Giáo trình Tổng quan về Ngân hàng và các dịch vụ Ngân hàng
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Tổng quan về Ngân hàng và các dịch vụ Ngân hàng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_tong_quan_ve_ngan_hang_va_cac_dich_vu_ngan_hang.doc
Nội dung text: Giáo trình Tổng quan về Ngân hàng và các dịch vụ Ngân hàng
- Tổng quan về Ngân hàng và các dịch vụ Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh, tháng năm
- Dẫn nhập: Trong những năm gần đây,kinh tế Việt Nam đã có nhiều khởi sắc với tốc độ tăng trưởng GDP cao và ổn định.Đóng góp vào kết quả đó,không thể không kể đến vai trò của Thị trường chứng khoán.Mặc dù còn non trẻ,Thị trường chứng khoán đã từng bước khẳng định vị thế,tầm quan trọng của mình,là sản phẩm của nền kinh tế thị trường hiện đại.Bên cạnh đó,sự phối hợp giữa Thị trường chứng khoán và các trung gian tài chính đặc biệt là ngân hàng thương mại ngày càng khăng khít và chặt chẽ.Vậy thì vai trò của Ngân hàng thương mại trên Thị trường chứng khoán là gì?Nhóm chúng tôi muốn tìm hiểu,nghiên cứu và đưa ra một cái nhìn đầy đủ,chính xác và khách quan nhất về vấn đề này. Bài viết gồm những phần chính sau đây: 1.Tổng quan về NHTM 2 2.Tổng quan về TTCK 14 3.Hoạt động của NHTM trên TTCK 24 4.Vai trò của NHTM trên TTCK .37 5.Giải pháp nâng cao vai trò NHTM trên TTCK .47
- Thành viên của nhóm: 1,Thái Bá Anh 2,Nguyễn Thùy Trang 3,Vũ Huy Hoàng 4,Lê Anh Dũng 5,Dương Nữ Kiều Oanh 6,Trịnh Anh Pháp 7,Lê Thanh Hải 8,Trịnh Tuấn Anh 9,Hoàng Quốc Dũng 10,Nguyễn Thùy Linh 11,
- Tổng quan về Ngân hàng và các dịch vụ Ngân hàng Tài liệu sẽ trình bày vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế, kết quả nghiên cứu những xu hướng trong hoạt động ngân hàng như: cạnh tranh, thay đổi công nghệ, quá trình hợp nhất ngân hàng, toàn cầu hóa, và cùng các nhà quản lý ngân hàng tìm kiếm giải pháp tồn tại và tiếp tục phát triển. Ngân hàng là gì? Ngân hàng là 1 loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng. Vậy mà vẫn có sự nhầm lẫn trong việc định nghĩa ngân hàng là gì? Rõ ràng, các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng (các dịch vụ) mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ không chỉ chức năng của các ngân hàng đang thay đổi mà chức năng của các đối thủ cạnh tranh chính sách của ngân hàng cũng không ngừng thay đổi. Thực tế là, rất nhiều tổ chức tài chính - bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công tymôi giới chứng khoán, quĩ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, hướng về lĩnh vực bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quĩ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác. Một ví dụ điển hình về nỗ lực của các tổ chức tài chính trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng được ghi nhận vào những năm 1980 khi rất nhiều công ty bảo hiểm và kinh doanh chứng khoán lớn, bao gồm cả Merrill Lynch và Dreyfus Corporation, Prudential nhảy vào lĩnh vực ngân hàng bằng cách thành lập cái mà họ gọi là “các ngân hàng phi ngân hàng”. Họ nhận thức được rằng, theo pháp luật nước Mỹ, bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gửi cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu (như bằng cách viết séc hay bằng việc rút tiền điện tử) và cho vay đối với các tổ chức kinh doanh hay cho vay thương mại sẽ được xem là một ngân hàng. Merrill Lynch và các tổ chức phi ngân hàng khác nhận định rằng họ có thể né tránh những quy định này và sẽ có thể cung cấp dịch vụ ngân hàng khác cho công chúng. Tuy nhiên, Cục Dự trữ liên bang (Fed), không muốn thấy sự xâm phạm vào lĩnh vực ngân hàng của các “ngân hàng giả”, đã đưa ra quyết định rằng: việc cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình cũng là một trong những hoạt động ngân hàng tiêu biểu để phân biệt ngân hàng với các tổ chức tài chính khác. Điều đó đưa Merrill Lynch và các tổ chức tương tự trở thành các ngân hàng thực thụ và phải tuân theo qui định chặt chẽ của Chính phủ. Sau đó các công ty kinh doanh và môi giới chứng khoán hàng đầu đã kiện lên tòa liên bang, buộc tội Fed đã vượt quá quyền hạn. Năm 1984, tòa án liên bang công nhận này và buộc Fed phải cho phép tồn tại hình thức “các ngân hàng phi ngân hàng” và cho họ tham gia bảo hiểm tiền gửi liên bang. Chỉ trong vòng vài tuần sau phán quyết này, hàng tá đơn xin thành lập “ngân hàng phi ngân hàng” đã được nộp . E.F. Hutton, J.C.Penney và Sears
- Roebuck là những công ty cung cấp dịch vụ tài chính hàng đầu được tổ chức dưới dạng ngân hàng phi ngân hàng. Hơn thế, các công ty sở hữu ngân hàng lớn của Citicorp và Chase Manhattan cũng thành lập các “ngân hàng phi ngân hàng” của riêng họ bởi vì với loại ngân hàng này họ có thể mở rộng chi nhánh tự do qua biên giới bang. Năm 1987, Quốc hội hạn chế sự bành chướng của các “ngân hàng phi ngân hàng” bằng cách ràng buộc các công ty sở hữu ngân hàng phi ngân hàng vào những quy định tương tự như các tổ chức ngân hàng truyền thống. Cuối cùng, Quốc hội đã “bắn phát súng cuối cùng” trong việc đưa ra một định nghĩa mang tính pháp lý về ngân hàng: ngân hàng được định nghĩa như một công ty là thành viên của Công ty Bảo hiểm tiền gửi Liên bang. Đây thật là một sự thay đổi thông minh vì theo luật hiện hành của Mỹ, người ta không các định ngân hàng trên cơ sở những hoạt động của nó mà trên cơ sở cơ quan chính phủ nào sẽ bảo hiểm cho tiền gửi của nó. Dòng nước đã bị vẩn đục. Vào năm 1991, chính quyền của tổng thống George Bush đề nghị cho phép các ngân hàng với vốn tự có thích hợp sẽ được quyền cung cấp hàng loạt những dịch vụ mới và được phép liên kết với các công ty môi giới và kinh doanh chứng khoán, các công ty đầu tư (các quĩ tương hỗ); cho phép công ty công nghiệp sở hữu các công ty cung cấp dịch vụ tài chính ( những công ty này có thể điều hành nganhangf và các công ty bảo hiểm); cho phép các công ty ngân hàng đầu tư vào những ngành công nghiệp phi tài chính trên cơ sở một số điều kiện ràng buộc. Do đó, các hàng rào pháp lý có tính lịch sử ở Hoa kỳ phân tách hoạt động ngân hàng với các hoạt động kinh doanh khác – điều đã tồn tại qua nhiều thế hệ - đang bị tấn công và có thể sẽ sớm đưa đến một sự thay đổi lớn lao trong việc định nghĩa ngân hàng là gì và nó cung cấp những dịch vụ gì. Kết qủa của tất cả những thay đổi về pháp lý dẫn đến tình trạng có sự nhầm lẫn trong công chúng khi phân biệt ngân hàng với một số tổ chức tài chính khác. Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục và dịch vụ tài chính đa hạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức nằng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Sự đa hạng trong các dịch vụ và chức năng của ngân hàng dẫn đến việc chúng được gọi là các “Bách hóa tài chính” (financial department stores) và người ta bắt đầu thấy xuất hiện các khẩu hiệu quản cáo tương tự như: Ngân hàng của bạn – Một tổ chức tài chính cung cấp đầy đủ dịch vụ (Your Bank – a full service Financial institution) (xem Sơ đồ 1 - 1)
- Sơ đồ 1 – 1. Những chức năng cơ bản của ngân hàng đa năng ngày nay: Các dịch vụ ngân hàng: Ngân hàng là loại hình tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực tạo lập và cung cấp các dịch vụ quản lý cho công chúng, đồng thời nó cũng thực hiện nhiều vai trò khác trong nền kinh tế (xem bảng 1-1). Thành công của ngân hàng hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực trong việc xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả và bán chúng tại một mức giá cạnh tranh. Vậy ngày nay xã hội đòi hỏi những dịch vụ gì từ phía các ngân hàng? Trong phần này, chúng tôi sẽ giới thiệu tổng quân về danh mục dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Các dịch vụ truyền thông của ngân hàng: Thực hiện trao đổi ngoại tệ. Lịch sử cho thấy rằng một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại tệ - một nhà ngân hàng đứng ra mua, bán một loại tiền này, chẳng hạn USD lấy một lại tiền khác, chẳng hạn Franc hay Pesos và hưởng phí dịch vụ. Sự trao đổi đó là rất quan trọng đối với khách du lịch vì họ sẽ cảm thấy thuận tiện và thoải mái hơn khi có trong tay đồng bản tệ của quốc gia hay thành phố họ đến. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao. Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại. Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nhân địa phương những người bán các khoản nợ (khoản phải thu) của khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền mặt. Đó là bược chuyển tiếp từ chiết thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ hoặc xây dựng văn phòng và thiết bị sản xuất.
- Nhận tiền gửi. Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm kiếm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong những nguồn vốn quan trọng là các khoản tiền gửi tiết kiệm gửi tiết kiệm của khách hàng – một quỹ sinhlợi được gửi tại ngân hàng trong khoảng thời gian nhiều tuần, nhiều tháng, nhiều năm, đôi khi được hưởng mức lãi suất tương đối cao. Trong lịch sử đã có những kỷ lục về lãi suất, chẳng hạn các ngân hàng Hy Lạp đã trả lãi suất 16% một năm để thu hút các khoản tiết kiệm nhằm mục đích cho vay đối với các chủ tàu ở Địa Trung Hải với lãi suất gấp đôi hay gấp ba lãi suất tiết kiệm. Bảo quản vật có giá trị: Ngay từ thời Trung Cổ, các ngân hàng đã bắt đầu thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Một điều hấp hẫn là các giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát cho khách hàng (ghi nhận về các tài sản đang được lưu giữ) có thể được lưu hành như tiền – đó là hình thức đầu tiên của séc và thẻ tín dụng. Ngày nay, nghiệp vụ bảo quản vật có giá trị cho khách hàng thường do phòng “Bảo quản” của ngân hàng thực hiện. Tài trợ các hoạt động của Chính phủ. Trong thời kỳ Trung Cổ và vào những năm đầu cách mạng Công nghiệp, khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành trọng tâm chú ý của các Chính phủ Âu – Mỹ. Thông thường, ngân hàng đượccấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được. Các ngân hàng đã cam kết cho Chính phủ Mỹ vay trong thời kỳ chiến tranh. Ngân hàng Bank of North America được Quốc hội cho phép thành lập năm 1781, ngân hàng này được thành lập để tài trợ cho cuộc đấu tranh xóa bỏ sự đô hộ của nước Anh và đưa Mỹ trở thành quốc gia có chủ quyền. Cũng như vậy, trong thời kỳ nội chiến, Quốc hội đã lập ra một hệ thống ngân hàng liên bang mới, chấp nhận các ngân hàng quốc gia ở mọi tiểu bang miễn là các ngân hàng này phải lập Quỹ phục vụ chiến tranh. Cung cấp các tìa khoản giao dịch. Cuộc cách mạng công nghiệp ở Châu Âu và Châu Mỹ đã đánh dấu sự ra đời những hoạt động và dịch vụ ngân hàng mới. Một dịch vụ mới, quan trong nhất được phát triển trong thời kỳ này là tài khoản tiền gửi giao dịch (demand deposit) – một tài khoản tiền gửi cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hóa và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khỏan tiền gửi mới này được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng bởi vì nó cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, làm cho các giao dịch kinh doanh trở nên dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn và an toàn hơn. Cung cấp dịch vụ ủy thác. Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã thực hiện việc quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp thương mại. Theo đó ngân hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị của tài sản hay quy mô họ quản lý. Chức năng quản lý tài sản này được gọi là dịch vụ ủy thác (trust service). Hầu hết các ngân hàng đều cung cấp cả hai loại: dịch vụ ủy thác thông thường cho cá nhân, hộ gia đình; và ủy thác thương mại cho các doanh nghiệp.
