Giáo trình Tự động tổng quát hóa bản đồ
Bạn đang xem tài liệu "Giáo trình Tự động tổng quát hóa bản đồ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_tu_dong_tong_quat_hoa_ban_do.pdf
Nội dung text: Giáo trình Tự động tổng quát hóa bản đồ
- T¹p chÝ KHKT Má - §Þa chÊt, sè 44, 10-2013, tr.23-29 TỰ ĐỘNG TỔNG QUÁT HÓA BẢN ĐỒ FAN HONG, TRẦN QUỲNH AN Trường Đại học Vũ Hán, Trung Quốc Tóm tắt: Tự động tổng quát hóa bản đồ là một lĩnh vực vô cùng phức tạp, được giới bản đồ thế giới công nhận là một vấn đề nan giải. Bài báo này trình bày về ý nghĩa của tự động tổng quát hóa bản đồ, giới thiệu về quá trình phát triển của tổng quát hóa bản đồ từ truyền thống đến tự động hóa. Ngoài ra, bài báo mô tả một thực nghiệm về việc xây dựng phần mềm xử lý tự động vấn đề dịch vị của các đối tượng bản đồ trong quá trình tự động tổng quát hóa bản đồ đa tỉ lệ. 1. Đặt vấn đề trưng chất lượng và số lượng của đối tượng, Tổng quát hóa bản đồ là một lĩnh vực khó dịch vị các đối tượng) phải dựa nhiều trên kinh và vô cùng phức tạp trong bản đồ học. Nhiệm nghiệm của người vẽ bản đồ. vụ của tổng quát hóa là từ một bản đồ gốc, khi Với sự phát triển của khoa học công nghệ thu xuống một tỉ lệ bản đồ nhỏ hơn, người vẽ đặc biệt là công nghệ tin học, bản đồ bước sang bản đồ cần tiến hành lựa chọn lấy bỏ các đối một thời kỳ mới - bản đồ số, sự xuất hiện của hệ tượng trên bản đồ sao cho phù hợp với công thống thông tin địa lý (GIS), tiếp theo là đến dụng, tỷ lệ của bản đồ, phù hợp với đặc điểm khoa học thông tin địa lý (GIScience). Sự phát của lãnh thổ bản đồ. Mục đích chính của tổng triển này dẫn đến nhu cầu cần nghiên cứu tổng quát hóa bản đồ là làm sao đảm bảo cho việc quát hóa bản đồ một cách tự động, nhằm đáp lấy bỏ, giản lược hóa phải phù hợp, đảm bảo ứng các yêu cầu trong thời kỳ mới, một thời kỳ được tải trọng, dung lượng bản đồ ở một mức mà số lượng dữ liệu thu thập được qua các độ hợp lý mà vẫn miêu tả được đúng đặc trưng nguồn liên tục tăng nhanh và tăng mạnh. Từ địa lý kinh tế xã hội của khu vực thành lập bản trước đến nay, tại Việt Nam hầu như vắng bóng đồ[1,5]. các nghiên cứu về tự động tổng quát hóa bản đồ. Bởi mỗi một khu vực lại có một đặc điểm Trong vòng 5 năm trở lại đây, tại Việt Nam, bắt khác nhau, mỗi một tỉ lệ bản đồ lại có một cách đầu xuất hiện vài nghiên cứu về tự động tổng thể hiện khác nhau, mỗi một đề tài và công quát hóa bản đồ, trong đó đáng chú ý là đề tài dụng bản đồ khác nhau lại yêu cầu mức độ chi nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Nghiên cứu cơ sở tiết khác nhau, do vậy việc đưa ra những quy khoa học tổng quát hoá Bản đồ tự động và xây định chung về việc lấy bỏ, khái quát hóa đối dựng phần mềm tổng quát hoá Bản đồ từ dữ tượng để làm sao đảm bảo được tải trọng bản đồ liệu Bản đồ Địa hình lớn hơn” do TS. Đồng Thị là vô cùng khó khăn. Hiện tại, trong thực tế sản Bích Phương làm chủ nhiệm, thực hiện đối