Giáo trình Triết lý đạo gắn với đời của Phật giáo Việt Nam- Nguyễn Đức Diện

pdf 6 trang huongle 4420
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Triết lý đạo gắn với đời của Phật giáo Việt Nam- Nguyễn Đức Diện", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_triet_ly_dao_gan_voi_doi_cua_phat_giao_viet_nam_n.pdf

Nội dung text: Giáo trình Triết lý đạo gắn với đời của Phật giáo Việt Nam- Nguyễn Đức Diện

  1. Tạp chí Khoa học xã hTRIội ViệtẾT Nam, - LU sốẬT 3(100 - TÂM) - 201 6LÝ - XÃ HỘI HỌC Triết lý đạo gắn với đời của Phật giáo Việt Nam Nguyễn Đức Diện * Tóm tắt: Phật giáo du nhập vào mỗi nước đều qua sự tiếp thu, sáng tạo khác nhau để mang cái thần thái riêng của mỗi dân tộc. Từ khi du nhập vào nước ta, Phật giáo đã nhanh chóng kết hợp với tín ngưỡng bản địa tạo nên một sức sống mới. Với triết lý từ bi, bình đẳng, cứu khổ, cứu nạn, Phật giáo đã nhanh chóng được nhiều người Việt Nam ngưỡng mộ, tin theo. Hầu hết những người này tự nguyện đến với Phật giáo, lấy giáo lý từ bi để tu luyện mình và giúp đỡ người khác. Những nhà sư, các tín đồ Phật giáo đã thực sự tham gia vào cuộc vận động, đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc. Trong cuộc đấu tranh ấy, ý thức dân tộc đã gắn bó chặt chẽ với ý thức đạo của các Phật tử. Từ khóa: Phật giáo; đạo; đời; Việt Nam. 1. Mở đầu các nhà sư Ấn Độ, một số người Trung Á, Phật giáo vào nước ta từ đầu Công Trung Quốc, trong đó có sự đóng góp nhiều nguyên (CN) và tồn tại đến ngày nay. mặt của các nhà sư Việt Nam. Trong quá Trong thời gian ấy, Phật giáo đã trải qua trình tồn tại và phát triển, Phật giáo Việt nhiều chuyển biến, thăng trầm: từ ngoại lai Nam đã trải qua bốn giai đoạn với những đến bản địa, từ một vùng đến nhiều vùng, đặc thù riêng:(*) từ ít người tin theo đến đa số người ngưỡng Thứ nhất, giai đoạn từ đầu CN đến hết mộ, từ thô sơ đơn giản đến sâu sắc, bề thế. thời Bắc thuộc. Đây là giai đoạn hình thành Suốt quá trình tồn tại và phát triển, Phật và phát triển rộng khắp của Phật giáo. Cuối giáo đã để lại nhiều dấu ấn trong đời sống thời Bắc thuộc, Phật giáo đã lan rộng khắp dân tộc, từ tín ngưỡng đến phong tục, tập mọi miền của xứ An Nam đô hộ phủ (tức quán, từ thế giới quan đến nhân sinh quan, nước ta ngày ấy). Trong dân tộc đã xuất từ tư tưởng đến tình cảm. Nhiều vấn đề của hiện một tầng lớp cao tăng. Những người lịch sử văn hoá dân tộc, của lịch sử tư này sang Ấn Độ, xuống Nam Dương, Trung tưởng sẽ không được sáng tỏ nếu không Quốc học tập, hiểu rộng biết nhiều, kiêm hiểu được lịch sử Phật giáo Việt Nam. Bài thông ngôn ngữ Hán - Phạn, họ là những trí viết chỉ ra triết lý đạo gắn với đời của Phật thức đương thời. Hầu hết những người này giáo Việt Nam trong lịch sử dựng nước và tự nguyện đến với đạo Phật, lấy giáo lý từ giữ nước. bi để tu luyện mình và giúp đỡ người khác. 2. Triết lý đạo gắn với đời Trong số đó cũng có người như Lý Phật Tử Phật giáo vào Việt Nam qua hai con đường: thuỷ và bộ. Công lao đầu tiên truyền (*) Tiến sĩ, Trường Đại học Y Hà Nội. bá Phật giáo vào nước ta trước hết thuộc về ĐT: 0983241308. Email: ducdien_nguyen@yahoo.com. 44
