Giáo trình Tổ chức nhà nước ở Nam Bộ thời chính quyền Đàng Trong của các chúa Nguyễn - Nguyễn Thị Việt Hương

pdf 14 trang huongle 2740
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Tổ chức nhà nước ở Nam Bộ thời chính quyền Đàng Trong của các chúa Nguyễn - Nguyễn Thị Việt Hương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_to_chuc_nha_nuoc_o_nam_bo_thoi_chinh_quyen_dang_t.pdf

Nội dung text: Giáo trình Tổ chức nhà nước ở Nam Bộ thời chính quyền Đàng Trong của các chúa Nguyễn - Nguyễn Thị Việt Hương

  1. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam,CHÍNH số 4( 101TR)Ị 201 KINH6 TẾ HỌC Tổ chức nhà nước ở Nam Bộ thời chính quyền Đàng Trong của các chúa Nguyễn Nguyễn Thị Việt Hương * Cao Tự Thanh Tóm tắt: Bài viết phân tích quá trình xác lập và mô hình tổ chức nhà nước vùng Nam Bộ dưới thời chính quyền Đàng Trong của các chúa Nguyễn. Tổ chức nhà nước vùng Nam Bộ trong giai đoạn này mang nhiều nét đặc sắc, vừa tương đồng, vừa dị biệt so với chính quyền Đàng Ngoài và vùng Thuận Quảng của các chúa Nguyễn. Nghiên cứu tổ chức nhà nước ở Nam Bộ trong giai đoạn này sẽ giúp ta hiểu rõ hơn lịch sử nhà nước phong kiến Việt Nam nói riêng và lịch sử Việt Nam nói chung. Từ khóa: Chính quyền; nhà nước; lịch sử pháp luật; Đàng Trong; Nam Bộ; Chúa Nguyễn. 1. Mở đầu tiếp nhận nhóm Mạc Cửu đem trấn Hà Tiên Sau khi Nguyễn Hoàng trở về Thuận về quy phục. Thời kỳ 1698 - 1777 trong Hóa năm 1600, cục diện Đàng Trong - lịch sử nhà nước Việt Nam ở Nam Bộ do đó Đàng Ngoài ở Việt Nam đã bắt đầu manh nằm lọt vào giai đoạn Nam tiến thời Đàng nha và đến 1627 thì chính thức định hình Trong, lúc hệ thống quản lý xã hội mà hạt với việc Hy tông Phước Nguyên dàn quân nhân chính thống là hệ thống chính trị - tổ chống Trịnh trên sông Nhật Lệ. Nhưng sau chức nhà nước ở Đàng Trong đã phát triển chiến dịch 1772 kết thúc với trận Trấn Ninh một cách biệt lập với Đàng Ngoài và các thảm khốc thì thời kỳ Bắc cự của chính chúa Nguyễn đã tiến thêm được một bước quyền Đàng Trong về cơ bản cũng chấm dài trong việc ổn định chính quyền của dứt. Được rảnh tay ở phía Bắc, các chúa mình ở vùng Thuận Quảng.(*)Vậy mô hình Nguyễn dồn sức vào công cuộc khai thác hệ thống chính trị - tổ chức nhà nước ở phương Nam. Năm 1679 Thái tông Phước Nam Bộ dưới thời chính quyền Đàng Trong Tần tiếp nhận nhóm di thần phản Thanh của các chúa Nguyễn như thế nào? Do điều phục Minh Hoa Nam Trần Thượng Xuyên, kiện thư tịch mất mát, tài liệu thiếu thốn Dương Ngạn Địch qua tỵ nạn chính trị ở hiện không cho phép tìm hiểu toàn diện và Đàng Trong, cho họ vào khai phá Biên Hòa chi tiết hệ thống tổ chức nhà nước ở Nam và Mỹ Tho, đặt nền móng cho việc mở Bộ thời Đàng Trong của các chúa Nguyễn, mang lãnh thổ Đàng Trong tới vùng Nam nên bài viết này chỉ dừng ở những nét phác Bộ. Năm 1693, Hiển tông Phước Châu lập dinh Bình Thuận, đến 1698 cử Nguyễn Hữu (*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Nhà nước và Pháp luật, Cảnh vào kinh lược miền Nam, lập phủ Gia Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. ĐT: 0988891223. Email: khang1954@yahoo.com. Định, chính thức xác lập tổ chức nhà nước ( ) Nhà nghiên cứu Hán Nôm; ĐT: 0862568318. Việt Nam trên địa bàn này rồi đến 1708 lại Email: caotwthanh@yahoo.com. 28
  2. Nguyễn Thị Việt Hương, Cao Tự Thanh thảo về cấu trúc hành chính và tổ chức Hoàng, nhưng đến 1614, cùng với việc Hy chính quyền vùng Nam Bộ. tông Phước Nguyên đặt ra ba ty ở Chính 2. Bộ máy chính quyền Đàng Trong dinh cũng bước đầu được tổ chức lại. Có của các chúa Nguyễn một đường ranh rõ ràng về chức năng giữa Bộ máy trung ương của chính quyền hệ thống phủ huyện quản lý cư dân theo địa Đàng Trong nói chung và Nam Bộ nói bàn (đơn vị cơ sở là thôn xã) với hệ thống riêng được gọi là Chính dinh. Năm 1614 Hy dinh trấn quản lý cư dân theo nghề nghiệp tông Phước Nguyên bắt đầu đặt ba ty gồm (đơn vị cơ sở là tổng man thuộc nậu), trong ty Xá sai, ty Tướng thần, ty Lệnh sử, ngoài đó hệ thống phủ huyện chủ yếu chỉ coi việc ra còn có ty Nội Lệnh sử, hai ty Tả Hữu kiện tụng khám hỏi tế tự, còn hệ thống dinh Lệnh sử. Năm 1638 Thần tông Phước Lan trấn coi việc binh bị phu dịch thuế khóa và đặt các chức Nội tả, Nội hữu, Ngoại tả, thống thuộc hệ thống phủ huyện. Bộ máy Ngoại hữu làm tứ trụ đại thần. Đến 1744 chính trị - hành chính tổ chức theo mô hình Thế tông Phước Hoạt xưng vương, vẫn giữ quân chính (chế độ quân chính) này là đặc tứ trụ đại thần nhưng ở Chính dinh thì đổi điểm quan trọng nhất của thiết chế nhà nước Đô tri làm Hình bộ, Ký lục làm Lại bộ, Vệ ở Đàng Trong thế kỷ XVII - XVIII, đặc úy làm Lễ bộ, Cai bạ Phó Đoán sự làm Hộ điểm này sẽ phát triển mạnh hơn khi người bộ, Văn chức làm Hàn lâm viện, đặt thêm Việt tiến vào đồng bằng Nam Bộ về sau. Binh bộ và Công bộ. Đến giữa thế kỷ XVIII, chế độ quân Về tổ chức hành chính ở các địa phương chính vùng Thuận Quảng đã bắt đầu bộc lộ thì chính quyền Đàng Trong vẫn theo thể những điểm yếu trí mạng. Nhưng khác với chế nhà Lê, đặt làm hai đạo (thường gọi là vùng Thuận Quảng sau nhiều trăm năm xứ) Thuận Hóa và Quảng Nam, mỗi xứ phát triển đã có một hiện thực kinh tế - xã gồm nhiều phủ, mỗi phủ gồm nhiều huyện hội với những nhu cầu quản lý xã hội khác, châu, dưới nữa là tổng rồi tới các đơn vị cấp vùng Nam Bộ đến giữa thế kỷ XVIII còn cơ sở như thôn, xã (có các chức thôn