với xuất bản đồ, tuy đã có những quy định chung về các đối tượng dạng tuyến, đã được nghiệm thu việc thực hiện chọn lọc lấy bỏ các đối tượng thành công năm 2009[2]. Căn cứ trên tình hình theo từng tỉ lệ của bản đồ nhưng nói chung còn đó, bài báo này đưa ra phân tích ý nghĩa, tác sơ sài, quá trình thực hiện tổng quát hóa bản đồ dụng của tự động tổng quát hóa bản đồ và tổng (bao gồm việc xác định chọn lựa đối tượng, kết lại quá trình phát triển của tổng quát hóa giản hóa hình dạng đối tượng, khái quát đặc bản đồ trên thế giới, nhằm đưa ra một cái nhìn 23
- toàn cảnh và chính xác về sự phát triển của tự Để máy tính điện tử có thể tự động tổng động tổng quát hóa bản đồ trong giai đoạn hiện quát hóa bản đồ, cần thiết phải đem toàn bộ quá nay. Ngoài ra các tác giả cũng tiến hành thử trình xử lý gia công đó mô hình hóa, thuật toán nghiệm xử lý tự động dịch vị các đối tượng bản hóa và lập trình hóa. Mà lập trình hóa lại cần đồ, phục vụ tự động tổng quát hóa bản đồ đa tỉ phải quy tắc hóa và trí năng (trí tuệ và năng lực) lệ. hóa, tuy nhiên những vấn đề này này hoàn toàn 2. Tự động tổng quát hóa bản đồ không dễ thực hiện. Do đó, tự động tổng quát Tổng quát hóa bản đồ là một trong những hóa bản đồ đối với các dữ liệu không gian trong lĩnh vực nghiên cứu chủ đạo lâu dài của lĩnh môi trường số vẫn là một trong những vấn đề vực bản đồ học. Có thể nói, từ khi phát sinh ra hạt nhân mà bản đồ học hiện đại đang phải đối vẽ bản đồ thì lập tức đã có vấn đề tổng quát hóa mặt và nó cũng được giới bản đồ trên thế giới bản đồ. Đó là vì bản đồ là kết quả nhận thức công nhận là vấn đề nan giải[6]. môi trường không gian địa lý của con người, Tự động tổng quát hóa bản đồ có tác dụng vừa là công cụ để con người tiến thêm một rõ rệt ở bốn phương diện sau: Thứ nhất, khi lợi bước trong việc nhận thức môi trường không dụng dữ liệu bản đồ số ở tỷ lệ lớn để sản sinh ra gian địa lý, mà quá trình nhận thức cũng chính các bản đồ số ở tỷ lệ nhỏ hơn, bắt buộc phải vận là quá trình tổng hợp. dụng phương pháp tự động tổng quát hóa bản Tổng quát hóa bản đồ là một quá trình tiến đồ; Thứ hai, khi từ kho dữ liệu không gian tỉ lệ hành giản hóa và trừu tượng đối với sự vật hoặc lớn tự động sinh ra kho dữ liệu không gian đa tỉ hiện tượng khách quan, không giản hóa và lệ và khi thực hiện cập nhật cho toàn bộ kho dữ không trừu tượng sẽ không thể phản ánh đặc liệu đa tỉ lệ thì phương pháp tự động tổng quát trưng bản chất của sự vật hoặc hiện tượng một hóa bản đồ là giải pháp hiệu quả nhất; Thứ ba, cách vắn tắt, giản lược và dễ hiểu. Vì thế trong để thích ứng với yêu cầu biểu đạt đa tỉ lệ các dữ lĩnh vực vẽ bản đồ, về mặt bản chất, tổng quát liệu không gian trong hệ thống thông tin địa lý hóa bản đồ là một quá trình giản hóa và trừu thì không những bắt buộc phải áp dụng phương tượng phức tạp dựa trên não người và là một pháp tự động tổng quát hóa bản đồ mà còn cần