  2. Nguyễn Đức Diện đã lấy danh nghĩa Phật tử tập hợp quần Việt Nam viết: “Lúc gặp thời thì dựa vào chúng chống lại sự áp bức của bọn phong đạo Nho, lúc thất thế thì dựa vào đạo Lão - kiến phương Bắc. Những nhà sư, các tín đồ Trang, lúc éo le khốn khó thì dựa vào đạo đạo Phật này đã thực sự tham gia vào cuộc Phật” [3, tr.93]. vận động, đấu tranh giành lại độc lập cho Trong khi Phật giáo toả rộng và thấm dân tộc. Trong cuộc đấu tranh ấy, ý thức dần vào đời sống nhân dân, thì giữa triều dân tộc đã gắn bó chặt chẽ với ý thức đạo đình, Phật giáo được công nhận như một của các Phật tử. tôn giáo chính thức. Đinh Tiên Hoàng sau Thứ hai, giai đoạn nhà nước Đại Việt. khi lên ngôi vua năm 971 đã quy định các Đây là thời kỳ lịch sử đặc biệt, ảnh hưởng cấp bậc tăng đạo, đồng thời với các cấp bậc qua lại lẫn nhau giữa chế độ phong kiến tự văn võ. Sư Ngô Chân Lưu giữ chức Tăng chủ và Phật giáo đã in đậm trong các sinh thống (quan đứng đầu Phật giáo) và được hoạt xã hội. Thời đại này các thiền sư, ban hiệu là Khuông Việt đại sư. Nhiều nhà những triết gia hoà đạo vào đời, tham gia sư trở thành cố vấn cho các ông vua về chính trị, góp phần tạo nên ý chí kiên đường lối đối nội và đối ngoại. Các nhà sư cường, bất khuất cho dân tộc. Nguyên nhân này tuy không trực tiếp tham gia vào bộ làm nên thời đại oanh liệt và phát triển khởi máy hành chính nhưng có ảnh hưởng lớn sắc ấy có nhiều, song chủ yếu thuộc về sự đối với nhà nước phong kiến. Một số thiền kết hợp sáng tạo giữa tư tưởng yêu nước, sư như Maha, Sùng Phạm, Vạn Hạnh nhiều tinh thần dân tộc với tư tưởng Phật giáo. lần được vua Lê Đại Hành mời vào cung để Những người Việt Nam đầu tiên đến với hỏi ý kiến về việc đạo cũng như việc đời. Phật giáo hầu hết là nhà buôn, song hiểu Một đặc điểm khác cũng cần chú ý là, từ khá kỹ về giáo lý của đạo lại là trí thức khi du nhập vào nước ta, Phật giáo đã đương thời. Sở dĩ có hiện tượng ấy là do nhanh chóng kết hợp với tín ngưỡng bản bản thân Phật giáo, ngoài phần lễ nghi, còn địa tạo nên một sức sống mới. Ảnh hưởng là một hệ thống lý luận triết học rất sâu sắc, qua lại lẫn nhau giữa chế độ phong kiến tự trừu tượng. chủ và Phật giáo đã in đậm trong các sinh Trong bối cảnh dân tộc bị bọn phong hoạt xã hội. Một thời đại mà các thiền sư, kiến phương Bắc áp bức thống trị, việc một những triết gia hoà đạo vào đời, tham gia bộ phận giai cấp này đứng trên lập trường chính trị, góp phần tạo nên ý chí kiên Nho giáo để phê phán, bài trừ Phật giáo là cường, bất khuất cho dân tộc. tất yếu. Song, không phải vì thế Phật giáo Lý Công Uẩn, người mở đầu triều đại Lý mất đi, trái lại, nó lặng lẽ thấm dần vào đời đã trưởng thành từ trong nhà chùa và trong sống tinh thần của mỗi con người ở mức độ cuộc vận động lên ngôi, đã được sự ủng hộ khác nhau. Đối với con người nói chung, nhiệt tình của giới Phật tử. Tinh thần khi còn bị gánh nặng của sự áp bức giai ngưỡng mộ Phật giáo thời Lý không chỉ cấp, thì về mặt tinh thần họ phải tìm đến biểu hiện qua các sinh hoạt Phật giáo mà một đạo nào đó là tất yếu. Nói về quá trình còn là một đặc điểm của văn hoá. diễn biến tư tưởng của xã hội Việt Nam Kế thừa những thành tựu văn hoá trong thời Bắc thuộc, tác giả Lịch sử tư tưởng đó có Phật giáo do nhà Lý xây dựng hơn 45
