiện tượng từ nhiều hướng khác nhau, trong các hệ thống liên hệ và quan hệ khác nhau, tìm ra được con đường giai quyết đúng đắn và tiết kiệm nhất. d. Kiểm tra giả thuyết Chính sự đa dạng của giả thuyết đòi hỏi ta phải kiểm tra xem giả thuyết nào trong số các giả thuyết đưa ra tương ứng với các điều kiện và vấn đề đặt ra. Quá trình kiểm tra giả thuyết có thể diễn ra trong
- đầu hay trong hoạt động thực tiễn. Kết quả kiểm tra sẽ dẫn đến sự khẳng định hay phủ định hoặc chính xác hoá giả thuyết đã nêu. e. Giải quyết vấn đề (giải quyết nhiệm vụ của tư duy) Khi giả thuyết đã được kiểm tra và khẳng định thì nó sẽ được thực hiện để trả lời cho vấn đề đặt ra. Trong quá trình tư duy, để giải quyết nhiệm vụ, con người thường gặp những khó khăn do những nguyên nhân khác nhau. Có khi chủ thể không thấy hết được dữ kiện của bài toán. Đôi khi không giải quyết được nhiệm vụ chỉ vì chủ thể tư duy tự đưa vào bài toán một số điều kiện thừa, không có trong bài toán. Hoặc do tính chất khuôn sáo, cứng nhắc của tư duy đã làm cho chủ thể không thể giải quyết được nhiệm vụ. K.K.Platơnốp đã tóm tắt các giai đoạn của quá trình tư duy bằng sơ đồ sau:
- 1.4. Các thao tác tư duy Xét về bản chất thì tư duy là một quá trình cá nhân thực hiện các thao tác trí tuệ nhất định để giải quyết vấn đề
- hay nhiệm vụ đặt ra. Cá nhân có tư duy hay không là ở chỗ họ có tiến hành các thao tác này trong đầu mình hay không. Cho nên những thao tác này còn được gọi là những quy luật bên trong của tư duy. Quá trình tư duy có các thao tác cơ bản sau: a. Phân tích và tổng hợp Phân tích là quá trình dùng trí óc để phân chia đối tượng nhận thức thành các bô phận, các thành phần tương đối độc lập để nhận thức đối tượng Sâu Sắc hơn (nói như vậy để khẳng định phân tích không phải là quá trình băm nhỏ hay đập nát đối tượng). Đó là quá trình diễn ra trong đầu chủ thể nhằm tách đối tượng tư duy thành những thuộc tính, những bộ phận, những mối liên hệ, quan hệ giữa chúng để nhận thức đối tượng sâu sắc hơn. Tổng hợp là quá trình dùng trí óc để hợp nhất các thành phần đã được tách rời trong quá trình phân tích thành một chính thể thống nhất hoàn chỉnh. Đây là thao tác trí tuệ, trong đó chủ thể tư duy dùng trí óc đưa những thuộc tính những thành phần đã được phân tích vào thành một chỉnh thể, giúp ta nhận thức được bao quát hơn.
- Phân tích và tổng hợp là hai quá trình có quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau trong một quá trình tư duy thống nhất. Phân tích là cơ sở để tổng hợp; được tiến hành theo phương hướng của sự tổng hợp. Tổng hợp diễn ra trên cơ sở phân tích, được thực hiện trên kết quả của sự phân tích. Không có quá trình phân tích thì không thể tiến hành tổng hợp được. Ngược lại, phân tích không có tổng hợp thì quá trình đó trở nên vô nghĩa trong quá trình nhận thức. b. So sánh So sánh là quá trình dùng trí óc để xác định sư giống và khác nhau, sự đồng nhất hay không đồng nhất, sư bằng nhau hay khôn bằng nhau giữa các đối tượng nhân thức. Thao tác này liên quan chặt chẽ với thao tác phân tích và tổng hợp và rất quan trong trong việc nhận thức thế giới. K.D.Usinxki từng nói: So sánh là cơ sở của moi sự hiểu biết và tư duy, hay như Sêchênốp cũng nói: So sánh là kho tàng trí tuệ quý báu nhất của con người. Nhờ so sánh mà con người có thể hình dung ra những cái chưa biết trên cơ sở những cái đã
- biết. c. Trừu tượng hoá và khái quát hóa Trừu tượng hoá là dùng trí óc để gạt bỏ những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ quan hệ thứ yếu, không cần thiết và chỉ giữ lại những yếu tố cần thiết cho tư duy. Khái quát hoá là quá trình dùng trí óc để hợp nhất nhiều đối tượng khác nhau thành một nhóm, một loại theo những thuộc tính, những liên hệ, quan hệ chung nhất định. Những thuộc tính chung là những thuộc tính bản chất, giống nhau đặc trưng cho hàng loạt sự vật hiện tượng cùng loại. Mối quan hệ giữa trừu tượng hóa và khái quát hoá cũng giống như mối quan hệ giữa Phân tích và tổng hợp nhưng ở mức độ cao hơn. Không có trừu tượng hoá thì không thể tiến hành khái quát hoá. Nhưng trừu tượng hóa mà không khái quát háo thì hạn chế quá trình nhận thức, thậm chí sự trừu tượng hoá trở nên vô nghĩa. Tóm lại: Giữa các thao tác tư duy đều có mối
- quan hệ mật thiết với nhau, thống nhất theo một hướng nhất định do nhiệm vụ tư duy quy định. Trong thực tế tư duy, các thao tác trên đan chéo vào nhau, tương tác lẫn nhau. Tuỳ theo nhiệm vụ và điều kiện tư duy, không nhất thiết quá trình tư duy nào cũng phải thực hiện theo một trình tự máy móc các thao tác trên hay thực hiện tất cả các thao tác. Để rèn luyện và phát triển tư duy cho học sinh, giáo viên cần chú ý rèn luyện cho học sinh các thao tác tư duy nói trên. 1.5. Các loại tư duy Dựa trên các tiêu chí khác nhau, chúng ta có thể phân tư duy thành các loại khác nhau. Sau đây là một số cách phân loại cụ thể. Nếu xét trên phương diện lịch sử hình thành và mức độ phát triển của tư duy thì có các loại tư duy sau: a. Tư duy trực quan hành động Đây là loại tư duy xuất hiện sớm nhất về phương diện phát sinh chủng loại cũng như về phương diện phát sinh cá thể. Là loại tư duy mà việc giải quyết các nhiệm vụ được thực hiện nhờ sự cai tổ
- thực tế các tình huống và nhờ các hành động vận động có thể quan sát được. Ví dụ, trẻ em thực hiện phép cộng bằng các que tính Trong quá trình phát sinh chủng loại cũng như cá thể, con người trước tiên giải quyết những nhiệm vụ cụ thể, hước mắt sau đó mới hình thành lí luận và hoạt động lí thuyết. Chẳng hạn, tổ tiên chúng ta từ việc đo đạc ruộng đất bằng thực hành dần dần hình thành bộ môn hình học. Đối với trẻ em (3 - 4 tuổi) thì loại tư duy này là chủ yếu. Qua quá trình tham gia vào hoạt động thực tiễn, loại tư duy này ở trẻ được hoàn thiện dần và ngày càng giữ vai trò thứ yếu. b. Tư duy trực quan hình ảnh Loại tư duy này ra đời muộn hơn tư duy trực quan hành động và phát triển ở mức độ cao hơn. Loại tư duy này chỉ có ở con người, đặc biệt là ở trẻ nhỏ. Đây là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ được thực hiện bằng sự cải tổ tình huống chỉ dựa trên bình diện hình ảnh. Tư duy trực quan hình ảnh của học sinh được phát triển mạnh thông qua học văn học.