đang trong giai đoạn đầu khai phá. Việc trưởng, xã trưởng, cai xã đứng đầu). Đáng khẳng định cơ cấu xã hội học với các thiết nói là hệ thống phủ huyện ở đây không chế xã hội Việt Nam ở đây do đó không thể thống nhất về tổ chức, chẳng hạn đến 1744 tiến hành một cách đồng bộ giữa tất cả các Thế tông Phước Hoạt xưng vương sắp xếp hệ thống sản xuất vật chất, sản xuất tinh lại bộ máy hành chính vẫn đặt riêng chức thần, giao tiếp xã hội, quản lý xã hội và tái Tuần phủ và Khám lý để cai trị hai phủ sản xuất sinh học - xã hội mà phải có một Quảng Ngãi và Quy Nhơn. Hệ thống quan hệ thống đóng vai trò bứt phá. Trong hoàn lại phụ trách việc thu thuế chính là hệ thống cảnh phức tạp của tình hình ngoại giao ở dinh trấn, một hệ thống quản lý xã hội khu vực lúc ấy, thiết chế chính trị - hành mang đậm màu sắc quân chính và là trụ cột chính quân chính của chính quyền Đàng trong thiết chế nhà nước của chính quyền Trong với tư cách hệ thống quản lý xã hội Đàng Trong. vô hình trung lại là phương án tối ưu trong Hệ thống dinh trấn của chính quyền việc khẳng định chủ quyền của cộng đồng Đàng Trong đã hình thành từ đời Nguyễn Việt Nam trên vùng đất mới phương Nam. 29
  3. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016 Sau khi bắt giết Duệ tông Phước Thuần Đồng Nai, từ các cửa biển Cần Giờ, Soài và Tân chính vương Phước Dương năm Lạp, cửa Đại, cửa Tiểu, toàn là rừng rậm 1777, năm 1778 Nguyễn Nhạc lên ngôi mấy nghìn dặm, họ Nguyễn trước đánh hoàng đế, lấy niên hiệu là Thái Đức, đóng nhau với Cao Miên, mà lấy được, mới chiêu đô ở Quy Nhơn. Nhưng cũng trong năm ấy, mộ những dân có vật lực ở xứ Quảng Nam, Nguyễn Ánh được các lực lượng phù các phủ Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn Nguyễn chống Tây Sơn ở Nam Bộ tôn là cho dời tới ở đây, phá chặt mở mang, hết Đại Nguyên soái Nhiếp quốc chính đánh thảy thành bằng phẳng” [1, tr.345]. Chúng chiếm được Sài Gòn, mở ra cuộc chiến ta có thể xem xét đến nguồn gốc và động cơ dằng dai trên địa bàn này suốt mười năm, của các thế hệ người Việt khai hoang. Đó là đến 1788 mới chiếm được Nam Bộ lần những tù binh được chính quyền Đàng cuối. Cho nên trong thời gian 1778 - 1788, Trong bắt được trong các cuộc chiến tranh hệ thống chính quyền Việt Nam trên vùng với chính quyền Đàng Ngoài. Từ năm 1627 Nam Bộ do hai lực lượng chính trị đối lập đến 1672 đã có 5 cuộc chiến tranh lớn giữa với nhau tổ chức tức chính quyền Nguyễn Đàng Trong và Đàng Ngoài. Các cuộc Ánh và chính quyền Tây Sơn. Sau khi chiến kéo dài này đã làm cho cả vùng Nghệ chiếm được Gia Định lần cuối, Nguyễn An trở nên hoang tàn. Ở Nghệ An, các tù Ánh từng bước xây dựng và củng cố bộ binh này đều được đưa đến khai khẩn ở máy chính quyền. Mặc dù giai đoạn này vùng dinh Trấn Biên (Phú Yên), các khu không còn nằm trong trạng thái chính trị vực nam Thuận Quảng và Nam Bộ. Lớp của “chính quyền Đàng Trong” nhưng về người thứ hai đến khai khẩn ở Nam Bộ là cơ bản, đó là sự kết nối và do vậy mang những tù nhân trốn quân ngũ, những tội nhiều dấu tích của cách quản lý xã hội của phạm, những người có máu anh hùng muốn chính quyền Đàng Trong. đi tìm vùng đất mới để lập nghiệp (có ý 3. Quá trình các chúa Nguyễn xác lập kiến cho rằng, tính chất phong đãng, tính đơn vị hành chính và thiết lập tổ chức cách ngang tàn của người Nam Bộ không nhà nước vùng Nam Bộ chỉ do thiên nhiên ưu đãi, mà còn do chỗ 3.1. Chính sách di dân, khẩn hoang, nhiều người đến Nam Bộ có tính phưu lưu xác lập các đơn vị cộng cư truyền thống muốn đi tìm vùng đất mới). Những người Đơn vị hành chính và cộng cư cơ bản, này đến Nam Bộ cả từ nơi xuất phát là mang tính truyền thống của người Việt là Đàng Trong và Đàng Ngoài. Tầng lớp dân làng xã. Từ cái nôi là Bắc Bộ, đi theo nghèo đi khai hoang chiếm tỉ lệ rất lớn. những bước chân mở đất, đến vùng Nam Những người dân nghèo cũng đến đây cả từ Bộ người Việt lại thiết lập các đơn vị cộng Đàng Trong và Đàng Ngoài. cư truyền thống để sinh tụ và khai hoang. Cùng với sự di dân khai hoang của người Trước năm 1698 đã có nhiều cuộc di dân Việt còn có người Chăm, người Hoa. Người lẻ tẻ và thường xuyên của người Việt đến Chăm ở vương quốc Chămpa suy yếu đã Nam Bộ lập làng, khai phá đất hoang với tham gia vào đội ngũ vào khẩn hoang Nam mục đích mưu sinh. Trong Phủ biên tạp lục, Bộ một cách tích cực nhất. Bên cạnh đó là Lê Quý Đôn cho biết: “Phủ Gia Định, đất những nhóm người Hoa. Năm 1679 Trần 30
  4. Nguyễn Thị Việt Hương, Cao Tự Thanh Thượng Xuyên cùng với 5.000 quân cùng Nguyễn Hữu Kính kinh lược đất Chân Lạp, gia nhân và 50 chiến thuyền đến cửa biển chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm Tư Dung và Đà Nẵng xin quy phục. “Họ vỡ huyện Phúc Long (nay thăng làm phủ), đất hoang, dựng phố xá, thuyền buôn của dựng dinh Trấn Biên (tức Biên Hòa ngày người Thanh và các nước Tây Dương, Nhật nay), lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình Bản, Chà Và đi lại tấp nập, do đó mà phong (nay thăng làm phủ), dựng dinh Phiên Trấn hóa Hán [phong hóa văn minh] thấm dần (tức Gia Định ngày nay) Thiết lập xã thôn vào đất Đông Phố” [5, tr.91]. Như vậy, phường ấp, chia cắt giới phận, khai khẩn “đám Minh thần lưu vong nửa cướp, nửa ruộng nương, định lệnh thuế tô dung, làm quan” (chữ dùng của Tạ Chí Đại Trường sổ đinh điền” [5, tr.111]. Đây là sự kiện [12, tr.97]. Đồng thời