lĩnh vực nghiên cứu mang tính sáng tạo và tính tự động tổng quát hóa trực tiếp từ một tỉ lệ gốc gây tranh cãi nhiều nhất trong các lĩnh vực đến một tỉ lệ đích bất kỳ; Thứ tư, vào thời điểm nghiên cứu về bản đồ học. bắt đầu xây dựng kho dữ liệu không gian, từ Các nghiên cứu về tổng quát hóa bản đồ kho dữ liệu không gian của các ngành khác cũng phát triển song song cùng với sự phát triển nhau, của các địa phương khác nhau đòi hỏi của bản đồ học. Trong giai đoạn vẽ bản đồ thủ phải vận dụng phương pháp tự động tổng quát công truyền thống, tổng quát hóa bản đồ được hóa để rút ra các dữ liệu không gian mà phù hợp người vẽ bản đồ dựa vào yêu cầu về phạm vi sử với chủ đề của người dùng[8]. dụng của bản đồ, dựa vào tỉ lệ bản đồ và đặc 3. Quá trình phát triển của tổng quát hóa trưng khu vực vẽ bản đồ, thông qua quá trình bản đồ giản hóa, trừu tượng hóa, sử dụng cách thức tự Vì ý nghĩa to lớn của tự động tổng quát hóa tư duy dựa trên một số nguyên tắc chung để lựa bản đồ như đã trình bày trong phần trên, giới chọn và khái quát hóa đối tượng nhằm tạo ra học thuật trên thế giới đối với lĩnh vực tự động một bản đồ mới. Với bản đồ số hiện đại, tổng tổng quát hóa bản đồ vẫn luôn có sự quan tâm quát hóa bản đồ được hiểu là đem quá trình xử cao độ. Đặc biệt trong vòng 10 năm trở lại đây, lý gia công tư duy của người vẽ bản đồ biến đã có nhiều nghiên cứu về lĩnh vực này, đạt thành cách thức xử lý tự động trên máy tính. được một số các thành tựu về kỹ thuật và lí luận 24
- có giá trị. Tuy nhiên, do tính phức tạp của vấn trong lĩnh vực tổng quát hóa bản đồ. Ví dụ năm đề tự động tổng quát hóa số liệu không gian, 1957 Bocalov- nhà bản đồ học người Liên Xô trước mắt, các thành quả nghiên cứu vẫn chưa cho đăng bài báo “Phương pháp thống kê số giải quyết trọn vẹn được các vấn đề, đặc biệt là liệu trong tác nghiệp bản đồ”, Topfer – nhà bản vận dụng vào thực tế vẫn còn có một khoảng đồ học người Đức năm 1962 đề ra công thức cách nhất định. Đó là do ngoài nguyên nhân về quy luật lựa chọn địa vật và năm 1982 xuất bản mặt thực hiện kỹ thuật, còn có nguyên nhân về cuốn “Tổng quát hóa vẽ bản đồ”, giới thiệu ứng mặt quan niệm và tư tưởng. dụng của công thức tính toán chỉ tiêu tổng quát Tổng quát hóa bản đồ từ khi sinh ra đến nay hóa bản đồ dựa trên phương thức khai căn, công có thể chia ra làm 5 giai đoạn phát triển như thức này cho đến nay vẫn được ứng dụng rộng sau: rãi trên thế giới. Sau thập kỷ 70, tại Trung Quốc - Từ việc xem tổng quát hóa bản đồ như là có không ít các nghiên cứu liên quan đến các một quá trình chủ quan đến việc xem tổng phương pháp phân tích và phân tích hồi quy quát hóa bản đồ như là một phương pháp vẽ nghiên cứu về mô hình số học của chỉ tiêu lựa bản đồ khoa học khách quan: năm 1921 chọn đối với các đối tượng là dân cư trên bản Eckert lần đầu tiên đưa ra khái niệm tổng quát đồ và đã đạt được một lượng lớn các thành quả hóa bản