- Thông qua phòng Ủy thác cá nhân, các khách hàng có thể tiết kiệm các khoản tiền để cho con đi học. Ngân hàng sẽ quản lý và đầu tư khỏan tiền đó cho đến khi khách hàng cần. Thậm chí phổ biến hơn, các ngân hàng đóng vai trò là người được ủy thác trong di chúc quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá, đầu tư có hiệu quả, và đảm bảo cho người thừa kế hợp pháp việc nhận được khoản thừa kế. Tron gphòng ủy thác thương mại, ngân hàng quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và kế hoạch tiền lương cho các công ty kinh doanh. Ngân hàng đóng vai trò như những người đại lý cho các công ty trong hoạt động phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Điều này đòi hỏi phòng ủy thác trả lãi hoặc cổ tức cho chứng khoán của công ty, thu hồi các chứng khoán khi đến hạn bằng cách thanh toán toàn bộ cho người nắm giữ chứng khoán. Những dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây Cho vay tiêu dùng. Trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói chung có quy mô rất nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Đầu thế ký này, các ngân hàng bắt đầu dựa nhiều hơn vào tiền gửi của khách hàng để tài trợ cho những món vay thương mại lớn. Và rồi sự cạnh tranh khốc liệt trong việc giành giật tiền gửi và cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng trung thành tiềm năng. Cho tới những năm 1920 và 1930, nhiều ngân hàng lớn do Citicorp và Bank of America dẫn đầu đã thành lập những phòng tín dụng tiêu dùng lớn mạnh. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng có mức tăng trưởng nhanh nhất. Mặc dầu vậy, tốc độ tăng trưởng này gần đây đã chậm lại do cạnh tranh về tín dụng tiêu dùng ngày càng trở nên gay gắt trong khi nền kinh tế đã phát triển chậm lại. Tuy nhiên, người tiêu dùng vẫn tiếp tục là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng và tạo ra một trong số những nguồn thu quan trọng nhất. Tư vấn tài chính: Các ngân hàng từ lâu đã được khách hàng yêu cầu thực hiện hoạt động tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng ngày nay cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài chính cho các cá nhân đến tư nhân về các cơ hội thị trường trong nước và ngoài nước cho các khách hàng kinh doanh của họ. Quản lý tiền mặt. Qua nhiều năm, các ngân hàng đã phát hiện ra rằng một số dịch vụ mà họ làm cho bản thân mình cũng có ích đối với các khách hàng. Một trong những ví dụ nổi bật nhất là dịch vụ quản lý tiền mặt, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoản sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. Trong khi các ngân hàng có khuynh hướng chuyên môn hóa vào dịch vụ quản lý tiền mặt cho các tổ chức, hiện nay có một xu hường đang gia tăng về việc cung cấp các dịch vụ tương tự cho người tiêu dùng. Sở dĩ khuynh hướng này đang lan rộng là do các công ty môi giới chứng khoán, các tập đoàn tài chính khác cũng cấp cho người tiêu dùng tài khoản môi giới với hàng loạt dịch vụ tài chính liên quan. Một ví dụ là tài khoản quản lý tièn mặt của Merrill Lynch, cho phép khách hàng của nó mua và bán chứng khoán, di
- chuyển vốn trong nhiều quĩ tương hỗ, viết séc, và sử dụng thẻ tín dụng cho khoản vay tức thời. Dịch vụ thuê mua thiết bị. Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn mua các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Ban đầu các qui định yêu cầu khách hàng sử dụng dịch vụ thuê mua thiết bị phải trả tiền thuê (mà cuối cùng sẽ đủ để trang trải chi phí mua thiết bị) đồng thời phải chịu chi phí sửa chữa và thuế. Năm 1987, quốc hội Mỹ đã bỏ phiếu cho phép ngân hàng quốc gia sở hữu ít nhất một số tài sản cho thuê sau khi hợp đồng thuê mua đã hết hạn. Điều đó có lợi cho các ngân hàng cũng như khách hàng bởi vì bới tư cách là một người chủ thực sự của tài sản cho thuê, ngân hàng có thể khấu hao chúng nhằm làm tăng lợi ích về thuế. Cho vay tài trợ dự án. Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho chi phí xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dùng này nói chung là cao nên chúng thường được thực hiện qua một công ty đầu tư, là thành viên của công sở hữu ngân hàng, cùng với sự tham gia của các nhà thầu, là thành viên của công ty sở hữu ngân hàng, cùng với sự tham gia của các nhà đầu tư khác để chia sẻ rủi ro. Những ví dụ nổi bật về loại hình công ty đầu tư này là Bankers Trust Venture Capital anh Citicorp Venture,Inc Bán các dịch vụ bảo hiểm. Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm tín dụng cho khách hàng, điều đó bảo đảm việc hòan trả trong trường hợp khách hàng vay vốn bị chết hay bị tàn phế. Trong khi các quy định ở Mỹ cấm ngân hàng thương mại trực tiếp bán các dịch vụ bảo hiểm, nhiều ngân hàng hi vọng có thể đưa ra các hợp đồng bảo hiểm cá nhân thông thường và hợp đồng bảo hiểm tổn thất tài sản như ôtô hay nhà cửa trong tương lai. Hiện nay, ngân hàng thường bảo hiểm cho khách hàng thông qua các liên doanh hoặc các thỏa thuận đại lý kinh doanh độc quyền theo đó một công ty bảo hiểm đồng ý đặt một văn phòng đại lý tại hành lang của ngân hàng và ngân hàng sẽ nhận một phần thu nhập từ các dịch vụ ở đó. Một số bang như Delawake và South Dakota đã cho phép ngân hàng cung cấp các dịch vụ bảo hiểm được quy định trên toàn quốc. Những ngân hàng hoạt động trên toàn quốc nếu được phép sẽ có thể cung cấp các dịchvụ về bảo hiểm thông qua các chi nhánh riêng biệt, những quy mô đầu tư của nó chỉ được giới hạn ở mực 10% tổng số vốn chủ sở hữu. Gần đây, Citicorp đã thông báo kế hoạch sáp nhập với công ty bảo hiểm Travelers tromg một số nỗ lực nhằm đưa ra các dịch vụ bảo hiêm đa dạng hơn. Cung cấp các kế hoạch hưu trí: Phòng ủy thác ngân hàng rất năng động trong việc quản lý kế hoạch hưu trí mà hầu hết các doanh nghiệp lập cho người lao động, đầu tư vốn và phát lương hưu cho những người đã nghỉ hưu hoặc tàn phế. Ngân hàng cũng bán các kế hoạch tiền gửi hưu trí (được biết như IRAS và Keogle) cho các cá nhân và giữ nguồn tiền gửi cho đến khi người sở hữu các kế hoạch này cần đến. Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán. Trên thị trường tài chính hiện nay, nhiều ngân hàng đang phấn đấu để trở thành một “bách hóa tài chính” thực sự, cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thỏa mãn mọi nhu cầu tại một địa điểm.
- Đây là một trong những lý do chính khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng mua lại một công ty môi giới đang hoạt động (ví dụ Bank of America mua Robertson Stephens Co.) hoặc thành lập các liên doanh với một công ty môi giới. Cung cấp dịch vụ quỹ tương hỗ và trợ cấp. Do ngân hàng cung cấp các tài khoản tiền gửi truyền thống với lãi suất quá thấp, nhiều khách hàng đã hướng tới việc sử dụng cái gọi là sản phẩm đầu tư (investment products) đặc biệt là các tài khoản của quỹ tương hỗ và hợp đồng trợ cấp, những loại hình cung cấp triển vọng thu nhập cao hơn tài khoản tiền gửi dài hạn cam kết thanh toán một khoản tiền mặt hàng năm cho khách hàng bắt đầu từ một ngày nhất định trong tương lai ( chẳng hạn ngày nghỉ hưu). Ngược lại, quỹ tương hỗ bao gồm các chương trình đầu tư được quản lý một cách chuyên nghiệp nhằm vào việc mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phù hợp với mục tiêu của quỹ (ví dụ: Tối đa hóa thu nhập hay đạt được sự tăng giá trị vốn). Trong khi quá trình phát triển của các kế hoạch trợ cấp diễn ra khá chậm do những vụ kiện tụng bởi các đối thủ cạnh tranh chống lại sự mở rộng của ngân hàng sang lĩnh vực dịch vụ mới này thì việc cung cấp cổ phiếu trong quỹ vốn ngân hàng quản lý chiếm 15% tổng giá trị tài sản của quỹ tương hỗ trong những năm 90. Một vài ngân hàng đã tổ chức những chi nhánh đặc biệt để thực hiện nhiệm vụ này (ví dụ: Citicorp’s Investment Services) hoặc liên doanh với các nhà kinh doanh và môi giới chứng khoán. Gần đây, hoạt động cung cấp nghiệp vụ quỹ tương hỗ của ngân hàng đã có nhiều giảm sút do mức thu nhập không còn cao như trước, do những qui định nghiêm ngắt hơn và đồng thời do sự thay đổi trong quan điểm đầu tư của công chúng. Cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn. Ngân hàng ngày nay đang theo chân các tổ chức tài chính hàng đầu trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và dịch vụ ngân hàng bán buôn cho các tập đoàn lớn. Những dịch vụ này bao gồm xác định mục tiêu hợp nhất, tài trợ mua lại Công ty, mua bán chứng khoán cho khách hàng (ví dụ: bảo lãnh phát hành chứng khoán), cung cấp công cụ Marketing chiến lược, các dịch vụ hạn chế rủi ro để bảo vệ khách hàng. Các ngân hàng cũng dấn sâu vào thị trường bảo đảm, hỗ trợ các khoản nợ do chính phủ và công ty phát hành để những khách hàng này có thể vay vốn với chi phí thấp nhất từ thị trường tự do hay từ các tổ chức cho vay khác. Ở Mỹ, các dịch vụ ngân hàng đầu tư (như bảo lãnh phát hành chứng khoán) liên quan tới việc mua bán cổ phiếu mới và nợ do ngân hàng thương mại thực hiện thay mặt cho các công ty đã bị cấm sau khi Quốc hội thông qua các Đạo luật Glass-Steagall năm 1933. Tuy nhiên, trước áp lực lớn từ các công ty ngân hàng trong nước hàng đầu, và do thành công của các đối thủ cạnh tranh nước ngoài, vào những năm 80 Cục lữu trữ liên bang đã bắt đầu nới lỏng các quy định đối với việc ngân hàng kinh doanh chứng khoán do khách hàng của chúng phát hành. Thông qua nghiệp vụ bảo lãnh phát hành, ngân hàng đã tạo cho các công ty một kênh huy động vốn mới bên cạnh hình thức cho vay vốn truyền thống. Nhiều công ty đã đánh giá rất cao nghiệp vụ này của ngân hàng, hơn cả hình thức cho vay truyền thống bởi vì nó cung cấp cho họ một nguồn vốn dài hạn với chi phí thấp hơn. Cho tới cuối những năm 90, Cục dự trữ Liên bang Mỹ đã cấp cho hơn 40 ngân hàng đặc quyền cung cấp dịch vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán. Trên thực tế, điều này cho
- phép nhân viên tín dụng ngân hàng cộng tác chặt chẽ với giới kinh doanh chứng khoán trong quá trình tìm nguồn tài trợ cho khách hàng. Năm 1996, Cục quản lý tiền tệ Mỹ ra quy định mới cho phép các ngân hàng có giấy phép hoạt động trên toàn quốc có thể cung cấp dịch vụ bảo lãnh phát hành nếu như dịch vụ này được thực hiện thông qua các công ty con, với điều kiện ngân hàng không được đầu tư quá 10% vốn cổ phần vòa một công ty. Một sự nới lỏng hơn nữa trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán và như vậy, ngân hàng có thể cung cấp toàn bộ dịch vụ tài trợ và tư vấn quản lý đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán. Một ví vụ gần đây là sự kiện ngân hàng NationBank mua Mortgetary Security Inc., Bank America mua công ty Robertson Stephens và ngân hàng Banker Trust of New York mua công ty Alex Brow. Sự thuận tiện: Tổng hợp tất cả các dịch vụ ngân hàng. Rõ ràng là không phải tất cả mọi ngân hàng đều cung cấp nhiều dịch vụ tài chính như danh mục dịch vụ mà chúng tôi đã miêu tả ở trên, nhưng quả thật danh mục dịch vụ ngân hàng đang tăng lên nhanh chóng. Nhiều loại hình tín dụng và tài khỏan tiền gửi mới đang được phát triển, các loại dịch vụ mới như giao dịch qua Internet và thẻ thông minh (Smart) đang được mở rộng và các dịch vụ mới (như bảo hiểm và kinh doanh chứng khoán) được tung ra hàng năm. Nhìn chung, dạnh mục các dịch vụ đầy ấn tượng do ngân hàng cung cấp tạo ra sự thuận lợi rất lớn hơn cho khách hàng. Khách hàng có thể hoàn toàn thỏa mãn tất cả các nhu cầu dịch vụ tài chính của mình thông qua một ngân hàng và tại một địa điểm. Thực sự ngân hàng đã trở thành “bách hóa tài chính” ở kỷ nguyên hiện đại, công việc hợp nhất các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, môi giới chứng khoán dưới một mái nhà chính là xu hướng mà người ta thường gọi là Universal Banking ở Mỹ, Canada và Anh, là Allginanz ở Đức, và là Bancassurance ở Pháp. Các khuynh hướng ảnh hưởng tới hoạt động ngân hàng Sự gia tăng nhanh chóng trong danh mục dịch vụ. Như chúng ta đã thấy ở phần trước, các ngân hàng đang mở rộng danh mục dịch vụ tài chính mà họ cung cấp cho khách hàng. Qúa trình mở rộng danh mục dịch vụ đã tăng tốc trong những năm gần đây dười áp lực cạnh tranh gia tăng từ các tổ chức tài chính khác, từ sự hiểu biết và đòi hỏi cao hơn của khách hàng, và từ sự thay đổi công nghệ. Nó cũng làm tăng chi phí của ngân hàng và dẫn đến rủi ro phá sản cao hơn. Các dịch vụ mới đã có ảnh hưởng tốt đến ngành công nghiệp này thông qua việc tạo ra những nguồn thu mới cho ngân hàng – các khoản lệ phí của dịch vụ không phải lãi, một bộ phận có xu hướng tăng trưởng nhanh hơn so với các nguồn thu truyền thống từ lãi cho vay. Sự gia tăng cạnh tranh. Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng trở lên quyết liệt khi ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục dịch vụ. Các ngân hàng địa phương cung cấp tín dụng, kế hoạch tiết kiệm, kế hoạch hưu trí, dịch vụ tư vấn tài chính cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng, kế hoạch tiết kiệm, kế hoạch hưu trí, dịch vụ tư vấn cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Đây là những dịch vụ đang phải đối mặt với sự cạnh tranh trực tiếp từ các ngân hàng khác, các hiệp hội tín dụng, các công ty kinh doanh chứng khoán như Merrill Lynch, các công ty tài chính như GE