- c. Tư duy trừu tượng Tư duy trừu tượng (còn gọi là tư duy từ ngữ hay tư duy lôgic) là loại tư duy ra đời muộn nhất và chỉ có ở con người. Đây là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ được dựa trên việc sử dụng các khái niệm, các kết cấu lôgic, được tồn tại và vận hành nhờ ngôn ngữ. Các loại tư duy trên tạo thành các giai đoạn phát triển của tư duy trong quá trình phát sinh chủng loại và cá thể. Ba loại tư duy này có mối quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau và chi phối lẫn nhau, trong đó tư duy trực quan hành động và tư duy trực quan hình ảnh là cơ sở cho tư duy trừu tượng. Nếu căn cứ vào hình thức biểu hiện của nhiệm vụ và phương thức giải quyết nhiệm vụ thì quá trình tư duy cũng có ba loại: Tư duy thực hành là loại tư duy mà nhiệm vụ được đề ra một cách trực quan, dưới hình thức cụ thể. Phương thức giải quyết là các hành động thực hành. Ví dụ, những người sửa xe cộ, máy móc. - Tư duy hình ảnh cụ thể là loại tư duy mà nhiệm vụ được đề ra dưới hình thức hình ảnh cụ thể và
- việc giải quyết nhiệm vụ cũng được dựa trên những hình ảnh trực quan đó. - Tư duy lí luận là loại tư duy mà nhiệm vụ được đề ra và giải quyết nhiệm vụ đó đòi hỏi phải sử dụng những khái niệm trừu tượng, những tri thức lí luận. Trong thực tế, để giải quyết nhiệm vụ, người trưởng thành ít khi sử dụng thuần tuý một loại tư duy mà thường sử dụng Phối hợp nhiều loại tư duy với nhau, trong đó có một loại tư duy nào đó giữ vai trò chủ yếu. Xét theo mức độ sáng tạo của tư duy thì có các loại sau: Tư duy algôrit là loại tư duy diễn ra theo một chương trình, một cấu trúc lôgic có sẵn, theo một khuôn mẫu nhất định. Loại tư duy này có cả ở người và rôbôt (người máy). Tư duy ơrixtic là loại tư duy sáng tạo, có tính chất cơ động linh hoạt, không tuân theo một khuôn mẫu cứng nhắc nào. Loại tư duy này liên quan đến trực giác và khả năng sáng tạo cua con người. Cả hai loại tư duy này cũng có quan hệ chặt
- chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, giúp con người nhận thức sâu sắc và đúng đắn thế giới. 2. Tưởng tượng Trong thực tế, không phải bất cứ tình huống có vấn đề nào ta cũng đề giải quyết bằng tư duy. Có nhiều trường hợp, khi đứng trước tình huống có vấn đề con người không thể dùng tư duy để giải quyết được mà phải dùng một quá trình nhận thức khác gọi là tưởng tượng. Ví dụ, khi đọc tác phẩm "Sống như anh", chúng ta chưa đến nơi anh Trỗi ở, chưa được tiếp xúc với anh, không được chứng kiến 9 phút cuối cùng bất tử của anh, nhưng ta vẫn hình dung được hình dáng, cử chỉ, tâm trạng, khí phách của anh cùng với những tình tiết trong câu chuyện Sở dĩ như vậy là do con người có khả năng phản ánh được những cái mà bản thân chưa hề trải qua, những cái chưa hề có trong kinh nghiệm cá nhân. Có được khả năng đó là do con người đã vận dụng trí tưởng tượng của mình. 2.1. Khái niệm về tưởng tượng Tưởng tượng là một quá trình nhận thức phản
- ánh những cái chưa từng có trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng đã có. Về nội dung phản ánh, tưởng tượng phản ánh cái mới, những cái chưa từng có trong kinh nghiệm cá nhân hoặc xã hội. Về phương thức phản ánh, tưởng tượng tạo ra cái mới từ các biểu tượng đã có nhờ phương thức chắp ghép, liên hợp, nhấn mạnh, mô phỏng Về sản phẩm phản ánh của tưởng tượng là những biểu tượng mới được xây dựng từ các biểu tượng đã có (biểu tượng của trí nhớ). Biểu tượng của tưởng tượng mang tính khái quát, biểu tượng của biểu tượng. Nguồn gốc nảy sinh của tưởng tượng cũng là các tình huống có vấn đề, những tình huống mang tính bất định lớn. Tưởng tượng là một quá trình nhận thức lí tính được bắt đầu và thực hiện chủ yếu bằng hình ảnh nhưng vẫn mang tính khái quát và gián tiếp. Tưởng tượng có quan hệ chặt chẽ với nhận thức cảm tính, nó sử dụng những biểu tượng của trí nhớ do nhận thức cảm tính mang lại. Tưởng tượng cũng có quan hệ chặt chẽ với ngôn ngữ và lấy thực tiễn làm
- tiêu chuẩn. 2.2. Vai trò V.I.Lênin cho rằng, tưởng tượng là một năng lực đặc biệt quý giá, một phẩm chất cực kì quý báu Có thể nói tưởng tượng cần thiết cho bất kì hoạt động nào của con người. (Tưởng tượng cho phép ta hình dung được kết quả cuối cùng của một hoạt động. Tưởng tượng tạo nên hình mẫu tươi sáng, rực rỡ và hoàn hảo mà con người mong đợi vươn tới - hình ảnh lí tưởng) Tưởng tượng nâng con người lên trên hiện thực, làm nhẹ bớt những nặng nề có khó khăn trong cuộc sống, giúp con người hướng về tương lai, kích thích con người hành động để đạt được những kế quả lớn lao. Tưởng tượng có ảnh hưởng rõ rệt đến việc học tập của học sinh, đến việc tiếp thu và thể hiện các tri thức mới, đặc biệt là trong việc giáo dục đạo đức và phát triển nhân cách học sinh. Trong công tác giáo đục, cần rèn luyện cho học sinh óc tưởng tượng phong phú, chính xác và thiết
- thực, sát với thực tế cuộc sống. 2.3. Quan hệ giữa tư duy và tưởng tượng Trong quá trình nhận thức cũng như trong cuộc sống, tư duy và tưởng tượng có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Chúng có những đặc điểm giống nhau và có những đặc điểm riêng biệt. Chúng giống nhau ở chỗ, đều phản ánh cái mới, những cái chưa từng có trong kinh nghiệm cá nhân. Cả tư duy và tưởng tượng đều là mức độ cao của quá trình nhận thức (đều nằm trong bậc thang nhận thức lí tính); đều mang tính khái quát và phản ánh gián tiếp; có quan hệ chặt chẽ với ngôn ngữ và nhận thức cảm tính; lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra tính đúng đắn. Cả hai quá trình đều được nảy sinh trước tình huống có vấn đề và đều hướng vào giải quyết các tình huống có vấn đề. Tuy vậy, giữa tư duy và tưởng tượng cũng có những khác biệt nhất định. Cụ thể là: - Cùng nảy sinh từ tình huống có vấn đề nhưng nếu tính bất định của tình huống có vấn đề
- không cao (tình huống rõ ràng, sáng tỏ) thì quá trình giải quyết nhiệm vụ chủ yếu tuân theo quy luật tư duy. Nếu tính bất định của tình huống có vấn đề mà lớn, khởi đầu khó phân tích một cách rõ ràng, chính xác thì giải quyết nhiệm vụ theo cơ chế tưởng tượng. - Trong phương thức phản ánh, tư duy phản ánh cái mới thông qua khái niệm, suy lí theo một lôgic nhất định. Tưởng tượng phản ánh cái mới bằng cách nhào nặn, chắp ghép thành những hình ảnh mới dựa trên những biểu tượng đã có. - Sản phẩm cua tư duy là những khái niệm, phán đoán, suy lí. Sản phẩm của tưởng tượng là các biểu tượng mới (biểu tượng của biểu tượng - biểu tượng cấp hai). Tư duy có tính chặt chẽ và lôgic hơn tưởng tượng. Tư duy và tưởng tượng là hai quá trình có quan hệ mật thiết với nhau. Không có quá trình tư duy nào lại tách khỏi tưởng tượng và ngược lại, không có quá trình tưởng tượng nào lại không cần đến sự hỗ trợ của tư duy. Tư duy tạo ra ý đồ cho tưởng tượng. Tư duy đảm bảo tính hệ thống, lôgic, hợp lí cho hoạt động tưởng tượng. Ngược lại, những hình ảnh cụ thể do
- tưởng tượng tạo nên bao giờ cũng chứa đựng và bộc lộ nội dung tư tưởng của tư.duy tạo ra. Nhờ tưởng tượng mà tư duy được cụ thể bằng các hình ảnh. Tưởng tượng vạch hướng đi cho tư duy, thúc đẩy tư duy trong việc tìm kiếm, khám phá cái mới. 2.4. Các loại tưởng tượng Căn cứ vào tính tích cực và tính hiệu lực của tưởng tượng, có thể chia tưởng tượng làm hai loại là: tưởng tượng tích cực và tiêu cực ước mơ và lí tưởng. a. Tưởng tương tích cực và tưởng tương tiêu cực + Tưởng tương tích cực là loại tưởng tượng tạo ra những hình ảnh nhằm đáp ứng những nhu cầu và kích thích tính tích cực thực sự của con người. Tưởng tượng tích cực bao gồm tưởng tượng tái tạo và tưởng tượng sáng tạo. + Tưởng tương tái tạo là loại tưởng tượng tạo ra những hình ảnh mới đối với cá nhân người tưởng tượng dựa trên sự mô tả của người khác. Ví dụ, sau khi học sinh đọc cuốn: "Sống như anh" sẽ tưởng tượng ra hình ảnh anh Trỗi khi ra pháp trường Loại
- tưởng tượng này mang tính chủ thể cao và dựa chủ yếu vào ngôn ngữ. + Tưởng tượng sáng tạo là loại tưởng tượng xây dựng hình ảnh mới một cách độc lập. Hình ảnh này chẳng những mới đối với cá nhân người tưởng tượng mà còn mới đối với cả xã hội. Loại tưởng tượng này có giá trị cao đối với sự tiến bộ của loài người. Ví dụ, Xiôncốpxki sáng tạo ra mô hình con tàu vũ trụ Tưởng tượng tái tạo và tưởng tượng sáng tạo có quan hệ chặt chẽ với nhau. Những cái mới chỉ xuất hiện khi yêu cầu phát triển đã chín muồi và bao giờ cũng xuất hiện từ trong lòng cái cũ. Cho nên không thể tưởng tượng sáng tạo khi chưa có tưởng tượng tái tạo một cách nhuần nhuyễn. + Tưởng tượng tiêu cực là loại tưởng tượng tạo ra những hình ảnh không thể hiện thực hoá trong cuộc sống. Loại tưởng tượng này có thể có chủ định hoặc không có chủ định. Trong tưởng tượng tiêu cực, mặc dù có chủ định - có sự tham gia của ý thức nhưng không gắn liền với ý chí để hiện thực hoá hình ảnh tưởng tượng trong cuộc sống. Ví dụ, mơ mộng trở thành nhà bác học nhưng lười học
- Loại tưởng tượng không chủ định chủ yếu xảy ra khi không có sự tham gia của ý thức như khi ngủ mơ, mộng du, mắc bệnh hoang tưởng b. Ứớc mơ và lí tưởng Ứớc mơ là hình ảnh tốt đẹp về tương lai, có sức hấp dẫn đặc biệt, giúp cho con người tăng thêm sức mạnh trong hoạt động. Đây là loại tưởng tượng sáng tạo nhưng không trực tiếp hướng vào hoạt động trong hiện tại. Lí tưởng là loại tưởng tượng tích cực có tính hiện thực cao hơn ước mơ. Đó là một hình ảnh chói lọi, rực sáng, cụ thể, hấp dẫn của sự mong muốn trong tương lai. Nó là một động cơ mạnh mẽ thúc đẩy con người vươn tới tương lai tươi sáng, đẹp đẽ. - Nếu căn cứ vào đặc điểm nảy sinh, sự chủ động, sự tham gia của ý thức, tưởng tượng cũng có thể chia làm hai loại. a. Tưởng tương không chủ định là loại tưởng tượng không có mục đích định trước, không có biện pháp tiến hành mà vẫn đạt được kết quả. Loại tưởng tượng này có hai mức độ.