Tạ Chí Đại Trường đánh dấu bước khẳng định chủ quyền quan cho rằng: “Đất Gia Định mà chú cháu trọng của các chúa Nguyễn. Và chính từ sự Nguyễn Phúc Ánh dắt díu nhau vào hồi kiện này, nền hành chính ở Nam Bộ đã tháng 2 (Ất Mùi 1775) là nơi lập thành do chính thức được chính quyền Đàng Trong công khai thác của hai nhóm người: đám xác lập. Minh thần lưu vong nửa cướp, nửa quan và Sau năm 1698, chính quyền Đàng đám nông dân Việt nghèo khổ” [12, tr.97]. Trong tiếp tục đẩy mạnh chính sách khẩn Nhận xét này có phần khuyết thiếu, bởi vì hoang nhờ thiết lập được hai huyện đầu ngoài hai lực lượng này thì còn có tầng lớp tiên ở Nam Bộ, biến nó thành “tổng hành giàu có người Việt có tiền để mộ dân và có dinh” của các hoạt động khai phá tiếp theo. nông cụ; ngoài ra có cư dân người Chăm bị Đồng thời sự kiện 1698 cũng giúp khẳng dồn xuống Nam Bộ) cũng là lực lượng định được vị thế của chính quyền Đàng tham gia vào quá trình khẩn hoang. Trong với Chân Lạp, trở thành bước đi Tóm lại, khai thác Nam Bộ là công lao chính trị quan trọng cho việc mở rộng chủ của nhiều lớp người với các nguồn gốc quyền và đẩy mạnh khai phá vùng Nam khác nhau, chính họ với quá trình khẩn Bộ, Việt Nam. hoang của mình đã tạo ra một nguồn lực lớn Trong suốt thế kỷ XVIII, chính sách di và là cơ sở để sau này chính quyền Đàng dân khai hoang vùng Nam Bộ là chính sách Trong thiết lập các đơn vị hành chính. “Tất nhất quán, cơ bản của chính quyền Đàng nhiên với sự khai thác vội vã như vậy, bản Trong với Nam Bộ và được tiến hành với đồ xứ Gia Định vào hậu bán thế kỷ XVIII nhiều hình thức khác nhau. Các đồn điền có những nét riêng biệt” [13, tr.98]. Những được mở rộng, trong đó có các đồn điền của nét riêng biệt ấy sẽ tạo ra cho nền hành những người giàu có và có nông cụ, họ thuê chính mà chính quyền Đàng Trong thiết lập dân nghèo và khai hoang các diện tích đất ở Nam Bộ mang nhiều điểm khác với đai còn hoang sơ. Ngoài ra còn có các quân Thuận Quảng. đồn điền là đồn điền của chính quyền nhờ Năm 1698 đánh dấu một sự kiện đặc biệt trưng tập binh lính tiến hành khai hoang. quan trọng, chúa Nguyễn đã cử Nguyễn Trong buổi đầu của nền hành chính Nam Hữu Cảnh xuống kinh lý vùng Đông Phố. Bộ, lực lượng quân sự vừa khai hoang vừa “Bắt đầu đặt phủ Gia Định. Sai Thống suất bảo vệ đất đai. Ngoài ra, trên các con lạch, 31
  5. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016 trên các bìa rừng hay trong các khu rừng đó mật độ dân cư là yếu tố rất quan trọng. hoang sơ vẫn là những người dân nghèo Trên vùng đất rộng lớn và còn nhiều hoang khổ từng bước khai hoang, lập làng và tụ cư sơ như Nam Bộ, các cư dân tiên phong lập sinh sống. Đến 1757 những người Việt, nên các ngôi làng ban đầu chỉ có vài hộ gia người Hoa, người Chăm đã có mặt khắp nơi đình sau đó mới dần dần trở thành nơi tập trên đất Nam Bộ từ vùng Trấn Biên đến các trung dân cư lớn hơn. “Làng ở Nam phần bìa rừng của hai con sông Tiền, sông Hậu, không có lũy tre bao bọc. Hình thế của làng đến các khu rừng tràm của đất Hà Tiên. thường là chạy dài theo hai bờ sông bờ rạch, Đến năm 1775 theo con số thuế nộp ở Đàng với một lớp nhà: mé rạch, đường mòn rồi Trong (không kể trấn Hà Tiên) thì Nam Bộ đến nhà, phía sau là vườn rồi ruộng. Chỉ ở đã có tới 1.300 thôn xã với khoảng 42.500 nơi ngã ba sông hoặc ngã tư thì nhà cửa mới dân đinh (theo Li Tana (trong cuốn Xứ đông đúc hơn, trở thành những chợ nhỏ” Đàng Trong - Lịch sử kinh tế - xã hội Việt [10, tr.80 - 81]. Tình trạng phân bố dân cư Nam thế kỷ XVII và XVIII , Nxb Trẻ, Hà với mật độ rất thấp khiến cho việc thiết lập Nội, 1999), đi cùng với mỗi dân đinh là 1 các đơn vị hành chính không thể diễn ra vợ của họ và 3 người con, tức là tương ứng đồng thời vì liên quan tới những khó khăn với mỗi dân đinh ở xã hội Việt Nam thế kỷ trong việc việc thu thuế của chính quyền. Đó XVII - XVIII sẽ là 4 người đi theo. Như là lý do khiến các đơn vị hành chính ở Nam vậy, dân số ở Nam Bộ vào cuối XVIII sẽ là Bộ được thiết lập dần dần, từng bước. Lời 42.500 x 5 = 212.500 người). tâu của Nguyễn Cư Trinh là một minh chứng Như vậy, quá trình di dân người Việt, cho quá trình lấn dần về cực Nam của chính Hoa, Chăm đã tạo ra cho Nam Bộ một cơ quyền Đàng Trong: “Đời trước lập Gia cấu dân cư mới với các đơn vị cộng cư Định, tất trước mở xứ Mô Xoài, rồi mở xứ mới, một cấu trúc tổ chức hành chính và Đồng Nai, để cho quân dân hoàn tụ, rồi mới bộ máy quản lý mới. Các cuộc di dân dù mở xứ Sài Gòn, thế là lấy ít đánh nhiều, lấn trước 1698 hay sau 1698, dù được chính dần như tằm ăn” [1, tr.124]. quyền Đàng Trong tổ chức hay những Thực tế, khi một đơn vị hành chính mới người lưu dân tự tổ chức thì đều đem đến được thiết lập thì đó cũng là một biểu hiện hệ quả là xuất hiện những đơn vị cộng cư của sự can thiệp (bằng quân sự hoặc ngoại mới. Trên cơ sở ấy, năm 1698 hai huyện giao) của chính quyền Đàng Trong vào Tân Bình và Phúc Long đã được thành lập, vùng đất thuộc quyền chi phối đã hết sức phủ Gia Định ra đời, đánh dấu bước đầu lỏng lẻo của Chân Lạp. Lời tâu của Nguyễn tiên trong việc thiết lập thiết chế chính trị Cư Trinh vào năm 1732 cho thấy điều đó: trên vùng đất Nam Bộ. “Xin xem địa thế, đặt lũy chia dinh, tập hợp 3.2. Chính sách xâm thực từng bước, dân binh, chia ruộng cho dân lập nghiệp” khẩn hoang, lập làng đến đâu thiết lập [1, tr.124]. đơn vị hành chính và tổ chức bộ máy cai Như vậy, đã tồn tại hai cách thức thiết trị đến đó lập các đơn vị hành chính mới ở vùng Nam Thực tế cho thấy, việc thiết lập các cơ sở Bộ của chính quyền Đàng Trong: thứ nhất, hành chính tùy thuộc vào nhiều yếu tố trong trên cơ sở các địa điểm tụ cư của dân khai 32