- Capital và các tổ chức bảo hiểm như Prudential. Áp lực cạnh tranh đóng vai trò như một lực đẩy tạo ra sự phát triển dịch vụ cho tương lai. Phi quản lý hóa. Cạnh tranh và quá trình mở rộng dịch vụ ngân hàng cũng được thúc đẩy bởi sự nới lỏng các quy định – giảm bớt sức mạnh kiểm soát của Chính phủ. Điều này bắt đầu từ hai thập kỷ trước, xu hướng nới lỏng các quy định đã được bắt đầu với việc Chính phủ nâng lãi suất trần đối với tiền gửi tiết kiệm nhằm cố gắng giúp công chúng một mức thu nhập khá hơn từ khoản tiết kiệm của mình. Cũng lúc đó, nhiều loại tài khoản tiền gửi mới được phát triển giúp cho công chúng có thể hưởng lãi trên các tài khoản giao dịch. Gần như đồng thời, các dịch vụ mà những đối thủ chính của ngân hàng như hiệp hội tín dụng và cho vay cũng được mở rộng nhanh chóng và do đó khả năng cạnh tranh với ngân hàng của những tổ chức này cũng được củng cố. Các quốc gia hàng đầu như Australia, Canada, Anh quốc và Nhật Bản gần đây đã tham gia vào trào lưu phi quản lý hóa, nới rộng giới hạn pháp lý cho ngân hàng, cho người kinh doanh chứng khoán và cho các công ty dịch vụ tài chính khác. Chi phí và rủi ro tổn thất theo đó cũng tăng lên. Sự gia tăng chi phí vốn: Sự nới lỏng luật lệ kết hợp với sự gia tăng cạnh tranh làm tăng chi phí trung bình thực tế của tài khoản tiền gửi – nguồn vốn cơ bản của ngân hàng. Với sự nới lỏng các luật lệ, ngân hàng buộc phải trả lãi do thị trường cạnh tranh quyết định cho phần lớn tiền gửi. Đồng thời, Chính phủ yêu cầu các ngân hàng phải sử dụng vốn sở hữu nhiều hơn – một nguồn vốn đắt đỏ - để tài trợ cho các tài sản của mình. Điều đó buộc họ phải tìm cách cắt giảm các chi phí hoạt động khác như giảm số nhân công, thay thế các thiết bị lỗi thời bằng hệ thống xử lý điện tử hiện đại. Các ngân hàng cũng buộc phải tìm các nguồn vốn mới như chứng khoán hóa một số tài sản, theo đó một số khoản cho vay của ngân hàng được tập hợp lại và đưa ra khỏi bảng cân đối kế toán; các chứng khoán được đảm bảo bằng các món vay được bán trên thị trường mở nhằm huy đọng vốn mới một cách rẻ hơn và đáng tin cậy hơn. Hoạt động này cũng có thể tạo ra một khoản thu phí không nhỏ cho ngân hàng, lớn hơn so với các nguồn vốn truyền thống (như tiền gửi). Sự gia tăng các nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất. Các qui đinj của Chính phủ đối với công nghiệp ngân hàng tạo cho khách hàng khả năng nhận được mực thu nhập cao hơn từ tiền gửi, nhưng chỉ có công chúng mới làm cho các cơ hội đó trở thành hiện thực. Và công chúng đã làm việc đó. Hàng tỷ USD trước đây được gửi trong các tài khoản tiết kiệm thu nhập thấp và các tài khoản giao dịch không sinh lợi kiểu cũ đã được chuyển sang các tài khoản có mức thu nhập cao hơn, những tài khoản có tỷ lệ thu nhập thay đổi thoe điều kiện thị trường. Ngân hàng đã phát hiện ra rằng họ đang phải đối mặt với những khách hàng có giáo dục hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Các khoản tiền gửi “trung thành” của họ có thể dễ tăng cường khả năng cạnh tranh trên phương diện thu nhập trả cho công chúng gửi tiền và nhạy cảm hơi với ý thích thay đổi của xã hội về vấn đề phân phối các khoản tiết kiệm. Cách mạng trong công nghệ ngân hàng. Đối mặt với chi phí hoạt động cao hơn, từ nhiều năm gần đây các ngân hàng đã và đang chuyển sang sử dụng hệ thống hoạt động tự động và điện tử thay thế cho hệ thống dựa trên lao động thủ công, đặc biệt là trong công
- việc nhận tiền gửi, thanh toán bù trừ và cấp tín dụng. Những ví dụ nổi bật nhất bao gồm các máy rút tiền tự động ATM, ở Mỹ có hơn 100.000 chiếc, cho phép khách hàng truy nhập tài khoản tiền gửi của họ 24/24 giờ; Máy thanh toán tiền POS được lắp đặt ở các bách hóa và trung tâm bán hàng thay thế cho các phương tiện thanh toán hàng hóa dịch vụ bằng giấy; và hệ thống máy vi tính hiện đại xử lý hàng ngàn giao dịch một cách nhanh chóng trên toàn thế giới. Do đó, ngân hàng đang trở thành ngành sử dụng nhiều vốn và chi phí cố định; sử dụng ít lao động và chi phí biến đổi. Nhiều chuyên gia tin rằng các tòa nhà ngân hàng và các cuộc mít tinh gặp mặt trực tiếp giữa các nhà ngân hàng và khach shàng cuối cùng sẽ trở thành những di tích của quá khứ và bị thay thế bởi các cuộc liên quan và giao tiếp điện tử. Sản xuất và cung cấp dịch vụ sẽ hoàn toàn tự động. Những bước đị đó sẽ giảm đáng kể chi phí nhân công hóa ngân hàng và gây ra tình trạng mất việc làm khi máy móc thay thế người lao động. Tuy nhiên, những kinh nghiệp gần đây gợi ý rằng một ngành ngân hàng hoàn toàn tự động có thể vẫn còn là điều xa vời. Một tỷ lệ lớn khách hàng vẫn ưa chuộng các dịch vụ của con người và những cơ hội để nhận được sự tư vấn cá nhân về các vấn đề tài chính. Sự củng cố và mở rộng hoạt động về mặt địa lý. Sử dụng có hiệu quả quá trình tự động hóa và những đổi mới công gnhệ đòi hỏi các hoạt động ngân hàng phải có qui mô lớn. Vì vậy, ngân hàng cần pahỉ mở rộng cơ sở khách hàng bằng cách vươn tới các thị trường mới, xa hơn và gia tăng số lượng tài khoản. Kết quả là hoạt động mở chi nhánh ngân hàng diễn ra. Mô hình công ty sở hữu ngân hàng mua lại các ngân hàng nhỏ và đưa chúng trở thành bộ phận của các tổ chức ngân hàng mua lại các ngân hàng nỏi và đưau chúng trở thành bộ phận của các tổ chức ngân hàng đa trụ sở đã ngày càng phổ biến. Nhiều vụ đại hợp nhất đã diễn ra như vụ hợp nhất giữa Chemical Bank và Chase Manhttan ở New York hay Bank of America và Nations Bank. Số lượng các ngân hàng sở hữu độc lập và bắt đầu giảm và qui mô trung bình của các công ty ngân hàng đã tăng đáng kể. Cùng lúc đó, số lượng các ngân hàng nhỏ của Mỹ (tổng tài sản dưới 1 tỷ USD) đã giảm mạnh ít nhất là 1/3 kể từ giữa thập kỷ 80, số lượng nhân viên giảm hơn 100.000 người trong cùng thời ký. Hơn nữa, thập kỷ 80 và 90 đã mở ra một kỷ nguyên sự bành trướng “liên tiểu bang” trong hệ thống ngân hàng Mỹ. Hơn 300 tổ chức ngân hàng đã vương ra khỏi thị trường tiểu bang, thôn tính các ngân hàng nhỏ để trở thành những ngân hàng tầm cỡ quốc gia. Hiện nay ngân hàng đang tìm mọi cách để đạt được sự đa dạng hóa và ngân hàng không còn muốn duy trì mô hình ngân hàng cổ điển và nhấn mạnh vai trò của nó như là các tổ chức tài chính năng động, đổi mới và hướng về khách hàng. Với sự phát triển của tự động hóa, ngày càng nhiều ngân hàng mở chi nhánh ở những vùng xa với các thiết bị viễn thông và máy rút tiền tự động – một phương pháp mở rộng qui mô thị trường hơn là xây dựng các cơ sở vạt chất mới. Trong nhiều trường hợp, hệ thống thiết bị vệ tinh cung cấp dịch vụ hữu hạn sẽ thay thế các văn phòng chi nhánh đa năng của ngân hàng.
- Quá trình toàn cầu hóa ngân hàng. Sự bành trướng địa lý và hợp nhất các ngân hàng đã vượt ra khỏi ranh giới lãnh thổ một quốc gia đơn lể và lan rộng ra với quy mô toàn cầu. Ngày nay, các ngân hàng lớn nhất thế giới cạnh tranh với nhau trên tất cả các lục địa. Vào những năm 80, các ngân hàng Nhật, dẫn đầu là Dai_I Chi Kangyo Bank và Fuji Bank đã phát triển nhanh hơn hầu hết các đối thủ cạnh tranh trên khắp thế giới. Các ngân hàng lớn đặt trụ sở tại Pháp (dẫn đầu là Caisse Nationale de Credit Agricole), tại Đức (dẫn đầu là Deutsche Bank) và tại Anh (dẫn đầu là Barclays PLC) cũng trở thành những đối thủ nặng ký trên thị trường cho vay Chính phủ và cho vay công ty. Quá trình phi quản lý hóa đã giúp tất cả các tổ chức này cạnh tranh hiệu quả hơn so với các ngân hàng Mỹ và nắm được thị phần ngày càng tăng trên thị trường toàn cầu về dịch vụ ngân hàng. Ngày nay, Canada, Mỹ và Mexico đã thực hiện Hiệp ước mậu dịch tư do Bắc Mỹ (NAFTA) điều mà cho phép ngân hàng ở những nước này sở hữu và quản lý các chi nhánh ngân hàng ở nước kia và sức mạnh dịch vụ của các chi nhánh loại này hoàn toàn so sánh được với những chi nhánh sở hữu bởi các ngân hàng trong nước. Rủi ro vỡ nợ gia tăng và sự yếu kém của hệ thống bảo hiểm tiền gửi. Trong khi xu hướng hợp nhất và bánh trướng về mặt địa lý đã giúp nhiều ngân hàng ít tổn thương trong điều kiện kinh tế trong nước thì sự đẩy mạnh cạnh tranh giữa các ngân hàng và các tổ chức phi ngân hàng kèm theo các khoản tín dụng có ván đề một nền kinh tế luôn biến động đã dẫn tới sự phá sản ngân hàng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Xu hướng phi quản lý hóa trong lĩnh vực tài chính đã mở ra cơ hội cho các nhà ngân hàng, nhưng cũng chỉ tạo ra một thị trường tài chính xảo trá hơn, nơi mà sự phá sản, thôn tính và thành lý ngân hàng dễ xảy ra hơn. Phải chăng các ngân hàng đang chết? Gần đây Mỹ, châu Âu và châu Á, hàng trăm ngân hàng và các tổ chức nhận tiền gửi đã sáp nhập và sụp đổ. Người ta bắt đầu lo lắng cho tương lai của ngành công nghiệp ngân hàng. Thậm chí, đối với các ngân hàng còn sống sót, có những bằng chứng cho thấy thị phần của chúng trên thị trường dịch vụ tài chính bắt đầu suy giảm trong khi các công ty chứng khoán, các công ty bảo hiểm, các quỹ tương hỗ và các công ty tài chính đã đạt được sự tăng trưởng thị phần đáng kể. Gần đây, ngân hàng Dự trữ Liên bang St.Louis đã tính toán rằng tỷ lệ tổng tài sản do ngân hàng và các tổ chức nhận tiền gửi nắm giữ so với tất cả các trung gian tài chính giảm từ 56% năm 1982 xuống hơn 42% trong năm 1991 – một “sự co rút tự nhiên” theo sau làn sóng phi quản lý hóa trong ngành công nghiệp này và với mtộ thị trường tài chính phức tạp hơn. Một số nhà phân tích (ví dụ Beim đã tuyen bố rằng các ngân hàng hiện nay đang “chết”. Khi các thị trường ngày càng trở nên có hiệu quả với những tiến bộ gần đây trong công nghệ, cùng với xu hướng các khách hàng lớn hơn tăng cường tìm kiếm những phương thức vay nợ mới (như bán chứng khoán trên thị trường mở), các ngân hàng truyền thống ngày càng trở nên ít cần thiết. Ít nhất thì cũng có quá nhiều ngân hàng - ở Mỹ có gần 9.000 – và có quá nhiều nguồn lực được tập trung vào lĩnh vực ngân hàng. Người ta có thể phản đối rằng rất nhiều những ngân hàng này đơn giản là đang nhận được sự bảo vệ và nâng đỡ của Chính phủ dưới hình thức bảo hiểm tiền gửi và các khoản vay của Chính phủ với giá rẻ. Có lẽ, sự sáp nhập và đổ vỡ ngân hàng toàn cầu gần đây chỉ đơn giản là
- dấu hiệu cho thấy ngành công nghiệp ngân hàng đã “quá đông” và đang phải đương đầu về sự sa sút nhu cầu đối với các dịch vụ truyền thống. Rồi nữa, các ngân hàng cũng phải chịu gánh nặng từ những qui định của Chính phủ hơn hầu hết các đối thủ cạnh tranh. Trong những năm 1990, một cuộc điều tra của Hiệp hội ngân hàng Mỹ ABA đã ước tính rằng chi phí do tuân theo qui định của liên bang và cảu tiểu bang lên tới 11 tỷ USD (khoảng 60% lợi nhuận hàng năm của ngành này). Sự sa sút trong thị phần ngân hàng thị trường dịch vụ tài chính đã gây lo ngại cho các nhà hoạch định chính sách và cho các khách hàng của ngân hàng. Trong đó có người lo sợ rằng tầm quan trọng bị suy giảm của ngân hàng có thể: Làm giảm khả năng của Ngân hàng trung ương trong việc điều tiết sự tăng trưởng của mức cung tiền tệ và trong việc đạt được các mục tiêu kinh tế quốc gia. Gây thiệt hại cho khách hàng (chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và hộ gia đình) là những người hầu hết dựa vào tiền vay và các dịch vụ tài chính khác của ngân hàng. Làm cho các dịch vụ ngân hàng kém thuận tiện cho khách hàng khi các chi nhánh ngân hàng bị hợp nhất và đóng cửa. Nhiều nhà kinh tế phản đối rằng những qui định đối với ngân hàng hiện nay là quá chặt chẽ trong khi các qui định đối với đối thủ cạnh tranh của nó là quá ít thậm chí không có. Họ cũng cho rằng tăng cường quá trình phi quản lý hóa là điều cần được thực hiện nếu muốn các ngân hàng trở nên vững mạnh hơn. Rất nhiều ngân hàng, đặc biệt là những ngân hàng lớn, đang cố gắng chống lại hay làm chậm lại quá trình giảm sút thị phần bằng cách: (1) đưa ra dịch vụ mới (như bán cổ phiếu cho quĩ tương hỗ, bán hợp đồng bảo hiểm), (2) tính phí sử dụng cao hơn cho các dịch vụ không mất tiền trước đây, (3) cung cấp nhiều dịch vụ hơn qua các công ty con không bị điều tiết như ngân hàng hoặc (4) tham gia liên doanh với các công ty độc lập (như Dean Witerr với National Bank) và nhằm tránh gánh nặng quy định. Rồi nữa, có những chuyên gia trong lĩnh vực này (như Kaufman và Mote) phản đối rằng sự sa sút ngân hàng chỉ mang tính bề ngoài hơn là bản chất. Bản chất của ngành công nghiệp ngân hàng đã thay đổi rất nhiều trong những năm gần đây với sự phát triển các dịch vụ mới, không phải tất cả chúng đều được thể hiện trên bản cân đối kế toán. Đồng thời các chuyên gia cũng cho rằng chúng ta cần phải phát triển các phương pháp đo lường qui mô ngân hàng mới để xác định xem tầm quan trọng của ngân hàng có đang thực sự giảm sút không. Cùng lúc, các chương trình hỗ trợ và trợ cấp của Chính phủ cho ngân hàng sẽ có thể phải được đổi mới và cắt giảm. Dường như Bảo hiểm tiền gửi của Chính phủ đã đánh lừa khách hàng rằng tất cả các ngân hàng đều an toàn và điều này có thể cho một ngân hàng nào đó những thuật lợi không chính đáng trong hoạt động thu hút tiền của công chúng. Những ngân hàng không lành mạnh phải được phép rời khỏi ngành sẽ không nhất thiết phải tồn tại, hầu hết các ngân hàng có thể tăng khả năng cạnh tranh nếu chúng được phép cung cấp nhiều dịch vụ hơn và bảo hiểm tiền gửi được định giá một cách chính xác để phản ánh mức độ rủi ro của mỗi ngân hàng. Tóm lại, ngân hàng truyền thống có thể chết nhưng nếu các ngân hàng được tự do hơn trong việc đáp ứng các nhu