  3. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(100) - 2016 hai thế kỷ, nhà Trần còn tạo điều kiện cho tăng này không chỉ uyên thâm về đạo, mà Phật giáo phát triển. Các vua Trần mặc dù còn có vai trò to lớn trong việc xây dựng và ngưỡng mộ Phật giáo nhưng vẫn nhìn thấy bảo vệ đất nước. dân vừa là cơ sở, vừa là gốc để giải quyết Tuy trong xã hội phong kiến lúc này vẫn việc đời cũng như việc đạo. Tác giả Lịch sử bị chi phối bởi quan hệ đẳng cấp, song nhìn Phật giáo Việt Nam viết: “Tư tưởng thân chung giữa vua quan với nhân dân, sự cách dân, lấy dân làm gốc, mà sau này chúng ta biệt còn chưa đến nỗi gay gắt. Vì thế, việc thấy biểu hiện trong những lời nói của Trần vua Trần triệu tập hội nghị Diên Hồng để Nhân Tông, của Trần Hưng Đạo, thì đã gặp cùng với các nhà kỳ lão bàn việc chống giặc trong lời quốc sư Trúc Lâm dặn Trần Thái ngoại xâm đã được quần chúng nhân dân Tông năm 1236” [1, tr.478]. ủng hộ. Điều đó chứng tỏ, xây dựng nhà Trần Thái Tông là vị vua tiêu biểu của nước luôn luôn cần đến sự đoàn kết, đồng sự kế thừa, vận dụng tư tưởng thân dân, lấy tâm hiệp lực của toàn dân. Trên nền tảng dân làm gốc trong sự nghiệp của mình. của quan hệ xã hội ấy, nhà Trần đã phát huy Trong Khóa hư lục, Trần Thái Tông viết: được sức mạnh toàn dân trong công cuộc “Phàm người làm vua, lấy ý muốn của thiên dựng nước và giữ nước. Trong Lịch sử Phật hạ làm muốn của mình, lấy lòng của thiên giáo Việt Nam, Nguyễn Tài Thư viết: “Các hạ làm lòng của mình” [2, tr.114]. Nhận nhà thiền học uyên thâm như Thái Tông, thức đầy đủ vai trò của dân trong sự nghiệp Tuệ Trung, Thánh Tông, Nhân Tông, vào đời, đạo, nhà Trần đã tạo điều kiện cho Phật lúc vận nước nguy nan, đều trở nên những giáo phát triển. Phật giáo thời Trần đã phát anh hùng lập nhiều chiến công hiển hách. triển trong sự dung hoà với Nho giáo. Phật giáo thế kỷ XIII cũng vì thế mà trong Nhà nước phong kiến do thấy rõ vai trò, sạch hơn và nhập thế hơn. Có thể nói, tinh ảnh hưởng của Phật giáo trên các mặt của thần dân tộc đã thổi một luồng sinh khí mới đời sống xã hội, nên đã sử dụng Phật giáo vào Phật giáo thời Trần” [1, tr.215]. để giải quyết một số nhu cầu thời đại đặt ra. Trần Thái Tông không chỉ nhìn thấy vai Tác giả Lịch sử tư tưởng Việt Nam viết: trò, ảnh hưởng của các đạo đối với xã hội “Phật giáo là một yếu tố quan trọng trong phong kiến đương thời, mà còn tìm cách chỉ kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam từ thế kỷ cho mọi người thấy tác dụng của ba đạo ấy. thứ X đến nửa đầu thế kỷ XIV. Nó đã đáp Trong Khoá hư lục, Trần Thái Tông viết: ứng được nhu cầu củng cố địa vị của giai “Chưa rõ thì chia làm ba giáo, hiểu rồi thì cấp phong kiến Việt Nam, đã được giai cấp cùng ngộ một tâm” (Chưa minh người rối phong kiến Việt Nam sử dụng để thu phục chia ba đạo, biết hết được cùng cóc một nhân dân và ổn định trật tự xã hội. Vả chăng, lòng) [2, tr.43]. đó cũng là công việc không thể thiếu được Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc tinh hoa trong những bước đi đầu tiên của công cuộc văn hoá dân tộc, văn hoá Phật giáo, Nho dựng nước và giữ nước” [3, tr.219]. giáo, Trần Thái Tông đã xây dựng được Trong khi Nho giáo còn chưa đủ mạnh, một hệ thống lý luận triết học Thiền khá thì những sư tăng của nhà chùa lại giữ vai hoàn chỉnh, làm cơ sở cho sự ra đời của trò là những trí thức của thời đại. Những sư thiền phái Trúc Lâm. Một trong số những 46