đồ, ông cho rằng thực chất tổng quát có giá trị về ứng dụng thực tiễn cũng như về lí hóa bản đồ nằm ở việc đối với các đối tượng vẽ luận, ví dụ Phương pháp phân tích số học của bản đồ tiến hành chọn lọc và khái quát, nhân tố tổng quát hóa bản đồ của Zhu Quo Rui (1990), chủ yếu để dẫn dắt là công dụng của bản đồ, Wang Jia Yao (1992) . [8]. Các nghiên cứu điều này đến nay vẫn hoàn toàn chính xác. Tuy này chung quy có thể được hiểu là nghiên cứu nhiên, Eckert lại đồng thời nhận thức rằng tổng và tìm kiếm ra các công thức để có thể tính toán quát hóa bản đồ là một quá trình chủ quan, từ được các ngưỡng cũng như số lượng địa vật cần đó không thể tìm ra bất cứ một quy luật nào, phải lấy, sao cho đạt được một dung lượng việc tổng quát hóa bản đồ hoàn toàn phụ thuộc thông tin hợp lý trên bản đồ, phù hợp với công vào kinh nghiệm và sự thành thạo của người vẽ dụng của bản đồ. Hiện nay, các công thức kiểu bản đồ. Quan điểm này của Ectker tại Châu Âu này vẫn chưa được áp dụng vào Việt nam, nói có ảnh hưởng tương đối lớn, kéo dài cho đến cách khác, tại Việt nam, tổng quát hóa bản đồ những năm 60 của thế kỷ 20. Khoảng năm 40 vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi giai đoạn miêu tả của thế kỷ 20, nhà bản đồ học Liên xô định tính. Và một khi không thể miêu tả định Salichtchev cùng các cộng sự đã xuất bản bài lượng được bản đồ thì sẽ không thể tiến đến báo “Nguyên lý vẽ bản đồ”, trong đó đem tổng được quá trình tự động tổng quát hóa bản đồ. quát hóa bản đồ xem như là một phương pháp - Chuyển từ mô hình bản đồ sang tự động khoa học khách quan[6]. tổng quát hóa bản đồ dựa trên cơ sở tri thức, - Tổng quát hóa bản đồ chuyển từ miêu tả thuật toán và mô hình: từ thập kỉ 60 đến thập định tính sang miêu tả định lượng: Trong một kỉ 80 thế kỷ 20, nhiều học giả đã nghiên cứu về thời gian rất dài, việc nghiên cứu và thực hành mô hình tổng quát hóa bản đồ và mô hình bản tổng quát hóa bản đồ nói chung nằm trong giai đồ. Khái niệm về mô hình bản đồ được đưa ra đoạn miêu tả định tính, ảnh hưởng đến tính và sau đó trở thành sự dẫn đường về mặt lí luận khoa học và thực hiện tổng quát hóa bản đồ. cho sự chuyển đổi từ tổng quát hóa vẽ bản đồ Trên thế giới, cuối thập kỷ 50 thế kỷ 20 bắt đầu thủ công sang tổng quát hóa bản đồ trên máy có những nhà bản đồ học dốc sức nghiên cứu tính. ứng dụng của phương pháp thống kê số liệu Trong môi trường bản đồ số, cơ sở để thực 25
- hiện tự động tổng quát hóa bản đồ là mô hình, trình tổng quát hóa bản đồ. Trên phương diện lí thuật toán và tri thức, vì chỉ có trình tự hóa luận, đều là do có sự thiếu hụt đối với việc nắm (trình tự hóa máy tính và trình tự hóa trí năng bắt chính xác đặc trưng và bản chất của tổng nhân tạo) thì máy tính mới có thể thi hành các quát hóa bản đồ. thao tác công việc của tổng quát hóa bản đồ. Mà Đối với tổng quát hóa bản đồ số, việc mô hình, thuật toán và tri thức là những