- cầu thay đổi không ngừng của công chúng về những dịch vụ mới, chúng không nhất thiết phải chết. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN A. Những vấn đề cơ bản về chứng khoán I. Khái niệm chứng khoán Chứng khoán là các công cụ để huy động vốn trung và dài hạn, các giấy tờ có giá, có khả năng chuyển đổi, chuyển nhượng nhằm xác nhận quyền sở hữu, quan hệ vay nợ giữa người nắm giữ nó và chủ thể phát hành ra nó. Đối với mỗi loại chứng khoán thường có các tính chất sau: 1. Tính thanh khoản (tính lỏng) của một chứng khoán là khả năng chuyển đổi giữa chứng khoán đó sang tiền mặt. Tính lỏng của chứng khoán thể hiện qua việc chứng khoán đó được mua bán, trao đổi trên thị trường. 2. Tính sinh lời: Thu nhập của nhà đầu tư được sinh ra từ việc tăng giá chứng khoán trên thị trường, hay các khoản tiền lãi được trả hàng năm. 3. Tính rủi ro: Đây là đặc trưng cơ bản của chứng khoán.Trong quá trình trao đổi, mua đi bán lại, giá của chứng khoán bị giảm hoặc mất hoàn toàn ta gọi là rủi ro. II. phân loại chứng khoán 1. Cổ phiếu Là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp đối với thu nhập và tài sản của công ty cổ phần. Số vốn đóng góp để thành lập công ty được chia ra thành nhiều phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phần. Người mua cổ phần gọi là cổ đông. Cổ phiếu có thể được phát hành dưới dạng chứng chỉ vật chất hoặc bút toán ghi sổ. Giá trị ban đầu ghi trên cổ phiếu là mệnh giá của cổ phiếu. Mệnh giá là giá trị danh nghĩa. Số tiền nhận được từ khoản góp vốn gọi là cổ tức.Giá cổ phiếu giao động qua các phiên giao dịch trên thị trường chứng khoán và tách rời so với mệnh giá.Cổ phiếu được chia thành 2 loại: a. Cổ phiếu thường: Là loại cổ phiếu không có kỳ hạn, tồn tại cùng với sự tồn tại của công ty phát hành ra nó, nó không có lãi suất cố định, số lãi được chia vào cuối mỗi niên độ quyết toán. Cổ đông nắm giữ cổ phiếu này có quyền bỏ phiếu, mua cổ phiếu mới, tham gia vào đại hội cổ đông. b. Cổ phiếu ưu đãi: Gồm 2 loại
- * Cổ phiếu ưu đãi biểu quyết: Là cổ phiếu dành cho các cổ đông sáng lập. Cổ đông nắm giữ loại cổ phiếu này phải nắm giữ trong một khoảng thời gian nhất định, không được chuyển nhượng, trao đổi. * Cổ phiếu ưu đãi tài chính: Tưong tự như cổ phiếu thường nhưng có một số hạn chế: cổ đông nắm giữ cổ phiếu này không được tham gia bầu cử, ứng cử vào hội đồng quản trị, ban kiểm soát của công ty. Nhưng họ được hưởng ưu đãi về tài chính theo mức cổ tức riêng biệt, có tính cố định hàng năm. 2. Trái phiếu Là loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành phải trả cho người nắm giữ chứng khoán đó một khoản tiền xác định vào những thời hạn cụ thể và theo những điều kiện nhất định. Đây là những chứng khoán nợ, được phát hành dưới dạng chứng chỉ vật chất hoặc bút toán ghi sổ.Trái phiếu bao gồm các loại sau: a. Trái phiếu vô danh: Loại này không ghi tên trái chủ trên cả chứng chỉ và sổ sách của các tổ chức phát hành. Việc chuyển nhượng loại trái phiếu này rất dễ dàng nên nó thường được giao dịch trên thị trường chứng khoán. b. Trái phiếu ghi danh: Ghi tên, địa chỉ của trái chủ trên chứng chỉ và sổ sách của tổ chức phát hành.Loại này ít được đem trao đổi trên thị trường. c. Trái phiếu chính phủ: Là loại trái phiếu do chính phủ phát hành nhằm bù đắp cho thâm hụt ngân sách. Đây là loại chứng khoán mà các nhà đầu tư không ưa mạo hiểm rất ưa thích vì nó hầu như không có rủi ro thanh toán. d. Trái phiếu công trình:là loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng hay công trình phúc lợi công cộng. e. Trái phiếu công ty: Do công ty phát hành để vay vốn trung và dài hạn. Khi công ty bán trái phiếu thì công ty là người đi vay còn người mua là chủ nợ. Công ty phải cam kết trả cả lãi và gốc cho trái chủ như ®· nªu trong hợp đồng.Nó bao gồm các loại: Trái phiếu có đảm bảo, trái phiếu không có bảo đảm, trái phiếu có thể mua lại 3. Chứng chỉ quỹ đầu tư Là chứng khoán được phát hành bởi công ty quản lý quỹ để huy động vốn từ các nhà đầu tư. Vốn được dùng để mua bán kinh doanh các loại chứng khoán khác để kiếm lời, sau đó chia tiền lời đó cho các nhà đầu tư.Có thể phân loại chứng chỉ quỹ đầu tư thành: a. Quỹ đầu tư chung: §ây là loại quỹ mà tất cả mọi người đều có thể tham gia.
- b. Quỹ đầu tư riêng: Chỉ giới hạn ở một nhóm người nhất định. c. Quỹ đầu tư dạng mở: Là quỹ đầu tư trong đó nhà đầu tư có quyền bán lại chứng chỉ quỹ đầu tư cho quỹ phát hành chứng khoán liªn tôc ®Ó huy ®éng vèn và sẵn sàng mua lại số chứng khoán mà nó ®· phát hành ra. d. Quỹ đầu tư cổ phiếu: Quỹ chuyên đầu tư vào một loại cổ phiếu nhất định. e. Quỹ đầu tư trái phiếu: Là quỹ để đầu tư vào một loại trái phiếu nào đó. g. Quỹ đầu tư hỗn hợp: Loại quỹ đầu tư vào bất kì loại chứng khoán nào nếu thấy có hiệu quả Ngoài ra, còn có một số loại chứng khoán khác như: Giấy bảo đảm quyền mua cổ phiếu, các hợp đồng kì hạn, chứng quyền B. Tổng quan về thị trường chứng khoán I. Khái niệm thị trường chứng khoán Trong nền kinh tế thị trường, xã hội của sản xuất được phân chia thành hai cực: Một cực có vốn tìm nơi đầu tư và một cực cần vốn để đầu tư vào sản xuất và kinh doanh. Trong những ngày đầu của sản xuất hàng hóa và lưu thông tiền tệ, hệ thống ngân hàng sớm ra đời để huy động các nguồn vốn tiền tệ nhàn rỗi hình thành trong xã hội nhằm tái phân phối cho nền kinh tế quốc dân theo nguyên tắc tín dụng. Như vậy, một kênh vốn nối hai cực đó lại với nhau và phải thông qua các trung gian tài chính, trong đó chủ yếu là hệ thống ngân hàng được gọi là kênh dẫn vốn gián tiếp. Khi xã hội của sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển ở giai đoạn cao, ngày một hoàn thiện thì những người có vốn đã có đủ điều kiện về môi trường pháp lý, môi trường tài chính v.v để chuyển vốn của mình trực tiếp đầu tư vào sản xuất không phải thông qua tầng lớp trung gian tài chính mà phải thông qua thị trường chứng khoán – một thị trường dẫn vốn trực tiếp từ cực có vốn này sang cực cần vốn kia theo nguyên tắc đầu tư. Kênh dẫn vốn đó được gọi là kênh dẫn vốn trực tiếp. Qua sự khảo sát giữa hai kênh dẫn vốn gián tiếp và trực tiếp thấy rằng, bên cạnh những ưu điểm đem lại từ kênh dẫn vốn trực tiếp mà kênh gián tiếp không thể có được, còn cho thấy thị trường chứng khoán đã tạo điều kiện dễ dang cho việc điều hòa vốn trong nền kinh tế quốc dân thông qua việc mua bán chuyển nhượng vốn giữa các chủ thể của nền kinh tế. Chính vì lẽ đó, khi nền sản xuất hàng hóa phát triển ở giai đoạn cao đòi hỏi sự ra đời thị trường chứng khoán quốc gia và trong điều kiện quốc tế hóa đời sống kinh tế và xã hội nhưng ngày nay thì vấn đề toàn cầu hóa hoạt động thị trường chứng khoán của các nước trở nên cấp thiết và sẽ phát triển. Vậy thị trường chứng khoán là gì? Có nhiều khái niệm về thị trường chứng khoán khác nhau, nhưng nhìn chung có thể dẫn ra một khái niệm có tính phổ biến: Thị trường chứng khoán là một thị trường mà ở nơi đó người ta mua bán, chuyển nhượng, trao đổi chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời.
- Thị trường chứng khoán phải tồn tại ở một nơi mà ở nơi đó việc mua bán chứng khoán được thực hiện. Trong quá trình phát triển và hoàn thiện thị trường chứng khoán ở các nước có nền sản xuất và lưu thông hàng hóa lâu đời như Mỹ, Anh, Pháp, v.v nơi đó tồn tại dưới hai hình thức: Thị trường chứng khoán có tổ chức và Thị trường chứng khoán phi tổ chức. Hình thái điển hình của thị trường chứng khoán có tổ chức là Sở giao dịch chứng khoán (Stock exchange). Mọi việc mua, bán, chuyển nhượng, trao đổi chứng khoán phải tiến hành trong Sở giao dịch và thông qua các thành viên của Sở giao dịch theo quy chế của Sở giao dịch chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán có thể là tổ chức sở hữu nhà nước, là doanh nghiệp cổ phần hoặc một hiệp hội và đều có tư cách pháp nhân hoạt động kinh doanh chứng khoán. Có thể dẫn ra những Sở giao dịch chứng khoán nổi tiếng của thế giới như: NYSE (New York Stock exchange), TSE (Tokyo Stock exchange), LSE (London Stock exchange )v.v Thị trường chứng khoán phi tổ chức là một thị trường không có hình thái tổ chức tồn tại, nó có thể là bất cứ nơi nào mà tại đó người mua và người bán trực tiếp gặp nhau để tiến hành giao dịch. Nơi đó có thể là tại quầy giao dịch ở các ngân hàng bất kỳ nào đó. Thị trường hình thành như thế gọi là thị trường giao dịch qua quầy (Over-the-counter – OTC) Ngày nay, nhờ vào thành quả của cách mạng tin học, hệ thống INTERNET đã gắn kết các thành viên của thị trường lại với nhau, do đó việc trao đổi thông tin, tiến hành giao dịch mua bán chứng khoán không phải đến tận quầy của các ngân hàng và có thể tiến hành ngay trên bàn máy vi tính. Đây là một hình thái của thị trường chứng khoán phi tổ chức bậc cao mới xuất hiện trong thập kỉ qua. Thị trường này chưa có tên chính thức, có người gọi đó là thì trường thứ ba (Third Market) II. Vai trò của thị trường chứng khoán trong phát triển kinh tế. Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực với sự ra đời của tổ chức thương mại thế giới (WTO), của liên minh Châu Âu, khối thị trường chung đòi hỏi các quốc gia phải thúc đẩy phát triển kinh tế với tốc độ cao và hiệu quả cao. Thực tế phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế giới đã khẳng định vai trò của thị trường chứng khoán trong phát triển kinh tế. 1. thứ nhất, thị trường chứng khoán với việc tạo ra các công cụ có tính thanh khoản cao, có thể tích tụ, tập trung và phân phối vốn, chuyển thời hạn của vốn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế. Ở Hàn Quốc, thị trường chứng khoán đã đóng vai trò không nhỏ trong sự tăng trưởng kinh tế trong hơn ba mươi năm, cho tới thập kỷ 90 thị trường chứng khoán nước này đã lớn mạnh và đứng hàng thứ 13 trên thế giới góp phần tạo mức tăng trưởng kinh tế đạt bình quân 9% năm, thu nhập quốc dân bình quân đầu người năm 1995 là trên 10.000USD.
- Yếu tố thông tin là yếu tố cạnh tranh trên thị trường sẽ đảm bảo cho việc phân phối vốn một cách hiệu quả Trên thị trường chứng khoán, tất cả các thông tin được cập nhật và được chuyển ti tới tất cả các nhà đầu tư để họ có thể phân tích và định giá cho các chứng khoán. Thị trường chứng khoán đã tạo ra một sự cạnh tranh có hiệu quả trên thị trưòng tài chính, do đó các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính phải quan tâm tới hoạt động tài chính của họ và làm giảm chi phí tài chính. Việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán có thể làm tăng vốn tự có của các công ty và giúp họ tránh các khoản vay có chi phí cao cũng như sự kiểm soát chặt chẽ của các ngân hàng thương mại. Thị trường chứng khoán khuyến khích tính cạnh tranh của các công ty trên thị trường.Sự tồn tại của các thị trường chứng khoán cũng là yếu tố quyÕt ®Þnh để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây là yếu tố đảm bảo cho sự phân bổ có hiệu quả các nguồn lực trong một quốc gia cũng như trong phạm vi quốc tế. 2. Thứ hai, thị trường chứng khoán góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn, giải toả sự tập trung quyền lực kinh tế của các tập đoàn, huy động tầng lớp trung lưu trong xã héi, tăng cường sự giám sát của xã hội đối với quá trình phân phối. Từ đó, tạo ra sự cạnh tranh công bằng hơn qua đó thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo ra sự hiệu quả, tiến tới xây dựng một xã hội công bằng và dân chủ. 3. Thứ ba, thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý doanh nghiệp. Khi quy mô của doanh nghiệp tăng lên thì nhu cầu về quản lý chuyên trách cũng tăng theo. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho tiết kiệm vốn và chất xám thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nưíc, giảm tiêu cực trong quản lý, tạo điều kiện kết hợp hài hoà lợi ích của chủ sở hữu, nhà quản lý và những người làm công. 4. Thứ tư, hiệu quả của quốc tế hoá thị trường chứng khoán. Việc mở cửa thị trường chứng khoán làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị trường quốc tế, cho phép các công ty có thể huy động nguồn vốn rẻ hơn, tăng cường đầu tư từ bên ngoài tăng khả năng cạnh tranh quốc tế và mở rộng cơ hội kinh doanh cho các công ty trong nước. Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Malaysia là những minh chứng rõ nét cho nhận định này. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải xét các tác động tiêu cực có thể xảy ra như việc tăng cung tiền quá mức, áp lực của lạm phát, vấn đề chảy máu vốn.