  6. Nguyễn Thị Việt Hương, Cao Tự Thanh hoang đã đông thì bắt đầu thiết lập các cơ châu Định Viễn là kết quả của việc Chân sở hành chính, như việc đặt phủ Gia Định Lạp phải cắt đất cho chúa Nguyễn sau các với hai huyện Tân Bình và Phúc Long; thứ hành động quân sự không thành của Chân hai, bằng các hành động quân sự và ngoại Lạp. Năm 1756, vua nước Chân Lạp là Nặc giao lấy đất ở các khu vực mà Chân Lạp đã Nguyên dâng đất hai phủ Tầm Bồn và Lôi hoàn toàn không còn khả năng chi phối để Lạp, vì tướng Chân Lạp là Chiêu Chùy Ếch thiết lập các đơn vị quân sự - hành chính rồi quấy rối vùng Côn Man (đất của chính mới tiến hành di dân khai hoang đi đôi với quyền chúa Nguyễn)” [5, tr.165]. Châu quá trình điều chỉnh đơn vị hành chính cho Định Viễn được mở rộng ra các vùng Gò tương thích với sự thay đổi của tình hình Công, Tân An, Bến tre. Năm 1757, sau khi dân số. vua Chân Lạp là Nặc Nguyên chết, tình Căn cứ vào các nguồn tư liệu hiện có, có hình Chân Lạp rối loạn, sau đó quan quân thể thấy được một số sự kiện mở đất và của chúa Nguyễn đã giúp Nặc Tôn lên ngôi, xâm thực quan trọng của chính quyền Đàng để đền đáp Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Trong đối với Nam Bộ. Năm 1698 Nguyễn Long cho chúa Nguyễn. Tiếp đó chính Hữu Cảnh vào kinh lý vùng Đồng Nai, lập quyền Đàng Trong đã mở rộng thêm đất ra hai huyện Phúc Long và Tân Bình (Sau đai, lập các đạo Đông Khẩu ở xứ Sa Đéc, này trong tâm thức của người Nam Bộ cụm đạo Tân Chân ở Tiền Giang, đạo Châu Đốc từ “dân hai huyện” có ý nghĩa hết sức ở Hậu Giang. Tiếp đó Nặc Tôn lại cắt đất 5 thiêng liêng, cụm từ này thường được người phủ ở Chân Lạp cho chúa Nguyễn, chúa dân Nam Bộ tự hào truyền nhau, bởi dân Nguyễn lại cho lệ thuộc vào Hà Tiên, đạo hai huyện chính là những người Việt đầu Kiên Giang và đạo Long Xuyên lại được tiên có mặt trên đất Nam Bộ một cách chính Mạc Thiên Tứ đặt [5, tr.166 - 167]. thức ở huyện Tân Bình và Phúc Long). 3.3. Chính sách ràng buộc lỏng lẻo Đồng thời những người Hoa được lập làm Chính sách ràng buộc lỏng lẻo là chính xã Thanh Hà ở dinh Trấn Biên, xã Minh sách nhất quán của chính quyền Đàng Hương ở dinh Phiên Trấn. Năm 1708 lập ra Trong đối với việc thiết lập và quản lý các Trấn Hà Tiên từ vùng đất của Mạc Cửu. khu vực hành chính ở Nam Bộ. Với việc “Đến đấy Cửu ủy cho người bộ thuộc là thực hiện chính sách này thì cấu trúc hệ Trương Cầu và Lý Xã dâng thư xin làm Hà thống hành chính ở Nam Bộ thời các chúa Tiên trưởng. Chúa nhận cho, trao cho chức Nguyễn có sự khác nhiều, như là một dị Tổng binh. Cửu xây dựng dinh ngũ, đóng ở biệt so với vùng Thuận Quảng. Tuy nhiên, Phương Thành, nhân dân ngày càng đến với quá trình mở rộng lãnh thổ và khẩn đông” [5, tr.122]. Năm 1732, “Chúa cho hoang lập các cơ sở kinh tế mới trên một rằng Gia Định địa thế rộng rãi, sai khổn vùng đất còn hoang sơ nhưng giàu tiềm thần chia đất đặt châu Định Viễn (nay là năng và nhạy cảm về chính trị thì chính phủ Định Viễn) và dựng dinh Long Hồ (tức sách này lại tỏ ra có lợi thế nhất định. là tỉnh Vĩnh Long ngày nay)” [5, tr.143]. Có nhiều lý do dẫn đến việc chính quyền Thực tế, như trong lời tâu của Nguyễn Cư Đàng Trong chấp nhận cho Nam Bộ có một Trinh được Lê Quý Đôn ghi chép, thì đặt quy chế hành chính lỏng lẻo. 33
  7. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016 Về khách quan, Nam Bộ là vùng đất Trên thực tế, chính quyền Đàng Trong mới, lại xa trung ương nên chính quyền khó đã thừa nhận và duy trì ở Nam Bộ một nền với tay đến được. Hơn nữa Nam Bộ rộng hành chính với cấu trúc thiếu chặt chẽ. lớn, thiên nhiên hoang sơ, mật độ dân cư “Ngày trước ở đất Nông Nại có nhiều đầm thấp, thành phần dân cư, tộc người phức ao và rừng rú. Lúc mới lập ra ba dinh, chiêu tạp, tập hợp các tay lục lâm đi tìm đất hứa dân đến ở, pháp luật rất khoan giả. Có Do đó nên hoạt động cai trị phải được tiến người có ruộng đất ở hạt Phiên Trấn, mà lại hành từ từ, từng bước, không thể chặt chẽ nộp thuế là ruộng đất của dân Trấn Biên, và ngay từ đầu. những người có ruộng đất ở hạt Trấn Biên, Lý do chủ quan cũng khiến chính quyền lại nộp thuế là ruộng đất của dân Phiên Đàng Trong không thể làm gì hơn ngoài Trấn. Cái đó là tùy sở nguyện của dân, một mô hình lỏng lẻo. Sau 50 năm chiến không có bó buộc, cái cốt chỉ để khai hoang tranh liên miên với họ Trịnh (1627 - 1672), thành điền và lập ra xã thôn mà thôi” [3, dù Lũy Trường Dục đã được xây dựng tr.81]. Các đơn vị hành chính được xếp đặt nhưng nguy cơ từ phía Bắc vẫn tồn tại khá lộn xộn với các mối liên hệ lỏng lẻo thường trực, vẫn cần một sự tập trung lực giữa chúng với nhau và với chính quyền lượng cao độ để đối phó. Phía Nam là Chân trung ương. Tính lỏng lẻo, không chặt chẽ Lạp với tình hình chính trị rắc rối và liên thể hiện đặc biệt rõ trong quan hệ giữa miên bất hòa xung đột, vì vậy một bộ máy Trung ương với các đơn vị hành chính địa chính quyền dân sự chặt chẽ sẽ ít lợi thế phương. Hai nghĩa vụ quan trọng nhất được hơn một bộ máy quản lý được quân sự hóa đặt ra đối với các đơn vị hành chính