cái dễ người – máy hiệp đồng còn tồn tại những vấn lập trình, do vậy nghiên cứu mô hình, thuật toán đề như đã nói ở trên, Wang Jia Yao (1999) đã và tri thức về tổng quát hóa bản đồ là các công nghiên cứu phương pháp tư duy của người việc mang tính cơ bản của nghiên cứu tự động trong quá trình tổng quát hóa bản đồ và năng tổng quát hóa bản đồ (Wang Jia Yao 1998, Wu lực của máy tính mô phỏng tư duy của con Fang 2001, Wu He Hai 2004)[8]. người trong quá trình tổng quát hóa bản đồ, - Từ theo đuổi tự động hóa hoàn toàn quá đồng thời đề ra lí luận về sự hiệp đồng tốt nhất trình tổng quát hóa bản đồ đến người – máy giữa người và máy trong quá trình tổng quát hiệp đồng: trải qua một thời kỳ dài tổng quát hóa bản đồ. Căn cứ theo quan điểm lí luận hiệp hóa bản đồ thủ công truyền thống, khi số hóa đồng, tự động tổng quát hóa của cách thức hiệp các tài liệu bản đồ, khi áp dụng tính toán hóa đồng không chỉ có sự hiệp đồng giữa người và của sản xuất bản đồ và kỹ thuật máy tính vào máy, mà còn cần phải có sự hiệp đồng giữa các tổng quát hóa bản đồ, tồn tại hai thiên hướng mô hình, thuật toán, các luận chứng tri thức nhận thức của con người: Một loại nghiêng về và các loại phương tiện kỹ thuật. Mỗi một khu nhận thức tổng hợp bản đồ hoàn toàn là một quá vực, mỗi một chủng loại yếu tố bản đồ đều có trình lao động của từng cá thể người vẽ bản đồ đặc điểm riêng của mình, mỗi một loại phương dựa trên cơ sở kinh nghiệm, tổng quát hóa bản tiện kỹ thuật cũng đều có những ưu điểm và đồ do máy tính tự động hoàn thành là không những điểm chưa hoàn thiện riêng, khả năng khả thi, cho dù trong môi trường bản đồ số, giải quyết tổng quát hóa bản đồ của từng phần thực tế quá trình sản sinh ra bản đồ cũng chỉ là riêng rẽ trong số chúng đều có một hạn chế nhất đem các công cụ dùng để vẽ bản đồ truyền định, tuy nhiên nếu đem chúng kết hợp lại với thống chuyển việc tổng quát hóa bản đồ từ bản nhau một cách hiệu quả, sẽ có thể phát huy đồ giấy lên màn hình máy tính, dùng trỏ chuột được hết mức các ưu điểm của từng cái, thông tiến hành tổng quát hóa vẽ bản đồ, về mặt bản qua việc bổ sung ưu thế đem bù đắp cho phần chất vẫn là phương thức thủ công; Thiên hướng thiếu hụt của từng cái, như vậy chính là có thể thứ hai là khuếch đại tác dụng của máy tính, khiến cho năng lực của toàn bộ hệ thống giải cho rằng chỉ cần viết được ra chương trình lập quyết vấn đề tổng quát hóa bản đồ được tăng trình, là sẽ có thể lợi dụng được năng lực giải cường lên rất nhiều lần. Hiển nhiên, hệ thống toán mạnh và tốc độ cao sẵn có của máy tính, như vậy cần do nhiều hệ thống con cấu thành, trong một thời gian rất ngắn có thể hoàn thành mà mỗi hệ thống con có khả năng giải quyết một khối lượng công việc tổng quát hóa bản đồ được một nhiệm vụ khác nhau của tổng quát lớn mà nếu tác nghiệp bằng tay thì sẽ tốn rất hóa bản đồ, do vậy nó nên là một hệ thống mở. nhiều thời gian và công