  4. Nguyễn Đức Diện đại biểu ấy là Tuệ Trung (1230 - 1291). thức tự lực, tự cường của dân tộc, nhưng Cùng với Trần Thái Tông, Tuệ Trung đã vẫn đảm bảo nội dung tư tưởng của thời đặt nền tảng tư tưởng cho sự ra đời của phái đại. Nói cách khác, triết lý đạo hòa quyện Thiền Việt Nam. Phái Trúc Lâm ra đời đã với đời đã đáp ứng phần nào những đòi hỏi đáp ứng được nhu cầu của nhà nước Đại của thời đại, đồng thời góp phần vào việc Việt thời kỳ đó. Phái này mở đầu và xây xây dựng nền văn hiến dân tộc. Vì vậy, dựng một Giáo hội thống nhất hoàn toàn trong kỷ yếu Hội thảo Tuệ Trung Thượng Việt Nam, dứt bỏ các truyền thừa cũ có Sỹ với Thiền tông Việt Nam đã viết: “Trong nguồn gốc từ bên ngoài. Sự ra đời của phái khi Trung Quốc cắm cúi lo chuyện kỷ thiền Trúc Lâm vừa biểu hiện của sự ý thức cương tôn ty trật tự ở mặt đất, Ấn Độ mải dân tộc, vừa chứng minh cho sự thịnh ngước nhìn trời suy tư về sắc không và bàn vượng của văn hoá Đại Việt trong đó có chuyện luân hồi giải thoát, thì Việt Nam Phật giáo. Những tư tưởng của Tuệ Trung mình lo bảo nhau bám chắc lấy hiện tại đã góp phần làm cho Phật giáo thời Trần hôm nay rồi từng bước vững tiến về tương phát triển có sắc thái riêng, khác hẳn Phật lai - Không ngừng tăng cường tinh thần giáo Ấn Độ - Trung Hoa. “học tập đội bạn” nhưng tuyệt đối không Có thể nói, trong nhiều thế kỷ (từ thời sao chép, không rập khuôn. Thuyền mình Đinh, Lê, Lý - Trần), Phật giáo là một yếu mình lái, đường mình mình đi. Sao chép, tố hợp thành nền văn hoá - tư tưởng của dân rập khuôn thường dẫn đến sai lầm hoặc thất tộc Việt Nam. Quá trình đấu tranh giải bại đau đớn” [4, tr.43]. phóng khỏi ách thống trị của bọn phong Thứ ba, giai đoạn từ thời Lê đến cuối thế kiến phương Bắc, cũng như trong xây dựng kỷ XIX, Phật giáo suy thoái, do nhà Lê nhà nước độc lập tự chủ, giai cấp phong tuyên bố lấy Nho giáo làm quốc giáo. Tuy kiến Việt Nam đã thấy được vai trò của nhiên, từ đầu thế kỷ XX đến nay Phật giáo Phật giáo trong lịch sử tư tưởng dân tộc. Do tiếp tục phục hưng. Đứng trước trào lưu Âu đó, Phật giáo đã phát triển mạnh mẽ và để hóa và những biến động do giao lưu với lại nhiều dấu ấn trên các mặt văn hoá tinh phương Tây, phong trào chấn hưng Phật thần của đất nước. giáo được dấy lên, khởi đầu từ các đô thị Sự ra đời, phát triển của triết lý đạo hòa miền Nam. Vào những năm 30 của thế kỷ quyện với đời bắt nguồn từ thực tiễn xã hội, XX, các hội Phật giáo ở Nam Kỳ, Trung những đòi hỏi của lịch sử tư tưởng dân tộc. Kỳ, Bắc Kỳ lần lượt ra đời với những cơ Nó đã phản ánh một cách khách quan thời quan ngôn luận riêng. kỳ lịch sử ấy: oanh liệt trong chống giặc 3. Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ ngoại xâm, rực rỡ trong phát triển kinh tế. toàn cầu hóa Triết lý ấy là hình thức biểu hiện trực tiếp Phật giáo là một tôn giáo vốn khu biệt của chủ nghĩa yêu nước, nhưng được với các tôn giáo khác ở đặc trưng xuất thế, chuyển hoá sang một hình thức khác (triết không quan tâm đến thời cuộc, không lý đạo) mềm dẻo hơn cho phù hợp với hoàn nhiễm bụi trần, nhưng khi du nhập vào cảnh và con người. Triết lý ấy vừa phản ánh nước ta Phật giáo lại gắn liền với thế giới khát vọng độc lập, tự chủ, vừa phản ánh ý trần tục. Các Tăng ni, Phật tử đã kết hợp 47