ở Nam chỉ cần coi trọng chức năng thu thuế chứ Bộ là: thực thi các nghĩa vụ quân sự bảo vệ chưa cần thiết để tâm nhiều tới quản lý dân biên giới và sẵn sàng can thiệt vào tình hình cư, xây các lâu đài hay xử án Không thể Chân Lạp nếu có yêu cầu; thu thuế. Nhưng quản lý chặt chẽ còn bởi vì chính bản thân sự thực thì nhiều tư liệu (Phủ biên tạp lục, Đàng Trong cũng đang trong quá trình xây Gia Định thành thông chí, Đại Nam thực dựng và củng cố trên mọi lĩnh vực tổ chức lục) cho thấy việc chính quyền Trung ương bộ máy quản lý. Cùng với đó là lời dặn đầy kiểm soát dân cư và đất đai tại Nam Bộ là tâm huyết của Nguyễn Hoàng trước lúc đi hết sức khó khăn và việc thu thuế cũng chỉ xa: “Đất Thuận Quảng phía bắc có núi đạt kết quả tương đối. Ngang [Hoành Sơn] và sông Gianh [Linh Trong bối cảnh đó, chính quyền Đàng Giang] hiểm trở, phía Nam ở núi Hải Vân Trong cũng sẵn sàng chấp nhận một cơ chế và núi Đá Bia [Thạch Bi Sơn] vững bền. tự trị - tự quản đối với nhiều khu vực ở Núi sẵn vàng sắt, biển có cá muối, thật là Nam Bộ. Mặc dù ngay từ 1708 trấn Hà Tiên đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết đã thuộc về chính quyền của các chúa dạy dân luyện binh để chống chọi với họ Nguyễn, tuy nhiên đến tận năm 1757 khi Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời. các đạo Kiên Giang và Long Xuyên được Ví bằng thế lực không địch được, thì cố giữ lập thì không phải do chính quyền Trung vững đất đai để chờ cơ hội, chứ đừng bỏ ương thiết lập mà do Mạc Thiên Tứ thiết qua lời dặn của ta” [5, tr.37]. lập ở Hà Tiên. Nhiều hoạt động của Hà 34
  8. Nguyễn Thị Việt Hương, Cao Tự Thanh Tiên mang tính chất tự trị rất rõ trong đó có Đại Nam thực lục thì năm 1709, Nguyễn cả việc dùng binh và MạcThiên Tứ có quân Phúc Chu có ấn tên là Đại Việt quốc đội riêng, thậm chí can thiệp cả vào Chân Nguyễn Vương Vĩnh Trấn chi bảo, và trên Lạp mà chưa chắc đã thông qua chúa một quả chuông ở chùa Thiên Mụ được Nguyễn. Trên các phương diện phát triển dựng năm 1715 người ta cũng thấy ghi ấn kinh tế, đời sống chính trị, Hà Tiên có tính này). Như vậy, về cơ bản cơ cấu tổ chức tự trị rất cao. Ngoài ra, tính chất tự trị nhiều các đơn vị hành chính và bộ máy quản lý ở mặt về kinh tế của các làng Nam Bộ có thể Nam Bộ trong giai đoạn chính quyền Đàng dễ dàng nhận thấy được. Trong của các chúa Nguyễn có thể được Chính sách lỏng lẻo như trên đã dẫn đến chia làm hai thời kỳ: thời kỳ thứ nhất từ khi hệ quả là hệ thống chính quyền được thiết thiết lập cơ sở hành chính đầu tiên là phủ lập ở Nam Bộ tương đốiđơn giản và thiếu Gia Định năm 1698 đến khi chúa Nguyễn tính chặt chẽ. Một cấu trúc hành chính như Phúc Khoát xưng vương (1744); thời kỳ thứ thế chỉ phục vụ cho những người đi khai hai từ 1744 đến khi chấm dứt sự tồn tại của hoang và rõ ràng là yếu. Cấu trúc hành chính quyền Đàng Trong (1777). Từ 1778 - chính ấy được thiết lập trên cơ sở của 1802 diễn ra trạng thái tranh chấp quyền lực những cư dân khẩn hoang và phục vụ khẩn tại vùng đất Nam Bộ giữa chính quyền Tây hoang, tính chất tự trị tại các khu vực rất Sơn và chính quyền Nguyễn Ánh và sau đó cao, nhất là tại các làng xã vì tính chất của là việc tổ chức cai trị của Nguyễn Ánh khi thiên nhiên còn hoang sơ. Tuy nhiên, về lâu chiếm lại được Gia Định lần cuối. Đây là dài thì cấu trúc chính quyền với pháp luật giai đoạn không thuộc “chính quyền Đàng đơn giản dễ tạo cho cư dân một lối ứng xử Trong” nhưng tổ chức nhà nước vùng Nam xa rời với luật pháp và chính quyền. Bộ vẫn mang nhiều dấu ấn của cách thức 4. Cấu trúc hành chính và tổ chức nhà quản lý của chính quyền Đàng Trong nên nước vùng Nam Bộ cần được xem là giai đoạn kết nối và gắn bó Năm 1698, sự thành lập phủ Gia Định chặt chẽ với thời chính quyền Đàng Trong gồm hai huyện Phúc Long và Tân Bình đã của các chúa Nguyễn. là sự kiện đầu tiên mở ra quá trình thiết lập 4.1. Thời kỳ 1698 đến 1744 các đơn vị hành chính của chính quyền Trước năm 1698 trên lãnh thổ Nam Bộ Đàng Trong ở vùng đất Nam Bộ. Năm 1744 đã có những đơn vị “hành chính” mặc dầu Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, gọi là An chưa theo đúng nghĩa của nó. Đó là tổ chức Nam quốc vương hay Đại Việt quốc vương của những người Hoa khai hoang gồm hai (Li Tana (trong Xứ Đàng Trong - Lịch sử nhóm Mạc Cửu và nhóm Dương Ngạn kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ XVII và Địch, Trần Thượng Xuyên. Năm 1623 XVIII, Nxb trẻ Hà Nội, 1999, tr.80) cho chính quyền Đàng Trong bằng các biện biết, Thích Đại Sán đã nói vào năm 1675, pháp ngoại giao (gả công chúa (theo Phan Nguyễn Phúc Chu đã tự xưng vương gọi là Khoang, khi ông khảo sát trong Đại Nam Đại Việt quốc vương. Đồng thời tác giả liệt truyện ở mục công chúa thì chúa Hi cũng nghi ngờ sự kiện năm 1744 rằng sách Tông có 4 người con gái, hai người có ghi Đại Nam thực lục có lầm lẫn, bởi cũng theo chép rõ ràng về chuyện chồng con, duy chỉ 35