- Mức độ thứ nhất là hoàn toàn không có sự tham gia của ý thức. Ví dụ những hình ảnh trong khi chiêm bao, trong giấc mơ. Mức độ thứ hai là có sự tham gia của ý thức ở giai đoạn đầu. Ví dụ, khi nhìn lên bầu trời thấy những đám mây bay, chúng ta tưởng tượng ra những con vật, những hình thù khác nhau b. Tưởng tượng có chủ định là loại tưởng tượng có mục đích đặt ra trước, có kế hoạch, có phương pháp nhằm tạo ra những hình ảnh mới. Ví dụ, người hoạ sĩ vẽ một bức tranh Tưởng tượng có chủ định có thể gồm tưởng tượng tái tạo và tưởng tượng sáng tạo. 2.5. Các cách sáng tạo hình ảnh mới trong tưởng tượng Để tạo ra hình ảnh mới, quá trình tưởng tượng sử dụng nhiều cách khác nhau. Sau đây là một số cách đặc trưng nhất. a. Thay đổi kích thước, số lượng hay các thành phần của sự vật.Ví dụ, người khổng lồ, người tí hon, phật bà trăm tay ngàn mắt
- b. Nhấn mạnh các chi tiết, thành phần, thuộc tính của sự vật.Ví dụ, các tranh biếm hoạ, phương pháp cường điệu trong văn học. c. Chắp ghép là phương pháp ghép các bộ phận của nhiều sự vật hiện tượng khác nhau thành một sự vật hiện tượng mới. Trong hình ảnh mới, các bộ phân hợp thành vẫn giữ nguyên, không bị thay đổi, chế biến. Chúng chỉ được chắp ghép với nhau một cách đơn giản mà thôi. Ví dụ, hình ảnh con rồng là một sản phẩm tưởng tượng bằng cách chắp ghép, trong đó đầu là đầu sư tử mình rắn, chi thú Các hình ảnh như nàng tiên cá, con nhân sư đều là sản phẩm của tưởng tượng bằng con đường này. d. Liên hợp, là cách tạo ra hình ảnh mới bằng Cách liên hợp các bộ Phận của nhiều sư vật khác nhau, nhưng các bộ phận tạo nên hình ảnh mới đều được cải biến và sắp xếp trong mối tương quan mới. Cách liên hợp này là một sự tổng hợp sáng tạo thực sự. Ví dụ, xe điện bánh hơi, xe tăng lội nước, thuỷ phi cơ Phương pháp này được sử dụng nhiều trong văn học, nghệ thuật. Trong khoa học, người ta sử dụng
- phương pháp này để sáng chế máy móc, các công cụ kĩ thuật e. Điển hình hóa là phương pháp tạo ra hình ảnh mới phức tạp nhất, trong đó các thuộc tính điển hình, các đặc điểm điển hình của nhân cách như là một đại diện cho giai cấp hay tầng lớp xã hội nhất định. Ví dụ, nhân vật chị Dậu trong tác phẩm "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố là hình ảnh điển hình của người phụ nữ nông dân thời phong kiến Việt Nam Yếu tố mấu chốt của phương pháp này là sự tổng hợp sáng tạo mang tính chất khái quát những thuộc tính và đặc điểm cá biệt, điển hình của nhân cách Phương pháp này thường được dùng trong sáng tạo văn học nghệ thuật, trong điêu khắc, hội hoạ g. Loại suy, là cách sáng tạo hình ảnh mới trên cơ sở mô phỏng, bắt chước những chi tiết, những bô Phận, những sự vật có thật. Ví dụ, từ đôi bàn tay, người ta đã sáng tạo ra cái kìm, cái búa, cái cào chân vịt thật thành chân vịt tàu thuỷ, chim bay thành máy bay Ngành phỏng sinh học là một bước phát triển cao củaa loại suy để sáng chế, phát minh trong khoa
- học kĩ thuật. Created by AM Word2CHM
- CÂU HỎI ÔN TẬP GIÁO TRÌNH TÂM LÍ HỌC ĐẠI CƯƠNG à Chương 4: HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC 1. Hãy trình bày khái niệm và đặc điểm của tư duy. Một quá trình tư duy có những giai đoạn và thao tác nào? 2. Tại sao tưởng tượng lại được xếp vào mức độ nhận thức lí tính? 3. So sánh sự giống và khác nhau, mối quan hệ của hai quá trình tư duy và tưởng tượng 4. So sánh sự giống nhau, khác nhau, mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính. Bài tập 1. Hãy tìm trong số những đặc điểm của các quá trình phản ánh được nêu ra dưới đây, những đặc điểm nào đặc trưng cho tư duy của con người? a. Phản ánh các thuộc tính riêng lẻ của các sự vật và hiện tượng của thế giới vật chất.
- b. Phản ánh kinh nghiệm đã qua dưới dạng các tình cảm. ý nghĩ và hình tượng về các sự vật và hiện tượng đã tri giác được trước đây c. Phản ánh các sự vật và hiện tượng trong toàn bộ thuộc tính và bộ phận của chúng. d. Phản ánh các dấu hiệu chung và bản chất những mối liên hệ và quan hệ của các sự vật và hiện tượng. e. Phản ánh khi có sự tác động trực tiếp của các sự vật, hiện tượng vào các cơ quan cảm giác. g. Phản ánh hiện thực bằng con đường gián tiếp với sự tham gia tất yếu của ngôn ngữ. 2. Những đặc điểm nào của tư duy như là một trong các quá trình nhận thức được thể hiện trong các ví dụ sau đây: a. Khi đến bến xe buýt không phải giờ "cao điểm" mà thấy quá đông người đợi, bạn nghĩ ngay rằng xe đã bỏ chuyến. b. Có lần, khi về nhà người mẹ đã nhận ra rằng cậu con nhỏ lặng lẽ và âm thầm một cách khác thường, bà liền nghĩ rằng nó bị ốm hay giở trò gì đây. 3. Một bác sĩ có kinh nghiệm chỉ cần nhìn vẻ
- ngoài của bệnh nhân là có thể đoán biết họ bị bệnh gì, hệ thống sinh lí - giải phẫu nào bị tổn thương. Đặc điểm nào trong tư duy của người bác sĩ được thể hiện ở đây? 4. Nhiều học sinh cấp II đã xếp cá voi vào loại cá vì chúng sống ở dưới nước như cá và tên cũng có chữ cá, và không xếp cà chua vào loại rau vì trông vẻ ngoài cà chua không giống gì với cà rết và củ cải cả. Hãy giải thích tại sao lại diễn ra những sai lầm như vậy? Thao tác tư duy nào ở các học sinh đó chưa được phát triển đầy đủ? 5. Có một số học sinh, ngay sau khi vừa mới học môn Hình học, trước câu hỏi: "Có thể vẽ được mấy đường kính trong một hình tròn?", đã trả lời là "hai" và vẽ đường kính như hình dưới. Hãy giải thích nguồn gốc của sai lầm này. Nên giảng khái niệm "đường kính" như thế nào để học sinh khỏi mắc những sai lầm như vậy và để cho các em hình thành được biểu tượng đúng đắn về số lượng vô hạn của các đường kính trong một hình tròn? 6. 1) Trong trường hợp nào dưới đây, ở học
- sinh đã xuất hiện biểu tượng của trí nhớ và biểu tượng của tưởng tượng? 2) Tại sao lại cho là như vậy? a. Thầy giáo đang giảng về con sông Mixixipi ở Mĩ, chiều dài, bề rộng, lưu lượng nước, giá trị kinh tế, v.v của nó. Học sinh ngồi nghe giảng và hình thành trong đầu những biểu tượng tương ứng. b. Sau khi tổ chức cho học sinh đi tham quan công trình thuỷ điện Sông Đà, các anh chị phụ trách quyết định cho các em làm một số báo tường về công trình thế kỉ này. Các biểu tượng về công trình này đã được các em diễn tả bằng các bút kí, bài thơ hay tranh vẽ khá sinh động. c. Trên số báo tường kỉ niệm trận Đống Đa, người ta thấy hình ảnh vua Quang Trung Nguyễn Huệ được học sinh mô tả rất độc đáo, hiện đại. 7. a) Đặc điểm nào của tưởng tượng được đề cập ở đoạn văn sau đây? b) Hãy giải thích tại sao tưởng tượng lại chỉ cần thiết ở nước và sau khi thực nghiệm, mà không có chỗ đứng ngay trong bản thân thực nghiệm? Ở thời Clốt Bécna (Claude Bernard) (l), nhiều