sức. Hai thiên hướng kể (Wu Fang, 2001)[8]. trên đều phi khoa học, nguyên nhân là do thiếu - Từ nghiên cứu về thuật toán, mô hình hụt sự hiểu biết về đặc điểm và năng lực xử lý một cách độc lập, phân tán và thực nghiệm tự thông tin của người và máy tính, do thiếu hụt động tổng quát hóa đối với từng đối tượng đơn các nghiên cứu phân tích chuyên sâu về quan hệ lẻ trên bản đồ tiến đến xem tự động tổng quát tương hỗ giữa người và máy tính trong quá hóa bản đồ là một quá trình tổng thể: Trong 26
- một thời kỳ rất dài, nghiên cứu về tự động tổng vị theo cảm tính dựa trên một vài nguyên tắc tối quát hóa bản đồ đa phần đều quan tâm nghiên thiểu nhất định. Dưới đây, bài báo trình bày cụ cứu về mô hình, thuật toán, rất nhiều người cho thể về việc tại sao phải dịch vị đối tượng bản đồ rằng tự động tổng quát hóa là một quá trình và các nguyên tắc dịch vị các đối tượng bản đồ, phức tạp vốn mang tính khó định nghĩa, là một đồng thời thử nghiệm lập trình nhằm dịch vị vấn đề nan giải rất lớn trong lĩnh vực bản đồ một đối tượng bất kỳ ra khỏi một đối tượng học và GIS, có học giả thậm chí cho rằng tự khác khi có xung đột về mặt vị trí, áp dụng với động tổng quát hóa bản đồ là một vấn đề mà sử tổng quát hóa bản đồ đa tỉ lệ. dụng máy tính không đủ khả năng để giải quyết 4.1. Nguyên tắc dịch vị được. Dù rằng thập kỷ 90 của thế kỷ 20, công ty Dịch vị là phương pháp cơ bản khi biên tập Intergraph mở rộng và phát triển DynaGEN, đại bản đồ, dùng để xử lý mối quan hệ tương hỗ học Hanover của Đức xây dựng CHANGE, viện giữa các đối tượng bản đồ, mục đích của nó là nghiên cứu địa lý quốc gia cộng hòa Pháp xây bảo đảm thể hiện đúng đắn đặc trưng kết cấu dựng STRATEGE và Carto 2001, Hệ thống tổng thể của các yếu tố nội dung trên bản đồ, tổng hợp dân cư PolyGon của đại học Zurich, đảm bảo tính tương ứng với thực địa. Clarity của công ty Laser-Scan, dồn dập ra Do khi tỉ lệ của bản đồ bị thu nhỏ, kí hiệu mắt thế giới, nhưng vẫn còn một khoảng cách biểu thị cho các đối tượng gần nhau bị đè lên rất xa nữa mới giải quyết được trọn vẹn vấn đề nhau, che phủ nhau, che mất mối quan hệ tương tự động tổng quát hóa bản đồ. Rất khó để khiến hỗ giữa các đối tượng đó, dẫn đến không có cho mọi người nhìn thấy tương lai của việc giải cách nào biểu đạt được đúng đắn mối quan hệ quyết toàn diện và ứng dụng chỉnh thể của tự tương hỗ này, làm cho người đọc bản đồ khó động tổng quát hóa bản đồ. Nguyên nhân chính phán đoán. Để giải quyết vấn đề các kí hiệu gần chủ yếu là do: chưa coi tự động tổng quát hóa nhau che phủ lên nhau tạo thành một mối quan bản đồ như một chỉnh thể (khả năng điều khiển, hệ không rõ ràng giữa chúng, cần phải sử dụng toàn bộ quá trình, toàn bộ các yếu tố trên bản đồ) đến biện pháp dịch vị, tức là dịch chuyển vị trí để nghiên cứu; trong hệ thống tự động tổng quát của một hoặc một số kí hiệu, nhằm đảm bảo hóa bản đồ thiếu hụt sự hỗ trợ của các nhận