- 5. Thứ năm, thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho Chính phủ huy động các nguồn tài chính tiền tệ của chính phủ. Đồng thời, thị trường chứng khoán cũng cung cấp một dự báo tuyệt vời về các chu kỳ kinh doanh trong tương lai giúp Chính phủ và các công ty đánh giá kế hoạch đầu tư cũng như việc phân bổ các nguồn lực của họ. Thị trường chứng khoán cũng tạo điều kiện tái cấu trúc nền kinh tế. Ngoài những tác động tích cực trên, thị trường chứng khoán cũng có những tác động tiêu cực nhất định như hiện tượng đầu cơ, hiện tượng xung đột quyền lực, bong bóng giá, làm giảm thiệt hại cho quyền lợi của các cổ đông thiểu số, việc mua bán nội gián, thao túng thị trường làm nản lòng các nhà đầu tư tác động tiêu cực tới tiết kiệm và đầu tư. Nhiệm vụ của các nhà quản lý thị trường là giảm thiểu các tiêu cực của thị trường nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư và đảm bảo tính hiệu quả của thị trường. Như vậy, vai trò của thị trường chứng khoán được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau. Song để vai trò đó thật sự phát huy được hiệu quả thì phụ thuộc vào các chủ thể tham gia vào thị trường và sự quản lý của nhà nước. III. Phân loại thị trường chứng khoán 1.Thị trường thứ cấp và sơ cấp a. thị trường sơ cấp: là nơi diễn ra quá trình mua bán lần đầu các chứng khoán mới phát hành. Thị trường sơ cấp còn được gọi là thị trường cấp một hay thị trường phát hành. Có 2 phương pháp phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp. Đó là phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng. + Phát hành riêng lẻ Phát hành riêng lẻ là quá trình trong đó chứng khoán được bán trong phạm vi một số người nhất định (thông thường là cho các nhà đầu tư có tổ chức), với những điều kiện (khối lượng phát hành) hạn chế. Việc phát hành chứng khoán riêng lẻ thông thường chịu sự điều chỉnh của Luật công ty. Chứng khoán phát hành theo phương thức này không phảI là đối tượng giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán.
- + Phát hành ra công chúng Phát hành ra công chúng là quá trình trong đó chứng khoán được bán rộng rãi ra công chúng, cho một số lượng lớn người đầu tư, trong tổng lượng phát hành phải giành một tỷ lệ nhất định cho các nhà đầu tư nhỏ và khối lượng phát hành phải đạt được một mức nhất định. Những công ty phát hành chứng khoán ra công chúng được gọi là các công ty đại chúng. Có sự khác nhau giữa phát hành cổ phiếu và phát hành trái phiếu ra công chúng: * Phát hành cổ phiếu ra công chúng được thực hiện theo một trong hai hình thức sau: - Phát hành lần đầu ra công chúng (IPO): là việc phát hành trong đó cổ phiếu của công ty lần đầu tiên được bán rộng rãi cho công chúng đầu tư. - Chào bán sơ cấp (phân phối sơ cấp): là đợt phát hành cổ phiếu bổ sung của công ty đại chúng cho rộng rãi công chúng đầu tư. * Phát hành trái phiếu ra công chúng được thực hiện bằng một hình thức duy nhất, đó là chào bán sơ cấp (phân phối sơ cấp). Việc phát hành chứng khoán ra công chúng phải chịu sự chi phối của pháp luật về chứng khoán và phải được cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán cấp phép. Những công ty phát hành chứng khoán ra công chúng phải thực hiện một chế độ báo cáo, công bố thông tin công khai và chịu sự giám sát riêng theo qui định của pháp luật chứng khoán. ở Việt Nam, việc phát hành chứng khoán ra công chúng để niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán phải tuân theo các qui định tại Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Nghị định này qui định việc phát hành chứng khoán ra công chúng để niêm yết tại thị trường giao dịch tập trung phải được Uỷ ban chứng khoán cấp phép trừ việc phát hành trái phiếu Chính phủ.
- Các chứng khoán này sau khi được phát hành ra công chúng sẽ được niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán. Mục đích của việc phân biệt hai hình thức phát hành (phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng như trên là nhằm có các biện pháp bảo vệ cho công chúng đầu tư, nhất là những nhà đầu tư nhỏ không hiểu biết nhiều về lĩnh vực chứng khoán. Nhằm mục đích này, để được phép phát hành ra công chúng, tổ chức phát hành phải là những công ty làm ăn có chất lượng cao, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đáp ứng được các điều kiện do cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán (Uỷ ban chứng khoán nhà nước) qui định. b. thị trường thứ cấp: là nơi diễn ra các giao dịch chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp tạo điều kiện cho thị trường sơ cấp phát triển, tăng tiềm năng huy động vốn của các tổ chức phát hành chứng khoán. Trên thị trường chứng khoán vừa có giao dịch của thị trường sơ cấp, vừa có giao dịch của thị trường thứ cấp. Sau khi chứng khoán mới được phát hành trên thị trường sơ cấp, chúng sẽ được giao dịch trên thị trường thứ cấp. Khác với thị trường sơ cấp, tiền bán chứng khoán trên thị trường thứ cấp thuộc về các nhà đầu tư và nhà kinh doanh chứ không thuộc về các công ty phát hành chứng khoán. Xét về phương thức tổ chức và giao dịch, thị trường chứng khoán bao gồm 3 loại: Sở giao dịch chứng khoán, Thị trường phi tập trung (OTC), và thị trường thứ 3. - Thị trường tập trung (Sở giao dịch chứng khoán): là thị trường trong đó việc giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện tại một địa điểm tập trung gọi là sàn giao dịch (trading floor). Các chứng khoán được niêm yết tại Sở giao dịch thông thường là chứng khoán của những công ty lớn, có danh tiếng, đã qua thử thách của thị trường. Phương thức giao dịch tại Sở giao dịch là phương thức đấu giá, trong đó các lệnh mua, bán được ghép với nhau để hình thành giá cả cạnh tranh tốt nhất. - Thị trường phi tập trung (OTC): là thị trường trong đó việc giao dịch mua bán chứng khoán không diễn ra tại một địa điểm tập trung mà thông qua hệ thống computer nối
- mạng giữa các thành viên của thị trường. Các chứng khoán được giao dịch trên thị trường phi tập trung là chứng khoán của các công ty vừa và nhỏ. Phương thức giao dịch tại thị trường OTC là phương thức thoả thuận, giá cả chứng khoán được xác định trên cơ sở thoả thuận giữa các thành viên của thị trường. - Thị trường thứ 3: là thị trường, trong đó hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán không được thực hiện thông qua hệ thống đấu giá của các Sở giao dịch và hệ thống computer của thị trường OTC 2.Thị trường tập trung và thị trường phi tập trung a.Thị trường tập trung: là nơi mà việc giao dịch, trao đổi,mua bán chứng khoán được thực hiện thông qua sở giao dịch chứng khoán b.Thị trường phi tập trung: hay còn gọi là thị trường OTC, thị trường này diễn ra ở bất kỳ nơi nào miễn là nơi đó diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi chứng khoán. 3.Thị trường trái phiếu,cổ phiếu.các công cụ phái sinh a. Thị trường trái phiếu( bond market) Là thị trường phát hành trái phiếu mới và mua đi bán lại trái phiếu cũ. b. Thị trường cổ phiếu( the stock market) Là thị trường phát hành cổ phiếu mới và mua đi bán lại cổ phiếu cũ. Hoạt động của thị trường này gåm cả hai lĩnh vực đầu tư chứng khoán và kinh doanh chứng khoán. c.Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn IV. Các chủ thể tham gia vào thị trường chứng khoán 1. Cơ quan quản lý và vận hành thị trường: Gồm cơ quan quản lý nhà nước và sở giao dịch chứng khoán. Các cơ quan quản lý nhà nước cã nhiÖm vô tổ chức và quản lý hoạt động của thị trường chứng khoán. Còn sở giao dịch chứng khoán cã vai trß vận hành thị trường chứng khoán thông qua bộ máy gồm nhiều bộ phận khác nhau, có nhiệm vụ ban
- hành và giám sát việc thực hiện những quy định điều chỉnh giao dịch chứng khoán, phát hành chứng khoán 2. Các tổ chức phát hành Là các tổ chức thực hiện huy động thông qua thị trường chứng khoán, cung cấp hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Các tổ chức phát hành là: Chính phủ và chính quyền địa phương phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu công trình, các công ty phát hành cổ phiếu và trái phiếu công ty 3. Các nhà đầu tư Là những người có vốn nhàn rỗi và có nhu cầu mua bán, trao đổi chứng khoán trên thị trường chứng khoán nhằm kiếm lời. Các nhà đầu tư quyết định tham gia đầu tư vào chứng khoán nhằm một số mục đích: Nhằm hưởng lợi tức, hưởng lãi suất, hưởng chênh lệch giá chứng khoán trên thị trường chứng khoán và nắm quyền quản lý kiểm soát tổ chức phát hành. Các nhà đầu tư bao gồm: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức. 4. Các định chế trung gian Là các công ty chứng khoán, các công ty quản lý quỹ và các ngân hàng thương mại, các tổ chức này thực hiện các chức năng trung gian cho các giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán. a. Các công ty chứng khoán: Các công ty họat động trong lĩnh vực chứng khoán với các nghiệp vụ cơ bản:nghiệp vụ bảo lãnh phát hành, nghiệp vụ môi giới tư vấn vµ lưu ký chứng khoán. b. Các công ty quản lý quỹ: Là các công ty thay mặt cho nhà đầu tư thực hiện quản lý một hay nhiều quỹ đầu tư. c. Các ngân hàng thương mại: Khi được phép các ngân hàng thương mại có thể cung cấp các dịch vụ bảo quản chứng khoán, thu hồi vốn, làm đại lý phát hành chứng khoán. Ngoài ra, để thị trường chứng khoán hoạt động đồng bộ còn có sự tham gia của các tổ chức khác như: tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ, hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán, công ty đánh giá hệ số tín nhiệm. V. Các nguyên tắc hoạt động của TTCK 1.Nguyên tắc cạnh tranh Theo nguyên tắc này, giá cả trên TTCK phản ánh quan hệ cung cầu vể chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị trường sơ cấp, các nhà phát
- hành cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư, các nhà đẩu tư được tự do lựa chọn các chứng khoán của mình theo các mục tiêu của mình. Trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để kiếm cho mình một lợi nhuận cao nhất, và giá cả được hình thành theo phương thức đấu giá. 2.Nguyên tắc công bằng Công bằng có nghĩa là mọi người tham gia thị trường đều phải tuân thủ những quy định chung, được bình đẳng trong việc chia sẻ thông tin và trong việc gánh chịu các hình thức xử phạt nếu vi phạm quy định đó. 3.Nguyên tắc công khai Chứng khoán là loại hàng hóa trừu tượng nên TTCK phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống công bố thông tin tốt. Theo luật định, các tổ chức phát hành có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin đầy đủ theo chế độ thường xuyên và đột xuất thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, Sở giao dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức có liên quan. 4.Nguyên tắc trung gian Nguyên tắc này có nghĩa là các giao dịch chứng khoán được thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư không mua trực tiếp của các nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh, các công ty chứng khoán mua, bán chứng khoán giúp các khách hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình. 5.Nguyên tắc tập trung Các giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên sở giao dịch và trên thị trường OTC dưới sự kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tự quản. I : Hoạt động của NHTM trên TTCK 1 Các mô hình hoạt động của NHTM trên TTCK Hiện nay, mô hình NHTM hoạt động trên TTCK, trên thế giới có 2 loại: * Mô hình chuyên doanh (hay còn gọi là mô hình đơn năng) Theo mô hình này, các công ty chứng khoán là công ty chuyên doanh độc lập, các NHTM và các tổ chức tài chính khác không được phép tham gia vào hoạt động kinh doanh chứng khoán. Ưu điểm của mô hình này là hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng do những ảnh hưởng tiêu cực của thị trường chứng khoán, và các ngân hàng không được sử dụng vốn huy động để đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán: mặt khác, với sự chuyên môn hoá tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển. Điển hình cho mô hình này là các công ty chứng khoán ở Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, có sự tách bạch giữa hoạt động ngân
- hàng và lĩnh vực chứng khoán. ở Mỹ, đạo luật Glass Steagall 1933 bắt buộc hai hoạt động này tách biệt nhau Glass – Steagall chỉ cho phép các ngân hàng thương mại tiến hành chào bán các loại chứng khoán chính phủ mới phát hành lần đầu; nhưng cấm các tổ chức này bảo lãnh phát hành chứng khoán doanh nghiệp hoặc tham gia vào hoạt động môI giới chứng khoán. Tuy nhiên, hiện nay tại Mỹ, người ta đề nghị huỷ bỏ đạo luật Glass-Steagall, cho phép các ngân hàng được tham gia vào lĩnh vực chứng khoán. Tháng 7 năm 1988, Cục Dự trữ Liên Bang Mỹ đã cho phép thí điểm ngân hàng J.P Morgan được phép bảo lãnh phát hành tráI phiếu công ty từ tháng 1 năm 1989 và được phép bảo lãnh phát hành cổ phiếu từ tháng 9 năm 1990, tiếp đó dần dần mở rộng cho các ngân hàng khác. * Mô hình đa năng bao gồm: Một là mô hình ngân hàng đa năng hoàn toàn: Mô hình này không có sự tách bạch nào giữa hoạt động ngân hàng và chứng khoán. NHTM không những được hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ mà còn được hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán và bảo hiểm. (Các hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán gồm bảo lãnh phát hành, môI giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư, tư vấn đầu tư, tham gia vào lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán). Nó được áp dụng ở các nước Bắc Âu, Hà Lan, Thuỵ Sĩ, áo Ưu điểm của mô hình này là ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh, nhờ đó mà giảm bớt rủi roc ho hoạt động kinh doanh chung và có khả năng về tài chính chịu đựng các biến động của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, mô hình đa năng hoàn toàn có một số hạn chế: thị trường chứng khoán phát triển chậm vì hoạt động chủ yếu của hệ thống ngân hàng dùng vốn để cấp tín dụng và dịch vụ thanh toán, do đó ngân hàng thường quan tâm đến lĩnh vực chứng khoán. Điều này đã thể hiện sự kém phát triển ở thị trường chứng khoán Châu Âu tương quan với thị trường chứng khoán Mỹ. Bên cạnh đó, còn nhược điểm là trong trường hợp biến động trên thị trường chứng khoán, hậu quả có thể tác động tiêu cực đến lĩnh vực kinh doanh tiền tệ giữa hai loại hình kinh doanh này. Thực tế đã chứng minh thông qua cuộc đại khủng hoảng 1929-1933, hay vụ phá sản ngân hàng Barings của Anh năm 1995. Ngược lại, trong trường hợp thị trường tiền tệ biến động có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh chứng khoán của các ngân hàng. Cuộc khủng hoảng tài hính tiền tệ ở TháI Lan là một minh chứng. Hai là mô hình đa năng một phần: Các ngân hàng muốn hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán phảI thành lập công ty con- công ty chứng khoán, hoạt động độc lập. Mô hình này được áp dụng ở Anh và những nước có quan hệ gần gũi với Anh như Canada, úc. Mô hình này có ưu điểm các ngân hàng được kết hợp kinh doanh ngân hàng và kinh doanh chứng khoán, do đó tận dụng được thế mạnh về tài chính, kinh nghiệm, mạng lưới khách hàng rộng khắp của ngân hàng. Bên cạnh đó, bởi vì có quy định hoạt động riêng rẽ giữa hai hoạt động trên cho nên hạn chế được rủi ro nếu có sự biến động của một trong hai thị trường. Đặc biệt, mô hình này phù hợp với những nước mới thành lập thị trường chứng khoán khi mà cần có tổ chức tài chính lành mạnh tham gia vào thị trường và khi hệ thống luật, kiểm soát còn nhiều mặt hạn chế. Mỗi một mô hình có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Vì vậy, tuỳ vào thể chế chính trị, đặc điểm nền kinh tế mỗi quốc gia nên chọn cho mình một mô hình phù hợp nhất để có thể phát huy một cách có hiệu quả nhất vai trò của NHTM đối với TTCK.