- nhà khoa học ưa dùng những lí luận xa xôi, với văn phong cầu kì để giải thích các hiện tượng bệnh học. Clốt Bécna thì khác hẳn. Đối với ông, thực tiễn là điều đáng chú ý nhất. Có lần, một sinh viên hỏi ông: - Thưa thầy, điều gì quan trọng nhất trong y học? - Những sự kiện thực tiễn! - Clốt Bécna trả lời rành rọt. Anh sinh viên vẫn thắc mắc: - Thưa thầy, có ý kiến lại cho rằng trí tưởng tượng là rất cần thiết, như thế có đúng không ạ? Bécna đáp: - Tài tưởng tượng rất cần thiết trước và sau khi thực nghiệm, nhưng lại không có chỗ đứng ngay trong bản thân thực nghiệm. 8. Nghiên cứu trí tưởng tượng sáng tạo của học sinh bằng phương pháp thực nghiệm. Dung cụ cần thiết: Một cặp từ, mỗi cặp 3 từ. Ví dụ: mùa xuân, hạnh phúc, con người. Cách tiến hành: Yêu cầu học sinh trong vòng
- 10 phút hãy đặt các câu, càng nhiều càng tốt, sao cho trong mỗi câu đều chứa ba từ trên. Cách đánh giá. - Câu có cả 3 từ, rõ nghĩa, chính xác, gọn. (6 điểm) - Câu có cả 3 từ, rõ nghĩa, nhưng dài. (5 điểm) - Câu có cả 3 từ, nhưng nghĩa chủ yếu chỉ có 2 từ, còn từ kia ít ăn nhập. (4 điểm) - Câu có cả 3 từ, nhưng nghĩa không rõ ràng. (3 điểm) - Câu có cả 3 từ rời rạc, nghĩa không ăn nhập. (1 điểm) Câu có ca 3 từ hoàn toàn không hợp nhau. (0 điểm). Nếu câu sau gần giống câu trước, hoặc kết cấu giống nhau, thì câu sau chỉ được 1/2 số điểm của câu trước. Tính tổng số điểm đạt được. So sánh kết quả ở những học sinh khác nhau. 9. Nghiên cứu khả năng tưởng tượng tái tạo không gianbằng phương pháp thực nghiệm. Dụng cụ cần thiết.:Thước kẻ. com a, giấy trắng, bút, đồng hồ bấm giây. Cách tiến hành: Yêu cầu học sinh giải trong óc (không được vẽ ra giấy, hoặc lấy tay vẽ trong không trung) rồi ghi kết quả ra giấy 5 bài tập sau: a. Cho một tam giác
- cân, mỗi cạch bên dài 6m, đỉnh A, đáy BC. Tại B kẻ một đoạn thẳng song song với AC, từ C kẻ một đoạn song song với AB. Hai đoạn này cắt nhau tại M. ABCM là hình gì? b. Một người đi từ điểm A về phía Tây 10 bước, sau đó đi xuống phía Nam 10 bước, rồi bước sang phía Đông 10 bước, sau đó lại về phía Tây 10 bước. Hỏi đường đi của người đó tạo thành hình gì? c. Từ điểm A, một người đi xe đạp đến phía Đông l0km, sau đó lên phía Bắc 20km, rồi sang phía Tây 10km, xuống phía Nam 10km, rồi lại đi về phía Đông thêm 10km nữa. Hỏi đường đi của người đó tạo thành hình gì? d. Một đường tròn tâm O. Vẽ 2 đường song song nằm ngang cách đều tâm O, và hai đường thẳng đứng cách đều tâm O chúng đều nằm gọn trong đường tròn. Hỏi hình gì ở giữa đường tròn và trong đường tròn có bao nhiêu hình? e. Có một hình vuông. Vẽ một đường chéo, sau đó vẽ hai đường nằm ngang, chia hình vuông thành các phần bằng nhau. Hỏi trong hình vuông có bao nhiêu hình? Ghi số thời gian giải từng bài.
- Cách đánh giá. Sau khi làm xong, để cho học sinh tự kiểm tra kết quả bằng cách vẽ ra giấy để giải. Nếu đúng: bài a được 4 điểm; bài b được 5 điểm; bài c được 5 điểm; bài d được 5 điểm; bài 3 được 6 điểm. Tổng cộng là 25 điểm. So sánh với các học sinh khác nhau theo điểm số và thời gian. Created by AM Word2CHM
- III. NGÔN NGỮ VÀ HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC GIÁO TRÌNH TÂM LÍ HỌC ĐẠI CƯƠNG à Chương 4: HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC 1. Khái niệm chung về ngôn ngữ 1.1. Ngôn ngữ Ngôn ngữ là hiện tượng lịch sử - xã hội nảy sinh trong hoạt động thực tiễn của con người. Trong quá trình cùng nhau lao động, loài người cổ xưa có nhu cầu trao đổi ý nghĩ, dự định, nguyện vọng, tâm tư tình cảm Nhờ đó đến một giai đoạn phát triển nhất định đã xuất hiện những dấu hiệu quy ước chung để giao tiếp, trong đó có những dấu hiệu âm thanh, từ những tín hiệu này dần dần tạo thành từ ngữ và một hệ thống quy tắc ngữ pháp, đó chính là ngôn ngữ. Vậy ngôn ngữ là gì? Ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu từ ngữ đặc biệt dùng làm phương tiện giao tiếp và làm công cụ tư duy. Kí hiệu từ ngữ là một hiện tượng tồn tại khách quan trong đời sống tinh thần của con người, là một hiện tượng của nền văn hoá tinh thần của loài người,
- một phương tiện đặc biệt của xã hội loài người. Kí hiệu từ ngữ là một hệ thống, trong đó mỗi kí hiệu chỉ có ý nghĩa và thực hiện một chức năng nhất định ở trong hệ thống của mình. Ngôn ngữ gồm ba bộ phận: ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Các đơn vị của ngôn ngữ là âm vị, hình vị, từ, câu, ngữ đoạn, văn bản Bất cứ ngôn ngữ của dân tộc nào cũng chứa đựng phạm trù ngữ pháp và phạm trù lôgic. Phạm trù ngữ pháp là một hệ thống các quy định việc thành lập từ và câu, quy định sự phát âm. Phạm trù ngữ pháp ở các ngôn ngữ khác nhau là khác nhau. Phạm trù lôgic là quy luật, phương pháp tư duy đúng đắn của con người, vì vậy tuy dùng các ngôn ngữ (tiếng nói) khác nhau, nhưng các dân tộc khác nhau vẫn hiểu được nhau. Ngôn ngữ có tác động thay đổi hoạt động tinh thần, hoạt động trí tuệ, hoạt động bên trong của con người. Nó hướng vào và làm trung gian hoá cho các hoạt động tâm lí cấp cao của con người như tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng Ngôn ngữ do cá nhân tiến hành có thể có những xu hướng, mục đích khác nhau nhằm truyền đạt một
- thông báo mới, những tri thức mới, giải quyết một nhiệm vụ tư duy mới Ngôn ngữ của mỗi cá nhân phát triển cùng với năng lực nhận thức của cá nhân đó và bao giờ cũng mang dấu ấn của những đặc điểm tâm lí riêng. Song ngôn ngữ của mỗi cá nhân không chỉ phản ánh nghĩa của các từ mà còn phản ánh cả thái độ của bản thân đối với đối tượng của ngôn ngữ và đối với người đang giao tiếp. Việc nghiên cứu sự phát triển ngôn ngữ trong quá trình phát triển cá thể là nhiệm vụ của Tâm lí học. Vì thế ngôn ngữ là một hoạt động tâm lí, là đối tượng của tâm lí học. Ngôn ngữ đặc trưng cho từng người. Sự khác biệt cá nhân về ngôn ngữ thể hiện ở cách phát âm, ở giọng điệu, cách dùng từ, cách biểu đạt nội dung tư tưởng, tình cảm. 1.2. Các chức năng cơ bản của ngôn ngữ * Chức năng chỉ nghĩa: Chỉ nghĩa là quá trình dùng một từ, một câu đều chỉ một nghĩa nào đó, tức là quá trình gắn từ đó, câu đó với một sự vật, hiện tượng (ví dụ từ "cái bút" chỉ một vật dùng để viết, vẽ ). * Chức năng thông báo: Mỗi quá trình ngôn ngữ đều chứa đựng một nội dung thông tin, sự biểu