  5. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3(100) - 2016 giáo lý của mình với nhu cầu của đời sống nghiệp, trường Đại học Thuỷ Sản, Trường hiện thực, ra sức thực hành triết lý: từ bi, Đại học An ninh” [5, tr.13]. cứu khổ, cứu nạn Người Việt Nam coi 4. Kết luận trọng sống phúc đức, trung thực hơn là đi Phật giáo là một tôn giáo xuất thế, khi du chùa, giác ngộ ngay tại thế gian, không nhập vào Việt Nam đã được người Việt thoát ly trần tục: “Thứ nhất là tu tại gia/ Nam cải biến để trở thành một tôn giáo Thứ nhì tu chợ/ thứ ba tu chùa”, “Dù xây nhập thế. Trong suốt chiều dài lịch sử, Phật chín cấp phù đồ/ Không bằng làm phúc cứu giáo luôn đồng hành cùng dân tộc, hòa đạo cho một người” (ca dao). Coi trọng truyền với đời làm nên những chiến công hiển hách, thống thờ cha mẹ, ông bà hơn là thờ Phật: tạo bản sắc riêng. “Có lẽ trên hành tinh này “tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ không nơi nào có một dân tộc như dân tộc mới là chân tu” (ca dao), “Phật trong nhà Việt Nam ta tới 90% dân số đi theo đạo Phật không thờ, đi thờ Thích ca ngoài đường” mà sống và tu tập và hành động chẳng giống (tục ngữ). giáo lý của đạo Phật, thiền Trung Hoa, thiền Hiện nay, hoạt động của Phật giáo nước Nhật Bản và cả giáo lý của đạo Phật nguyên ta không chỉ bó hẹp trong việc thờ cúng thủy Ấn Độ. Có dân tộc nào theo Phật giáo hoặc nghi lễ tôn giáo mà tập trung vào các mà lại đánh giặc giết giặc liên tục hết đời nọ hoạt động phục vụ xã hội. Các Phật tử đặc đến đời kia như dân tộc ta. Đúng là có một biệt chú trọng vào vấn đề môi trường sinh đạo Phật Việt Nam mà chúng ta cần thảo luận, cần nghiên cứu để thấy rõ bản chất và thái, luân lý, nhân quyền và giáo dục, giúp các đặc điểm” [4, tr.14]. Triết lý của Phật đỡ người nghèo Trong quá trình tham gia giáo Việt Nam là sự khẳng định chân lý đạo vào thực tiễn xã hội, các Phật tử đã có nhiều gắn với đời, giác ngộ không thoát ly thế giới hoạt động thiết thực phục vụ cộng đồng. trần tục. Triết lý ấy đã góp phần bảo tồn bản Phát huy bản sắc đạo gắn chặt với đời sắc văn hóa dân tộc. của Phật giáo Việt Nam, các thiền sư ngày càng đảm nhận nhiều hơn việc lo nơi ăn Tài liệu tham khảo chốn ở cho những người vô gia cư, những [1] Báo Gia đình và Xã hội (2006), số 179, người nằm ngoài tầm quan tâm của Nhà ngày 9/11. nước, giúp đỡ những người nghèo bị tai nạn [2] Nguyễn Tài Thư (1988), Lịch sử Phật giáo giao thông, chăm sóc người già cô đơn và Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. trẻ mồ côi Ở Việt Nam có rất nhiều chùa [3] Nguyễn Tài Thư (1993), Lịch sử tư tưởng là nơi nhận nuôi các cháu nhỏ mồ côi, bị bỏ Việt Nam, t.1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. rơi hoặc gia đình nghèo khó. Đại đức Thích [4] Trần Thái Tông (1974), Khoá hư lục, Nxb Thanh Hoà (xã Đại Cương, Kim Bảng, Hà Khoa học xã hội, Hà Nội. Nam) cho biết: “Từ năm 1996 đến nay đã [5] Viện Nghiên cứu khoa học xã hội Tp. Hồ nuôi được 21 em, trong đó có 7 em hiện Chí Minh, Viện Nghiên cứu Phật học Việt đang theo học các trường đại học, cao đẳng Nam, Sở Văn hóa Thông tin Tp. Hồ Chí như: Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại Minh (1993), Tuệ Trung Thượng Sỹ với học Mỹ thuật Công nghiệp, Trường Cao Thiền tông Việt Nam, Trung tâm nghiên đẳng Bách Khoa, Trường Đại học Lâm cứu Hán Nôm. 48
  6. Nguyễn Đức Diện 49