- 1.2.2 Các nghiệp vụ của NHTM trên TTCK 1.2.2.1 Ngân hàng thương mại với hoạt động kinh doanh chứng khoán Kinh doanh chứng khoán là nghiệp vụ mua bán chúng khoán cho chính mình và tự gánh chịu rủi ro. Với vai trò kinh doanh chứng khoán, các trung gian chứng khoán là một thành viên quan trọng của thị trường chứng khoán, có tác dụng làm cho hoạt đọng của thị trường đều đặn, không bị gián đoạn và sôi nổi. Là một nhà đầu tư có tổ chức, hoạt động kinh doanh chứng khoán của NHTM được xem là yếu tố trợ giúp cho việc tăng chất lượng và hiệu quả của thị trường. Có thể chia hoạt đọng kinh doanh chứng khoán của NHTM thành hai nhóm, đó là: hoạt động ngân quỹ và hoạt động đầu tư chứng khoán Hoạt động ngân quỹ là hoạt động của NHTM thường đầu tư ngắn hạn vào các chứng khoán có tính thanh khoản cao, chi phí giao dịch thấp và có tính ổn định như tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng được chủ yếu nhằm dự trữ thứ cấp cho nhu cầu thanh toán, nhu cầu dự phòng và nhu cầu tích trữ. Hoạt động ngân quỹ là cầu nôí quan trọng giữa tín dụng trầm lắng, một bộ phận vốn trên thị trường tín dụng sẽ được chuyển sang thị trường chứng khoán thông qua hoạt động kinh doanh chứng khoán của NHTM và ngược lại. Việc dịch chuyển vốn giữa hai thị trường giúp cho các NHTM có thể sử dụng tối đa các nguồn vốn để sử dụng có hiệu quả hoạt động. Mặt khác, sự cạnh tranh giữa hai thị trường này cũng làm tăng hiệu quả hoạt động của thị trường tài chính. Khác với hoạt động ngân quỹ, hoạt động đầu tư chứng khoán của NHTM mang tính đa dạng hơn ít tập trung vào một loạI chứng khoán và với thời hạn đầu tư dàI hơn. Là một định chế trung gian tích cực nhất trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, NHTM tham gia trên TTCK với tư cách là nhà đầu tư và nhà tài trợ cho doanh nghiệp đầu tư chứng khoán. NHTM có thể sử dụng các khoản vốn huy động để thường xuyên tham gia TTCK bằng cách mua các loại cổ phiếu và trái phiếu. Thực chất của hình thức kinh doanh này là NH luôn luôn mua CK của khách hàng bằng tiền mặt của mình và bán cho khách hàng không vì mục đích ăn hoa hồng, mà là lợi nhuận chênh lệch giữa thị giá mua và thị giá bán. Nghĩa là NH sẽ tìm cách mua CK với giá thấp nhất và bán vơí giá cao nhất có thể. ở các Sở Giao dịch Chứng khoán khác nhau, thị giá của cùng một loại chứng khoán cũng khác nhau. Giữa các Sở GDCK có mối liên hệ về thông tin rất chặt chẽ. Do đó, các NH sẽ mua các CK ở nơi có thị giá thấp để bán ở nơi có thị giá cao để kiếm lời cho tới khi thị giá được cân bằng giữa các thị trường. Khi mua cổ phiếu NHTM có thể trở thành cổ đông lớn của công ty cổ phần tham gia vào việc điều hành và kiểm soát công ty. Bằng nghiệp vụ chuyên môn và kinh nghiệm dày dạn trong kinh doanh tiền tệ, NHTM có ưu thế hơn các nhà đầu tư khác trong việc nắm bắt thông tin, phân tích chứng khoán và TTCK đúng lúc đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Ngoài ra, bằng những phương tiện sẵn có, ngân hàng có thể đầu tư theo danh mục, quản lý danh mục đầu tư, thành lập quỹ đầu tư, để đầu tư trên TTCK có hiệu quả cao nhất và rủi ro thấp nhất. Khi mua trái phiếu, NHTM đã thực hiện các chức năng cho vay của mình. Trái phiếu thường có độ rủi ro tương đối thấp nên việc đầu tư vào trái phiếu là một hoạt động thường xuyên của NHTM. Hơn nữa với tính thanh khoản cao của NHTM có thể bán trái phiếu bất cứ lúc nào khi cần thu hồi vốn. 1.2.2.2 NHTM với nghiệp vụ huy động vốn trên TTCK NHTM là một tổ chức kinh doanh, cũng cần có vốn để hoạt động. Vốn của NHTM có thể hình thành từ nhiều nguồn. Một nguồn vốn quan trọng của NHTM trong nền kinh tế thị trường là huy động vốn trên TTCK. Luật pháp từng nước khác nhâu, song về cơ bản, cá NHTM có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư đẻ huy động vốn trên thị trường.Về phát hành cổ phiếu, đối với các NHTM cổ phần thì đây là
- một nguồn vốn đặc biệt quan trọng. Ngân hàng phát hành cổ phiếu ra công chúng để huy động vốn khi thành lập ngân hàng và trong quá trình hoạt động có nhu cầu tăng vốn ngân hàng có thể phát hành thêm số phiếu mới. Khi phát hành cổ phiếu lần đầu hay cổ phiếu mới, ngân hàng phải tuân thủ theo các quy định của TTCK. Về phát hành trái phiếu, NHTM khi có nhu cầu huy động vốn với số lượng lớn có thể phát hành trái phiếu trung và dài hạn. Để thu hút các nhà đầu tư và chiều theo thị hiếu khách hàng có nhiều loại tráI phiếu NHTM đã ra đời như: TP có lãi chuyển đổi, TP chiết khấu, TP có lãI suất thả nổi, TP có lãi suất cố định. Đối với NHTM sẵn có chuyên môn và cơ sở vật chất, việc phát hành trái phiếu ra công chúng để huy động vốn được xem như là giải pháp mang tính hiệu quả cao.Có thể thấy, với tính chuyên nghiệp cao, với uy tín lớn trên thị trường tài chính, và các mối quan hệ rộng rãi của NHTM, hoạt động phát hành chứng khoán của các NHTM có nhiều lợi thế hơn các doanh nghiệp thông thường khác, bên cạnh đó NHTM có thể tự đứng ra phát hành làm giảm chi phí huy động vốn. Do vậy, chứng khoán của các NHTM phát hành dễ dàng được chấp nhận hơn so với các doanh nghiệp khác. 1.2.2.3 NHTM với các nghiệp vụ trung gian trên TTCK Bản thân NHTM là một định chế tài chính trung gian rất phổ biến và hoạt động rất tích cực trên thị trường tài chính, do đó nó góp phần cực kỳ quan trọng trong hoạt động trung gian trên TTCK. Nghiệp vụ trung gian bao gồm nhiều hoạt động mà NHTM đều có thể tham gia với tư cách của một công ty chứng khoán con. Công ty chứng khoán phải là công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn, các tổ chức tín dụng. Công ty muốn tham gia kinh doanh chứng khoán phải khai báo thành lập công ty chứng khoán độc lập. * Nghiệp vụ môi giới chứng khoán Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo đó công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tai SGDCK hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình. Sơ đồ 1.1: Quy trình nghiệp vụ môi giới chứng khoán (1) Lệnh (2) Chuyển lệnh TTGDCK Khách hàng CTCK (3) Ghép lệnh (5) Xác nhận (4) Xác nhận a Đây là dịch vụ ngân hàng rất phát triển ở các nước trên thế giới đã có TTCK, gọi là dịch vụ môi giới chứng khoán (Brokerage service). Công ty chứng khoán thuộc ngân hàng sẽ đảm trách
- dịch vụ này và mang lại cho ngân hàng những lợi nhuận từ lệ phí giao dịch hay hoa hồng giao dich rất lớn. Công ty chứng khoán thuộc ngân hàng có những ưu thế hơn so với các công ty chứng khoán khác trong nghiệp vụ môi giới vì: Thư nhất, Ngân hàng đã có mối quan hệ sâu sắc với các doanh nghiệp quaviệc tín dụng thanh toán, nắm được các thông tin cần thiết cho việc môi giớichứng khoán, tạo được uy tín với khách hàng. Thứ hai, Ngân hàng đã có sẵn cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật mộtmạng lưới chi nhánh, đại lý rộng khắp sẵn sàng phục vụ mọi yêu cầu của nhà đầu tư. Thứ ba, Ngân hàng có đội ngũ cán bộ, nhân viên có nghiệp vụ chuyên môn về kinh doanh tiền tệ liên quan chặt chẽ và gần gũi với nghiệp vụ môi giới chứng khoán. Trong nghiệp vụ này, NHTM tiến hành các hoạt động như: đại diện cho khách hàng của mình để thương lượng mua bán chứng khoán sao cho có lợi nhất cho thân chủ. Ngân hàng cũng thay mặt khách hàng giải quyết mọi vấn đề liên quan tuỳ theo sự uỷ nhiệm quyền tự do linh hoạt, quyết đoán trong việc mua bán chứng khoán hộ cho họ mà không cần phải thông báo cho họ biết đã mua hoặc bán chứng khoán cho ngân hàng ký hợp đồng uỷ nhiệm nhận mua hộ và bán chứng khoán hộ không chỉ cho một khách hàng mà cho nhiều khách hàng, ngân hàng với tư cách là đối tác của khách hàng sẽ được hưởng nhiều khoản lợi nhuận qua việc mua bán chứng khoán (nếu mua hoặc bán chứng khoán của mình cho khách hàng theo thị giá) thì hoa hồng thực hiện lệnh mua hoặc lệnh bán, khoản thù lao môi giới. * Nghiệp vụ tư vấn chứng khoán Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc công ty chứng khoán thông qua hoạt động phân tích để đưa ra các lời khuyên, khuyến nghị, phân tích và thực hiện một số dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng. Hoạt động tư vấn là hoạt động mà người ta sử dụng tri thức, kiến thức có được để phân tích thị trường và cung cấp thông tin cho khách hàng. Yêu cầu đòi hỏi nhà tư vấn phải có nhiều kiến thức, kinh nghiệm kỹ năng chuyên môn đồng thời cần phải có tính trung thực cao, thận trọng trong công việc để đưa ra được các lời khuyên chính xác, hợp lý vì các lời khuyên này ảnh hưởng đến lợi nhuận của khách hàng và hình ảnh của chính bản thân CTCK. Khoản thu phí từ hoạt động này là tỷ lệ phần trăm tính trên doanh số giao dịch chứng khoán của khách hàng. Đây là các hoạt động phân tích, đưa ra các khuyến nghị liên quan đến chứng khoán, hoặc công bố và phát hành các báo cáo phân tích có liên quan đến chứng khoán. Một trong những trở rngại quan trọng đối với thị trường tài chính là vấn đề thông tin không cân xứng, sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Với chức năng là thủ quỹ
- doanh nghiệp, thực hiện kiểm soát vàgiám sát bằng đồng tiền đối với nên kinh tế quốc dân, NHTM có đặc quyền về việc thu thập các thông tin về các doanh nghiệp có phát hành chứng khoán qua mối quan hệ lâu năm rất sâu sát trong quan hệ tín dụng, thanh toán. Từ đó có thể phân tích mọi mặt sản xuất kinh doanh, các nguồn tài trợ và cả xu hướng phát triển của doanh nghiệp trong nền kinh tế. Nguồn thông tin này là cơ sở quan trọng đầu tiên cho việc phân tích và đánh giá doanh nghiệp, định giá chứng khoán, từ đó có thể thực hiện việc tư vấn đầu tư cho khách hàng một cách nhanh chóng hiệu quả. * Nghiệp vụ đại lý, bảo lãnh phát hành chứng khoán NHTM thông thường là cơ quan thích hợp nhất đảm nhiệm việc phân phối chứng khoán ra công chúng.Với một mang lưới nhiều cơ sở của ngân hàng,công ty chứng khoán con sẽ có chứng khoán rỗng rãi phục vụ nhu cầu của nhà đầu tư.Nghiệp vụ phân phối chứng khoán có thể thực hiện thông qua phương thức bão lãnh hay đại lý phát hành. *.nghiệp vụ đại lý phát hành chứng khoán: Đại lý phát hành chứng khoán là các công ty chứng khoán, tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng nhận bán chứng khoán cho tổ chức phát hành trên cơ sở thoả thuận hoặc thông qua tổ chức bảo lãnh phát hành chính. Các tổ chức này nhận phân phối chứng khoán ra thị trường cho cơ quan phát hành để hưởng hoa hồng.Khi thực hiện nghiệp vụ này : -Công ty không hứa mua trực tiếp số chứng khoán phân phối hộ -Công ty không hứa bán với một giá nhất định -Công ty không hứa bán hết hay mua số chứng khoán không bán hết. *.Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán của ngân hàng thương mại : 1.Khái niệm hoạt động bảo lãnh phát hành: Pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới cũng như hoạt đông thực tế của TTCK quốc tế đều thừa nhận rằng bảo lãnh phát hành là việc một hoặc một nhóm chủ thể nhất định giúp TCPH thực hiện các thủ tục để phát hành chứng khoán và giúp chứng khoán được giao dịch tại TTCK. Nghị định của chính phủ indonesia quy định: “ Bảo lãnh phát hành chứng khoán là người ký hợp đồng với tổ chức phát hành để bán các chứng khoán của tổ chức phát hành hoặc quản lý những người gia nhập tổ chức phát hành với mục đích phát hành chứng khoán ra công chúng ” Hoặc theo luật Thị trường chứng khoán và chứng khoán Thailand quy định: “ Bảo lãnh có nghĩa một chủ thể đảm bảo việc bán chứng khoán ra công chúng ” Và ở các nước khác cũng có những quy định tương tự, ở Việt Nam theo điều 3 khoản 14 Nghị định 144/2003/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán quy định: “ Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc các tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua toàn bộ hay một phần chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa phân phối”. Tổ chức bảo lãnh phát hành là CTCK được phép hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán và ngân hàng thương mại được UBCK chấp thuận bảo lãnh phát hành trái phiếu theo điều kiện do Bộ Tài chính quy định. Tổ chức bảo lãnh phát hành mà trong đó chủ yếu là các ngân hàng thương mại được hưởng phí bảo lãnh hoặc một tỷ lệ hoa hồng nhất định trên số tiền thu được từ đợt phát hành. Mức phí phụ thuộc tính