- cảm dùng để truyền đạt từ người này tới người kia, hay tự mình nói với bản thân mình bằng ngôn ngữ thầm. * Chức năng điều khiển, điều chỉnh: Con người trong quá trình giao tiếp nhận được thông tin từ người khác và cũng phát ra thông tin cho người khác. Nhận được thông tin ấy, con người thường kịp thời điều chỉnh hành vi, hoạt động của mình cho phù hợp với nội dung thông tin đó và hoạt động của bản thân. Đồng thời ngôn ngữ có chức năng thiết lập và giải quyết các nhiệm vụ của hoạt động (trong đó có hoạt động trí tuệ). Nó bao gồm việc kế hoạch hóa hoạt động, thực hiện hoạt động và đối chiếu kết quả hoạt động với mục đích đã đề ra. Trong ba chức năng của ngôn ngữ nêu trên, chức năng thông báo là chức năng cơ bản nhất. Chỉ trong quá trình giao tiếp con người mới thu nhận được các tri thức, do đó một điều chỉnh được hành vi của mình cho thích hợp với hoàn cảnh sống. Còn chức năng chỉ nghĩa là điều kiện để thực hiện hai chức năng trên. 2. Các dạng hoạt động ngôn ngữ Căn cứ vào những dấu hiệu khác nhau ta có
- thể phân loại các dạng hoạt động ngôn ngữ theo nhiều cách. Ơ đây chúng ta phân loại theo tính chất xuất tâm hay nhập tâm của ngôn ngữ: ngôn ngữ bên ngoài và ngôn ngữ bên trong. a. Ngôn ngữ bên ngoài Ngôn ngữ bên ngoài là loại ngôn ngữ chủ yếu hướng vào người khác, nhằm mục đích giao tiếp. Ngôn ngữ bên ngoài bao gồm: ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. * Ngôn ngữ nói: Ngôn ngữ nói có sớm nhất, biểu hiện bằng âm thanh và được tiếp thu bằng cơ quan thính giác. Có hai loại ngôn ngữ nói: ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại. - Ngôn ngữ đối thoại: là hình thức có sớm nhất ở loài người. Đối thoại diễn ra giữa hai người hay một nhóm người. Đối thoại là hình thức ngôn ngữ đơn giản nhất, nó có những đặc điểm sau: + Có tính chất tình huống, nghĩa là ngôn ngữ trong khi đối thoại liên quan chặt chẽ với hoàn cảnh diễn ra cuộc trao đổi. Nó nảy sinh, được duy trì và kết thúc tùy theo hoàn cảnh cụ thể đó. Câu nói trong đối
- thoại thường ở dạng rút gọn nhờ có sự hỗ trợ của những phương tiện phi ngôn ngữ như ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, nụ cười. + Ít có tính chủ định và thường bị động. Những lời đối đáp trong đối thoại thường có tính chất phản ứng. Câu nói của người này ở chừng mực nào đó do câu nói của người kia quy định, đồng thời nó làm nảy sinh ở người kia câu nói tiếp theo. + Cấu trúc của ngôn ngữ đối thoại thường không thật chặt chẽ. Những lời đối đáp trong đối thoại thường không có chương trình định trước, cấu trúc của biểu đạt thường đơn giản cho nên trong ngôn ngữ đối thoại vừa có nhiều từ được rút gọn, đồng thời có thêm những từ đệm, những câu rườm rà. Những đặc điểm này làm cho người tham gia đối thoại đỡ gặp khó khăn trong khi vận dụng ngôn ngữ. - Ngôn ngữ độc thoại: là loại ngôn ngữ được phát triển từ ngôn ngữ đối thoại. Ngôn ngữ độc thoại diễn ra trong hoàn cảnh giao tiếp giữa một người nói liên tục và những người khác nghe. Ngôn ngữ độc thoại đòi hỏi người nói phải đáp ứng những yêu cầu sau: Người nói phải có sự chuẩn bị kĩ càng, chu đáo
- về chương trình, nội dung, lời nói phải chính xác, dễ hiểu. có khả năng truyền cảm. Trong khi nói phải theo dõi người nghe để làm sáng tỏ những vấn đề người nghe chưa rõ, điều chỉnh ngôn ngữ của mình cho phù hợp với đối tượng. Người nói phải tận dụng khả năng truyền cảm của giao tiếp không lời như âm điệu, nhịp điệu, cường độ giọng nói, nét mặt, cử chỉ, điệu bộ một cách phù hợp. * Ngôn ngữ viết: Ngôn ngữ viết ra đời muộn hơn ngôn ngữ nói, là biến dạng của ngôn ngữ độc thoại. Ngôn ngữ viết nảy sinh do nhu cầu giao tiếp của những người ở cách xa nhau và để lưu trữ, truyền đạt kinh nghiệm của thế hệ trước cho thế hệ sau. Ngôn ngữ viết là ngôn ngữ được biểu hiện bằng kí hiệu, tín hiệu, chữ viết. Ngôn ngữ viết có những đặc điểm sau: Ngôn ngữ viết đòi hỏi phải lựa chọn những từ diễn đạt sáng sủa, chính xác ý nghĩ của người viết. Các câu, các ý phải tuân theo một trình tự lôgic rất chặt chẽ, hợp lí. Ngôn ngữ viết là dạng ngôn ngữ có tính chủ định nhất. Những điều viết ra phải thể hiện được nội dung cần diễn đạt. Trong trường hợp chưa đạt yêu cầu đó, người viết phải viết lại. Sự lựa chọn như vậy thường kết hợp với việc sử dụng ngôn ngữ bên trong (nghĩ rồi mới
- viết ra). b. Ngôn ngữ bên trong Đây là một dạng đặc biệt của ngôn ngữ, nó hướng vào bản thân chủ thể. Ngôn ngữ bên trong là vỏ từ ngữ của tư duy, của ý thức, giúp con người tự điều khiển, tự điều chỉnh mình. Ngôn ngữ bên trong có thể biểu hiện qua ngôn ngữ thầm, không phát ra âm thanh, rút gọn và cô đọng. Nhiều thành phần trong câu bị lược đi, thường chỉ còn lại những từ chủ yếu như chủ ngữ hoặc vị ngữ, tương tự như văn phong của điện báo. Ngoài ra ngôn ngữ bên trong tồn tại như những hình ảnh thị giác, thính giác và vận động - ngôn ngữ của các từ mà con người hoàn toàn không nói ra. Ở trẻ em, ngôn ngữ bên trong được hình thành trên cơ sở ngôn ngữ bên ngoài do quá trình nội tâm hóa hoạt động tâm lí. Trẻ em 3 tuổi sau khi nắm được một số từ và câu, thường tự nói thành tiếng với mình. Đó là biểu hiện của bước quá độ chuyển ngôn ngữ vào bình diện bên trong. Sau đó trẻ có khả năng chuyển ngôn ngữ bên trong thành ngôn ngữ bên ngoài để diễn đạt ý nghĩ và tình cảm của mình. Khi chuyển từ ngôn ngữ
- bên ngoài thành ngôn ngữ bên trong, trẻ thường trải qua thời kì độc thoại hay đối thoại với chính mình dưới dạng ngôn ngữ chưa rút gọn, vẫn gọi là ngôn ngữ bên ngoài, mặc dù không thành tiếng. Tiếp đó mới chuyển thành ngôn ngữ bên trong thể hiện qua ngôn ngữ thầm, không phát ra âm thanh, rút gọn và cô đọng. Các dạng hoạt động ngôn ngữ trên đều có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau và có thể chuyển hóa cho nhau. Chất lượng của các dạng hoạt động ngôn ngữ tùy thuộc vào sự rèn luyện tích cực của mỗi cá nhân trong hoạt động và giao tiếp. 3. Vai trò của ngôn ngữ đối với hoạt động nhận thức Ngôn ngữ có vai trò quan trọng đối với toàn bộ hoạt động của con người. Nhờ sự tham gia của ngôn ngữ vào việc tổ chức, điều chỉnh các hoạt động tâm lí mà tâm lí của con người mang tính mục đích, tính xã hội và tính khái quát cao. Ngoài chức năng là công cụ của giao tiếp, ngôn ngữ còn là công cụ của tư duy và có ảnh hưởng quan trọng tới toàn bộ hoạt động nhận thức của con người.