  9. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016 có Ngọc Vạn và Ngọc Khoa là ghi khuyết bản, cấu trúc chính quyền ở Nam Bộ đã chuyện, như vậy có lẽ sử ta cho rằng chuyện định hình theo chiều dọc gồm: phủ - huyện gả chồng này không hay cho nên không ghi. - xã . Đây là cơ cấu truyền thống đã được Thậm chí sự kiện về chúa Hi Tông gả công áp dụng trước đó bởi nhiều vương triều chúa cho Chey Chetta phải khai thác trong Việt Nam ở phía Bắc và ngay tại thời điểm sử của Chân Lạp) cho vua Chân Lạp là Chey đó ở Đàng Trong và Đàng Ngoài. Chetta) đã thiết lập được ở Sài Gòn một trạm Trong giai đoạn đầu, phủ Gia Định thu thuế của người Việt. không tổ chức cơ quan quản lý, chỉ là cấu Năm 1679 khi Dương Ngạn Địch đến trúc hành chính hình thức trong đó bao quy thuận, chúa Nguyễn cho tiến hành quy chứa hai huyện phụ thuộc. Đến năm 1731 hoạch lại về mặt hành chính và khai khẩn mới đặt chức Điều Khiển ở phủ Gia Định. đất đai. Đại Nam nhất thống chí cho biết, Điều khiển ở phủ Gia Định là một võ bộ tướng nhà Minh đã “dựng nhà cửa, họp tướng, điều đó cho thấy, trong buổi đầu thì người Kinh, người Di kết thành xóm ; lại vai trò của các chức danh quân sự rất quan lập thành trang, trại, man, nậu, nhân dân trọng và có thể kiêm luôn chức danh dân đều theo nghề nghiệp của mình làm ăn nộp sự. Cũng do vậy, hoạt động quân sự là hoạt thuế” [6, tr.88]. Sự tồn tại của 9 trường biệt động được chú trọng nhiều hơn ở các đơn nạp này còn kéo dài đến tận năm 1779 khi vị hành chính mới được thiết lập. Nguyễn Ánh cải cách hành chính ở Nam Bộ Hai huyện được lập ra thuộc phủ Gia “bãi 9 trường biệt nạp, đặt huyện Kiến Định gồm có hai dinh. Dinh là cấp hành Khang, lập dinh Trường Đồn, đặt các chức chính hiểu theo nghĩa là bộ máy quản lý. lưu thủ, cai bạ và ký lục” [6, tr.88]. Như Mỗi dinh quản một huyện. Huyện Tân Bình vậy là, đơn vị hành chính đã được tổ chức có dinh Phiên Trấn, huyện Phúc Long có một cách đơn giản. Đây chính là bước đầu dinh Trấn Biên, châu Định Viễn có dinh để năm 1698 Nguyễn Hữu Cảnh lập nên hai Long Hồ (theo Đại Nam nhất thống chí, huyện ở Nam Bộ. Đại Nam thực lục cho biết, danh từ đơn vị Khi Mạc Cửu sang Hà Tiên, bước đầu hành chính “trấn” không phải là đơn vị cũng tổ chức đơn vị hành chính để khai Trấn mang tính chất ngang tỉnh, mà “trấn” hoang. “Hồi đầu bản triều người tỉnh Quảng là đơn vị dùng để đặt ở các nơi biên giới Đông, Trung Quốc là Mạc Cửu sang phương mới mở mang, như Trấn Biên ở vùng Phú nam, thấy đất này có lái buôn các nước tụ Yên được lập từ giữa thế kỷ XVII). Đứng tập, nhân đấy chiêu dân xiêu tán đến ở các đầu mỗi dinh là một võ tướng mang chức xứ Phú Quốc, Vũng Thơm, Rạch Giá, Cà danh Lưu thủ hay Trấn thủ. Bộ máy cai trị Mau lập thành 7 xã, tự đứng cai quản” [6, tại dinh thì “mỗi dinh đều đặt các chức lưu tr.6]. Chưa biết cơ cấu tổ chức bên trong các thủ, cai bạ, ký lục và các cơ đội thuyền thủy xã như thế nào, nhưng chắc chắn mang bộ tinh binh và thuộc binh” [5, tr.111]. Như nhiều dấu ấn mô hình Trung Hoa. vậy, về cơ bản mô hình mà chính quyền Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh lập phủ Đàng Trong lập cho Nam Bộ giống mô Gia Định. Phủ Gia Định bao gồm hai huyện hình cuộc cải cách hành chính áp dụng ở là Phúc Long và Tân Bình. Như vậy, về cơ Thuận Quảng từ 1614. 36
  10. Nguyễn Thị Việt Hương, Cao Tự Thanh Ba chức lưu thủ, cai bạ, ký lục là các dài với các thành phần cư dân đa dạng, chức quản lý hành chính ở huyện. Lưu thủ phức tạp nên xã là một khái niệm không là chức quan giống như trấn thủ đứng đầu thật ổn định. Dưới xã có thể được tổ chức dinh, do đó chức này có quyền lực cả về thành nhiều thôn, làng, nậu, ấp, phường, chính trị và dân sự. Cai bạ là chức quan man, nhưng đôi khi thôn, phường cũng có đứng thứ hai ở Trấn giữ việc quân lương, tư cách như là đơn vị hành chính cơ sở. thuế khóa, điền thổ, hộ binh. Cai bạ là chức Điều kiện tư liệu hạn chế cũng chỉ cho biết quan gắn liền với hành chính và dân sự. Ký một cách tương đối về các chức danh trong lục là chức quan giúp việc cho ty Xá sai, làng xã. Về cơ bản ở xã có hai chức dịch là cho Cai bạ ty Tướng thần và Nha úy ở ty tướng thần và xã trưởng. Số lượng các chức Lệnh sử đời Nguyễn Phúc Nguyên. Ngoài dịch này cũng không được chứng thực về ra còn có hai ty là Xá sai và Tướng thần, “ở mặt tư liệu. Nếu theo quy mô của các xã huyện có Xá ty và Lại ty” [3, tr.79]. Ty Xá Thuận Quảng thì số chức dịch ở xã nhiều sai quản lý hành chính đứng đầu là Ký lục, nhất sẽ là 18 người. Ở các xã Nam Bộ chức ty Tướng thần đứng đầu là Cai bạ làm năng thu thuế của các chức sắc được đặt ra nhiệm vụ thu thuế. Sự tồn tại của hai ty này khá lớn. dù chỉ được nhắc đến một lần xong sự tồn Trong thời điểm này ở Nam Bộ còn có tại thực tế và phổ biến của nó ở vùng Thuận trấn Hà Tiên được tổ chức theo quy chế tự Quảng cho phép tin rằng nó cũng được tổ trị - tự quản với xuất phát điểm ban đầu là chức phổ biến ở Nam Bộ. Tuy nhiên, so với nhằm thu hút ảnh hưởng của dòng họ Mạc. vùng Thuận Quảng thì bộ máy quản lý ở Bằng thực quyền cho phép, Tổng trấn được các huyện Nam Bộ không có ty Lệnh sử coi xem như là “vua” của vùng đất xa xôi này. việc cúng tế, lễ nghi, văn hóa, tôn giáo. Khi Mạc Cửu chết, Mạc Thiên Tứ lên chức Lực lượng quân sự rất được chú trọng Tổng trấn Hà Tiên vẫn tiếp tục duy trì cơ trong cấu trúc bộ máy cai trị của chúa chế quyền lực như trước. Nguyễn ở vùng Nam Bộ nhằm đảm bảo 4.2. Thời kỳ từ 1745 đến 1777 hiệu quả của hoạt động khai phá đất đai, Năm 1744, với việc xưng vương, chúa bảo đảm quyền lợi của chính quyền chúa Nguyễn Phúc Khoát đã tổ chức lại hệ thống Nguyễn và sẵn sàng can thiệp quân sự để hành chính mới ở Đàng Trong. Trong bối thoát ly khỏi ảnh hưởng của Chân Lạp. Về cảnh đó, các đơn vị hành chính vùng Nam cơ bản lực lượng quân sự được chia làm 3 Bộ tiếp tục được mở rộng đồng thời được bộ phận gồm thủy binh, tinh binh và thuộc phân định lại và chuẩn hóa theo mô hình binh. Thủy binh gồm lực lượng quân sự của cấu trúc hành chính ở Đàng Trong. Đây là chính quyền Trung ương và của chính hệ quả tất yếu của quá trình khai phá đất quyền địa phương. Tinh binh cũng gồm hai đai, can thiệp quân sự để thâu tóm quyền loại trên. Riêng thuộc binh là lực lượng lực từ chính quyền Chân Lạp và khẳng định quân sự chỉ được tổ chức tại địa phương. chủ quyền của các chúa Nguyễn. Xã là đơn vị hành chính cấp cơ sở. Năm 1744, khi mới xưng vương, chúa Trong thực tế, do quá trình khai phá đất đai Nguyễn Phúc Khoát đã quy hoạch toàn bộ và thiết lập các đơn vị cộng cư diễn ra lâu Đàng Trong thành 12 dinh. “Ở Phúc Long 37