- chất của đợt phát hành. Đối với thị trường chứng khoán Việt Nam thì nghiệp vụ bảo lãnh phát hành được coi là nghiệp vụ quan trọng và là một trong năm nghiệp vụ được cấp giấy phép hoạt động của công ty chứng khoán. Hoạt động bảo lãnh phát hành có nhiều ý nghĩa quan trọng, như giảm chi phí phát hành, tào tính ổn định cho các chứng khoán mới phát hành trong đó quan trọng nhất là mang lại tính chuyên nghiệp cho thị trường. Để thực hiện thành công các đợt phát hành chứng khoán để huy đông vốn tổ chức phát hành phải cần đến các NHTM tư vấn cho đợt phát hành và thực hiện bảo lãnh phát hành, phân phối chứng khoán ra công chúng. Đây chính là nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của các NHTM. Như vậy, nghiệp vụ bảo lãnh phát hành là việc NHTM có chức năng bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phố chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoanh đầu sau khi phat hành. Khi một tổ chức muốn phát hành chứng khoán tổ chức đó gửi yêu cầu bảo lãnh phát hành đến NHTM. NHTM có thể sẽ ký hợp đồng tư vấn quản lý để tư vấn cho tổ chức phát hành về loại chứng khoán cần phát hành, số lượng chứng khoán phát hành, định giá chứng khoán và phương thức phân phối chứng khoán đến các nhà đầu tư thích hợp. Để được phép bảo lãnh phát hành NHTM phải đệ trình một phương án bán và cam kết bảo lãnh trên Uỷ ban chứng khoán Khi các nội dung cơ bản của phương án phát hành được Uỷ ban chứng khoán thông qua. NHTM có thể trực tiếp ký hợp đồng bảo lãnh giữa nghiệp đoàn và tổ chức phát hành. 2. Điều kiện thực hiện bảo lãnh phát hành Là các công ty chứng khoán hoặc các Ngân hàng đáp ứng được các điều kiện sau: +.Có giấy phép hoạt động bảo lãnh phát hành. +.Không thuộc một trong các đối tượng sau: - Nắm giữ 5% trở lên vốn cổ phần của tổ chức pháthành hoặc ngược lại. - Tổ chức bảo lãnh và tổ chức phát hành có cùng số cổ đông sở hữu từ 5% trở lên vốn cổ phần. - Cùng chịu sự chi phối của một tổ chức khác 3. Các hình thức bảo lãnh phát hành: Dựa trên mức độ trách nhiệm của chủ thể bảo lãnh khi tham gia thực hiện phát hành, người ta chia thành các hình thức bảo lãnh phát hành như sau: a. Cam kết chắc chắn Trong phương thức này ngân hàng thương mại sẽ mua lại toàn bộ chứng khoán phát hành sau đó đem chào bán cho các nhà đầu tư. Mọi rủi ro trong đợt phát hành sẽ do NHTM chịu và bảo đảm mang lại toàn bộ giá trị của đợt phát hành cho tổ chức phát hành, nếu NHTM không bán được hết số chứng khoán phát hành cho người đâu tư thì vẫn phải trả cho tổ chức phát hành đủ số tiền đã cam kết. b.Cố gắng tối đa
- Trong phương thức “cố gắng tố đa” các ngân hàng thương mại sẽ cam kết với tổ chức phát hành cố gắng bán số chứng khoán phát hành với một nỗ lực cao nhất nhưng không đảm bảo số lượng chứng khoán phát hành sẽ bán là bao nhiêu. c. Bán tất cả hoặc không Trong trường hơp này tổ chức phát hành sẽ yêu cầu NHTM phải đảm bảo bán hết tất cả số chứng khoán phát hành trong trường hợp nếu số chứng khoán phát hành không được bán hết thì sẽ huỷ bỏ toàn bộ đợt phát hành. d. Bảo lãnh tối thiểu tối đa Là phương thức trung gian giữa phương thức cố gắng tối đa và phương thức bán tất cả hoặc không, theo đó tổ chức bảo lãnh phát hành hay các ngân hàng thương mại phải cam kết bán tối thiểu một số lượng chứng khoán nhất định ( mức sàn ) nếu số lượng chứng khoán bán ra không đạt được mức tối thiểu đã quy định thì sẽ huỷ bỏ toàn bộ đợt phát hành. Đồng thời, các tổ chức bảo lãnh phát hành này có thể tự do chào bán chứng khoán nhưng không vượt quá mức tối đa quy định ( mức trần ). 4. Phương thức bảo lãnh phát hành: Có hai phương thức bảo lãnh phát hành là: Đấu thầu cạnh tranh và bảo lãnh phát hành thoả thuận: a.Phương thức bảo lãnh phát hành cạnh tranh Trong cơ chế bảo lãnh phát hành cạnh tranh, NHTM sẽ đưa ra giá dự thầu hay giá chứng khoán. Tại phiên đấu thầu, tổ chức phát hành sẽ bán chứng khoán cho NHTM phát hành nào đưa ra giá có lợi nhất cho tổ chức phát hành, sau đó số chứng khoán sẽ được chuyển cho NHTM bán với một mức giá đã được xác định từ trước. b. Phương thức bảo lãnh phát hành thoả thuận Đối với phương thức bảo lãnh phát hành thoả thuận, điều khoản bán chứng khoán đã được thoả thuận trước giữa tổ chức phát hành và tổ chức bảo lãnh phát hành(các NHTM) theo đó tổ chức phát hành bán với tư cách như là một nhà bán lẻ còn tổ chức phát hành là nhà bán buôn. Trong cả hai trường hợp trên nếu sảy ra trường hợp bán không hết số chứng khoán phát hành trong khi thời gian phát hành chứng khoán theo luật định sắp kết thúc thì NHTM sẽ có nhiều cách để giải quyết số chứng khoán còn lại theo nhiều cách như mở rộng mạng lưới bán, phân chia cho các thành viên khác bán Nhưng vẫn sẽ phải đảm bảo giá bán của chứng khoán l * Nghiệp vụ đăng ký, thanh toán bù trừ và lưu ký chứng khoán Nói đến đăng ký chứng khoán, lưu ký chứng khoán, bù trừ và thanh toán các giao dịch chứng khoán là nói đến dịch vụ hỗ trợ giao dịch chứng khoán trên các thị trường chứng khoán (TTCK) bao gồm cả các thị trường chính thức và thị trường phi tập trung. Người đầu tư có thể đặt câu hỏi tại sao lại phải cần đến dịch vụ đăng ký, lưu ký chứng khoán, bù trừ và thanh toán trong khi họ có thể tự bảo quản lấy tài sản của mình, tìm gặp nhau để thực hiện giao dịch mua bán chứng khoán, sau đó tự thanh toán chứng khoán và thanh toán tiền với nhau? Câu trả lời ở đây là “hình thức giao dịch chứng khoán” đã quyết định đến vấn đề này. Việc giao dịch và thanh toán như trên chỉ thực hiện được đối với các giao dịch tự phát, chủ yếu là trực tiếp giữa một bên mua với một bên bán, tính an toàn trong giao dịch thấp,
- luôn tiềm ẩn nguy cơ không thực hiện nghĩa vụ giao dịch của hoặc bên mua, hoặc bên bán, đặc biệt là khi giá cả thị trường có nhiều biến động. Trong khi đó, giao dịch chứng khoán tại các sở giao dịch chứng khoán (thị trường tập trung), thị trường giao dịch điện tử (thị trường phi tập trung), thị trường các công cụ phái sinh đều là hình thức giao dịch có tổ chức giữa nhiều bên mua bán với nhau. Để luôn đảm bảo nghĩa vụ thực hiện hợp đồng cũng như sự an toàn cho tất cả các bên tham gia mua bán, giảm thiểu chi phí giao dịch, hình thức giao dịch có tổ chức, đòi hỏi việc thanh toán tiền và chuyển giao chứng khoán cũng phải được thực hiện một cách có tổ chức. Khi giao dịch chứng khoán đã được xác nhận thực hiện, việc chuyển giao chứng khoán và thanh toán tiền sẽ được thực hiện bằng hình thức chuyển khoản trên các tài khoản chứng khoán và tiền thông qua các bút toán ghi sổ, thay vì chuyển giao vật chất trực tiếp như trong hình thức giao dịch tự phát. Để làm được điều này, chứng khoán niêm yết hay đăng ký giao dịch trên TTCK cần phải được lưu giữ tập trung và bất động hóa tại một nơi. Chính đòi hỏi này đã dẫn đến sự ra đời của loại hình dịch vụ là đăng ký, lưu ký chứng khoán, bù trừ và thanh toán các giao dịch chứng khoán để hỗ trợ cho việc thực hiện và hoàn tất các giao dịch chứng khoán trên các thị trường giao dịch chứng khoán có tổ chức. Sự xuất hiện của các loại hình dịch vụ này cũng đã kéo theo sự ra đời của các tổ chức cung ứng các dịch vụ đó và hệ thống văn bản pháp quy để quản lý các tổ chức cung ứng dịch vụ đăng ký, lưu ký chứng khoán, bù trừ và thanh toán các giao dịch chứng khoán. Các tổ chức cung ứng dịch vụ đăng ký, lưu ký chứng khoán, bù trừ và thanh toán các giao dịch chứng khoán thường là các ngân hàng lưu ký (ngân hàng thương mại được phép hoạt động lưu ký chứng khoán).Các tổ chức thanh toán tiền cho các giao dịch chứng khoán là các ngân hàng thanh toán. Đối với các ngân hàng thanh toán cũng vậy, cần phải có một ngân hàng đóng vai trò là ngân hàng thanh toán trung tâm, thực hiện thanh toán tiền cho tất cả các giao dịch chứng khoán, thường là Ngân hàng Trung ương (NHTW) hay Ngân hàng chỉ định thanh toán. Nghiệp vụ đăng ký chứng khoán, lưu ký chứng khoán, bù trừ và thanh toán các giao dịch chứng khoán của ngân hàng thương mại được thực hiện thể như sau: 1. Đăng ký chứng khoán: Để chứng khoán niêm yết hay đăng ký giao dịch được giao dịch trên TTCK, chúng cần phải được lưu ký tập trung tại một nơi, nơi đó chính là TTLKCK. Tuy nhiên, trước khi chứng khoán được đưa vào lưu ký tập trung tại TTLKCK, chúng cần phải được đăng ký đầy đủ thông tin để TTLKCK có thể nhận lưu ký.Việc đăng ký này là của các ngân hàng thương mại .Các thông tin bao gồm : Đăng ký thông tin về chứng khoán chẳng hạn như tên chứng khoán, loại chứng khoán, mẫu mã chứng khoán, số lượng đang lưu hành - Đăng ký thông tin về người sở hữu chứng khoán chẳng hạn như tên, địa chỉ, điện thoại liên lạc của người sở hữu, số lượng sở hữu Việc thực hiện đăng ký thông tin thường do tổ chức phát hành tiến hành hoặc do một tổ chức được tổ chức phát hành ủy quyền tiến hành. Như vậy, đối với các chứng khoán niêm yết hoặc đăng ký giao dịch, TTLKCK trở thành nơi duy nhất thực hiện dịch vụ làm đại lý chuyển nhượng, cụ thể là:
- - Thực hiện quản lý sổ đăng ký người sở hữu chứng khoán cho các tổ chức niêm yết, tổ chức đăng ký giao dịch, ghi nhận quyền sở hữu và thông tin thay đổi quyền sở hữu của người sở hữu chứng khoán. - Thực hiện các quyền liên quan đến chứng khoán lưu ký cho người sở hữu chứng khoán bao gồm các quyền như quyền tham dự đại hội cổ đông, quyền nhận cổ tức, quyền bỏ phiếu, quyền nhận trái tức và vốn gốc, quyền mua, quyền chuyển đổi, tách hoặc gộp cổ phiếu 2. Lưu ký chứng khoán: Lưu ký chứng khoán thực chất là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng cả chứng khoán vật chất và chứng khoán ghi sổ. Đồng thời đối với các chứng chỉ vật chất, TTLK còn phải thực hiện cả việc quản lý nhập, xuất và bảo quản an toàn chứng chỉ chứng khoán tại kho chứng chỉ chứng khoán. Để theo dõi và quản lý luồng ra vào chứng khoán của khách hàng ký gửi tại TTLKCK (ký gửi thông qua các tổ chức lưu ký thành viên), TTLKCK phải thực hiện mở tài khoản lưu ký chứng khoán cho các tổ chức lưu ký thành viên và cho khách hàng, tương tự như việc ngân hàng thương mại (NHTM) mở tài khoản vãng lai để quản lý luồng tiền cho khách hàng của mình. Chính vì vậy, lưu ký chứng khoán còn bao gồm cả việc thực hiện các dịch vụ liên quan đến mở tài khoản, nhận gửi, rút, chuyển khoản chứng khoán lưu ký. Ngoài ra bất cứ dịch vụ nào khác được pháp luật cho phép liên quan đến tài khoản lưu ký chứng khoán, chẳng hạn như dịch vụ làm trung gian trong các giao dịch bảo đảm như cầm cố, giải tỏa cầm cố chứng khoán. Cầm cố chứng khoán là việc các NHTM, tổ chức tín dụng cho người đầu tư vay tiền để đầu tư chứng khoán với thế chấp là chứng khoán do người đầu tư sở hữu. Vì vậy, đây thực chất là một dạng quan hệ hợp đồng giữa bên cầm cố (người đầu tư) và bên nhận cầm cố (ngân hàng), mà trong quan hệ này NHTM chỉ đóng vai trò là trung gian, trên cơ sở bản hợp đồng cầm cố đó thực hiện chuyển khoản số chứng khoán cầm cố từ tài khoản chứng khoán giao dịch vào tài khoản chứng khoán cầm cố để đảm bảo việc duy trì tài sản thế chấp cho bên nhận cầm cố. Khi hợp đồng cầm cố hết hiệu lực hoặc theo yêu cầu của bên nhận cầm cố, tổ chức lưu ký sẽ thực hiện giải tỏa số chứng khoán cầm cố, trả lại cho người đầu tư (bên cầm cố). 3. Bù trừ chứng khoán và tiền Nếu đăng ký và lưu ký chứng khoán là khâu hỗ trợ trước giao dịch chứng khoán, thì bù trừ chứng khoán và tiền là khâu hỗ trợ sau giao dịch chứng khoán. Sau khi chứng khoán niêm yết đã được đưa vào đăng ký, lưu ký tập trung tại TTLKCK, chúng sẽ được phép giao dịch trên TTCK. Tuy nhiên, sau khi giao dịch trên thị trường được thực hiện (đã được xác nhận), thì các bên tham gia giao dịch cần phải nhận được tài sản của mình: bên bán nhận được tiền, bên mua nhận được chứng khoán. Bù trừ chứng khoán và tiền là khâu tiếp theo sau giao dịch, thực hiện việc xử lý thông tin về các giao dịch chứng khoán, tính toán lại nhằm xác định số tiền và chứng khoán ròng cuối cùng mà các đối tác tham gia giao dịch phải có nghĩa vụ thanh toán sau khi giao dịch được thực hiện.