- a. Vai trò của ngôn ngữ đối với cảm giác và tri giác Dưới tác động của ngôn ngữ, nhất là ngôn ngữ bên trong có thể làm thay đổi ngưỡng cảm giác, tính nhạy cảm của cảm giác, hoặc có thể gây nên những ảo ảnh tri giác bằng tác động của ngôn ngữ. Sự tham gia của ngôn ngữ vào quá trình tri giác giúp cho các cảm giác thành phần được tổ hợp lại thành một chỉnh thể, một hình tượng trọn vẹn gắn liền với một ý nghĩa, một tên gọi cụ thể (quy luật tính có ý nghĩa của tri giác). Ngôn ngữ làm cho các quá trình tri giác diễn ra dễ dàng, nhanh chóng và làm cho sự vật hiện tượng được tri giác trở nên khách quan, đầy đủ và rõ ràng hơn. Ví dụ, nhờ ngôn ngữ mà việc tách đối tượng ra khỏi bối cảnh để tri giác tốt hơn (quy luật về tính lựa chọn của tri giác). Ngôn ngữ giúp cho việc xây dựng một hình ảnh trọn vẹn về đối tượng (quy luật tính trọn vẹn của tri giác). Ở một mức độ phát triển nhất định của con người, nhờ có ngôn ngữ mà tri giác của con người mang tính chủ định (có mục đích, có kế hoạch, có phương pháp). Chất lượng của quan sát không chỉ phụ thuộc vào khả năng tinh vi, nhạy bén của các giác
- quan, mà côn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ tư duy, vào vốn kinh nghiệm sống, vào khả năng ngôn ngữ. b. Vai trò của ngôn ngữ đối với trí nhớ Ngôn ngữ có ảnh hưởng quan trọng đối với trí nhớ của con người. Ngôn ngữ tham gia tích cực vào quá trình ghi nhớ và gắn bó chặt chẽ với quá trình đó làm cho sự ghi nhớ, gìn giữ và nhận lại nhớ lại của con người có chủ định, có ý nghĩa. Không có ngôn ngữ thì không thể thực hiện được sự ghi nhớ có chủ định, sự ghi nhớ có ý nghĩa và cả ghi nhớ máy móc. Ngôn ngữ là một phương tiện để ghi nhớ, là một hình thức để lưu giữ những kết quả cần nhớ. Nhờ ngôn ngữ con người có thể chuyển hẳn những thông tin cần nhớ ra bên ngoài đầu óc con người. Chính bằng cách này con người lưu giữ và truyền đạt được kinh nghiệm của loài cho thế hệ sau. c. vai trò của ngôn ngữ đối với tư duy Ngôn ngữ liên quan chặt chẽ tới tư duy của con người. Tư duy sử dụng ngôn ngữ làm phương tiện, công cụ để tư duy, chính điều này làm tư duy của con người khác về chất so với tư duy của con vật - con người có tư duy trừu tượng. Không có ngôn ngữ thì
- con người không thể tư duy trừu tượng và khái quát được. Nhờ ngôn ngữ mà chủ thể tư duy nhận thức được tình huống có vấn đề, tiến hành các thao tác tư duy và biểu đạt các kết quả của tư duy thành từ ngữ, thành câu. d. Vai trò của ngôn ngữ đối với tưởng tượng Trong quá trình tưởng tượng, ngôn ngữ có vai trò to lớn trong việc hình thành và biểu đạt các hình ảnh mới. Trong quá trình tưởng tượng, hệ thống các đường liên hệ thần kinh tạm thời (nơi chứa đựng biểu tượng của trí nhớ) tựa như bị phân giải và được kết hợp thành một hệ thống mới. Sự phân giải và kết hợp này diễn ra trong não dưới tác động của ngôn ngữ. Ngôn ngữ làm cho tưởng tượng trở thành một quá trình có ý thức, được điều khiển tích cực có kết quả và chất lượng cao. Tóm lại, ngôn ngữ có vai trò đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động nhận thức của con người. Không thể hiểu được những đặc trưng tâm lí diễn ra trong quá trình nhận thức nếu không hiểu được vai trò của ngôn ngữ trong sự hình thành các quá trình ấy.
- Created by AM Word2CHM
- IV. TRÍ NHỚ GIÁO TRÌNH TÂM LÍ HỌC ĐẠI CƯƠNG à Chương 4: HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC Con người luôn luôn nhận thức thế giới khách quan và không ngừng cải tạo nó để phục vụ cho cuộc sống của mình. Để thực hiện được điều này con người phải tích luỹ hiểu biết và kinh nghiệm trong mọi lĩnh vực hoạt động thực tiễn của mình. Một trong những yếu tố cơ bản để có thể tích luỹ được hiểu biết và kinh nghiệm là trí nhớ. 1. Khái niệm chung về trí nhớ 1.1. Định nghĩa trí nhớ Trí nhớlà quá trình tâm lí phản ánh vốn kinh nghiệm của cá nhân dưới hình thức biểu tượng bằng cách ghi nhớ, gìn giữ, nhận lại và nhớ lại những điều mà con người đã trải qua. Cũng như cảm giác và tri giác, trí nhớ cũng là một quá trình tâm lí, song cảm giác và tri giác phản ánh những sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của ta, còn trí nhớ là sự phản ánh
- những sự vật, hiện tượng đã tác động vào ta trước đây mà không cần có sự tác động của bản thân chúng trong hiện tại. Nói cách khác, trí nhớ phản ánh kinh nghiệm của con người. Kinh nghiệm này có thể là những hình ảnh cụ thể, có thể là những trải nghiệm hay rung động, những cảm xúc, ý nghĩ, tư tưởng. Sản phẩm được tạo ra trong quá trình trí nhớ là các biểu tượng. Biểu tượng của trí nhớ là hình ảnh của sự vật hiện tượng nảy sinh trong óc ta khi không có sự vật hiện tượng tác động trực tiếp vào giác quan ta. Biểu tượng chính là kết quả của sự chế biến và khái quát hoá các hình ảnh của tri giác trước đây. Không có tri giác thì không thể có biểu tượng được. Biểu tượng khác với hình tượng của tri giác ở chỗ: biểu tượng phản ánh sự vật một cách khái quát hơn. Nó phản ánh những dấu hiệu đặc trưng trực quan của sự vật hiện tượng. Như vậy biểu tượng vừa mang tính chất trực quan, vừa mang tính chất khái quát. Nó giống hình ảnh của cảm giác và tri giác ở tính trực quan, nhưng nó cao hơn ở tính khái quát.
- Mức độ đúng đắn, sâu sắc và bền vững của trí nhớ một phần phụ thuộc vào nội dung, tính chất của sự vật hiện tượng, tài liệu cần nhớ. Mặt khác còn phụ thuộc vào chủ thể của hoạt động nhớ. Những sự vật hiện tượng, tài liệu có liên quan nhiều tới nhu cầu, hứng thú, tình cảm của con người, được ghi lại, gìn giữ và nhớ lại sâu sắc, đầy đủ hơn. Từ định nghĩa về trí nhớ cũng cho thấy trí nhớ là một hoạt động tâm lí phức tạp bao gồm nhiều hành động: ghi nhớ, gìn giữ, nhận lại và nhớ lại. Các hành động nói trên có quan hệ mật thiết với nhau trong một chỉnh thể, tạo nên kho tàng trí nhớ của con người. 1.2. Vai trò của trí nhớ Trong cuộc sống của con người trí nhớ có vai trò rất quan trọng. Trí nhớ là điều kiện không thể thiếu được để con người có đời sống tâm lí bình thường và ổn định. Nhờ có trí nhớ mà con người tích luỹ vốn kinh nghiệm và đem những kinh nghiệm đó vận dụng vào cuộc sống. Như vậy không có trí nhớ thì không có kinh nghiệm, không có kinh nghiệm thì không thể có bất cứ một hành động nào, không thể phát triển tâm lí, nhân cách con người. I.M.Xêtrenốp cho rằng trí nhớ là "điều
- kiện cơ bản của cuộc sống tâm lí" là "cơ sở của sự phát triển tâm lí", "nếu không có trí nhớ thì con người mãi mãi ở tình trạng của một đứa trẻ sơ sinh". Đối với hoạt động nhận thức của con người trí nhớ có vai trò đặc biệt to lớn. Nó là công cụ để lưu giữ lại kết quả của các quá trình cảm giác và tri giác, nhờ đó nhận thức phân biệt được cái mới tác động lần đầu tiên và cái cũ đã tác động trước đây để có thể ứng xử thích hợp tức thì với hoàn cảnh sống. Trí nhớ là một điều kiện quan trọng để diễn ra quá trình nhận thức lí tính (tư duy và tưởng tượng) và làm cho quá trình này đạt được kết quả hợp lí. ở đây trí nhớ đã cung cấp các tài liệu do nhận thức cảm tính thu nhận cho nhận thức lí tính một cách trung thành và đầy đủ. Như vậy trí nhớ phản ánh kinh nghiệm của con người trong mọi lĩnh vực: nhận thức, tình cảm và hành vi, do đó trí nhớ có tính chất quyết định đời sống tâm lí con người, quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Ơ những người bị bệnh hỏng trí nhớ, ta thấy cuộc sống hàng ngày của họ bị rối loạn, không bình thường, họ không có khả năng suy nghĩ, sáng tạo hay dự kiến tương lai trên cơ sở những hiểu biết và kinh nghiệm đã có.