tính đúng đắn của mối quan hệ tương hỗ. thức và các trí tuệ nhân tạo; rất nhiều các thuật Khi áp dụng phương pháp dịch vị, cần phải toán tổng hợp chỉ có thể xử lý một vấn đề riêng trả lời được các câu hỏi: trong trường hợp nào biệt trong một môi trường riêng biệt mà giữa bắt buộc phải dịch vị đối tượng? đối tượng nào chúng thiếu hụt sự phối hợp tổng thế; thiếu hụt cần phải dịch vị, đối tượng nào giữ nguyên vị trí? mô hình dữ liệu không gian và kết cấu dữ liệu Dịch vị đối tượng theo phương hướng nào và có khả năng hỗ trợ các thao tác tự động tổng dịch chuyển một lượng bao nhiêu? Khi sử dụng quát hóa bản đồ (Qian Hai Zhong, 2006)[7]. phương pháp dịch vị, cần tuân theo nguyên tắc 4. Dịch vị địa vật có ý nghĩa quan trọng nhất phải được Dịch vị là một trong bốn vấn đề cơ bản cần giữ nguyên vị trí (gọi là địa vật khởi đầu), địa phải giải quyết khi tổng quát hóa bản đồ, bao vật thứ yếu lân cận với địa vật khởi đầu bắt gồm: lựa chọn đối tượng, giản hóa hình dạng, buộc phải dịch chuyển theo phương hướng nối hợp nhất và dịch vị đối tượng. Về mặt lí luận, từ điểm địa vật khởi đầu đến địa vật thứ yếu, trong các tài liệu tại Việt Nam gần như không dịch chuyển ra xa địa vật khởi đầu, đảm bảo sau đề cập hoặc đề cập rất sơ sài đến vấn đề dịch vị, khi dịch chuyển xong cách địa vật khởi đầu một điều này khiến những người vẽ bản đồ khi tổng khoảng đủ để phân biệt trong giới hạn của mắt. quát hóa, biên tập bản đồ thường tiến hành dịch Như vậy, công thức dịch chuyển được biển diễn 27
- như sau[1] : dịch vị giữa các đa giác với nhau hoặc dịch vị 푌 퐹 = 휗1퐹 + 퐹 + 푣2퐹 giữa đối tượng đường với đối tượng đa giác. trong đó: 푌 퐹 là đại lượng cần dịch chuyển. Đại lượng dịch vị được biến đổi tùy theo tỉ lệ 휗1퐹 là khoảng cách từ đường viền kí hiệu của bản đồ, nhằm đảm bảo rõ độ phân biệt về đến tâm của địa vật khởi đầu sau khi phóng to . khoảng cách giữa đối tượng khởi đầu và đối 퐹 là khoảng cách tối thiểu mà mắt người tượng thứ yếu. Hình 2 mô tả các đối tượng dạng phân biệt được từ đường viền của địa vật khởi đường và dạng diện giả định ở các tỉ lệ bản đồ đầu đến địa vật thứ yếu. được xử lý dịch vị khi bị giao cắt với nhau. 휗2퐹 là khoảng cách từ đường viền kí hiệu Hình 3 mô tả xử lý dịch vị khi các đối tượng đến tâm của địa vật thứ yếu sau khi phóng to. khởi đầu và thứ yếu đều ở dạng diện. Hình 2a, 3a là bản đồ trước khi được xử lý dịch vị. Ở hình 2(b,d,f ), 3 (b,d) các đối tượng màu xanh nước biển thể hiện việc đã được xử lý dịch vị phù hợp với tỉ lệ bản đồ, đảm bảo khoảng cách giữa các đối tượng khởi đầu và thứ yếu nằm trong khả năng phân biệt của mắt. Hình 2 (c,e), hình 3(c) thể hiện kết quả xử lý dịch vị ở tỉ lệ 1:1000 và được thu nhỏ xuống tỉ Hình 1. Nguyên tắc dịch vị lệ màn hình nhỏ hơn, lúc này các đối tượng 4.2. Kết quả thực nghiệm không đảm bảo được việc thể hiện rõ ràng giữa Phần mềm được thiết kế để có thể xử lý đối tượng khởi đầu và đối tượng thứ yếu. (a) (b) (c) (d) (e) (f) Hình 2. Tự động dịch vị ở các tỉ lệ bản đồ khác nhau giữa các đối tượng dạng đường và đối tượng dạng diện 28