- Hoạt động bù trừ trên TTCK về cơ bản cũng tương tự như hoạt động bù trừ của các NHTM, đặc biệt là liên quan đến mảng bù trừ tiền. Kết quả bù trừ tiền luôn thể hiện nghĩa vụ thanh toán một chiều đối với một thành viên lưu ký: hoặc được nhận tiền, nếu tổng số tiền phải trả nhỏ hơn tổng số tiền được nhận; hoặc phải trả tiền nếu tổng số tiền phải trả lớn hơn tổng số tiền được nhận. Điểm khác nhau so với bù trừ cho giao dịch của các NHTM là bù trừ cho các giao dịch chứng khoán không chỉ liên quan đến mảng tiền mà còn liên quan đến mảng chứng khoán nữa. Việc bù trừ chứng khoán cũng mang đặc thù riêng là phải được thực hiện theo từng loại chứng khoán do không thể bù trừ các loại chứng khoán khác nhau với nhau. Do đó, đối với cùng một loại chứng khoán nhất định, kết quả bù trừ chứng khoán sẽ chỉ ra nghĩa vụ thanh toán một chiều của từng thành viên lưu ký: hoặc phải giao loại chứng khoán đó nếu số lượng chứng khoán khách hàng đặt mua ít hơn số lượng khách hàng đặt bán, hoặc được nhận về loại chứng khoán đó nếu số lượng chứng khoán khách hàng đặt mua nhiều hơn số lượng khách hàng đặt bán. Trong hoạt động bù trừ, phương thức bù trừ cũng là một vấn đề cần quan tâm. Phương thức bù trừ cho các giao dịch chứng khoán được quyết định bởi phương thức giao dịch trên TTCK. Nếu phương thức giao dịch là đa phương (nhiều bên mua với nhiều bên bán), điển hình có thể thấy là đối với các giao dịch khớp lệnh cổ phiếu, thì phương thức bù trừ chứng khoán và tiền sẽ là bù trừ đa phương. Nếu phương thức giao dịch là song phương (một bên mua với một bên bán), điển hình có thể thấy là đối với các giao dịch thỏa thuận, thì phương thức bù trừ cũng sẽ là bù trừ song phương. 4. Thanh toán chứng khoán và tiền Thanh toán chứng khoán và tiền cũng là dịch vụ hỗ trợ sau giao dịch chứng khoán, là hoạt động cuối cùng để hoàn tất các giao dịch chứng khoán, theo đó các bên tham gia giao dịch sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình: bên phải trả chứng khoán thực hiện giao chứng khoán, bên phải trả tiền thực hiện việc chuyển tiền, lần lượt trên cơ sở kết quả bù trừ chứng khoán và tiền được đưa ra ở trên. Để giảm rủi ro cho các đối tác tham gia giao dịch, việc thanh toán chứng khoán và tiền luôn phải đảm bảo nguyên tắc giao chứng khoán đồng thời với việc thanh toán tiền, hay còn gọi là nguyên tắc DVP (Delivery versus Payment). Thời hạn của việc thanh toán được quyết định bởi chu kỳ thanh toán. Tùy thuộc vào điều kiện của từng nước mà chu kỳ thanh toán áp dụng có thể là T+1; T+2 hay T+3, trong đó T được hiểu là ngày giao dịch (ngày mà giao dịch được thực hiện) và 1; 2; 3 là số ngày giao dịch (không tính ngày nghỉ) tiếp theo kể từ ngày T. Theo khuyến nghị của Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS), của Tổ chức các ủy ban Chứng khoán quốc tế (IOSCO) cũng như của nhóm G30 (nhóm các quốc gia có TTCK phát triển), các nước nên áp dụng chu kỳ thanh toán tối đa là T+3. Trong hoạt động thanh toán chứng khoán và tiền, phương thức thanh toán cũng là mối quan tâm của các bên tham gia giao dịch. Phương thức thanh toán được quyết
- định bởi phương thức bù trừ, do thanh toán luôn được thực hiện trên cơ sở của kết quả bù trừ. Chính vì vậy, nếu phương thức bù trừ là đa phương thì phương thức thanh toán cũng là thanh toán đa phương và tương tự, phương thức bù trừ là song phương thì phương thức thanh toán cũng sẽ là thanh toán song phương Quy tình của hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán được thể hiện trên sơ đồ 1.2.
- NHTM Nhận yêu cầu bảo lãnh Ký hợp đồng tư vấn quản lý - Đệ trình phương án bán Tổ chức - Cam kết bảo lãnh Phát hành UBCK Lập nghiệp đoàn bảo lãnh Ký hợp đồng bảo lãnh Nộp hô sơ xin phép phát hành Thăm dò thị trường - Công bố việc phát hành - Phân tích bản cáo bạch - Phân phát phiếu đăng ký mua CK - Nhận tiền đặt cọc Giáy phép phát hành ck có hiệu lực Phân phối cổ phiếu trên cơ sở phiếu đăng ký Lưu ký chứng khoán Thanh toán Bình ổn thị trường
- Thị trường chứng khoán là sản phẩm của nền kinh tế thị trường phát triển. Để thị trường chứng khoán có thể hoạt động minh bạch, hiệu quả và an toàn, không thể thiếu được các tổ chức tài chính trung gian trong đó phải kể đến đầu tiên vai trò của ngân hàng thương mại mà đại diện là các công ty chứng khoán thuộc sở hữu của ngân hàng đó Thông qua việc phân tích những ảnh hưởng và tác động của ngân hàng thương mại đến các yếu tố trên của thị trường chứng khoán sẽ cho ta thấy được hơn hết vai trò to lớn của ngân hàng thương mại đối với thị trường chứng khoán. 1, Vai trò của Ngân hàng thương mại trong việc tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoá Hàng hoá của thị trưòng nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng (chứng khoán) là yếu tố không thể thiếu của sự tồn tại và phát triển của thị trường. Ngân hàng thương mại có vai trò rất to lớn trong việc tạo ra hàng hoá cho thị trường chứng khoán dưói hai góc độ trực tiếp và gián tiếp Trên góc độ trực tiếp, các ngân hàng thương mại có thể tham gia hoạt động với tư cách là người phát hành và bán cổ phiếu của mình( ngân hàng cổ phần). Các ngân hàng cổ phần phát hành cả cổ phiếu để tạo nguồn vốn khi mới thành lập hoặc vốn bổ sung thêm trong quá trình hoạt động. Ngoài ra, tất cả các Ngân hàng thương mại không phân biệt thành phần sở hữu đề có thể phát hành trái phiếu để huy động vốn từ nền kinh tế. Những việc này đã tạo cho thị trường chứng khoán một khối lượng hàng hoá rất lớn ở thị trường thứ cấp. Như vậy, với tư cách là một tổ chức kinh doanh đơn thuần trên thị trường, Ngân hàng thương mại thông qua các hoạt động phát hành của mình đã cung cấp một lượng chứng khoán lớn phong phú, đa dạng và đặc biệt là có chất lượng cao cho thị truờng. Ngoài các loại chứng khoán truyền thống là cổ phiếu và trái phiếu, các công ty chứng khoán thuộc Ngân hàng thương mại hiện nay còn bán trái phiếu chính phủ (trung ương và địa phương), chứng quyền, trái quyền, các hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn và các sản phẩm lai tạo đa dạng khác phù hợp với thay đổi trên thị trường và môi trường kinh doanh. Trong những thị trường mới nổi, hàng hoá và dịch vụ còn nghèo nàn, đơn diệu, nếu được tổ chức phát triển tốt, các Ngân hàng thương mại có thể góp phần cải thiện môi trường đầu tư này. Một môi trường đầu tư tốt đa dạng về sản phẩm, với chi phí
- dich vụ thấp và có lợi nhuận thoả đáng sẽ thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi cho tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, Ngân hàng với tư cách là một tổ chức trung gian, thực hiện các nghiệp vụ trung gian chứng khoán như bảo lãnh phát hành, tư vân đầu tư chúng khoán, đã góp phần không nhỏ giúp các doanh nghiẹp khác phát hành chứng khoán, gián tiếp tạo sự đa dạng về hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Thứ nhất, phải kể đến đó là Ngân hàng thương mại là nhân tố góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước thành các công ty cổ phần. Ngân hàng tham gia vào việc thành lập công ty cổ phần hoặc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước với tỷ lệ cổ phiếu đáng kể để có đủ điều kiện tham gia quản trị kinh doanh, tín nhiệm. Công ty cổ phần dù mới thành lập hay cổ phần hoá, vốn vẫn còn hạn hẹp so với yêu cầu của kỹ thuật và công nghệ hiện đại, do đó ngân hàng phải là trợ thủ đắc lực cho công ty cổ phần, tạo điều kiện cho các công ty vay tín dụng. Như vậy, chính chế độ tín dụng và ngân hàng đã xã hội hoá các nguồn vốn, giải quyết các mâu thuẫn trong sự vận động của nguồn vốn giữa các thành phần kinh tế, xoá bỏ tính chất tư nhân các biệt của nguồn vốn trong công ty cổ phần. Một doanh nghiệp có thể bắt đầu hoạt động của mình bằng một món nợ vay ngân hàng. Vay ngân hàng là một cơ sở hoạt động của các doanh nghiệp và năng lực kinh doanh của họ. Các ngân hàng là ngưòi đầu tiên đã lập ra việc kiểm tra các hoạt động của công ty, họ quyết định có nên cho vay hay không và có nên tiếp tục cung cấp tín dụng hay không. Ngân hàng sẽ cung cấp kinh doanh nếu biết được rằng một Công ty thành công cuối cùng có thể hoạt động kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Như vậy kỷ cương tài chính của ngân hàng sẽ đưa công ty vào thị trường chứng khoán, gián tiếp bổ sung một lượng hàng hoá cho thị trường. Thứ hai, ngân hàng thương mại cũng giữ một vai trò quan trọng trong việc giúp các công ty phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp. Khi những nhà sáng lập một công ty nào đó muốn phát hành chứng khoán để thu hút vốn, họ có thể dựa vào uy tín, và kinh nghiệm của ngân hàng để ký hợp đồng về việc phát hành và bán các chứng khoán của mình. Như vậy, Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng môi giới phát hành chứng khoán giữa người muốn bán và ngưỡi muốn mua chứng khoán. Khi đảm nhận vai trò này, Ngân hàng sẽ giúp cho những người sáng lập công ty chọn lựa loại chứng khoán phát hành, tư vấn về các vấn đề như lãi suất chứng khoán, thời hạn chứng khoán, và các vấn đề kỹ thuật khác. Trong những trường hợp đặc biệt, như sẽ phát hành
- một lượng chứng khoán khá lớn, các Ngân hàng có thể cùng nhau chia sẻ việc dự định số phát hành này nhằm giảm thiểu rủi ro, hoặc mua toàn bộ các cổ phiếu, trái phiếu phát hành mới và sau đó bán lại cho công chúng. Bên cạnh đó, bằng cách cung cấp dịch vụ tư vấn cổ phần hoá, tư vấn niêm yết, thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán trong đợt phát hành và giúp nhà đầu tư phát hành và giúp nhà đầu tư đánh giá đúng và chính xác về giá trị các khoản đầu tư của mình, bằng cách dó công ty chứng khoán sẽ phát huy được vai trò tạo sản phẩm hàng hoá nới cho thị trường. 2, Vai trò trung gian chứng khoán của Ngân hàng thương mại Bất kể một thị trường nào, thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng muốn hoạt động và phát triển thì đều cần đến vai trò của các trung gian. Không phải nhà kinh doanh nào cũng có thể gặp ngay được những đối tượng cần mua chứng khoán để cả hai cùng thực hiện việc mua bán lẫn nhau. Cũng như không phải bất kỳ người dân nào muốn đầu tư vào chứng khoán cũng có thể nhanh chóng đủ hiểu biết, đủ thông tin để tìm được cho mình nơi mua loại chứng khoá hợp túi tiền, có mức lãi suất và thời gian đáo hạn đúng như ý muốn. Do những hạn chế này và nhu cầu tiện lợi cho các chủ thể, trên thị trường xuất hiện những người trung gian đưa đường dẫn lối, để người bán và người mua gặp nhau theo đúng yêu cầu của cả hai bên. Các trung gian sẽ giúp cho hoạt động của các thị trường được suôn sẻ, nhanh chóng và hiệu quả, là điều kiện cần và đủ cho sự phát triển của thị trường. Và Ngân hàng thương mại chính là một tổ chức trung gian quan trọng nhất trong thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Trong thị trường chứng khoán, vói tư cách là một tổ chức trung gian, Ngân hàng thương mại sẽ đưa đường dẫn lối để hai bên gặp nhau thông qua các nghiệp vụ của ngân hàng trên thị trường chứng khoán. Ngân hàng thương mại với kiến thức rộng, am hiểu tình hình kinh tế chung và rất rành hoạt động của các công ty. Do vậy, ngân hàng thương mại không phải là một người môi giới thông thường, mà giữ vai trò vô cùng chủ động trong việc thương lượng chứng khoán, thay thế thân chủ để cam kết mua bán chứng khoán với giá định sẵn do chính trung gian chứng khoán lựa chọn. Với các nghiệp vụ chủ yếu của minh trên thị trường chứng khoán như kinh doanh chứng khoán, môi giới chứng