- 1.3. Cơ sở sinh lí của trí nhớ Cơ sở sinh lí của trí nhớ là sự hình thành, giữ lại và gợi lại những đường liên hệ thần kinh tạm thời và sự diễn biến của các quá trình lí hoá trong vỏ não và phần dưới vỏ. Những đường liên hệ thần kinh tạm thời đó được củng cố tương đối vững chắc nhờ có sự lặp đi lặp lại nhiều lần và có thời gian nhất định để củng cố. Khi ta nhớ lại, nhận lại một sự vật, hiện tượng nào đó cũng có nghĩa là ta đã phục hồi những đường liên hệ thần kinh tạm thời đã được thành lập trước đây. Sự hình thành và giữ gìn các đường liên hệ tạm thời, sự dập tắt và làm sống lại chúng chính là cơ sở sinh lí của các liên tưởng, của trí nhớ. I.P. Paplốp đã viết: "Đường liên hệ thần kinh tạm thời là một hiện tượng sinh lí phổ cập trong thế giới động vật và cả trong bản thân chúng ta. Đồng thời nó cũng là hiện tượng tâm lí cái mà các nhà tâm lí gọi là liên tưởng" (I.P. Paplôp toàn tập-trang 325). Trí nhớ là một quá trình phức tạp, cho đến nay chưa có một lí thuyết thống nhất về cơ chế của trí nhớ, trong đó thuyết tế bào thần kinh được nhiều nhà khoa học quan tâm. Thuyết này cho rằng các tế bào thần kinh tạo thành những chuỗi và theo những chuỗi đó
- các luồng điện sinh học chạy tuần hoàn. Do ảnh hưởng của các luồng điện sinh học này mà xảy ra những biến đổi trong các xináp (nơi tiếp nối giữa các tế bào thần kinh), điều này làm dễ dàng cho sự đi qua tiếp theo của những luồng điện sinh học theo các con đường đó. Tính chất khác biệt của các chuỗi tế bào thần kinh (nơron) tương ứng với các thông tin được củng cố. 2. Các quá trình cơ bản của trí nhớ Trí nhớ của con người là hoạt động tích cực phức tạp, bao gồm nhiều quá trình khác nhau và có mối quan hệ qua lại với nhau, đó là các quá trình: ghi nhớ, gìn giữ, nhận lại và nhớ lại. 2.1. Quá trình ghi nhớ Đây là giai đoạn đầu tiên của một hoạt động nhớ cụ thể nào đó. Ghi nhớ là quá trình hình thành dấu vết "ấn tượng" của đối tượng mà ta đang tri giác (tức là tài liệu phải ghi nhớ) trên vỏ não, đồng thời cũng là quá trình hình thành mối liên hệ giữa tài liệu mới với tài liệu cũ đã có, cũng như mối liên hệ giữa các bộ phận của bản thân tài liệu mới với nhau. Điều này làm cho ghi nhớ khác với tri giác, mặc dù ghi nhớ khởi đầu
- đồng thời với quá trình tri giác tài liệu. Có nhiều hình thức ghi nhớ khác nhau. Căn cứ vào mục đích của việc ghi nhớ có thể chia thành hai loại là: ghi nhớ không chủ định và ghi nhớ có chủ định a. Ghi nhớ không chủ định Ghi nhở không chủ định là loại ghi nhớ được thực hiện mà không cần phải đặt ra mục đích ghi nhớ từ trước; nó không đòi hỏi một sự nỗ lực ý chí nào, mà dường như được thực hiện một cách tự nhiên. Nhưng không phải mọi sự kiện, hiện tượng đều được ghi nhớ một cách không chủ định như nhau. Trước hết, độ bền vững và độ lâu dài của ghi nhớ không chủ định phụ thuộc vào màu sắc, sự di động và các đặc điểm khác của đối tượng. Ghi nhớ không chủ định đặc biệt có hiệu quả khi nó được gắn với những cảm xúc rõ ràng và mạnh mẽ. Hứng thú có vai trò to lớn đối với ghi nhớ không chủ định. Ghi nhớ không chủ định có ý nghĩa to lớn trong đời sống, nó mở rộng và làm phong phú kinh nghiệm sống của con người mà không đòi hỏi một sự nỗ lực đặc biệt nào. Các công trình nghiên cứu về tâm lí học sư
- phạm đã chỉ ra rằng: việc đặt ra nhiệm vụ phải ghi nhớ tài liệu học tập một cách quá sớm thường ảnh hưởng xấu đến sự thông hiểu tài liệu. Trong trường hợp này nhiệm vụ cơ bản của học sinh là suy nghĩ về tài liệu mới, còn việc ghi nhớ tài liệu mới đó diễn ra một cách không chủ định, trong chính quá trình suy nghĩ. Cái gì có liên quan với mục đích của hoạt động, với nội dung cơ bản của hoạt động thì sẽ ghi nhớ một cách không chủ định. b. Ghi nhớ có chủ định Ghi nhớ có chủ định là loại ghi nhớ theo một mục đích đã định từ trước; nó đòi hỏi một sự nỗ lực ý chí nhất định, cũng như những thủ thuật và các biện pháp ghi nhớ. Hiệu quả của ghi nhớ có chủ định phụ thuộc nhiều vào động cơ, mục đích của sự ghi nhớ. Hoạt động học tập của học sinh và giảng dạy của giáo viên chủ yếu được dựa trên loại ghi nhớ có chủ định. Thông thường có hai cách ghi nhớ có chủ định sau: ghi nhớ máy móc và ghi nhớ có ý nghĩa. - Ghi nhớ máy móc là loại ghi nhớ dựa trên sự lặp đi lặp lại tài liệu nhiều lần một cách giản đơn. Sự học vẹt là một biểu hiện điển hình của loại ghi nhớ
- này. Nói chung, học sinh nhớ máy móc trong những trường hợp sau: a) Không thể hiểu hoặc lười không chịu tìm hiểu ý nghĩa của tài liệu; b) Các phần tài liệu rời rạc, không có quan hệ lôgíc với nhau; c) Giáo viên thường xuyên yêu cầu trả lời đúng từng câu từng chữ trong sách giáo khoa. Ghi nhớ máy móc thường dẫn đến sự lĩnh hội tri thức một cách hình thức và tốn nhiều thời gian. Tuy vậy, ghi nhớ máy móc trở nên hữu ích trong trường hợp ta phai ghi nhớ những tài liệu không có nội dung khái quát, ví dụ như số điện thoại, số tài khoản ngân hàng, ngày tháng năm sinh, v.v - Ghi nhớ có ý nghĩa là loại ghi nhở dựa trên sự thông hiểu nội dung của tài liệu, trên sự nhận thức được những mối liên hệ lôgíc giữa các bộ phận của tài liệu đó. Loại ghi nhớ này gắn liền với quá trình tư duy. Một hình thức điển hình của loại ghi nhớ này trong hoạt động học tập là phương pháp ghi nhớ theo điểm tựa. Ghi nhớ có ý nghĩa là loại ghi nhở chủ yếu trong hoạt động học tập của học sinh, nó bảo đảm lĩnh hội tri thức một cách sâu sắc, bền vững và nếu quên thì cũng dễ nhớ lại hơn. Nó tốn ít thời gian hơn so với ghi nhớ máy móc, nhưng lại tiêu hao năng lượng thần kinh nhiều hơn.
- c. Học thuộc lòng và thuật nhớ Có nhiều trường hợp ta phải học thuộc lòng một tài liệu nào đó, ví dụ học thuộc lòng các định nghĩa, định luật, các bài khoá, các từ nước ngoài, hay giáo án, v.v Học thuộc lòng là sự kết hợp ghi nhớ có ý nghĩa với ghi nhớ máy móc, nghĩa là ghi nhớ máy móc trên cơ sở thông hiểu tài liệu ghi nhớ. Nó hoàn toàn khác với học vẹt. Thuật nhớ là sự ghi nhớ có chủ định bằng cách tự tạo ra mối liên hệ bề ngoài, giả tạo để dễ nhớ, ví dụ ta đặt các từ cần nhớ thành một câu có vần điệu để dễ nhớ. 2.2. Quá trình gìn giữ Gìn giữ là quá trình củng cố vững chắc những dấu vết đã hình thành được trên vỏ não trong quá trình ghi nhớ. Có hai hình thức gìn giữ: tiêu cực và tích cực. Gìn giữ tiêu cực là sự gìn giữ được dựa trên sự tri giác đi tri giác lại nhiều lần đối với tài liệu một cách giản đơn. Còn gìn giữ tích cực là sự gìn giữ được thực hiện bằng cách nhớ lại (tái hiện) trong óc tài liệu đã ghi nhớ, mà không phải tri giác lại tài liệu đó. Trong hoạt động học tập của học sinh, quá trình gìn giữ được gọi là ôn tập. Kinh nghiệm "đi truy,
- về trao" của học sinh chính là một cách ôn tập tích cực. 2.3. Quá trình nhận lại và nhớ lại Kết quả của quá trình ghi nhớ và gìn giữ được thực hiện trong quá trình nhận lại và nhớ lại. Nhận lại là sự nhớ lại một đối tượng nào đó trong điều kiện tri giác lại đối tượng đó. Nhận lại diễn ra là do cái được tri giác trong lúc này giống với cái đã tri giác trước đây. Khi tri giác lại cái đã tri giác trước đây, ở ta sẽ xuất hiện một cảm giác "quen thuộc" đặc biệt, chính cảm giác này là cơ sở của sự nhận lại. Nhớ lại là biểu hiện cao của trí nhớ tốt, là khả năng làm sống lại những hình ảnh của sự vật hiện tượng đã được ghi nhớ trước đây mà không cần dựa vào sự tri giác lại những đối tượng đã gây nên hình ảnh đó. Nhận lại và nhớ lại đều có thể không chủ định hoặc chủ định. Khi nhớ lại có chủ định đòi hỏi phải có sự khắc phục những khó khăn nhất định, phải có sự nỗ lực ý chí thì gọi là sự hồi tưởng. Khi nhớ lại các hình ảnh cũ được khu trú trong không gian và thời gian thì gọi là hồi ức. Trong hồi ức, Chúng ta không chỉ nhớ lại các đối tượng đã qua, mà còn đặt chúng vào một thời
- gian và địa điểm nhất định. 3. Sự quên và cách chống quên 3.1. Quên và quy luật của sự quên Quên là biểu hiện của sự không nhận lại hay nhớ lại được hoặc là nhận lại nhớ lại sai. Sự quên diễn ra theo một số quy luật nhất định: - Người ta thường quên những cái không liên quan hoặc ít liên quan đến đời sống của mình, những cái không phù hợp với hứng thú, nhu cầu, sở thích của cá nhân. - Nói chung những cái ít được củng cố hoặc không được sử dụng thường xuyên trong hoạt động hàng ngày của cá nhân thì cũng dễ bị quên. - Người ta cũng hay quên khi gặp những kích thích mới lạ hoặc những kích thích mạnh. - Sự quên diễn ra theo một trình tự xác định: chi tiết quên trước ý chính quên sau. Trong chi tiết thì chi tiết nào phù hợp với hứng thú cá nhân, gây được ấn tượng cảm xúc sâu sắc thì lâu quên hơn ("Miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời").