- (a) (b) (c) (d) Hình 3. Tự động dịch vị ở các tỉ lệ bản đồ khác nhau giữa các đối tượng dạng diện với nhau 5. Kết luận văn thạc sĩ. Nguồn Bài báo phân tích về ý nghĩa của tự động /bitstream/11126/2995/1/00050000776.pdf tổng quát hóa bản đồ trong thời kỳ mới và giới [4]. Nguyễn Thị Hồng Hạnh, Vũ Xuân Cường, thiệu về quá trình phát triển của tự động tổng 2012. Nghiên cứu và xây dựng bộ công cụ tổng quát hóa bản đồ trên thế giới, đồng thời giới quát hóa tự động cho dữ liệu lớp đối tượng nhà thiệu về lí luận dịch vị, dựa trên căn cứ đó tiến trên bản đồ địa hình trong môi trường ArcGIS, hành 1 thử nghiệm đơn giản về tự động dịch vị Hội nghị KH&CN ĐH Tài nguyên và Môi ở đa tỉ lệ bản đồ. Bài báo hy vọng đóng góp một trường TP.HCM. Nguồn: phần nhỏ để lĩnh vực tự động tổng quát hóa bản vn/kh-cn-trong-n-c/nghi-n-c-u-va-xay-d-ng-b-c đồ được nhiều người biết đến hơn và được tập ong-c-t-ng-quat-hoa-t-d-ng-cho-d-li-u-l-p-d-i-t- trung nghiên cứu nhiều hơn nữa. ng-nha-tr-n-b-n-d-d-a-hinh-trong-moi-tr-ng-arc gis.html TÀI LIỆU THAM KHẢO [5]. Wang Jiayao, 1993. Nguyên lý tổng quát hóa vẽ bản đồ phổ thông. NXB Trắc hội – Bắc [1]. Nguyễn Thế Việt, Bùi Tiến Diệu, Bùi Ngọc Kinh (tiếng Trung Quốc). Quý, Đỗ Thị Phương Thảo, Trần Quỳnh An, [6]. Wang Jiayao, 2011. Thành tựu và sự phát triển 2012. Giáo trình cơ sở bản đồ và vẽ bản đồ. của khoa học công trình thông tin và bản đồ học. Nhà xuất bản Khoa học và kĩ thuật. NXB Trắc hội – Bắc Kinh (Tiếng Trung Quốc). [2]. Đồng Thị Bích Phương, 2009. Nghiên cứu [7]. Guo Qingsheng,Huang Yuanlin,Zheng cơ sở khoa học tổng quát hoá bản đồ tự động và Chunyan, Cai Yongxiang, 2007. Suy lý không xây dựng phần mềm tổng quát hoá bản đồ từ dữ gian và lũy tiến tổng quát hóa bản đồ. Nhà xuất liệu bản đồ địa hình tỷ lệ lớn hơn, đề tài cấp Bộ. bản đại học Vũ Hán (Tiếng Trung Quốc) . Nguồn [8]. Wang Jiayao, Li Zhilin, Wu Fang, 2011. Sự me=Studies&op=Studiesdetail&id=1 phát triển của tổng quát hóa bản đồ số. NXB [3]. Nguyễn Đăng Cường, 2011. Một số thuật Trắc hội – Bắc Kinh (Tiếng Trung Quốc). toán khái quát hóa bản đồ và ứng dụng, luận (xem tiếp trang 33) 29
- Summary Cartography automatic generalization Hong Fan, Quynh An Tran State Key Laboratory of Information Engineering in Surveying, Mapping and Remote Sensing, Wuhan University, China Automating map generalization is a very complex field which is recognized as a global challenge by map makers. This article highlights the significance of automating map generalization and summarizes past development from traditional generalization to automative generalization. Additionally, the article describe a practical test for building a software to automate displacement of map objects in the process of map generalization. 30