  11. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016 gọi là Trấn Biên dinh, ở Tân Bình gọi là theo quy chế tự trị - tự quản nhưng ngày Phiên Trấn dinh, ở Định Viễn gọi là Long càng trở nên phụ thuộc nhiều hơn vào chính Hồ dinh”, “Hà Tiên lại biệt làm một trấn, quyền Đàng Trong của các chúa Nguyễn và thuộc chức đô đốc” [5, tr.153]. Như vậy, thực tế đã trở thành bộ phận không thể tách vùng Nam Bộ có 3 dinh, ngoài ra còn một rời của lãnh thổ Đàng Trong. trấn Hà Tiên. Đến lúc này Dinh ở Nam Bộ Các huyện, châu, đạo là các cơ quan không phải là bộ máy quản lý hành chính hành chính cấp dưới của dinh (trấn). Số để quản lý huyện như trước kia nữa mà đã lượng các huyện chưa thật rõ nhưng chắc trở thành một đơn vị hành chính. chắn đã nhiều hơn so với trước do hoạt Như vậy, tổ chức hành chính ở Nam Bộ động khai phá đất đai có nhiều kết quả mới. trong giai đoạn này gồm dinh (trấn) - huyện Bộ máy quản lư ở cấp huyện chắc cũng (châu, đạo) - xã. Mô hình tổ chức này về cơ không khác nhiều so với vùng Thuận bản giống như thời kỳ trước và giống như Quảng nhưng số lượng quan lại có thể ít mô hình tổ chức vùng Thuận Quảng. Tuy hơn vì hoạt động cai trị chưa thật sự đa nhiên, điểm khác biệt so với trước là số dạng và phức tạp. Theo quy chế chung lượng cũng như quy mô, quy củ của các được đặt ra từ sau cải cách của Nguyễn đơn vị hành chính được mở rộng và chặt Phúc Khoát, đứng đầu mỗi huyện là Tri chẽ hơn. Nền hành chính Nam Bộ đã từng huyện, bên cạnh đó là các chức danh khác bước hòa nhập vào khung cảnh chung của phụ trách về quân sự, thuế khóa, hộ khẩu. chính quyền Đàng Trong, chứng tỏ bước Cùng với các huyện, các đạo được thiết tiến mới trong sự khẳng định chủ quyền của lập tại các vùng mới khai phá, dân cư chưa các chúa Nguyễn với vùng đất Nam Bộ. ổn định. Đây là loại đơn vị hành chính đặc Cấp dinh (trấn) gồm có 3 dinh (dinh biệt tương đương với huyện. Trong thời Trấn Biên, dinh Phiên Trấn và dinh Long gian này ở Nam Bộ có 6 đạo. Bộ máy cai trị Hồ). Mỗi dinh quản lý một số huyện, như ở đạo được tổ chức giống như ở huyện, vậy là tương đương với phủ (tuy nhiên, một gồm chức cai cơ và thư ký, nhưng tính chất số nơi, dinh lại là tổ chức bao gồm nhiều quân sự thể hiện khá rõ. phủ khác nhau. Chúng ta có thể xem xét ví Cấp xã vẫn là cấp cơ sở trong tổ chức dụ sau vào năm 1770 “Lấy Ký lục dinh nhà nước ở Nam Bộ. Đây là cấp hành Quảng Nam là Trần Phúc Thành làm Cai chính mang tính truyền thống và ít thay bạ, tuần hành 5 phủ (Thăng Bình, Điện đổi, về cơ bản là sự quy tụ các làng Nam Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên), Bộ trong quá trình khai hoang lập ấp. Chưa tham mưu việc dẹp giặc, điều khiển tướng có đủ tư liệu để hiểu biết sâu sắc về cơ cấu sĩ binh dân của sáu đạo đồn binh Quảng hành chính ở cấp xã cũng như mối liên hệ Ngãi và quân lính hai phủ Quy Nhơn và quyền lực giữa cấp này với cơ quan hành Phú Yên để đi đánh giặc ác man” [5, chính cấp trên, nhưng trên lý thuyết cấu tr.174]. Như vậy dinh là cơ quan lớn hơn cả trúc của các xã ở Nam Bộ mở hơn nhiều so phủ, và như thế nó là cơ quan tương đương với làng xã ở Bắc Bộ. tỉnh sau này, tức là cơ quan tương đương Lực lượng quân sự vẫn được tổ chức cơ trấn ngày trước 1744). Trấn Hà Tiên vẫn bản như thời kỳ trước nhưng số lượng và 38
  12. Nguyễn Thị Việt Hương, Cao Tự Thanh trang bị được tăng lên rõ rệt. Một sự thống Nhìn chung, trong thời gian từ 1778 và kê mang tính chất tham khảo của các nguồn nhất là từ 1788 đến 1802, trên cơ sở thiết tư liệu cho thấy, lực lượng quân sự của chế xã hội còn khá lỏng lẻo trên đồng bằng chính quyền trung ương đặt ở Nam Bộ Nam Bộ cuối thời Đàng Trong, chính quyền được bố trí tại dinh Trấn Biên có 7 đội với Nguyễn Ánh đã có nhiều thuận lợi trong 27 thuyền, dinh Phiên Trấn có 8 đội với 25 việc phát triển chế độ quân chính để huy thuyền, dinh Long Hồ có 5 đội với 17 động sức người sức của ở vùng này vào thuyền, dinh trấn Hà Tiên có 3 đội với 14 cuộc chiến tranh giành lại chiếc ngai vàng thuyền. Lực lượng quân sự địa phương của dòng họ. Nhưng chế độ quân chính ấy cũng được tổ chức tương đối quy củ. Quân tự thân nó có nhiều khiếm khuyết mà nổi ở dinh Trấn Biên có khoảng 6.000 người ở bật là thiếu một cơ chế giám sát có hiệu quả tất cả các đội thuyền, ngoài ra nhiều cửa nên dễ dẫn tới tệ nạn lạm dụng quyền lực cá sông lớn đều có lực lượng quân sự để thu nhân trong bộ máy chính quyền và hệ quả thuế hay kiểm soát, như cửa Quảng Hóa có tất yếu của nó là các hành động cảm tính 720 người với 15 thuyền. Ở Phiên Trấn có