- - Sự quên diễn ra với tốc độ không đồng đều: ở giai đoạn đầu mới ghi nhớ, tốc độ quên khá nhanh và tốc độ quên giảm dần về sau (Ebin Gao đã chỉ ra quy luật này). Trên thực tế có những điều bị quên " vĩnh viễn", có những điều chỉ bị quên tạm thời, có những trường hợp chỉ quên bộ phận, không có sự quên hoàn tuyệt đôi. Dù ta khó có thể nhận lại hoặc nhớ lại một điều gì đó thì trên vỏ não chúng ta vẫn còn để lại một dấu vết nào đó về điều ấy. Trong một số trường hợp, sự quên là cần thiết. Vì thế về một mặt nào đó, quên là hiện tượng hợp lí và có ích. Song cần phải chống quên những điều cần phải giữ gìn và củng cố trong kho tàng kí ức của mỗi người. 3.2. Cách chống quên Những biện pháp cơ bản để chống quên là: - Phải tiến hành ôn tập ngay sau khi nhớ tài liệu. Từ quy luật Ebin Gao, chúng ta cần chú ý tổ chức cho học sinh tái hiện bài học, làm bài tập ứng dụng ngay sau khi học, đó là biện pháp quan trọng để giữ gìn và củng cố tri thức trong trí nhớ (hình thức "xào bài" là cần thiết đối với học sinh).
- - Phải ôn xen kẽ, không nên chỉ ôn liên tục một loại tài liệu, một môn học. - Cần tiến hành ôn tập thường xuyên, ôn rải rác, phân tán ra nhiều đợt, không nên ôn tập trưng liên tục trong một thời gian dài. - Phải ôn tập một cách tích cực, cụ thể là tích cực nhớ lại và tư duy khi ôn tập; vận dụng nhiều giác quan vào việc ôn tập (mắt xem tài liệu, miệng đọc, tay viết); tích cực vận dụng, luyện tập thực hành khi ôn tập. - Ôn tập kết hợp với nghỉ ngơi hợp lí. - Cần thay đổi các hình thức và phương pháp ôn tập để có thể đạt hiệu quả cao. 4. Phân loại trí nhớ Trí nhớ được chia làm rất nhiều loại theo các tiêu chí khác nhau, trong đó có năm cách phân chia phổ biến như sau: - Căn cứ vào nguồn gốc hình thành trí nhớ ta có: trí nhớ giống loài và trí nhớ cá thể. - Căn cứ vào nội dung phản ánh của trí nhớ ta có: trí nhớ vận động, trí nhớ cảm xúc, trí nhớ hình ảnh, trí nhớ từ ngữ - lôgíc.
- - Căn cứ vào tính mục đích của trí nhở ta có: trí nhớ không chủ định và trí nhớ có chủ định. - Căn cứ theo thời gian củng cố và gìn giữ tài liệu ta có: trí nhớ ngắn hạn và trí nhớ dài hạn. - Căn cứ theo giác quan chủ đạo trong trí nhớ ta có: trí nhớ bằng mắt, bằng tai, bằng tay Theo các tiêu chí trên chúng ta có các loại trí nhớ dưới đây: 4.1. Trí nhớ giống loài và trí nhớ cá thể Trí nhớ giống loài là loại trí nhớ được hình thành trong quá trình phát triển chủng loại, mang tính chung cho cả giống loài và được biểu hiện dưới hình thức những bản năng, những phản xạ không điều kiện. Còn trí nhớ cá thể là loại trí nhớ được hình thành trong quá trình phát triển cá thể, không mang tính chất giống loài, mà mang tính chất cá thể. ở động vật loại trí nhớ này được biểu hiện ở những kĩ xảo, những phản xạ có điều kiện. ở con người, trí nhớ cá thể được biểu hiện ở kho tàng kinh nghiệm cá nhân phong phú của mỗi chúng ta. 4.2. Trí nhớ vận động, trí nhớ cảm xúc, trí nhớ hình
- ảnh và trí nhớ từ ngữ lôgic a. Trí nhớ vận động Loại trí nhớ này phản ánh những cử động và những hệ thống cử động. ý nghĩa to lớn của loại trí nhớ này là ở chỗ: nó là cơ sở để hình thành những kĩ xảo thực hành và lao động khác nhau: đi đứng, viết lách, v.v sự "khéo chân khéo tay", những "bàn tay vàng" là những dấu hiệu của trí nhớ vận động tốt. b. Trí nhớ cảm xúc Loại trí nhớ phản ánh những rung cảm, trải nghiệm của con người. Những rung cảm, trải nghiệm được giữ lại trong trí nhớ bộc lộ như là những tín hiệu hoặc kích thích hành động, hoặc kìm hãm hành động mà trước đây đã gây nên những rung cảm dương tính hoặc âm tính. Khả năng đồng cảm với người khác, với các nhân vật trong sách đều được dựa trên cơ sở của trí nhớ cảm xúc. c. Trí nhớ hình ảnh Đó là loại trí nhớ phản ánh những hình ảnh, biểu tượng thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác của các sự vật, hiện tượng đã tác động vào ta trước đây.
- Loại trí nhớ này có thể đạt đến trình độ phát triển cao một cách lạ thường trong điều kiện nó phải bù trừ hoặc thay thế cho những loại trí nhớ đã bị mất, chẳng hạn như những người mù, điếc, Nó thật đặc biệt phát triển ở những người làm nghề "nghệ thuật". Đôi khi ta gặp những người gọi là trí nhớ thị giác, nghĩa là loại trí nhớ mà biểu tượng của nó nảy sinh trong óc một cách sống động, tựa như sự vật, hiện tượng đang có trước mặt, tựa như con người "nhìn thấy" những vật không có trước mặt, "nghe thấy" những âm thanh không có trong hiện tại - đó là loại biểu tượng đặc biệt, rất chi tiết, đầy đủ như là hình ảnh của tri giác vậy. d. Trí nhớ từ ngữ - lôgíc Loại trí nhớ này phản ánh những ý nghĩ, tư tưởng của con người. ý nghĩ, tư tưởng không thể tồn tại bên ngoài ngôn ngữ được vì vậy người ta gọi loại trí nhớ này là trí nhớ từ ngữ - lôgíc. Hệ thống tín hiệu thứ hai có vai trò chính trong loại trí nhớ này. Đây là loại trí nhớ đặc trưng cho con người, ở con vật không có. Trên cơ sở sự phát triển của các loại trí nhớ kể trên, trí nhớ từ ngữ - lôgíc trở thành loại trí nhớ chủ đạo ở con người, nó giữ vai trò
- chính trong sự lĩnh hội tri thức của học sinh trong quá trình dạy học. 4.3. Trí nhớ không chủ định và trí nhớ có chủ định Trí nhớ không chủ định là loại trí nhớ mà trong đó việc ghi nhớ, gìn giữ và tái hiện một cái gì đó được thực hiện không theo mục đích định trước. Còn trí nhớ có chủ định thì ngược lại, nghĩa là được diễn ra theo những mục đích xác định. Hai loại trí nhớ này là hai mức độ phát triển nối tiếp nhau của trí nhớ, chúng đều giữ vai trò quan trọng đối với đời sống và hoạt động của mỗi người. 4.4. Trí nhớ ngắn hạn và trí nhớ dài hạn Gần đây, trong việc nghiên cứu người ta chú ý nhiều đến giai đoạn đầu tiên của việc ghi nhớ, đến việc củng cố các dấu vết của các tác động bên ngoài và đến bản thân quá trình hình thành các dấu vết đó. Muốn cho một tài liệu nào đó được củng cố trong trí nhớ thì nó cần được chủ thể chế biến một cách thích hợp. Việc chế biến đó đòi hỏi một thời gian nhất định, gọi là thời gian củng cố ("gắn chặt") các dấu vết. Nếu thời gian này diễn ra ngắn ngủi chốc lát và do đó dấu vết được giữ lại cũng chỉ trong một thời gian ngắn ngủi, thì đó