hay bất chấp pháp luật tới mức vô chính khoảng 6.000 người. Dinh Long Hồ có lực phủ trong sinh hoạt xã hội. Chính vì vậy mà lượng 13.000 người. Các thôn, xã đều có xuất phát từ mục tiêu chống Tây Sơn và sự lực lượng dân vệ được bố trí bởi chính tự ý thức về quyền lực cá nhân, Nguyễn quyền địa phương [1]. Ánh cũng hướng tới xây dựng một chính 4.3. Thời kỳ từ 1778 đến 1802 quyền tập quyền có kỷ cương, mà biểu hiện Ngay sau khi vừa chiếm lại được Gia rõ nhất sau 1788 là bỏ các chức tứ trụ đại Định lần đầu vào năm 1778, Nguyễn Ánh thần ở cấp trung ương và tăng cường kỷ đã tiến hành các hoạt động xây dựng chính luật trong quân đội. Trên phương diện tổ quyền ở vùng Nam Bộ. Có thể nói, với chức chính quyền, ý hướng này thể hiện kinh nghiệm thống trị gần hai trăm năm qua nhiều lệnh cấm như lệnh cấm kẻ cướp của tổ tiên, Nguyễn Ánh đã tiến hành cuộc năm 1789, lệnh bắt trộm cướp năm 1797, chiến tranh chống Tây Sơn một cách toàn lệnh phòng cháy và bắt trộm cướp trong diện, trong đó có hoạt động xây dựng bộ dân gian năm 1799 Đáng chú ý là lệnh máy nhà nước. cấm năm 1799 còn ít nhiều cho phép chính Trong thời gian 1778 - 1784 bộ máy quyền cấp cơ sở có một số quyền hạn mang trung ương của chính quyền Nguyễn Ánh tính chất giám sát đối với lực lượng quan (Đại Nam Thực lục chính biên đệ nhất kỷ quân trong các hoạt động bảo vệ trật tự trị gọi là Chính dinh, tức cũng đóng ở Sài Gòn an. Cùng với sự phát triển của đội ngũ nho nhưng biệt lập với bộ máy cai trị ở dinh sĩ trong chính quyền Gia Định từ 1788 trở Phiên Trấn) vẫn theo thể chế thời Đàng đi, tình hình này cho thấy ngay trong thời Trong. Ngoài Chính dinh, bộ máy cai trị gian mang lại nhiều hiệu quả nhất của nó, dinh trấn cũng tương tự thời Đàng Trong, chế độ quân chính cũng đã ít nhiều bị tầng trực tiếp quản lý cấp tổng thôn, vẫn chưa lớp thống trị dè chừng và kìm chế. Đây đặt chức Tri huyện. chính là tiền đề nhận thức và tâm lý dẫn tới 39
  13. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101) - 2016 sự triệt tiêu của mô hình này trên phạm vi Tài liệu tham khảo toàn quốc vào năm 1832. [1] Lê Quý Đôn (2007), Phủ biên tạp lục, Nxb 5. Kết luận Văn hóa Thông tin, Hà Nội. Tổ chức nhà nước vùng Nam Bộ tuy [2] Mạc Đường (1982), “Quá trình phát triển nằm trong trạng thái chính trị của “chính dân cư và dân tộc ở đồng bằng sông Cửu quyền Đàng Trong” của các chúa Nguyễn Long từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX”, Tạp nhưng về cơ bản đó là một bộ máy chính trị chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3. - hành chính được xây dựng theo mô hình [3] Trịnh Hoài Đức (2006), Gia Định thành quân chính, trong đó quân đội là tổ chức hạt thông chí, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, nhân và võ tướng là lực lượng cột trụ của Đồng Nai. quyền lực chính trị với những nét đặc sắc. [4] Huỳnh Lứa (2000), Góp phần tìm hiểu Kế thừa kinh nghiệm và thành quả gần vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII, XVIII, hai trăm năm trong việc xây dựng thiết chế XIX, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. chính trị - hành chính quân chính của chính [5] Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đại quyền Đàng Trong, chính quyền Nguyễn Nam thực lục, t.1, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Ánh ở Nam Bộ cuối thế kỷ XVIII đã phát [6] Quốc sử quán triều Nguyễn (1992), Đại triển khá thuận lợi trên đường hướng phục Nam nhất thống chí, t.5, Nxb Thuận Hóa, vụ chiến tranh rồi đi tới chỗ kết thúc nội Huế. chiến Tây Sơn - Nguyễn Ánh. Được kích [7] Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Quốc thích bởi hoàn cảnh chiến tranh, chế độ triều chính biên toát yếu, Nxb Thuận quân chính vốn có những điểm yếu trí mạng Hóa, Huế. đã được điều chỉnh theo hướng củng cố chế [8] Lê Văn Năm (2000), “Tình hình định cư, độ tập quyền đồng thời giảm thiểu các yếu khai phá vùng Châu Đốc - Hà Tiên hồi thế tố tôn giáo nên lại phát huy được một số kỷ XIX”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 2. hiệu quả đặc biệt nhất thời và nhờ vậy cũng [9] Nam Bộ xưa và nay, Nxb Tp. Hồ Chí Minh thu được một số kết quả tích cực khách - Tạp chí Xưa và Nay, Tp. Hồ Chí Minh, quan nhất định, trong đó nổi bật là góp 1998. phần đưa nhanh nhiều yếu tố truyền thống [10] Sơn Nam, Biên khảo: Nói về miền Nam, của thiết chế xã hội Việt Nam vào vùng đất Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, 2005, mới. Với hoạt động của chính quyền [11] Hồng Nhuệ (1999), “Đàng Trong thế kỷ Nguyễn Ánh từ 1778 và nhất là từ 1788 trở XVIII”, Tạp chí Xưa và Nay, số 68. đi, chế độ quân chính ở Việt Nam từ chiến [12] Mai Công Trực, Một vài vấn đề về việc tranh Lê Mạc đã tiến được một bước dài khẩn hoang và chống xâm lược Xiêm ở trong việc hội nhập vào cơ cấu xã hội học ở Châu Đốc từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa địa phương trên cương vị là hệ thống quản thế kỷ XIX, Tư liệu của Trường Đại học lý xã hội, từ đó có những tác động tích cực Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội. trong việc đưa vùng đất này hòa nhập [13] Tạ Chí Đại Trường (2007), Việt Nam thời nhanh hơn vào với lịch sử chính trị và hành Tây Sơn, Lịch sử nội chiến 1771 - 1802, chính của toàn dân tộc. Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 40
  14. Nguyễn Thị Việt Hương, Cao Tự Thanh 41